Thực tiễn hoạt động TGPL trong thời gian qua đã chứng minh
chủ trương của Đảng về việc thành lập và phát triển hoạt động TGPL
ở nước ta là đúng đắn, góp phần thực hiện cải cách hành chính, cải
cách tư pháp, đưa chủ trương xoá nghèo về pháp luật, đền ơn, đáp
nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước vào cuộc
sống; góp phần nâng cao ý thức pháp luật, giải toả những vướng mắc
pháp luật của nhân dân, tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực
hiện công tác quản lý nhà nước về TGPL đã bộc lộ những tồn tại,
hạn chế. Những hạn chế đó là do một phần từ việc quy định chưa cụ
thể của pháp luật về tổ chức và hoạt động TGPL, về các chủ thể
TGPL, lĩnh vực, hình thức, chưa điều chỉnh hết một số vấn đề phát
sinh trong thực tiễn. Quy định pháp luật về công tác TGPL chưa
thống nhất, đồng bộ; trong một số trường hợp chưa toàn diện, kịp
thời, bám sát thực tiễn dẫn đến một số quy định chưa khả thi, việc
triển khai thực hiện công tác TGPL. Mặt khác, những hạn chế đó còn
xuất phát từ yếu tố con người. Các cấp chính quyền chưa thật sự
quan tâm đến công tác TGPL; sự nhận thức của các cấp, ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội về vai trò của công tác chưa thực sự đồng
đều. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thực tế
chưa được triển khai. Những tồn tại này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả và chất lượng quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý.
22 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 744 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
/
BỘ NỘI VỤ
/
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ HOÀNG THỊNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TẠI TỈNH KIÊN GIANG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Hưng Bình
Phản biện 1: TS. Nguyễn Hoàng Anh
Phản biện 2: TS. Trần Công Lý
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận văn thạc sĩ, Học
viện Hành chính Quốc gia.
Địa điểm: Phòng họp 210, Nhà A – Hội trường bảo vệ Luận văn
thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia – Cơ sở thành phố Hồ Chí
Minh
Số 10 Đường 03 tháng 02, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh
Thời gian: vào hồi 13 giờ 30 ngày 21 tháng 7 năm 2017
Có thể tìm hiểu Luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính
Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành
chính Quốc gia.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ năm 1986, Việt Nam chính thức tiến hành sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước. Cùng với việc đẩy mạnh cải cách kinh tế,
đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Nhà nước Việt Nam đã thông
qua Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo,
trong đó có chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách. Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức Trợ giúp pháp
lý (TGPL) cho người nghèo và đối tượng chính sách. Từ đó đến nay,
trên cơ sở Luật TGPL năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành,
công tác TGPL đã phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đạt được
những kết quả quan trọng. Hệ thống tổ chức TGPL đã được hình
thành từ trung ương đến địa phương, bao gồm Cục TGPL thuộc Bộ
Tư pháp và Trung tâm TGPL ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương với đội ngũ chuyên viên và cộng tác viên TGPL đông đảo. Các
tổ chức TGPL đã đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu
giúp đỡ pháp lý của người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào
dân tộc thiểu số, đồng thời, trở thành một bộ phận không thể thiếu
trong đời sống pháp luật của xã hội.
Hoạt động trợ giúp pháp lý là chức năng xã hội của Nhà nước,
có vị trí và vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhà nước dân chủ,
công bằng, văn minh. Nhà nước với vai trò là nòng cốt trong việc tổ
chức và thực hiện TGPL. Do đó, quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý là một yêu cầu khách quan, dựa trên những cơ sở lý luận và thực
tiễn nhất định. Ở nước ta, lý luận về hoạt động TGPL, quản lý nhà
2
nước về trợ giúp pháp lý chỉ ra đời và được nghiên cứu kể từ khi
Đảng và Nhà nước thành lập hệ thống tổ chức TGPL miễn phí cho
người nghèo và đối tượng chính sách năm 1997. Thực tế hoạt động
TGPL trong những năm qua cho thấy, chúng ta còn chậm trong việc
nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý.
Quản lý nhà nước về TGPL trong thời gian quan vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, chủ thuyết về vai trò nòng cốt của Nhà nước
trong việc cung ứng dịch vụ công đang có sự thay đổi. Nhà nước chỉ
thực hiện những gì xã hội không làm hoặc làm không hiệu quả. Kết
luận số 63-KL/TW ngày 27-5-2013 của Ban chấp hành Trung ương
đảng về một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm
xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm
2020 đã đưa ra định hướng từng bước chuyển từ việc giao dự toán
ngân sách cho các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập như
hiện nay sang thực hiện phương thức “đặt hàng”, “mua” dịch vụ, tạo
môi trường bình đẳng không phân biệt giữa đơn vị sự nghiệp công
lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, cần
khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước, cùng với việc đẩy
mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL, Nhà nước cũng cần thay đổi vị trí,
vai trò của mình theo hướng thay vì trực tiếp làm nòng cốt cung cấp
dịch vụ TGPL, Nhà nước chỉ giữ vai trò quản lý, điều phối và tổ
chức thực hiện hoạt động TGPL, bảo đảm nguồn lực cần thiết cho
hoạt động này.
Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà
nước và vai trò của Nhà nước đối với hoạt động TGPL trong giai
đoạn hiện nay một cách có hệ thống gắn với thực trạng công tác này
3
ở nước ta nói chung và tại tỉnh Kiên Giang nói riêng, cùng với tham
khảo một số mô hình tổ chức TGPL các nước trên thế giới, học viên
lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại tỉnh Kiên
Giang” là đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
- Về tài liệu nước ngoài: Giới thiệu mô hình trợ giúp pháp lý
của các nước Argentina, Nhật Bản, Ailen, Israel, Phần Lan... và đưa
ra đề xuất tham khảo đối với Việt Nam trong định hướng, xây dựng
và tổ chức TGPL trong thời gian tới của Cục Trợ giúp pháp lý Việt
Nam - Bộ Tư pháp. Đáng chú ý có các bản lược dịch của Cục Trợ
giúp pháp lý - Bộ Tư pháp về Quy định luật sư công một số nước và
so sánh chế định luật sư nhà nước ở một số nước, được dùng làm tài
liệu tham khảo khi xây dựng các chế định của Luật Trợ giúp pháp lý
năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý sửa đổi, bổ sung.
- Về công trình trong nước:
i) Đề tài cấp Bộ “Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ
sung Luật Trợ giúp pháp lý”. Đề tài được đặt ra trong bối cảnh trong
nước có sự thay đổi lớn về mặt thể chế khi Quốc hội thông qua bản
Hiến pháp năm 2013, hàng loạt các luật liên quan đến hoạt động trợ
giúp pháp lý thay đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp và quốc
tế, các yêu cầu liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền
tiếp cận trợ giúp pháp lý ngày càng cao dẫn đến yêu cầu sửa đổi, bổ
sung Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 cho phù hợp về mặt thể chế và
thực tiễn. Qua hoạt động nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan
đến trợ giúp pháp lý và tiến hành khảo sát, Đề tài đưa ra được một số
nhận định rất khách quan và mang tính thuyết phục về các vấn đề
như: hạn chế, bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành và các
4
văn bản hướng dẫn; thực tiễn triển khai công tác trợ giúp pháp lý
trong xã hội hiện nay nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Để khắc phục những bất cập, hạn chế
nhằm nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý theo hướng lấy người
được trợ giúp pháp lý làm trung tâm của việc đổi mới, Đề tài đã đưa
ra một số đề xuất mang tính định hướng cơ bản xây dựng Luật Trợ
giúp pháp lý (sửa đổi). Kết quả nghiên cứu của Đề tài đã được Cục
Trợ giúp pháp lý ứng dụng ngay vào quá trình nghiên cứu để sửa đổi,
bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 về các vấn đề như: Sửa đổi
các khái niệm trợ giúp pháp lý, mô hình tổ chức trợ giúp pháp lý,
quy định về người thực hiện trợ giúp pháp lý; bổ sung nguyên tắc
hoạt động trợ giúp pháp lý; về người được trợ giúp pháp lý; quy trình
thực hiện trợ giúp pháp lý,
ii) Luận án Luật học “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn
Tùng. Luận án tiếp cận vai trò nòng cốt của nhà nước đối với hoạt
động TGPL. Hiện nay, do thay đổi chủ thuyết, nên tiếp tục nghiên
cứu vai trò của nhà nước chỉ quản lý, điều phối và tổ chức thực hiện
hoạt động TGPL, bảo đảm nguồn lực cần thiết cho hoạt động này.
iii) Các luận văn thạc sĩ Luật “Pháp luật về trợ giúp pháp lý
cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác” của tác
giả Hoàng Thị Liên; luận văn “Hoạt động của Trung tâm trợ giúp
pháp lý - Qua thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả Đào Thị
Hồng Nhung. Điểm chung của các công trình nghiên cứu trên chưa
nghiên cứu hoạt động trợ giúp pháp lý dưới góc độ quản lý nhà nước.
- Về bài viết: Bên cạnh các công trình nghiên cứu tiêu biểu
trên đây, có một số bài viết được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu
5
khoa học pháp lý của TW như: Hoàn thiện một số quy định về tổ
chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong Luật Trợ giúp
pháp lý (sửa đổi) của tác giả Nguyễn Thị Minh và Trịnh Thị Thanh,
đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Xây dựng luật
Trợ giúp pháp lý (sửa đổi); Chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý và cơ
chế huy động các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tham gia thực
hiện trợ giúp pháp lý của tác giả Dương Thị Thanh Mai, đăng trên
Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Xây dựng Luật Trợ giúp
pháp lý (sửa đổi)
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng quản
lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam nói chung và tỉnh Kiên
Giang nói riêng, từ đó nêu lên những vấn đề còn hạn chế và đề xuất
mục tiêu, yêu cầu, giải pháp nhằm bảo đảm quản lý nhà nước về trợ
giúp pháp lý trong thời gian tới.
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung chính sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về trợ
giúp pháp lý, tham khảo mô hình TGPL của một số quốc gia trên thế
giới tham khảo đối với Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá nhằm làm rõ thực trạng quản lý nhà nước
về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và tỉnh Kiên Giang trong thời gian
qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân để có giải
pháp hoàn thiện.
- Đề xuất mục tiêu, yêu cầu và giải pháp nhằm bảo đảm quản
lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và tỉnh Kiên Giang trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến đề tài như: Khái niệm, đặc điểm của hoạt động trợ
giúp pháp lý; khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương pháp, hình thức
quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý; thực trạng quản
lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Kiên Giang
hiện nay; quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước đối với
hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Kiên Giang và Việt Nam.
Về phạm vi: Trợ giúp pháp lý là một lĩnh vực tương đối rộng,
bao gồm cả khái niệm, đối tượng, phương thức, phạm vi, mô hình tổ
chức, vv... Trong quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp
lý lại liên quan tới rất nhiều ngành khác nhau, do vậy, nội dung quản
lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý cũng rất phong phú...
Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, thuộc chuyên ngành Quản lý
công, luận văn không thể đề cập tất cả các lĩnh vực tác động của nhà
nước, mà chủ yếu trình bày, phân tích, đánh giá phần trực tiếp liên
quan đến công tác tổ chức và quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh
Kiên Giang. Vì vậy, những vấn đề tác giả luận giải, cũng như những
dẫn chứng mà tác giả đề cập trong luận văn, cũng chỉ giới hạn trong
phạm vi quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.
Luận văn chủ yếu nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt
động trợ giúp pháp lý ở nước ta từ năm 2006 đến nay và định hướng
các năm tiếp theo, nhưng đồng thời cũng nghiên cứu khái quát kinh
nghiệm quản lý nhà nước hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước
trên thế giới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
7
nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng về TGPL. Các
văn kiện của Đảng, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung
năm 2001, năm 2013 và các văn bản pháp luật về TGPL, các báo cáo
kết quả hoạt động, các công trình nghiên cứu khoa học trong và
ngoài nước cũng được tham khảo và kế thừa có chọn lọc.
- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng
các tư liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần vào việc bổ sung những vấn đề
lý luận về hoạt động trợ giúp pháp lý, quản lý nhà nước đối với hoạt
động trợ giúp pháp lý, đồng thời là cơ sở để cơ quan quản lý nhà
nước tham khảo trong việc tiếp tục hoàn thiện những vấn đề pháp
luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và người được trợ giúp pháp lý khác của nước ta trong
thời gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên,
học sinh trong việc học tập, giảng dạy các môn khoa học pháp lý.
Làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến hoạt động trợ
giúp pháp lý.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được chia thành 3 Chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về trợ giúp
pháp lý.
8
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại
tỉnh Kiên Giang.
Chương 3: Những giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về trợ
giúp pháp lý tại tỉnh Kiên Giang hiện nay.
9
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1. Một số vấn đề về trợ giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Là việc nhà nước thông qua hoạt động quản lý của mình, huy
động các nguồn lực xã hội (chủ yếu là các tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức luật sư và các cá nhân có
đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý), cùng
với Nhà nước cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí cho những
người thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý (thường là những người
nghèo), nhằm tạo cho họ có được những điều kiện tương tự như
những người khác trong việc tiếp cận với các dịch vụ pháp lý, để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm công bằng xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của Trợ giúp pháp lý
Một là, đối tượng được trợ giúp pháp lý là những người có
hoàn cảnh đặc biệt trong xã hội
Hai là, chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý
Ba là, tính chất phi lợi nhuận của hoạt động trợ giúp pháp lý
Bốn là, hình thức trợ giúp pháp lý phong phú; phương thức trợ
giúp pháp lý đa dạng, uyển chuyển
Năm là, lĩnh vực trợ giúp pháp lý có điểm khác biệt
1.1.3. Vai trò và ý nghĩa của trợ giúp pháp lý
Thứ nhất, bảo đảm thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước,
thể hiện bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân và bản chất của chế độ ta.
10
Thứ hai, là bộ phận quan trọng cấu thành chính sách xã hội,
gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội.
Thứ ba, bảo đảm quyền con người, quyền công dân nhàm thực
thi dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm công bằng xã hội trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường.
Thứ tư, là một trong những hình thức đưa chủ trương, chính
sách xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã
hội.
Thứ năm, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân
trí để cho nhân dân.
Thứ sáu, là một bộ phận của công tác dân vận, góp phần cũng
cố lòng tin của dân vào Đảng và Nhà nước cũng có chính sách, pháp
luật.
1.2. Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
1.2.1. Khái quát chung về quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là sự tác động mang tính quyền lực nhà
nước của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Việc tác động ở đây là sự tác
động của các chủ thể được nhà nước trao quyền, tác động bằng
phương tiện, công cụ quản lý lên các đối tượng quản lý, nhằm thực
hiện một cách tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
1.2.2. Khái quát chung quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý
1.2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý là việc nhà nước xây
dựng và sử dụng công cụ pháp luật để tác động lên đối tượng quản lý
(tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý), nhằm không ngừng đổi mới,
11
phát triển, huy động được sự tham gia của các nguồn lực xã hội,
cùng với nhà nước thực hiện chức năng trợ giúp pháp lý miễn phí
cho người nghèo và người được trợ giúp pháp lý khác, góp phần đạt
được mục tiêu giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng
và chấp hành pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.2.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
1.2.3.1. Nhà nước xây dựng, ban hành pháp luật để tổ chức
và quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý
1.2.3.2. Nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp
pháp lý
1.2.3.3. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật đối
với hoạt động trợ giúp pháp lý
1.3. Một số kinh nghiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý trên thế giới
1.3.1. Loại hình trợ giúp pháp lý do luật sư tư và các tổ
chức xã hội trực tiếp thực hiện
1.3.2. Loại hình trợ giúp pháp lý nhà nước
1.3.3. Loại hình trợ giúp pháp lý hỗn hợp
1.3.4. Vận dụng những kinh nghiệm quản lý về trợ giúp
pháp lý trên thế giới vào việc quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý ở Việt Nam
Tiểu kết Chương 1
12
Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ TẠI TỈNH KIÊN GIANG
2.1. Tổng quan về hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Kiên
Giang
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại
tỉnh Kiên Giang
2.2.1. Những kết quả đạt được
2.2.1.1. Việc xây dựng, kiện toàn hệ thống cơ quan tổ chức
trợ giúp pháp lý nhà nước
2.2.1.2. Việc xây dựng đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp
lý
2.2.1.3. Thực hiện trợ giúp pháp lý của các tổ chức trợ giúp
pháp lý nhà nước đối với người được trợ giúp pháp lý
2.2.1.4. Quản lý nhà nước đã bước đầu huy động được sự
tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý của các tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp
2.2.1.5. Nội dung hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước đạt
kết quả cao
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế
2.2.2.1. Về việc xây dựng, ban hành pháp luật để tổ chức và
quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý
Hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu, có sự chồng chéo giữa chức năng quản lý nhà nước và chức
năng thực hiện dịch vụ trợ giúp pháp lý
2.2.2.2. Việc tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
13
- Nhận thức của các cơ quan quản lý, cán bộ công chức làm
công tác quản lý nhà nước, bản thân người được trợ giúp pháp lý và
của xã hội về trợ giúp pháp lý còn thấp
- Hạn chế về năng lực trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp
pháp lý
- Sự tham gia trợ giúp pháp lý của các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Đội ngũ chuyên viên, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, Trợ giúp
viên pháp lý vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng
- Về kinh phí và sử dụng kinh phí trong hoạt động trợ giúp
pháp lý còn nhiều điểm bất hợp lý
- Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trợ
giúp pháp lý
2.2.3. Việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật đối
với hoạt động trợ giúp pháp lý
- Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong quản lý
nhà nước về hoạt động trợ giúp pháp lý gần như chưa được thực
hiện trên thực tế
- Chất lượng và việc quản lý chất lượng dịch vụ TGPL
2.3. Đánh giá công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý
2.3.1. Những ưu điểm
Thứ nhất, khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta và
chính quyền tỉnh Kiên Giang trong bảo đảm quyền được TGPL của
công dân, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
14
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hình thành và phát
triển hệ thống TGPL .
Thứ ba, bước đầu xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL của
Nhà nước (Trợ giúp viên pháp lý) chuyên trách, chuyên nghiệp, bảo
đảm tính chủ động, góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội, tăng
hiệu quả thực thi công vụ và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật,
đưa pháp luật vào cuộc sống.
Thứ tư, người thuộc diện được TGPL đã được bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp khi tiếp cận hệ thống TGPL.
Thứ năm, góp phần hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc thực thi công vụ, làm tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
Thứ sáu, Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của dịch vụ
TGPL trong xã hội.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, mô hình Trung tâm do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
thành lập, trực thuộc Sở Tư pháp nên Trợ giúp viên pháp lý tại địa
phương còn gặp khó khăn khi thực hiện TGPL trong các vụ việc
trong lĩnh vực hành chính, khiếu nại, tố cáo. Trong khi Luật TGPL
năm 2006 chưa quy định chức năng hỗ trợ, điều phối nguồn lực thực
hiện TGPL khi địa phương không đủ nguồn lực để thực hiện. Trụ sở,
cơ sở vật chất của Trung tâm do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp, do đó
nhiều Trung tâm ở chung trụ sở với cơ quan công quyền, điều này
khiến người thuộc diện được TGPL e ngại khi muốn tiếp cận để
được TGPL.
Thứ hai, từ năm 2010, Việt Nam đã chuyển từ nhóm các nước
có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình, các nguồn hỗ trợ
15
của đối tác nước ngoài rất hạn chế, kinh phí hoạt động TGPL hoàn
toàn do ngân sách nhà nước bảo đảm nên việc triển khai các hoạt
động TGPL khó khăn hơn giai đoạn trước. Bên cạnh đó, điều kiện
kinh tế xã hội của mỗi địa phương khác nhau nên việc đầu tư nguồn
lực cho công tác TGPL khác nhau.
Thứ ba, chưa có cơ chế hữu hiệu khuyến khích các tổ chức, cá
nhân, đặc biệt là các tổ chức hành nghề luật sư và luật sư tham gia
vào công tác TGPL. Đồng thời, chưa có chỉ tiêu bắt buộc và cơ chế
đánh giá sự đóng góp của người thực hiện TGPL trong hệ thống của
nhà nước về việc thực hiện vụ việc TGPL nên có thực hiện hay
không thực hiện vụ việc TGPL họ vẫn được hưởng lương theo thâm
niên công tác.
Thứ tư, có sự thay đổi trong thể chế liên quan đến công tác
TGPL.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, về nhận thức của các bên tham gia trong trợ giúp
pháp lý
- Một số cán bộ cấp uỷ, chính quyền địa phương, công chức
nhà nước chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công
tác TGPL nên chưa quan tâm, chỉ đạo, theo dõi sát sao để tổ chức thi
hành các quy định của Luật TGPL. Việc tham mưu cho các cơ quan
có thẩm quyền điều chỉnh chính sách về TGPL cho phù hợp với tình
hình thực tế của cơ quan quản lý nhà nước về TGPL còn chậm, chưa
chủ động, chưa kịp thời.
- Nhận thức của người dân về vai trò của pháp luật và TGPL
còn hạn chế nên khi có vướng mắc pháp luật họ không tìm đến
Trung tâm hoặc tổ chức thực hiện TGPL để yêu cầu giúp đỡ.
16
- Nhận thức của Luật sư về vị trí, vai trò trong thực hiện TGPL
còn hạn chế; nhận thức về bảo vệ công lý, trách nhiệm với nhà nước,
xã hội chưa đầy đủ nên chưa tích cực tham gia thực hiện TGPL.
Thứ hai, phần lớn Trợ giúp viên pháp lý đã được đào tạo nghề,
có bằng cử nhân luật, song nhìn chung tham gia tố tụng chưa nhiều,
một số chưa tham gia tố tụng nên chưa có nhiều kinh nghiệm dẫn
đến chất lượng còn hạn chế.
Tiểu kết Chương 2
17
Chương 3:
Những giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về trợ giúp
pháp lý tại tỉnh Kiên Giang hiện nay
3.1. Dự báo yêu cầu và phương hướng đảm bảo quản lý
nhà nước về trợ giúp pháp lý trong giai đoạn hiện nay
- Dự báo yêu cầu đổi mới
- Phương hướng đảm bảo quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
3.2. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý
3.2.1. Nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về
trợ giúp pháp lý
3.2.1.1. Kiện toàn tổ chức, bộ máy, con người trực tiếp làm
công tác trợ giúp pháp lý
3.2.1.2. Bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động và điều
kiện vật chất khác cho hoạt động trợ giúp pháp lý
3.2.1.3. Đổi mới nhận thức quản lý nhà nước về trợ giúp
pháp lý, từng bước xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý
3.2.1.4. Đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục
pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý
3.2.1.5. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc quản
lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
3.2.2. Nhóm các giải pháp tăng cường thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm và đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý
3.2.2.1. Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm trong hoạt động trợ giúp pháp lý
3.2.2.2. Xây dựng cơ chế đánh giá chất lượng vụ việc TGPL
công khai, minh bạch và hiệu quả
18
3.2.2.3. Quy định rõ phạm vi và hình thức thực hiện trợ giúp
pháp lý theo đúng bản chất và yêu cầu của trợ giúp pháp lý
3.2.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của luật sư và cơ
chế thu hút đối với hoạt động trợ giúp pháp lý
3.3. Kiến nghị, đề xuất
- Kiến nghị với Quốc hội
- Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
- Kiến nghị với các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan
Tiểu kết Chương 3
19
KẾT LUẬN
Thực tiễn hoạt động TGPL trong thời gian qua đã chứng minh
chủ trương của Đảng về việc thành lập và phát triển hoạt động TGPL
ở nước ta là đúng đắn, góp phần thực hiện cải cách hành chính, cải
cách tư pháp, đưa chủ trương xoá nghèo về pháp luật, đền ơn, đáp
nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước vào cuộc
sống; góp phần nâng cao ý thức pháp luật, giải toả những vướng mắc
pháp luật của nhân dân, tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực
hiện công tác quản lý nhà nước về TGPL đã bộc lộ những tồn tại,
hạn chế. Những hạn chế đó là do một phần từ việc quy định chưa cụ
thể của pháp luật về tổ chức và hoạt động TGPL, về các chủ thể
TGPL, lĩnh vực, hình thức, chưa điều chỉnh hết một số vấn đề phát
sinh trong thực tiễn. Quy định pháp luật về công tác TGPL chưa
thống nhất, đồng bộ; trong một số trường hợp chưa toàn diện, kịp
thời, bám sát thực tiễn dẫn đến một số quy định chưa khả thi, việc
triển khai thực hiện công tác TGPL. Mặt khác, những hạn chế đó còn
xuất phát từ yếu tố con người. Các cấp chính quyền chưa thật sự
quan tâm đến công tác TGPL; sự nhận thức của các cấp, ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội về vai trò của công tác chưa thực sự đồng
đều. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thực tế
chưa được triển khai. Những tồn tại này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả và chất lượng quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý.
Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xuất phát từ ý
nghĩa quan trọng của công tác TGPL đối với đời sống xã hội, từ tình
20
hình tổ chức và hoạt động TGPL trong thời gian qua và thực trạng
pháp luật hiện hành về lĩnh vực này cho thấy cần phải hoàn thiện các
quy định của pháp luật về TGPL. Quản lý nhà nước bảo đảm thực
hiện chủ trương từng bước xã hội hóa hoạt động TGPL, hướng dẫn,
huy động sự tham gia, đóng góp của lực lượng xã hội vào hoạt động
TGPL cho người nghèo và các đối tượng khác. Quán triệt quan điểm
không hành chính hóa đối với hoạt động TGPL, nội dung quản lý
nhà nước cần kế thừa và chọn lọc kinh nghiệm quản lý trong thời
gian qua, có tham khảo kinh nghiệm hoạt động TGPL của các nước
trên thế giới. Đồng thời, phải chú trọng phát huy vai trò của các công
cụ, phương tiện quản lý khác.
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng quản lý nhà nước về TGPL,
ngày càng khẳng định, phát huy vai trò trong đời sống, đáp ứng được
những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, những phương hướng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về TGPL ở phần trên đây cần được tiến
hành, triển khai một cách đồng bộ. Việc thực hiện những giải pháp
đó phải được tiến hành đồng thời và thường xuyên, liên tục trong
mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Việc nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về quản lý
nhà nước về trợ giúp pháp lý trên phương diện lý luận và thực tiễn
trên cơ sở đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện, bảo đảm quản lý nhà nước về TGPL tại tỉnh Kiên
Giang nói riêng và ở Việt Nam nói chung trong thời gian tới./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_tro_giup_phap_ly_tai_ti.pdf