Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Du lịch Quảng Ninh là một trong những điểm sáng vô cùng tiềm năng, nơi hội tụ những vẻ đẹp tiềm ẩn, đầy quyến rũ; đã, đang và sẽ là một điểm tuyệt vời cho những du khách thích chiêm ngưỡng cái đẹp, thích khám phá cảnh quan thiên nhiên kỳ thú nơi đây. Thế mạnh về du lịch Quảng Ninh đã được cấp lãnh đạo tỉnh và nhà nước quan tâm, có những cơ chế, chính sách cụ thể, sát thực để quản lý. Nhờ có sự quản lý của nhà nước mà du lịch Quảng Ninh đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được những kết quả nhất định, đóng góp vào ngân sách của tỉnh, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống cho người dân của tỉnh. Tuy nhiện, những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng phong phú về du lịch của tỉnh. Ngoài những lợi thế đem lại cho ngành những cơ hội phát triển thì vẫn còn tồn tại một số yếu kém mà ngành cần nhanh chóng khắc phục. Du lịch Quảng Ninh còn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong nước và quốc tế. Do đó, để du lịch Quảng Ninh tiếp tục phát trển bền vững trong thời gian tới và có thể trở thành một trung tâm du lịch đẳng cấp, đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải có những chiến lược,biện pháp đúng đắn để quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh. Việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch góp phần quan trọng trong việc phát triển các hoạt động du lịch, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội Chính vì thế, trong khuôn khổ luận văn“Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” tác giả đã vận dụng những kiến thức cơ bản cả về lý luận và thực tiễn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận khoa học về du lịch và quản lý nhà nước về du lịch. Theo đó, luận văn đã nêu rõ khái niệm về du lịch, hoạt động du lịch, các loại hình du lịch; quan niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về du lịch; sự cần thiết phải quản lý nhà nước về du lịch; các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về du lịch và những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về du lịch. - Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch của các địa phương khác trong nước, qua đó rút ra được bài học cho tỉnh Quảng Ninh - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 – 2015. Theo đó, nêu được những thế mạnh về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của tỉnh. Thông qua việc phân tích tình hình phát triển du lịch của tỉnh để làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về du lịch. Từ đó, rút ra được những thuận lợi và hạn chế trong việc quản lý nhà nước về du lịch, nguyên nhân của những hạn chế đó. - Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh. Đồng thời đưa ra dự báo, phương hướng phát triển du lịch. Mặc dù luận văn đã phần nào làm sáng tỏ vấn đề quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nhưng cũng khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được mọi sự góp ý, quan tâm để vấn đề mà luận văn đề cấp tới được hoàn thiện hơn.

pdf26 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 676 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y trì. UBND thành phố văn bản chỉ đạo Ban Quản lý Vịnh Nha Trang có kế hoạch chỉnh trang hoặc xây dựng mới nhà vệ sinh công cộng đạt chuẩn theo quy định tại khu vực bến tàu Du lịch Cầu Đá – Vĩnh Nguyên để phục vụ nhân dân và du khách. UBND thành phố chỉ đạo các cơ quan, phòng, ban, UBND các xã, phường trên địa bàn thành phố tăng cường công tác quản lý môi trường du lịch, đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch trên địa bàn thành phố Nha Trang. Để có được những hiệu quả tích cực về phát triển du lịch, Thành phố Nha Trang đã có những biện pháp tích cực trong vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch. Chính quyền địa phương đã xây dựng được các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cụ thể về phát triển du lịch tổng thể, lâu dài trên cơ sở bảo vệ môi trường, an toàn cho du khách. Có chính sách tăng cường thu hút vốn đầu tư kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Bên cạnh đó, chính quyền luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi nhằm đưa công nghệ thông tin hiện đại vào quản lý du lịch. Thực hiện các chương trình tuyên truyền, quảng bá theo chuyên đề, kết hợp những sự kiện thể thao, văn hóa, lễ hội lớn trên toàn quốc và tham gia các hội trợ triển lãm, hội thảo du lịch trong nước và quốc tế để giới thiệu rộng rãi tiềm năng du lịch của tỉnh 1.5.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch ở thành phố Vũng Tàu Vũng Tàu là thành phố thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ở vùng Đông Nam Bộ Việt Nam. Vũng Tàu là một thành phố ven biển, một địa điểm du lịch của miền Nam Việt Nam. Vũng Tàu thích hợp cho những chuyến nghỉ ngơi, thư giãn vào cuối tuần hay các dịp lễ. Thời gian qua, TP.Vũng Tàu đã đẩy mạnh quản lý nhà nước về du lịch, qua đó, môi trường văn hóa, kinh doanh du lịch trên địa bàn thành phố từng bước được cải thiện. Nhằm nâng cao kỹ năng và cung cách phục vụ khách hàng, hàng năm, TP.Vũng Tàu phối hợp với Sở Công thương tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng bán hàng và văn hóa kinh doanh cho cán bộ quản lý và nhân viên khách sạn, nhà hàng, quán ăn trên địa bàn thành phố Tuy nhiên, để tạo bước đột phá cho du lịch TP.Vũng Tàu, thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa việc quản lý môi trường du lịch an toàn, thân thiện để khách yên tâm; nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và cung cách phục vụ; duy trì tổ chức các lễ hội, giải thể thao, bóng chuyền bãi biển, festival diều quốc tế, lễ hội ẩm thực phố biển một cách quy mô và lan tỏa trong cộng đồng để thu hút du khách. Thành phố Vũng Tàu cần phát huy vai trò quản lý về du lịch đối với tất cả các đối tượng, mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh dịch vụ và dịch vụ du lịch trên địa bàn toàn thành phố. Ngành du lịch cần tăng cường phối hợp với các cấp, các ngành để tạo được sự chuyển biến đồng bộ trong hoạt động du lịch. 1.5.3. Bài học kinh nghiệm rút ra có thể vận dụng cho quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Qua nghiên cứu tinh hình quản lý nhà nước về du lịch của một số địa phương trong nước có ngành du lịch phát triển, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ninh, như sau: Thứ nhất, phải xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cho thời gian dài, hợp lý; có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, và các chính sách khai thác tiềm năng thúc đẩy du lịch phát triển 10 Thứ hai, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đồng thời tạo ra được các sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương để thu hút du khách. Xã hội càng văn minh thì nhu cầu của du khách càng phong phú, đa dạng Thứ ba, làm tốt công tác tuyên truyền, xúc tiến du lịch. Mục đích của tuyên truyền, xúc tiến trong kinh doanh du lịch là nhằm giới thiệu, hình thành và định hướng nhu cầu của du khách đối với các sản phẩm du lịch của địa phương. Thứ tư, cần có sự liên kết, hợp tác giữa các địa phương, các vùng, các doanh nghiệp với nhau để phát triển du lịch. Trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO, ngành du lịch phải đối mặt với những cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do vậy, liên kết, hợp tác du lịch giữa các địa phương, các vùng, các doanh nghiệp du lịch với nhau để cùng phát triển trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Thứ năm, quan tâm đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở địa phương. Thứ sáu, thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động du lịch, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường tự nhiên và xã hội của du lịch 11 Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH 2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh Quảng Ninh là địa phương có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nói riêng và của cả nước nói chung, trong đó bao gồm cả phát triển ngành du lịch. Quảng Ninh là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Tỉnh có địa hình đa dạng núi, rừng, bờ biển, cửa sông và hàng nghìn hòn đảo. Nhìn chung, tỉnh có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cho phát triển du lịch. Tỉnh Quảng Ninh có diện tích khoảng 12.000 km2, bao gồm 6.000 km2 đất liền và 6.000 km2 mặt biển với hơn 2.000 hòn đảo lớn nhỏ, 80% diện tích đất của tỉnh là đồi núi, đường bở biển dài 250km.Dân số tỉnh Quảng Ninh đạt gần 1.177.200 người (năm 2012), có 22 thành phần dân tộc, trong đó có 06 dân tộc có hàng nghìn người trở lên, cư trú thành những cồng đồng và có ngôn ngữ, bản sắc dân tộc rõ nét, đó là dân tộc Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa. Quảng Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có một mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều; một mùa đông lạnh, ít mưa và tính nhiệt đới nóng ẩm là bao trùm nhất. Với những điều kiện tự nhiên và xã hội vốn có, Quảng Ninh sở hữu những tiềm năng lớn để trở thành một điểm đến du lịch chính của Việt Nam. Trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Quảng Ninh chính là cửa ngõ thông sang thị trường Trung Quốc, một trong những thị trường lớn nhất thế giới. 2.1.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên Quảng Ninh là nơi có rất nhiều cảnh quan đẹp nổi tiếng thuận lợi cho việc phát triển du lịch, trong đó phải kể đến di sản thiên nhiên thế giới như Vịnh Hạ Long. Quảng Ninh. Vịnh Hạ Long là một tài nguyên du lịch đặc sản có nhiều giá trị nổi trội mang tầm quốc tế. Năm 1994, Vịnh Hạ Long đượcTổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc(UNESCO) đưa vào danh mục Di sản Thiên nhiên Thế giới vì những giá trị mang tính toàn cầu về thẩm mỹ.Năm 2011, Vịnh Hạ Long tiếp tục được Tổ chức New 7 Wonders bầu chọn là một trong bảy Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới [21]. Quảng Ninh có hệ thống tài nguyên du lịch biển đảo liên hoàn, trải dài 250 km nối liền các Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long, huyện đảo Vân Đồn, vườn Quốc gia Bái Tử Long, huyện đảo Cô Tô, bãi biển Trà Cổ (Móng Cái) với rừng quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) và hệ thống tài nguyên biển cuả Thành phố Hải Phòng. Tài nguyên biển đảo Quảng Ninh có giá trị sinh học đa dạng, phong phú với hơn 400 loài hải sản kinh tế đặc trưng của Vịnh Bắc Bộ gồm nhiều loại hải sản quý như: hải sâm, bào ngư, ngọc trai, tôm, cua, cá, mực, hầu, hà,Đây vừa là nguồn tài nguyên quý cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản Quảng Ninh vừa là nguồn thực phẩm đặc trưng hấp dẫn, thường xuyên phục vụ các đối tượng khách du lịch và nhân dân trong tỉnh. Quảng Ninh còn có rất nhiều giá trị tự nhiên khác vô cùng đa đạng và phong phú: nước suối khoáng, hồ, hang động, núi,... Địa hình Quảng Ninh có một số núi cao, đẹp, có thảm thực vật và hệ sinh thái đa dạng, có khả năng đầu tư phát triển du lịch, nổi bật là Núi 12 Yên Tử (Uông Bí), núi Bài Thơ (Hạ Long),Quảng Ninh là một điểm đến vô cùng lý thú với khung cảnh vô cùng độc đáo, tự nhiên mà thiên nhiên đã ưu đãi. Từ những thuận lợi mà thiên nhiên mang lại, Quảng Ninh đang chuyển mình thành điểm du lịch hấp dẫn, có sức lôi cuốn mạnh mẽ số lượng khách du lịch trong và ngoài nước. 2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn Bên cạnh tài nguyên du lịch gắn với tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh, cần phải đặc biệt kể đến tài nguyên du lịch nhân văn. Quảng Ninh là một vùng đất có nền văn hóa lâu đời. Nền văn hóa Hạ Long đã được ghi nhận trong lịch sử dựng nước của người Việt. Quảng Ninh được ví như Việt Nam thu nhỏ. Xét về tính đa dạng dân tộc, tỉnh Quảng Ninh gồm có 22 dân tộc. Các nhóm dân tộc này sống trong cộng đồng riêng của họ, có phương ngữ riêng và các đặc tính dân tộc riêng. Tính đa dân tộc với các tài sản văn hóa bao gồm kiến trúc địa phương, hàng thủ công mỹ nghệ như thêu thùa, đồ gốm, âm nhạc và các lễ hội. Toàn bộ giá trị lịch sử - văn hóa trên vùng đất Quảng Ninh được thể hiện khái quát thông qua hơn 600 di tích lịch sử - văn hóa các loại. Trong đó đặc biệt có giá trị khai thác phục vụ phát triển du lịch là 04 di tích – danh lam thắng cảnh được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt bao gồm: Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long, Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử, Di tích lịch sử Bạch Đằng và khu di tích lịch sử văn hóa nhà Trần tại huyện Đông Triều. Quảng Ninh có nhiều lễ hội văn hóa, dân gian truyền thống mang đặc trưng văn hóa Việt Nam. Cũng giống như các tỉnh, thành phố Việt Nam, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh phổ biến một số loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian truyển thống như dân ca, múa rối nước, thi đấu vật, chọi gà. Tóm lại, có thể thấy, với điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, với tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, Quảng Ninh thực sự có thế mạnh đòn bẩy để phát triển du lịch và thực tế khách quan đã chứng minh rất rõ. Tuy nhiên, vấn đề cần đặt ra là ngành du lịch là phải biết khai thác một cách bền vững, tận dụng một cách có hiệu quả nhất các điều kiện và tài nguyên đó. Ngoài ra, cần phải có sự quản lý của cơ quan nhà nước trong vấn đề phát triển du lịch ngày một đi lên, để du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh. 2.1.4. Thực trạng hoạt động du lịch của Quảng Ninh Trong thời gian qua, hoạt động du lịch Quảng Ninh có những khởi sắc và chuyển biến tích cực, mang lại hiệu quả thiết thực; bước đầu đã xây dựng được thương hiệu hình ảnh du lịch của tỉnh; tạo việc làm ổn định cho hàng vạn lao động, góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh. Hoạt động du lịch Quảng Ninh ngày càng có sự chuyển biến cả về lượng và chất, từng bước khẳng định được thương hiệu, vị thế, Quảng Ninh dần trở thành một trong những trung tâm lớn của cả nước. Khoảng 05 năm trở lại đây, ngành Du lịch Quảng Ninh đã có những bước phát triển mạnh mẽ thể hiện rõ qua tổng số khách du lịch đến với tỉnh này và doanh thu du lịch tăng mạnh qua từng năm. Quy mô du lịch của Quảng Ninh phát triển nhanh, luôn giữ mức tăng trưởng khá và ổn định. Từ năm 2011 đến nay, lượng khách du lịch đến tỉnh Quảng Ninh tăng dần, trung bình mỗi năm tăng khoảng 500.000 khách. Trong giai đoạn 2013- 2015, tổng số lượng khách du lịch đến quảng ninh đạt 22,7 triệu lượt khách, tăng 12,75% so với giai đoạn 2010 – 2012. Tổng doanh thu trực tiếp từ lĩnh vực du lịch đạt 17.048 tỷ đồng, tăng 65% so với giai đoạn 2010 – 2012, thu xã hội qua hoạt động du lịch ước bằng 60% thu trực 13 tiếp từ du lịch. Các thị trường khách quốc tế trọng điểm lưu trú tại Quảng Ninh ổn định, trong đó có một số thị trường tăng mạnh như: Mỹ tăng 25%, Anh 37%, Hàn Quốc 1,5%,Riêng năm 2015, thu ngân sách nhà nước từ du lịch đạt 1.200 tỷ đồng, chiếm gần 6% tổng thu nội địa trên địa bàn tỉnh [19]. Năm 2016, tỉnh đặt mục tiêu đón khoảng 10,5 triệu lượt người tới tham quan. Quảng Ninh có rất nhiều điểm than quan du lịch, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hạ Long, Móng Cái, Uông Bí và huyện đảo Vân Đồn. Khách du lịch quốc tế thời gian qua nói chung tương đối ổn định và có mức tăng trưởng cao về số lượng và tỷ trọng. Số lượng khách quốc tế của Quảng Ninh trong những năm gần đây tăng khá nhanh. Chỉ tính riêng số khách quốc tế đến Quảng Ninh năm 2010 đã 2,4 triệu khách thì đến năm 2015 đã lên đến 2,7 triệu lượt khách. Chất lượng dịch vụ du lịch Quảng Ninh đang ở tình trạng cần phải cải thiện một cách đáng kể. Về nguồn nhân lực của ngành du lịch, một điểm đến du lịch hàng đầu đòi hỏi phải hội tụ được những yếu tố hết sức quan trọng, trong đó bao gồm có một nguồn cung những lao động có trình độ đào tạo bài bản và có kiến thức dịch vụ tốt. Sự tăng trưởng của ngành du lịch sẽ mang lại nhiều cơ hội việc làm mới. Tuy nhiên, du lịch Quảng Ninh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, đóng góp vào GDP của tỉnh còn thấp. Sản phẩm du lịch chưa đa dạng. Kết cấu hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ còn thiếu đồng bộ. Quy mô doanh nghiệp du lịch còn nhỏ. Chất lượng dịch vụ du lịch chưa cao. Hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch chưa có chiến lược dài. Việc chấn chỉnh môi trường kinh doanh du lịch còn chưa triệt để. 2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 2.2.1. Tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch nhưng chưa thực sự phát huy tối đa mọi lợi thế đó. Cho nên công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch đã sớm được thực hiện. Trên cơ sở mục tiêu chung của “Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010”, năm 2001, Quảng Ninh đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch giai đoạn 2001 – 2010, đây là cơ sở cho công tác chỉ đạo, quản lý xây dựng các kế hoạch phát triển du lịch. Các cấp ủy và chính quyền Quảng Ninh đã đề ra những chủ trương, chiến lược, quy hoạch cụ thể nhằm phát triển du lịch của tỉnh. Đó là Nghị quyết số 08/NQ-TU ngày 30/11/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh Uỷ Quảng Ninh về đổi mới, phát triển Du lịch Quảng Ninh thời kỳ 2001- 2010; UBND tỉnh ra các quyết định như: Quyết định ban hành Quy định quản lý hoạt động tàu lưu trú du lịch trên Vịnh Hạ Long, Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển du lịch Thành phố Hạ Long giai đoạn 2006 – 2015, Nghị quyết số 07-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030 và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 nêu rõ mục tiêu: “Xây dựng Quảng Ninh trở thành một trung tâm du lịch quốc tế, một trọng điểm du lịch hàng đầu quốc gia, có cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch đa dạng, đặc sắc, có chất lượng cao, thương hiệu mạnh, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, có năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực và quốc tế; thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và đảm bảo quốc phòng - an ninh 14 Để thực hiện mục tiêu này, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng đề ra 56 giải pháp chia thành các nhóm: Tiếp thị quảng bá và xây dựng thương hiệu; sản phẩm du lịch mới; các dự án hạ tầng giao thông vận tải; dự án hạ tầng du lịch, bao gồm các cơ sở lưu trú, nâng cấp các điểm du lịch và tăng cường các hoạt động du lịch; dự án xây dựng và bồi dưỡng nhân lực; dự án bảo vệ môi trường; quản trị công và hợp tác; nhóm các giải pháp khác. 2.2.2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chính sách trong hoạt động du lịch của tỉnh Để thực hiện định hướng phát triển du lịch và từng bước đưa ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh trở thành ngành kinh tế động lực nhằm tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, tỉnh đã cho xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch cũng như có các chính sách về phát triển du lịch. Từ năm 2001, UBND tỉnh đã chỉ đạo cho Sở Du lịch Quảng Ninh phối hợp với Trường Đại học khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) tiến hành xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thời kỳ 2001 – 2010. Trong năm 2013, tỉnh đã ban hành hàng loạt các văn bản để thực hiện mục tiêu này, Như: Nghị quyết số 07-NQ/TU về phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030; Kết luận số 29-KL/TU về nhiệm vụ, giải pháp phát triển du lịch giai đoạn 2013-2015. Hiện tại, tỉnh cũng đang tích cực chỉ đạo các ngành liên quan triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2013- 2020, định hướng đến 2030. Bên cạnh đó, ngành Du lịch Quảng Ninh cũng đã tích cực tham gia đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển du lịch; chỉnh sửa, bổ sung Quyết định số 410/QĐ-UB và Quyết định số 4117/QĐ-UB của UBND tỉnh về quản lý tàu thuyền du lịch, quy chế xếp hạng tốp 05 doanh nghiệp phong phú du lịch, 5 doanh nghiệp lữ hành, tàu thuyền du lịch và các nhà hàng đạt chuẩn mua sắm du lịch hàng đầu của tỉnh; đề xuất tham gia xây dựng các chính sách góp phần quan trọng cho quản lý nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch. 2.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Về bộ máy tổ chức quản lý, trước đây, mọi công việc liên quan đến công tác quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn đều do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện. Nhưng đến ngày 28/4/2016, UBND tỉnh Quảng Ninh đã tách bộ phận Du lịch ra khỏi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thành lập Sở Du lịch theo Quyết định số 1270/2016/QĐ-UBND. Theo đó, Sở Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương theo quy định của pháp luật; các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo phân công hoặc ủy quyền của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh Là điểm du lịch thu hút khách lớn nhất trong cả nước, hàng năm, lượng khách du lịch đến với Vịnh Hạ Long ngày một đông. Vì vậy, đứng trước yêu cầu quản lý và phát huy giá trị của Di sản Thiên nhiên thế giới, được sự đồng ý của Chính phủ, ngày 09/12/1995, UBND tỉnh Quảng Ninh đã quyết định thành lập Ban Quản lý Vịnh Hạ Long. Đây là cơ quan chuyên trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh có trách nhiệm giúp UBND tỉnh quản lý ở cấp độ nhà nước trong việc bảo tổn và phát huy giá trị vịnh Hạ Long mà trọng tâm là khu vực Di sản Thế giới. 15 Việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Quảng Ninh đã dần đi vào nề nếp và có những dấu hiệu khả quan. UBND tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch của tỉnh, tiến hành sắp xếp tổ chức, quy hoạch cán bộ, xây dựng phương án phối hợp liên ngành để triển khai các hoạt động du lịch. 2.2.4. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là một tỉnh có nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú để phát triển các loại hình du lịch. Thế nhưng, thực tế cho thấy thời gian qua, Quảng Ninh vẫn chưa khai thác hiệu quả những tiềm năng đó.Hiện nay, Quảng Ninh có khoảng 25.000 nhân viên du lịch, bao gồm tất cả các nhân viên làm việc trong các khách sạn, hãng tàu du lịch, các công ty du lịch, các đơn vị kinh doanh dịch vụ ăn uống. Xét về tổng thể, lực lượng lao động nói chung là đủ. Tuy nhiên, lượng lao động du lịch được đào tạo yếu kém trầm trọng. Có tới một phần ba số lao động du lịch không tiếp tục học lên đại học và hầu như không được đào tạo chính quy về nghiệp vụ du lịch. Với mục tiêu, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, trong đó xác định yếu tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng, thời gian gần đây, việc đào tạo nhân lực cho ngành du lịch đã được quan tâm, chú trọng hơn trước. Số lượng người theo học các ngành nghề du lịch cũng tăng lên đáng kể. Hàng năm, ngành du lịch đã phối hợp với các tổ chức, hiệp hội, các trường đào tạo nghề du lịch... mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho đội ngũ làm công tác du lịch, từ cán bộ quản lý đến nhân viên phục vụ ở các đơn vị kinh doanh du lịch. Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây đã dần được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển của du lịch. 2.2.5. Quản lý hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch trên địa bàn tỉnh Các hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được đổi mới theo hướng chuyên nghiệp hoá, thông tin về du lịch Quảng Ninh đến với du khách bằng nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn. Việc quảng bá được thực hiện qua các ấn phẩm, hướng dẫn du lịch theo chuyên đề phù hợp với từng thị trường và từng đối tượng khách; thông qua các lễ hội, hội chợ, liên hoan ẩm thực để chuyển tải những nét độc đáo, bản sắc văn hoá truyền thống của địa phương đến với du khách. Các chương trình quảng bá, xúc tiến được thực hiện theo nguyên tắc nhà nước quảng bá điểm đến, doanh nghiệp quảng bá các sản phẩm du Quảng Ninh đang phấn đấu đến năm 2016, tổng số khách du lịch đạt 10,5 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế 3,5 triệu lượt; tổng doanh thu đạt 8.000 tỷ đồng. Để đạt được mục tiêu đó, trong thời gian tới,Quảng Ninh tiếp tục đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, hướng vào những thị trường trọng điểm, tập trung thu hút thị trường khách du lịch có mức chi trả cao bằng các công cụ và các hình thức xúc tiến, quảng bá hữu hiệu hơn. 2.2.6. Quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch - Về quản lý hoạt động kinh doanh lữ hành, dịch vụ vận chuyển khách du lịch: Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, hướng tới mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, UBND tỉnh Quảng Ninh vừa có văn bản chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường công tác quản lý hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế và điểm dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh; hoạt động và môi trường kinh doanh du lịch tàu biển; đôn đốc triển khai mở tuyến du lịch biên giới.Các dịch vụ vận chuyển như hệ thống tàu thuyền, các phương tiện chuyên dụng dành cho loại hình du lịch đặc biệt còn thiếu và yếu về chất. 16 - Về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống, lưu trú và các dịch vụ khác Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút khách giữa các trung tâm du lịch lớn trong cả nước ngày càng gia tăng như hiện nay, du lịch Quảng Ninh cần phải được tăng cường quản lý, chú trọng kiểm soát tình hình an ninh trật tự, an toàn du khách, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả, chất lượng dịch vụ đảm bảo cho du khách đến Quảng Ninh tham quan, nghỉ dưỡng trong các dịp lễ được an toàn, thoải mái, có ấn tượng đối với các điểm đến du lịch của tỉnh. 2.2.7. Hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực du lịch Để thúc đẩy du lịch phát triển, những năm qua, cùng với sự phát huy nội lực sẵn có, tỉnh Quảng Ninh đã tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới để phát triển các thị trường khách du lịch quốc tế. Theo đó, ngành Du lịch Quảng Ninh đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều trung tâm du lịch của các quốc gia như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Pháp, tham gia CLB những Vịnh đẹp nhất thế giới và là thành viên của Diễn đàn Liên khu vực Đông Á (EATOF). Quảng Ninh đã thúc đẩy hợp tác với các địa phương của Trung Quốc để mở thêm các tuyến du lịch đến với Hạ Long, trong đó chú trọng đến các địa phương là các trung tâm du lịch như: Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Trùng Khánh Không chỉ đẩy mạnh hợp tác quốc tế, ngành Du lịch cũng tăng cường phát triển du lịch liên vùng giữa Quảng Ninh với một số tỉnh, thành trong cả nước, như: Hải Phòng, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cao Bằng, Lạng Sơn... tạo điều kiện cho việc kết nối các điểm du lịch trong các tour du lịch liên vùng, hỗ trợ công tác quảng bá, xúc tiến điểm đến của các địa phương. 2.2.8. Thanh tra, kiểm tra các hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động trong lĩnh vực du lịch là nhiệm vụ thường xuyên mà các cơ quan QLNN phải thực hiện trong quá trình quản lý, điều hành của mình. Các nội dung mà UBND tỉnh quan tâm tập trung thanh tra, kiểm tra, kiểm soát trong lĩnh vực hoạt động du lịch đó là: công tác cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) về du lịch, thực hiện các chính sách về đất đai, quản lý các danh lam thắng cảnh, bảo vệ môi trường, đầu tư xây dựng hạ tầng, thực hiện các quy định về thuế, giá cả, Thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra giám sát về hoạt động kinh doanh du lịch ở tỉnh Quảng Ninh được tăng cường. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo và đổi mới trong hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm cải thiện môi trường du lịch, thu hút ngày càng đông du khách trong và ngoài nước đến Quảng Ninh. Sở Du lịch đã phối hợp với các ban ngành của tỉnh tiến hành điều tra, thẩm định và tái thẩm định các cơ sở lưu trú trong toàn tỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động du lịch trong tỉnh được duy trì thường xuyên, giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, không để tồn đọng kéo dài vượt cấp nhằm thực hiện tốt những quy định của pháp luật về đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, an toàn tính mạng và tài sản cho du khách. 2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 2.3.1. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch tỉnh Quảng Ninh Trong những năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn song vấn đề quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Quảng Ninh có những chuyển biến tích cực, góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển. Sau đây là những kết quả nổi bật: 17 Thứ nhất, việc xây dựng, tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch của tỉnh có sự đổi mới cả về nội dung, phương pháp và tổ chức thực hiện, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mình sát hợp với thị trường và phù hợp với định hướng phát triển chung của địa phương. Thứ hai, việc chỉ đạo xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản, các cơ chế, chính sách phát triển du lịch ngày càng tiến bộ Thứ ba, việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch được kiện toàn. Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch được tăng cường, đã tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo đa dạng hóa chuyên ngành đào tạo, nâng cao kiến thức về văn hóa, lịch sử, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, hướng dẫn du lịch,cho lực lượng lao động ngành du lịch của tỉnh. Thứ năm, hoạt động quáng bá, xúc tiến du lịch được đổi mới và có hiệu quả thiết thực Thứ sáu, hoạt động kinh doanh phát triển du lịch những năm qua có chuyển biến tích cực, một số dự án lớn đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Thứ bảy, hợp tác quốc tế về phát triển du lịch đạt được những kết quả quan trọng, đã hội đàm và ký thỏa thuận hợp tác phát triển du lịch với nhiều nước trên thế giới. Thứ tám, công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động du lịch được duy trì thường xuyên, góp phần ổn định thị trường, đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh du lịch, giữ gìn kỷ cương pháp luật trong hoạt động du lịch trên địa bàn. 2.3.2. Những hạn chế trong quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động quản lý nhà nước về du lịch tại Quảng Ninh thời gian qua còn bộc lộ một số hạn chế nhất định: Một là, công tác xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch chưa thực hiện tốt. Những căn cứ để xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch còn chưa đầy đủ và chính xác. Hai là, việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách để quản lý, điều hành các hoạt động du lịch còn chậm, nội dung chưa sát với điều kiện, tiềm năng phát triển du lịch ở tỉnh và chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch. Ba là, bộ máy tổ chức quản lý hoạt động còn thiếu đồng bộ, chưa có sự phối hợp, phân chia nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các ban, ngành liên quan. Bốn là, công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch còn nhiều hạn chế, chưa khắc phục được những bất cập trong công tác đào tạo nghiệp vụ du lịch trước yêu cầu phát triển ngành hiện nay cũng như tình trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu đội ngũ lao động tay nghề cao, chất lượng phục vụ chưa đồng đều và thiếu tính chuyên nghiệp. Năm là, hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch tuy đã được đổi mới, song chưa theo kịp sự phát triển của ngành cũng như hình ảnh của Vịnh Hạ Long. Các lễ hội du lịch hàng năm còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa thực sự mang lại sự hài lòng cho du khách khi đến tham quan. Sáu là, việc quản lý các khu, điểm du lịch trên địa bàn còn chồng chéo. Việc quản lý các cơ sở du lịch nhỏ còn chưa chặt chẽ, đầy đủ. 18 Bảy là, hoạt động đầu tư, hợp tác phát triển du lịch nhằm tạo sự liên kết với các địa phương trong nước và nước ngoài tuy được thực hiện nhưng nhìn chung còn khá ít các văn bản được ký kết. Tám là, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực du lịch mặc dù được chính quyền tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện, nhưng nhìn chung còn nhiều bất cập, hiệu quả mang lại không cao. 2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế Những hạn chế có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Quảng Ninh, chủ yếu do các nguyên nhân sau: - Nền kinh tế nước ta phát triển chưa cao, trình độ khoa học – công nghệ còn rất hạn chế. - Một số cấp ủy đảng và chính quyền trong tỉnh chưa coi trọng và quan tâm đúng mực đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn. - Nội dung, phương thức và phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật du lịch cho cộng đồng dân cư trên địa bàn còn nghèo nàn, đơn điệu và chưa phù hợp với điều kiện thực tế ở tỉnh. - Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch thay đổi quá nhanh do sát nhập, chia tách nhiều lần, thiếu tính ổn định nên không đảm báo tính liên tục trong quản lý, hiệu lực quản lý chưa cao, nhất là bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. - Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành du lịch còn nhiều bất cập - Cơ chế quản lý có liên quan đến khách du lịch của các bộ, ngành có những điểm chưa thống nhất, còn mang tính chất riêng biệt của ngành. - Việc quảng bá, tuyên truyền, xúc tiến du lịch chưa được quan tâm đầy đủ và đầu tư đúng mức để phát huy hết những thế mạnh tiềm năng phát triển của tỉnh. - Phạm vi thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chưa được xác định rõ ràng. 19 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH 3.1. Dự báo phát triển ngành du lịch Theo nghiên cứu của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) cho hay lượng du khách quốc tế năm 2015 vừa qua đã đạt hơn 1 tỷ lượt người, tăng hơn 4% so với năm trước đó. So với năm 2014, lượng khách chu du ra nước ngoài (có nghỉ qua đêm) tăng hơn 50 triệu lượt người. Năm 2015 cũng là năm thứ sáu liên tiếp lượng khách du lịch quốc tế đạt mức tăng trưởng hàng năm từ 4% trở lên. Pháp tiếp tục là điểm đến hấp dẫn khách du lịch nhất thế giới, tiếp theo là Mỹ, Tây Ban Nha, và Trung Quốc. Du lịch quốc tế trong năm 2015 đã tiến triển đến một tầm cao mới, thể hiện rõ vai trò của ngành đang đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho nhiều người ở khắp nơi trên thế giới. Chính sách mở cửa quốc tế, đơn giản hóa thủ tục nhập cảnh là xu hướng chung trên thế giới trong những năm vừa qua. Một trong những giải pháp chính được Liên hợp quốc đưa ra là ưu tiên các kế hoạch trung hạn và khuyến khích tiêu dùng trong nước. Việc lựa chọn các loại hình du lịch của khách du lịch quốc tế cũng thay đổi. Theo nhiều tổ chức nghiên cứu du lịch quốc tế, xu hướng nổi bật của ngành du lịch thế giới trong năm 2016 là du lịch trên sông, các điểm đến vùng Bắc Âu, du lịch mạo hiểm... Xu thế phát triển du lịch cho thấy, bất kể nước nào muốn phát triển du lịch đều phải có môi trường du lịch lành mạnh, an ninh xã hội tốt, chế độ chính trị ổn định. 3.2. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 3.2.1. Gắn phát triển du lịch với phát triển kinh tế chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Du lịch một ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao và có quan hệ với nhiều ngành khác nhất là ngành công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng, hệ thống cảng biển,Phát triển du lịch trong cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành nhằm hỗ trợ tác động lẫn nhau cùng phát triển, bảo vệ được cảnh quan môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững.Phát triển du lịch sẽ thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển theo. 3.2.2. Đổi mới nhận thức và đổi mới tư duy kinh tế về vài trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đổi mới nhận thức và đổi mới tư duy kinh tế trước hết phải làm cho mọi người nhận thức được vai trò của du lịch trong sự phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.2.3. Đối mới công tác chỉ đạo, điều hành nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Quảng Ninh cần hướng vào hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển và cơ chế, chính sách cho phù hợp với những yêu cầu mới. Vấn đề cần quan tâm trong quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Quảng Ninh là sự vận dụng cơ chế, chính sách của trung ương vào điều kiện đặc thù của địa phương, tăng cường kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động du lịch, cải cách thủ tục hành chính tích cực hơn nữa để tạo ra sự thông thoáng trong quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch phù hợp với tình hình hiện nay. 20 3.2.4. Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về du lịch Đổi mới mạnh hơn về tổ chức bộ máy và con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và ngày càng trở nên quan trọng của công tác hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch hiện nay 3.3. Những giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 3.3.1. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sác, quy hoạch, kế hoạch trong quản lý du lịch của tỉnh Đối với Quảng Ninh, ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển du lịch là động lực để thúc đẩy phát triển toàn bộ kinh tế địa phương. Do đó, cần có sự tập trung đầu tư các nguồn lực, những ưu ái nhất định về cơ chế, tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Đặc biệt là các quy định của pháp luật về du lịch, những cơ chế, chính sách về phát triển du lịch. Quảng Ninh cần áp dụng một số văn bản pháp lý liên quan đến bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch đã được ban hành ở nước ta: Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch, Quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch,và các văn bản pháp lý về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch. Những quy định, những chính sách phải xuất phát từ các nguyên tắc thị trường, huy động được sức mạnh của các thành phần kinh tế tham gia vào sự phát triển. Các chính sách phải tạo cơ chế khuyến khích phát triển các mô hình liên kết, hợp tác kinh tế giữa Quảng Ninh với các địa phương khác trong cả nước, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Nha Trang, Quảng Ninh cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng dịch vụ nghỉ dưỡng, tham quan, kinh doanh lưu trú, đồng thời mở rộng các danh mục dịch vụ, sản phẩm du lịch mới tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ cho du lịch Quảng Ninh. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp lữ hành vươn lên đưa du lịch Quảng Ninh sang thế chủ động gắn với thị trường cả nước và quốc tế. UBND tỉnh Quảng Ninh cần chỉ đạo các ngành chức năng liên quan lập kế hoạch chi tiết các khu du lịch trọng điểm và xây dựng các dự án khả thi. Các dự án quy hoạch cần có quy mô, mức độ phù hợp với các nguồn lực, điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến tài nguyên, môi trường và kinh tế xã hội của mỗi địa phương. Quy hoạch du lịch cũng đồng thời cũng phải góp phần vào kinh tế địa phương, bảo vệ môi trường, tài nguyên, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương. Tạo mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các chuyên gia quy hoạch du lịch với các chuyên gia các ngành khác để tạo nên sự cân đối, hài hòa về mặt cảnh quan, không làm ảnh hưởng đến quy hoạch tổng thể các ngành khác. Trong quá trình quy hoạch, việc mời các chuyên gia nước ngoài, có nhiều kinh nghiệm tham gia công tác quy hoạch để đảm bảo tính khả thi cho quy hoạch và dự án. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động dự án trong quá trình thực hiện để xử lý kịp thời các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp, gây tác động tới môi trường tài nguyên và kinh tế, xã hội, đồng thời để đảm bảo tiến độ, hiệu quả thực hiện dự án. Công khai hóa các dự án, quy hoạch, các sơ đồ, nội dung quy hoạch cần được công bố với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có liên quan và tham gia các dự án quy hoạch. 21 3.3.2. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch của tỉnh Công tác quản lý nhà nước về du lịch ở Quảng Ninh đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển ngành, quy hoạch du lịch, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì vậy cần phải kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, hướng tới phát triển một cách bền vững. Tỉnh cần khẩn trương sắp xếp và ổn định tổ chức bộ máy của ngành du lịch theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch. Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch phải thực hiện tốt chức năng tham mưu cho lãnh đạo các cấp hoạch định chiến lược, lập các chương trình phát triển, các kế hoạch và dự án phát triển du lịch; phải là người phối hợp với các cấp, các ngành triển khai các hoạt động du lịch đạt hiệu quả cao, phải thường xuyên tuyên truyền, quảng bá xúc tiến du lịch, giáo dục và nâng cao nhận thức của nhân dân về lợi ích của du lịch và trách nhiệm đóng góp công sức vào sự nghiệp phát triển du lịch của tỉnh. Các cơ quan nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho ngành du lịch phát triển bền vững. Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với những doanh nghiệp mới, mong muốn bước vào ngành để kinh doanh, bước đầu tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các doanh nghiệp. Ngoài ra cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội du lịch của tỉnh để làm cầu nối giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch và Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch trên địa bàn. Bên cạnh việc kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước, tỉnh cần từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tinh thông về nghề nghiệp, có phẩm chất tốt, có năng lực tổ chức quản lý, điều hành theo mục tiêu đã định. Cần chú trọng đào tạo các chức danh chủ chốt của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch. Thường xuyên tiến hành điều tra, đánh giá, phân loại trình độ nghiệp vụ của toàn bộ nhân viên trong ngành du lịch ở Quảng Ninh. Ngoài ra cũng cần có chính sách, kế hoạch đào tạo mới và tuyển dụng đội ngũ cán bộ có năng lực cho công tác quản lý và điều hành hoạt động du lịch dưới hình thức chính quy, trong nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu lâu dài của ngành du lịch. Thường xuyên tổ chức, xây dựng các chương trình giáo dục, nâng cao hiểu biết về du lịch cách ứng xử với du khách và bảo vệ môi trường, đặc biệt ở những địa bàn có các điểm tham quan du lịch toàn dân như Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc Gia Bái Tử Long, Tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ giữa các cơ sở đào tạo trong nước và các nước khác, tổ chức các hội nghị, hội thảo về đào tạo ở trong nước và quốc tế. Điều đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành du lịch. 3.3.3. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch và hợp tác quốc tế về phát triển du lịch Tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá du lịch Quảng Ninh đến với thị trường trong nước và quốc tế: - Khởi động chiến dịch quảng bá mạnh mẽ về Du lịch của tỉnh trên mạng Internet. Nâng cấp trang web du lịch Quảng Ninh, du lịch Hạ Long. Củng cố, đào tạo cấp tốc lực lượng thu thập, cập nhật thông tin ở các doanh nghiệp và tổ chức thiết kế hệ thống cung cấp thông tin lên mạng internet. 22 - Tổ chức quảng bá du lịch Quảng Ninh trên các phương tiện thông tin đại chúng của quốc gia là thị trường trọng điểm của Du lịch Việt Nam, như trên kênh truyền hình Châu Âu, Châu Mỹ, Đông Nam Á, - Tổ chức tốt các sự kiện du lịch trong nước nhằm thu hút khách du lịch. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các địa phương tổ chức tốt các sự kiện văn hóa, du lịch, trong đó chú trọng các sự kiện bao gồm: Diễn đàn Du lịch ASEAN và Hội trợ Travex ở Hà Nội. - Tiếp tục tổ chức các lễ hội thường niên thu hút được đông đảo khách du lịch: Carnaval Hạ Long, Lễ hội Hoa Anh đào, Lễ hội Yên tử, - Mở văn phòng đại diện du lịch của Quảng Ninh tại các thị trường lớn trong nước và quốc tế để thực hiện các chức năng về dịch vụ lữ hành và xúc tiến tiếp thị, sử dụng một phần doanh thu từ du lịch và vốn công ích cho hoạt động này. Để thu hút các dự án đầu tư du lịch nhằm nâng cao chất lượng phục vụ du lịch, cần thiết phải xây dựng cho được nội dung các chương trình xúc tiến đầu tư thương mại du lịch của tỉnh trong thời gian tới. Trong phát triển du lịch, nhất là phát triển du lịch bền vững thì việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế đóng vai trò rất quan trọng. Duy trì quan hệ hợp tác giữa Vịnh Hạ Long với các tổ chức quốc tế một cách tích cực. Vịnh Hạ Long là thành viên trong mạng lưới các khu bảo tồn biển quốc tế; Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương; thành viên các Câu lạc bộ các Vịnh đẹp nhất thế giới. Mối quan hệ được duy trì và mở rộng với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như UNESCO, Trung tâm Di sản thế giới, FFI, MPA. Các tổ chức quốc tế và các quốc gia đã tạo ra những mối quan hệ hợp tác, trao đổi kinh nghiệm quản lý di sản, thông qua đó, các dự án, công tác hợp tác, nghiên cứu khoa học, đào tạo và nâng cao năng lực quản lý di sản được triển khai thực hiện. Tiếp tục duy trì và mở rông quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới: Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Úc, Tham dự các liên hoan du lịch quốc tế để mở rộng quan hệ với các nước trên khu vực và thế giới. Đặc biệt, ngành Du lịch cần tích cực triển khai mở văn phòng đại diện tại các thị trường quốc tế nhằm khai thác tối đa các nguồn khách du lịch tại các thị trường nhiều tiềm năng này. Cùng với việc đẩy mạnh hợp tác với các nước trên thế giới, thì việc mở rộng quan hệ hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng hết sức quan trọng. Để tăng cường hợp tác, phát triển lợi thế ngành du lịch, cần tập trung xây dựng tour, tuyến du lịch; xây dựng tuyến, điểm du lịch Hạ Long gắn với một số tuyến điểm du lịch của các tỉnh, thành phố khác: Lạng Sơn, Hải Phòng, Hà Nội. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống giao thông vành đai kinh tế, đặc biệt là tuyến trục chính ven bờ từ Móng Cái đến Đồ Sơn và các cảng biển, sân bay,Phát triển hệ thống đường tạo liên kết với các thành phố ven biển, đường 18, đường 10. 3.3.4. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ phục vụ hoạt động du lịch của tỉnh Thời gian tới, Quảng Ninh cẩn đẩy mạnh công tác thu hút đầu tư các dự án lớn phát triển những khu du lịch cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế, có khả năng cung ứng nhiều dịch vụ du lịch cùng lúc. Tỉnh cũng nên thu hút các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vậy chất kỹ thuật phục vụ du lịch, đặc biệt là các điểm, khu du lịch trọng điểm, đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để thu hút khách du lịch. Tập trung phát triển hệ 23 thống cơ sở lưu trú, công trình dịch vụ du lịch một cách đồng bộ, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ trong một số cơ sở lưu trú. Nên ưu tiên hướng các dự án đầu tư xây dựng cơ sở lưu trú vào những khu vực phát triển đô thị hoặc những khu du lịch tương lai. Đồng thời, phát triển các nhà hàng ăn uống, nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, đặc biệt chú ý nâng cấp chất lượng đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch quốc tế. Phát triển hệ thống các công trình vui chơi giải trí nhằm đa dạng các loại hình, sản phẩm du lịch, tạo ra sức hấp dẫn của du lịch. Tôn tạo, nâng cấp khai thác có hiệu quả các điểm di tích lịch sử văn hóa, tổ chức các lễ hội văn hóa dân tộc, phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống văn hóa để phát triển du lịch. Bên cạnh đó, cần phải tập trung đầu tư vốn xây dựng kết cấu hạ tầng toàn tỉnh, liên tỉnh nhất là các vùng phụ cận xây cất đường sá, giao thông đường hàng không, đường bộ, đường thủy, đường sắt nhằm tạo thuận tiện cho sự di chuyển của du khách đến du lịch tại Quảng Ninh. Tập trung ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng, nhanh chóng hoàn thiện việc nâng cấp Quốc lộ 18 và Quốc lộ 10. Tiếp tục nâng cao chất lượng tàu du lịch trên vịnh, dừng việc đóng mới tàu du lịch, tập trung cải tiến, đưa khoa học kỹ thuật vào áp dụng trong khai thác, hoạt động đội tàu du lịch, đặc biệt là tàu phục vụ khách nghỉ đêm. 3.3.5. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh tra , kiểm tra, kiểm soát trong quản lý nhà nước về du lịch cần phải tập trung vào các vấn đề sau: - Hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm mục đich vừa thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh trung thực, minh bạch, vừa giúp Nhà nước phát hiện những sai sót của doanh nghiệp để có những biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo sự tôn nghiêm của pháp luật. - Cần đổi mới phương thức thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Trình tự, thủ tục thanh tra, kiểm tra phải được nghiên cứu và thiết lập lại một cách hết sức khoa học để làm sao cho vừa đảm bảo được mục đích, yêu cầu thanh tra, kiểm tra, vừa có sự kết hợp, phối hợp với các cơ quan chức năng khác để tiến hành gọn nhẹ, không trùng lắp, chồng chéo, giảm bớt thời gian, không gây phiền hà cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. - Đào tạo, lựa chọn đội ngũ những người làm công tác thanh tra, kiểm tra có đủ năng lực, trình độ, đáp ứng được yêu cầu của công tác thanh tra, kiểm tra trong tình hình mới Trong thời gian tới, tỉnh Quảng Ninh cần tăng cường hơn nữa trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động về du lịch, hoạt động kinh tế xã hội trên vịnh Hạ Long, để kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm giảm thiểu các phát sinh tiêu cực. Phân cấp chức năng, quyền hạn các cá nhân, tổ chức trong tiếp nhận, giải quyết các thông tin của khách tham quan về tình hình an ninh, trật tự, giá cả hàng hóa, dịch vụ trên Vịnh qua đường dây nóng du lịch Quảng Ninh.Thành lập lực lượng Cảnh sát du lịch – trực thuộc Sở Công an tỉnh, có chức năng tiếp nhận, xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực du lịch qua hệ thống đường dây nóng, ngoài ra, bố trí tuần tra, trực tại các địa điểm có đông khách tham quan. 24 KẾT LUẬN Du lịch Quảng Ninh là một trong những điểm sáng vô cùng tiềm năng, nơi hội tụ những vẻ đẹp tiềm ẩn, đầy quyến rũ; đã, đang và sẽ là một điểm tuyệt vời cho những du khách thích chiêm ngưỡng cái đẹp, thích khám phá cảnh quan thiên nhiên kỳ thú nơi đây. Thế mạnh về du lịch Quảng Ninh đã được cấp lãnh đạo tỉnh và nhà nước quan tâm, có những cơ chế, chính sách cụ thể, sát thực để quản lý. Nhờ có sự quản lý của nhà nước mà du lịch Quảng Ninh đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được những kết quả nhất định, đóng góp vào ngân sách của tỉnh, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống cho người dân của tỉnh. Tuy nhiện, những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng phong phú về du lịch của tỉnh. Ngoài những lợi thế đem lại cho ngành những cơ hội phát triển thì vẫn còn tồn tại một số yếu kém mà ngành cần nhanh chóng khắc phục. Du lịch Quảng Ninh còn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong nước và quốc tế. Do đó, để du lịch Quảng Ninh tiếp tục phát trển bền vững trong thời gian tới và có thể trở thành một trung tâm du lịch đẳng cấp, đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải có những chiến lược,biện pháp đúng đắn để quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh. Việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch góp phần quan trọng trong việc phát triển các hoạt động du lịch, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội Chính vì thế, trong khuôn khổ luận văn“Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” tác giả đã vận dụng những kiến thức cơ bản cả về lý luận và thực tiễn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận khoa học về du lịch và quản lý nhà nước về du lịch. Theo đó, luận văn đã nêu rõ khái niệm về du lịch, hoạt động du lịch, các loại hình du lịch; quan niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về du lịch; sự cần thiết phải quản lý nhà nước về du lịch; các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về du lịch và những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về du lịch. - Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch của các địa phương khác trong nước, qua đó rút ra được bài học cho tỉnh Quảng Ninh - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 – 2015. Theo đó, nêu được những thế mạnh về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của tỉnh. Thông qua việc phân tích tình hình phát triển du lịch của tỉnh để làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về du lịch. Từ đó, rút ra được những thuận lợi và hạn chế trong việc quản lý nhà nước về du lịch, nguyên nhân của những hạn chế đó. - Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh. Đồng thời đưa ra dự báo, phương hướng phát triển du lịch. Mặc dù luận văn đã phần nào làm sáng tỏ vấn đề quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nhưng cũng khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được mọi sự góp ý, quan tâm để vấn đề mà luận văn đề cấp tới được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_du_lich_tren_dia_ban_tinh_quang.pdf
Luận văn liên quan