CÂU HỎI THỰC TIỄN 1. Vai trò của TTCK?
2. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp ở VN? (ôn tập lý thuyết trang 1)
3. Tính minh bạch của thông tin trên TTCKVN?
4. Các chủ thể
5. Nhận xét về thị trường sơ cấp?
- Trái phiếu DN
- Cổ phiếu
- TP chính phủ
- TP (DN + CP)
6. Nhận xét về tính thanh khoản của chứng khoán trên thị trường?
7. Bình luận về giao dịch chứng khoán? ( HASTC, HoSE, UPCOM)
8. Bình luận về giao dịch TPCP ( Hà nội – thị trường chuyên biệt )
9. Các lệnh mua bán ở VN? Các hình thức khớp lệnh ở VN?
10. Bình luận “ OTC là thị trường dành cho DN vừa và nhỏ, công nghệ cao và có tiềm năng phát triển”
11. Liên hệ Việt nam các vấn đề cơ bản của Sở giao dịch chứng khoán.
12. Liên hệ Việt nam các vấn đề cơ bản của thị trường OTC
13. Các phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán. (ôn tập lý thuyết trang 11)
14. P/b cổ phiếu thường và quỹ đầu tư
15. Các vấn đề cơ bản trong định giá trái phiếu (ôn tập lý thuyết trang 12)
16. Ý nghĩa – nội dung – phương pháp xác định tỷ lệ lợi tức yêu cầu
17. Ý nghĩa của việc xác định độ co giãn của trái phiếu.
18. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán.
19. Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán( liên hệ VN).
20. Thực trạng hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán tại Việt Nam
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6002 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng hợp câu hỏi và trả lời ôn tập cuối kì thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính phủ trong việc huy động vốn đầu tư phát triển.
- Thị trường này sẽ tách biệt được giữa thị trường mua đứt bán đoạn với thị trường mua đi bán lại. Hoạt động mua đi bán lại trên thị trường trái phiếu Chính phủ là một hoạt động quan trọng, vì là hoạt động chủ yếu điều hòa vốn giữa các ngân hàng thương mại với nhau.
- Khoảng 70% – 80% giao dịch trên thị trường trái phiếu Chính phủ là hoạt động Repo (thực chất là hoạt động cho vay tiền thông qua hợp dồng kỳ hạn cổ phiếu), nhưng mà từ trước đến giờ chưa tách được nên hệ thống giao dịch tại Tp.HCM hay tại Hà Nội trước đây ghi nhận hoạt động mua đi bán lại là thành hai giao dịch, hai giao dịch có sự thỏa thuận mua đi bán lại thì giá nó sẽ xác định rất khác so với thị trường mua đứt bán đoạn. Chính vì phản ánh giá không chính xác cho nên không định hình được lãi suất chuẩn đang giao dịch trên thị trường.
- Khi tách được hoạt động Repo và hoạt động mua đứt bán đoạn thì có thể các tổ chức thị trường sẽ tận dụng hoạt động Repo, đặc biệt là mức phí chỉ bằng một nửa so với giao dịch bình thường. Và trong vòng một vài năm tới nếu tách bạch được hẳn thì sẽ có cơ sở để đánh giá lãi suất chuẩn, là cơ sở để xác định đường cong lãi suất chuẩn trên thị trường.
Năm 2010
Sau hơn một năm chính thức đi vào hoạt động, thị trường trái phiếu chuyên biệt đã có những bước tiến mới, đó là thực hiện lưu ký tập trung tại HNX chứ không thực hiện một cách rải rác trên nhiều thị trường.
Là thành viên chính thức của thị trường, khi mua bán trái phiếu Chính phủ, các thành viên không phải thông qua môi giới làm chậm thời gian giao dịch cũng như như thuận tiện khi thực hiện giao dịch, hơn nữa phí giao dịch cũng thấp hơn nhiều so với thực hiện qua đại lý nhận lệnh .
Nhờ yêu cầu khắt khe đối với các thành viên tham gia thị trường về các yếu tố trang thiết bị, chất lượng nhân sự, các bên tham gia thị trường có thể yên tâm về tính an toàn khi giao dịch.
Bên cạnh đó, qua việc tham gia thị trường này, các thành viên có khả năng kiểm soát dòng tiền thanh toán trái phiếu trực tiếp tại ngân hàng thanh toán, chủ động trong việc điều chuyển tiền trên các tài khoản nostro mà không phải chịu các chi phí vốn do phải chuyển tiền sớm cho các nhà môi giới.
Ngoài ra, các thành viên còn có khả năng quản lý rủi ro về trái phiếu được lưu ký tại Trung tâm Lưu ký mà không phụ thuộc vào nhà môi giới.
Tuy nhiên, với yêu cầu khắt khe đối với trái phiếu doanh nghiệp mà ít đơn vị nào đáp ứng dược, do đó loại hình trái phiếu này vẫn chưa được thực hiện giao dịch tại đây mà phải thông qua các thị trường khác như OTC, các đại lý lưu ký tại công ty chứng khoán. Các cơ chế dành cho giao dịch repo vẫn hạn chế.
Tuy nhiên, từ quý 4/2010, HNX dự định sẽ nâng cấp phiên bản 2 của thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt, do đó sẽ khắc vụ về cơ bản các vấn đề còn tồn tại ở trên để phục vụ thành viên một cách tốt nhất.
Trong giai đoạn từ năm 2015 - 2020, thị trường sẽ có thêm giao dịch option, future và giao dịch corporation để đưa các trái phiếu doanh nghiệp vào giao dich.
Câu 9: Các lệnh mua bán ở VN? Các hình thức khớp lệnh ở VN?
a) Các loại lệnh hiện đang áp dụng ở Việt Nam
* Hiện nay, nhà đầu tư được sử dụng các loại lệnh sau đây khi giao dịch tại SGDCK TP.HCM:
Lệnh giới hạn: Là lệnh mua hoặc bán chứng khoán tại một mức giá xác định hoặc giá tốt hơn. Lệnh có hiệu lực kể từ khi được nhập vào hệ thống giao dịch cho đến hết ngày giao dịch hoặc cho đến khi lệnh bị hủy bỏ.
Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh lúc mở cửa (lệnh ATO): Là lệnh mua hoặc bán chứng khoán tại mức giá khớp lệnh trong đợt xác định giá mở cửa và chỉ có hiệu lực trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá mở cửa.
Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh lúc đóng cửa (lệnh ATC): Là lệnh mua hoặc bán chứng khoán tại mức giá khớp lệnh trong đợt xác định giá mở đóng cửa và chỉ có hiệu lực trong đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa.
Lưu ý: Lệnh ATO/ATC được ưu tiên thực hiện trước lệnh giới hạn trong khi so khớp lệnh.
* Các loại lệnh được sử dụng khi giao dịch tại SGDHN:
Lệnh giao dịch báo giá là lệnh giới hạn (LO) được nhập vào hệ thống giao dịch của Trung tâm có hiệu lực cho đến hết phiên giao dịch hoặc sẽ hết hiệu lực khi khách hàng có yêu cầu hủy lệnh.
b) Các hình thức khớp lệnh:
* Tại SGDCKHCM: 2 hình thức khớp lệnh là khớp lệnh liên tực và khớp lệnh định kỳ:
* Tại SGDCKHN chỉ áp dụng hình thức khớp lệnh liên tục:
Phương thức khớp lệnh định kỳ là phương thức giao dịch được thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua và bán chứng khoán tại một thời điểm xác định. Phương thức này cho phép các lệnh sau khi gửi vào hệ thống giao dịch được sắp trên sổ lệnh theo thứ tự ưu tiên, sau đó sẽ được so khớp tại một thời điểm xác định với một mức giá khớp lệnh duy nhất cho mỗi loại chứng khoán. Nguyên tắc xác định giá khớp lệnh theo phương thức này như sau :
1) Là mức giá thực hiện được khối lượng giao dịch lớn nhất.
2) Nếu có nhiều mức giá thỏa mãn mức giá trên thì mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn.
Phương thức khớp lệnh liên tục là phương thức hệ thống giao dịch thực hiện so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào sổ lệnh. Giá thực hiện trong phương thức giao dịch liên tục được xác định trên cơ sở mức giá của lệnh giới hạn đối ứng đang nằm chờ trên sổ lệnh.
Nguyên tắc so khớp lệnh
Các lệnh được so khớp theo thứ tự ưu tiên như sau:
i. Ưu tiên về giá: Các lệnh mua có mức giá cao hơn được ưu tiên thực hiện trước; các lệnh bán có mức giá thấp hơn được ưu tiên thực hiện trước.
ii. Ưu tiên về thời gian: Đối với các lệnh mua (hoặc lệnh bán) có cùng mức giá thì lệnh nhập vào hệ thống giao dịch trước sẽ được ưu tiên thực hiện trước.
Ví dụ 1: Khớp lệnh định kỳ
Giá tham chiếu của cổ phiếu AAA: 50.000 VNĐ; Vào đợt khớp lệnh định kỳ xác định giá mở cửa, có các lệnh đặt mua và bán cổ phiếu AAA như sau:
Lệnh mua
Lệnh bán
Khối lượng
Giá
Khối lượng
Giá
1.000 B
ATO
500 D
ATO
600 A
52.000
100 E
51.000
300 G
51.000
900 C
50.500
200 F
50.000
Vào thời điểm khớp lệnh, hệ thống giao dịch tính toán giá khớp lệnh như sau:
- Cộng dồn khối lượng đặt mua và chào bán theo từng mức giá:
Cộng dồn khối lượng đặt mua
Đặt mua
Giá
Đặt bán
Cộng dồn khối lượng chào bán
1.000
1.000 B
ATO
500 D
500+900+100 = 1.500
1.000+600 =1.600
600 A
52.000
500+900+100 = 1.500
1.000+600+300 = 1.900
300 G
51.000
100 E
500+900+100 = 1.500
1.000+600+300 = 1.900
50.500
900 C
500+900= 1.400
1.000+600+300+200 = 2.100
200 F
50.000
500
(Khối lượng lệnh ATO đặt mua hoặc chào bán được cộng vào khối lượng đặt ở từng mức giá bên mua hoặc bên bán).
- Kết quả khớp lệnh: 1.500 cổ phiếu AAA được khớp tại mức giá 51.000 VNĐ.
Chi tiết khớp lệnh như sau: B-D (500), B-C (500), A-C (400), A-E (100)
- Sau khi khớp lệnh, sổ lệnh của AAA như sau:
Đặt mua
Giá đặt mua
Đặt bán
100 A
52.000
300 G
51.000
200 F
50.000
Ví dụ 2: Khớp lệnh liên tục
Vào đợt khớp lệnh liên tục, cổ phiếu BBB có các các lệnh đặt mua, đặt bán như sau:
Lệnh mua
Lệnh bán
Khối lượng
Giá
Khối lượng
Giá
1.000 A
52.000
2.000 C
55.000
3.000 D
51.000
3.000 F
53.500
1.500 E
50.500
2.000 B
53.500
9.000 G
53.000
(Ghi chú: Thứ tự thời gian của lệnh thể hiện theo thứ tự chữ cái A,B, C, D…)
Lệnh mới: Mua 10.000 cp BBB giá 54.000 VND (lệnh H).
Hệ thống thực hiện khớp lệnh ngay lập tức như sau:
- 9.000 cổ phiếu tại mức giá 53.000 VNĐ (H-G)
- 1.000 cổ phiếu tại mức giá 53.500 VNĐ (H-B)
Sổ lệnh BBB sau đó như sau:
Lệnh mua
Lệnh bán
Khối lượng
Giá
Khối lượng
Giá
1.000 A
52.000
2.000 C
55.000
3.000 D
51.000
3.000 F
53.500
1.500 E
50.500
1.000 B
53.500
Câu 10: OTC là thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ cao và có tiềm năng phát triển vì:
* Để được niêm yết & phát hành cổ phiếu trên SGD thì phải có đủ các điều kiện như phải có vốn điều lệ đạt một mức nhất định, hoạt động kinh doanh trong 2 năm liền trước năm đăng kí niêm yết phải có lãi,có nhiều hứa hẹn phát triển…. những điều kiện trên thì hầu hết phải các công ty, tập đoàn lớn đáp ứng được ==> các DN vừa và nhỏ muốn huy động nguồn vốn ngắn hạn nhanh nhất còn cách nhảy vào thị trường OTC ( thị trường phi tập trung) bởi vì điều kiện niêm yết trên thị trường OTC đơn giản hơn nhiều chỉ cần là chứng khoán được phép phát hành và độ tín nhiệm thấp hơn các chứng khoán được niêm yết trên SGDCK.
* Hơn nữa OTC là 1 thị trường giao dịch bằng hệ thống điện tử , người mua và người bán có thể giao dịch mua bán cổ phiếu với nhau khi ở cách nhau hàng nghìn km, hàng giờ máy bay..... mà không cần đến sở giao dịch; không có niêm yết trên bảng điện tử như ở sàn mà giá cả chủ yếu phụ thuộc vào sự thoả thuận của các nhà đầu tư và công ty phát hành cổ phiếu. => Làm giảm chi phí cho các doanh nghiệp.
* Trong giao dịch mua bán cổ phiếu trên sàn niêm yết, nhà đầu tư phải chờ đến thời điểm T+3 thì chứng khoán mới về tới tài khoản. Khi đó nhà đầu tư mới tiếp tục mua bán được. Còn đối với giao dịch cổ phiếu OTC, nhà đầu tư hoàn toàn tự do thỏa thuận, có thể mua xong là bán được ngay. Điều đó sẽ thu hút hơn cho các nhà đầu tư khi mua chứng khoán của các công ty niêm yết trên OTC.
* Phương tiện và công cụ thực hiện trên thị trường này là " thị trường giao dịch điện tử" nên đòi hỏi công ty , doanh nghiệp phải thiết kế cho mình 1 hệ thống thông tin điện tử tốt thì mới có thể giao dịch mua bán ===> Công ty nào có công nghệ càng cao thì việc giao dịch thực hiện càng dễ dàng.
Câu 11: Liên hệ Việt nam các vấn đề cơ bản của Sở giao dịch chứng khoán.
Sở Giao dịch Chứng khoán là một pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật thực hiện việc tổ chức giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán của tổ chức phát hành đủ điều kiện niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán.
Theo tính chất tổ chức thị trường, Sở Giao dịch Chứng khoán là thị trường chứng khoán tập trung; trong đó việc giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung là sàn giao dịch hay qua hệ thống mạng thông tin máy tính điện tử do các thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán thực hiện. Các chứng khoán được giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán thông thường là chứng khoán của các công ty có uy tín, công ty lớn đáp ứng đủ điều kiện hay tiêu chuẩn niêm yết.
Ỏ Việt Nam có 2 sở giạo dịch chứng khoán là Sở Giao Dịch Chứng Khoán Tp HCM và Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội.Cả 2 Sở giao dịch này đều thuộc sở hữu của nhà nước do UBCKNN đứng ra thành lập và quản lý.
Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (SGDCK TP.HCM), tiền thân là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, được chuyển đổi theo Quyết định 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh là pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ của Sở Giao dịch chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Tên gọi đầy đủ: Sở Giao Dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. - Tên giao dịch quốc tế: Hochiminh Stock Exchange - Tên viết tắt: HOSE. Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh có quyền hạn và nghĩa vụ như sau:
a. Quyền hạn
Ban hành các quy chế về niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng khoán, công bố thông tin và thành viên giao dịch sau khi được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận;
Tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán;
Tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ giao dịch chứng khoán theo Quy chế giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán trong trường hợp cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư;
Chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết chứng khoán và giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết chứng khoán của các tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán;
Chấp thuận, hủy bỏ tư cách thành viên giao dịch; giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán của các thành viên giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán;
Giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán;
Cung cấp thông tin thị trường và các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm yết;
Thu phí theo quy định của Bộ Tài chính.
Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán;.
b. Nghĩa vụ
Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến hành công khai, công bằng, trật tự và hiệu quả;
Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
Thực hiện công bố thông tin về giao dịch chứng khoán, thông tin về tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, thông tin về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và thông tin giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán;
Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác điều tra và phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
Phối hợp thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho nhà đầu tư;
Bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp Sở giao dịch chứng khoán gây thiệt hại cho thành viên giao dịch, trừ trường hợp bất khả kháng.
c. Cơ cấu tổ chức
Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội
Sở GDCK Hà Nội tiền thân là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ là đơn vị sự nghiệp có thu, được chuyển đổi theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg, ngày 02/01/2009 của Thủ tướng chính phủ.
Theo các Quyết định trên Sở GDCK Hà Nội là pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng; được mở tài khoản bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ tại Kho bạc Nhà nước và các NHTM trong và ngoài nước; là đơn vị hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, thực hiện chế độ tài chính, chế độ báo cáo thống kê, kế toán, kiểm toán và có nghĩa vụ tài chính theo quy định pháp luật; hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ của Sở Giao dịch chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tên gọi đầy đủ: Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội
Tên giao dịch quốc tế: Hanoi Stock Exchange
Tên viết tắt: HNX
Vốn điều lệ: 1.000 tỷ đồng
Nhiệm vụ và quyền hạn của Sở GDCK Hà Nội như sau:
a. Nhiệm vụ:
1. Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến hành công khai, công bằng, minh bạch và hiệu quả.
2. Thực hiện chế độ tài chính, báo cáo thông kê, kế toán và kiểm toán theo quy định của pháp luật và của Bộ Tài chính.
3. Thực hiện công bố thông tin theo quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn;
4. Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan chức năng trong công tác thanh tra, kiểm tra và phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
5. Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và tài sản, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tổn thất các nguồn vốn và tài sản của Sở Giao dịch;
6. Phối hợp thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho nhà đầu tư.
7. Bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp Sở Giao dịch gây thiệt hại cho thành viên giao dịch, trừ trường hợp bất khả kháng.
8. Xử lý và trả lời những thắc mắc, khiếu nại, khiếu kiện của các nhà đầu tư, các tổ chức niêm yết
9. Sở Giao dịch được Nhà nước giao vốn điều lệ và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của Sở Giao dịch trong phạm vi vốn Điều lệ của mình.
10. Sở Giao dịch chịu trách nhiệm kế thừa quyền và nghĩa vụ pháp lý của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội theo quy định của pháp luật;
11. Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
b. Quyền hạn:
1. Ban hành các Quy chế về niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng khoán, giám sát giao dịch, công bố thông tin, thành viên giao dịch và các quy chế khác sau khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận.
2. Tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch.
3. Tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ giao dịch chứng khoán theo Quy chế giao dịch chứng khoán của Sở Giao dịch trong trường hợp cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư.
4. Chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết chứng khoán và giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết chứng khoán của các tổ chức niêm yết tại Sở Giao dịch.
5. Chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên giao dịch; giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán của các thành viên giao dịch tại Sở giao dịch.
6. Giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao dịch tại Sở giao dịch.
7. Cung cấp thông tin thị trường và các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm yết.
8. Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán.
9. Thu phí theo quy định của Bộ Tài chính.
10. Đầu tư, góp vốn với các tổ chức kinh tế khác để cung cấp các dịch vụ phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ cung cấp thông tin trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Sở giao dịch nhằm mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán.
11. Lập quỹ bồi thường thiệt hại cho các thành viên giao dịch;
12. Yêu cầu các tổ chức tư vấn, tổ chức niêm yết làm rõ các vấn đề được nhà đầu tư khiếu nại
13. Thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật để thực hiện mục tiêu hoạt động của Sở giao dịch.
c. Cơ cấu tổ chức:
Câu 12: Liên hệ Việt nam các vấn đề cơ bản của thị trường OTC
1. Khái niệm
Thị trường OTC là thị trường không có trung tâm giao dịch tập trung, đó là một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh CK mua bán với nhau và với các NĐT, các hoạt động giao dịch của thị trường OTC được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch) của các ngân hàng và CTCK.
2. Một số đặc trưng cơ bản
- NĐT và tổ chức của các NĐT: việc tham gia thị trường OTC rất đơn giản. Tuy nhiên, hoạt động của các NĐT trên thị trường không phải là độc lập, mà thường lập thành các nhóm, hội, diễn đàn để trao đổi thông tin với nhau.
- Hàng hoá của thị trường: là các loại cổ phiếu của các DN cổ phần, có triển vọng phát triển, chuẩn bị niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hoặc có những lợi thế thương mại riêng biệt.
- Việc mua bán cổ phiếu trên thị trường OTC được thực hiện theo phương thức “thuận mua, vừa bán” mà không bị bất cứ một lực bên ngoài nào (giới hạn giá, lượng cổ phiếu…) tác động. Nói chung, cơ chế mua - Bán các loại chứng khoán trên thị trường OTC theo cơ chế thị trường.
- Phương thức mua bán, giao dịch:
+ Bên mua và bên bán trực tiếp gặp nhau để thương lượng, quyết định việc mua - bán chứng khoán. Đây là phương thức phổ biến hiện nay tại Việt Nam .
+ Bên mua và bên bán có thể giao dịch thông qua các nhà môi giới chứng khoán. Hiện nay, phương thức này ít phổ biến hơn, nhưng xu hướng phát triển của thị trường thì trong tương lai, phương thức này sẽ chiếm ưu thế hơn so với phương thức trực tiếp mua - bán.
- Thu thập thông tin của các loại cổ phiếu: để mua chứng khoán trên thị trường OTC, NĐT thường tìm kiếm thông tin từ các nguồn như:
+ Thông tin từ các báo cáo tài chính (BCTC): nhìn chung, các CTCP chưa niêm yết không có BCTC được kiểm toán. Do những mục đích khác nhau mà DN có nhiều hệ thống sổ sách kế toán, BCTC. Mặt khác, việc có được một bản BCTC của DN đối với một người bình thường là điều không hề đơn giản, nhất là trong điều kiện mà ngay bản thân DN không biết thông tin nào nên công bố, thông tin nào không nên. Do đó, việc thu thập thông tin từ DN qua con đường chính thức khá khó khăn, nếu NĐT không có những mối liên hệ nhất định với công ty đó.
+ Thu thập thông tin qua các cơ quan chức năng: Theo quy định, DN phải báo cáo tình hình hoạt động cho cơ quan đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư). Tuy nhiên, việc tuân thủ quy định này của các DN không thực sự nghiêm túc hoặc các thông tin cũng rất chung chung. Và các cơ quan chức năng cũng không có tránh nhiệm và nghĩa vụ công bố các thông tin của DN. Vì vậy, việc có được thông tin từ các cơ quan này gần như là bất khả thi đối với NĐT. Ngoài ra, còn có một tổ chức lưu trữ thông tin về các DN, đó là Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc Ngân hàng Nhà nước. Trung tâm này lưu trữ thông tin cơ bản của các DN có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tính cập nhật của các thông tin này không cao.
+ Thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng: khi không thể thu thập thông tin về DN từ các đầu mối thông tin nêu trên, NĐT có thể thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, nhược điểm của nguồn dữ liệu này là rời rạc, độ tin cậy không cao.
+ Thu thập thông tin từ các nguồn khác: thông tin từ những hội, nhóm kinh doanh chứng khoán, thông tin không chính thức từ bên trong DN… Nhìn chung, các nguồn thông tin nêu trên không đủ căn cứ vững chắc và không chính xác để NĐT ra quyết định. Nhưng trong thực tế, các chứng khoán vẫn được mua bán, chuyển nhượng, thậm chí, tại những thời điểm cao trào, nhiều loại chứng khoán được mua bán, chuyển nhượng rất sôi động.
Quy trình môi giới trên thị trường phi tập trung của các nhà môi giới
B1 :Tìm kiếm khách hàng và thu thập thông tin
B2 : Kí các hợp đồng mua bán với khách hàng.
B3 : Thương lượng để so khớp các lệnh mua bán.
B4: Chuyển nhượng chứng khoán
B5: Thanh toán các khoản phí môi giới dịch vụ, hoàn trả tiền đặt cọc nếu vi phạm hợp đồng.
B6: Lưu giữ hồ sơ và các giấy tờ có liên quan.
3. Thực trạng thị trường OTC ở Việt Nam
Năm 2010
Có thể nói, thị trường OTC đã có một năm giao dịch trầm lắng khi sự quan tâm của NĐT và cả dân môi giới đều dồn về thị trường niêm yết. Các môi giới cho biết, rất ít giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết ở thời điểm này. Trên các diễn đàn mạng, lệnh rao mua bán cổ phiếu cách nhau khá xa về giá chào mua và giá chào bán. Ví dụ như cổ phiếu Cotecland được chào mua là 28000/cp nhưng chào bán là 31000/cp. Hoạt động môi giới trên thị trường OTC là rất khó khăn. Để giữ mối liên hệ với khách hàng, các môi giới phải kiêm luôn cả việc đi lĩnh hộ cổ tức hay làm các thủ tục liên quan đến quyền phát sinh từ cổ phiếu của khách hàng. Việc thiếu thanh khoản trên thị trường OTC khiến các công ty chứng khoán, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trích lập dự phòng giảm giá cổ phiếu OTC trong danh mục đầu tư của mình. Nhiều môi giới cổ phiếu trên thị trường tự do kiêm nhà đầu tư cổ phiếu đang lo trả nợ CTCK vì đã cầm cố cổ phiếu chưa niêm yết lấy tiền mua cổ phiếu niêm yết.
Nhiều cổ phiếu chưa niêm yết như PVI Finance giảm từ 14000đ/cp xuống còn 10000/cp, Eximbank giảm từ 16000 xuống còn 11000, BĐS Sài Gòn giảm 18000 xuống 11000..nên những nhà đầu tư repo cổ phiếu này khi thị giá cao, tới tỷ lệ repo 50-70% buộc phải nộp thêm tiền để tiếp tục hợp đồng vay vốn.Thậm chí có công ty chứng khoán nhận 1 triệu cổ phiếu của một công ty ngành dầu khí đã đề nghị khách hàng trả nợ và lấy hàng về. Thanh khoản gần như đóng băng khiến các CTCK cho khách hàng repo cổ phiếu chưa niêm yết không thể thanh lý được hàng trong TH giá cổ phiếu xuống thấp và khách hàng chưa kịp đóng tiền thêm. Cả nhà đầu tư và công ty chứng khoán đều mong doanh nghiệp sớm lên niêm yết để có thể bán hàng cắt lỗ. Đây là sức ép với giá cổ phiếu mới niêm yết, được giao dịch mạnh trên thị trường OTC thời gian qua, trước khi niêm yết.
Vào đầu tháng 12, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Chứng khoán vừa được thông qua có nhiều điểm mới điều chỉnh hoạt động của các DN trên thị trường cổ phiếu chưa niêm yết (OTC). Điểm mới đáng chú ý nhất là quy định về việc công ty đại chúng (CTĐC) sau 1 năm phát hành ra đại chúng phải tiến hành niêm yết. Điều này đồng nghĩa với việc CTĐC phải có chiến lược rõ ràng và gắn lợi ích của DN với lợi ích các cổ đông hơn nữa, trong đó có việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch chứng khoán.
Một nội dung quan trọng thúc đẩy việc niêm yết của các tổ chức phát hành quy mô lớn hiện đang đứng ngoài thị trường tập trung là yêu cầu về công bố thông tin. Hiện nay vấn đề niêm yết đặt ra với tất cả các CTĐC tùy theo quy mô vốn của DN.Như vậy, tới đây, các DN có quy mô lớn như Sabeco, Habeco, Halico, Hanaka, Mai Linh…, mặc dù chưa niêm yết, nhưng vẫn phải công bố thông tin theo chuẩn niêm yết, bao gồm thông tin định kỳ, thông tin bất thường, báo cáo tài chính soát xét bán niên…
Trên thị trường OTC tới đây cũng sẽ có thêm một loại sản phẩm mới, đó là “Hợp đồng góp vốn đầu tư”. Theo điểm a, Khoản 8, Điều 1 Luật Chứng khoán mới, đây là hợp đồng góp vốn bằng tiền hoặc tài sản giữa các NĐT với tổ chức phát hành hợp đồng, nhằm mục đích lợi nhuận và được phép chuyển đổi thành chứng khoán khác. Trong thực tiễn, hợp đồng góp vốn đầu tư có nhiều loại hình, với những tính chất khác nhau, chẳng hạn như hợp đồng góp vốn đầu tư vào dự án bất động sản, hợp đồng góp vốn đầu tư hợp tác sản xuất – kinh doanh… Thực tế đã phát sinh trường hợp một số tổ chức phát hành ra công chúng loại hình “hợp đồng góp vốn đầu tư”, trong đó quy định rõ quyền và lợi ích của người góp vốn đầu tư, sau đó hợp đồng này được chuyển đổi thành cổ phiếu và được chuyển nhượng trên thị trường. Như vậy, hợp đồng góp vốn đầu tư được chuyển đổi thành chứng khoán khác được coi là chứng khoán và chịu sự điều chỉnh của Luật Chứng khoán.
Thời gian qua, trên thị trường xuất hiện một số loại thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết như chợ MB tại 16 Liễu Giai (Hà Nội), giao dịch OTC qua bảng điện tử tại một số CTCK. Đến nay, các chợ này đều không tồn tại, do pháp luật không cho phép. Luật Chứng khoán sửa đổi, bổ sung cũng đã đề cập đến vấn đề này. Theo đó, “Sở giao dịch chứng khoán tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán; việc tổ chức thị trường giao dịch các loại chứng khoán khác theo quy định của Chính phủ”. Như vậy, theo quy định mới, trong trường hợp cần thiết phải lập thêm thị trường giao dịch chứng khoán thì Chính phủ sẽ đứng ra thành lập. Còn theo quy định cũ, “ngoài Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán, không tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán”.
Thị trường OTC với hàng ngàn mã cổ phiếu, vốn hóa lớn hơn thị trường niêm yết, nhưng giao dịch hết sức trầm lắng. Trong phần lớn thời gian của năm 2010, đa số cổ phiếu đóng băng giao dịch. Một trong nhiều nguyên nhân là thông tin trên thị trường kém minh bạch. Với những quy định mới nêu trên, các NĐT đang kỳ vọng thị trường sẽ minh bạch hơn, giao dịch sôi động hơn.
Câu 14: Phân biệt chứng chỉ quỹ và cổ phiếu thường
* Giống nhau:
- Đều là hàng hóa dược mua bán trên thị trường chứng khoán
- Đều là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu ,hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp được niêm yết trên thị trường chứng khoán
- Lợi nhuận thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đôn vị nhận vốn góp
* Khác nhau:
Chứng chỉ quỹ
Cổ phiếu thường
1.Tổ chức phát hành
Các quỹ đầu tư
Các công ty cổ phần
2.Quyền lợi của người sở hữu
Không có quyền biểu quyết hay quản lý mọi quyền hành đều thuộc về công ty quản lý quỹ
Có quyền hưởng khoàn thu nhập từ hoạt động kinh doanh của quỹ
Có quyền tham gia đại hội cổ đông ,biểu quyết các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp ,có quyền yêu cầu về tài sản ,yêu cầu về thu nhập ,quyền mua trước ...
3.Khi chia lợi tức
Khoản lợi nhuận của quỹ hàng năm sẽ được chia hết cho người góp vốn công ty chỉ giữ lại khoảng 2% làm chi phí quản lý
Công ty có thể chia cổ tức toàn bộ hay ít hơn số lợi nhuận sau thuế tùy thuộc vào chiến lược sử dụng vốn của hội đồng quản trị và sự thông qua của đại hội cổ đông
Câu 16: Ý nghĩa – nội dung – phương pháp xác định tỷ lệ lợi tức yêu cầu
1. Khái niệm
Tỷ lệ lợi tức yêu cầu là tỷ lệ lợi tức mà NĐT phải có trên vốn đầu tư sao cho đủ đền bù những rủi ro của TP.
2. Phương pháp tính
Về mặt lý thuyết, mỗi một NĐt có thể yêu cầu 1 tỷ lệ lợi tức khác nhau đối với mỗi 1 loại chứng khoán cụ thể. Tuy nhiên, giám đốc tài chính chỉ quan tâm đến tỷ lệ lợi tức yêu cầu được biểu hiện bằng giá cả thị trường của chứng khoán cty. Nói cách khác, sự nhất trí của các NĐT về 1 tỷ lệ lợi tức dự tính được phản ánh trong giá cả thị trường hiện tại của TP.
Để tìm tỷ lệ lợi tức dự tính cho 1 TP, chúng ta phải tìm tỷ lệ chiết khấu mà làm cân bằng giữa giá trị thực của TP với thị giá của nó.Thông thường để xác định tỷ lệ lợi tức yêu cầu k người ta thường áp dụng phương pháp nội suy.
Câu 17: Ý nghĩa của việc xác định độ co giãn của trái phiếu.
Độ co giãn của trái phiếu cho biết % thay đổi của giá trái phiếu khi lãi suất thay đổi 1%. Việc xác định độ co giãn của trái phiếu sẽ cho phép các nhà đầu tư biết độ rủi ro của khoản mục đầu tư này. Nếu độ co giãn càng lớn thì khi lãi suất trên thị trường thay đổi thì giá trái phiếu biến động càng mạnh, nhanh, độ rủi ro cao, nhà đầu tư có thể thu được 1 món lợi lớn cũng có thể lỗ to. Nếu độ co giãn càng bé thì khi lãi suất trên thị trường thay đổi thì giá trái phiếu càng ít biến động, độ rủi ro thấp. Nhà đầu tư có thể căn cứ vào độ co giãn để quyết định có nên mua trái phiếu đó hay ko tùy theo tình hình biến động lãi suất trên thị trường và tính ưa thích mạo hiểm của nhà đầu tư.
Câu 18: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán
Một số yếu tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu
Trái phiếu là một dạng chứng khoán nợ, còn cổ phiếu là chứng khoán vốn. Khi nhà đầu tư muốn mua trái phiếu của một Công ty ABC nào đó, họ phải tìm hiểu Công ty đó có mạnh không, tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính ra sao, đặc biệt là phát hành trái phiếu huy động vốn để làm cái gì, có hiệu quả không, có khả năng trả nợ khi trái phiếu đến hạn không, lãi suất có đủ hấp dẫn không?
Nhà đầu tư khi mua trái phiếu sẽ có 2 nguồn thu, một là trái tức (coupon) nghĩa là lãi suất của trái phiếu đó, thường thì lãi suất này cố định hoặc được thả nổi theo lãi suất thị trường cộng thêm một phần lãi suất chênh lệch nào đó để bù đắp rủi ro, hai là lãi vốn. Yếu tố đầu tiên, sẽ thay đổi khi lãi suất thị trường thay đổi nếu là coupon thả nổi. Yếu tố lãi vốn sẽ phụ thuộc vào hai yếu tố chính là lãi suất thị trường và tình hình hoạt động của Công ty đó. Khi lãi suất thị trường tăng lên thường thì giá của trái phiếu sẽ bị giảm xuống vì lúc đó nhà đầu tư có khuynh hướng bán trái phiếu lấy tiền để gửi Ngân hàng vì độ rủi ro sẽ an toàn hơn. Khi lãi suất thị trường giảm xuống thì giá trái phiếu thường tăng vì lãi suất trái phiếu lúc đó sẽ hấp dẫn nhà đầu tư. Còn về tình hình hoạt động của Công ty thì giá trái phiếu đương nhiên sẽ bị ảnh hưởng, nếu Công ty hoạt động kém thì độ rủi ro về khả năng trả nợ sẽ tăng lên nên giá sẽ trái phiếu sẽ giảm.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu
- Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới: Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển (và có xu hướng giảm khi nền kinh tế yếu đi). Bởi khi đó, khả năng về kinh doanh có triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu tích luỹ và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư vào cổ phiếu.
- Lạm phát: Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.
- Tình hình biến động của lãi suất: Lãi suất tăng làm tăng chi phí vay đối với DN. Chi phí này được chuyển cho các cổ đông vì nó sẽ hạ thấp lợi nhuận mà DN dùng để thanh toán cổ tức. Cùng lúc đó, cổ tức hiện có từ cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh đối với nhà đầu tư tìm lợi tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi nào có lãi suất cao. Hơn nữa, lãi suất tăng còn gây tổn hại cho triển vọng phát triển của DN vì nó khuyến khích DN giữ lại tiền nhàn rỗi, hơn là liều lĩnh dùng số tiền đó mở rộng sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, lãi suất tăng sẽ dẫn đến giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm có tác động tốt cho DN vì chi phí vay giảm và giá cổ phiếu thường tăng lên.
Tuy nhiên, sự dao động của lãi suất không phải luôn được tiếp theo bởi sự phản ứng tương đương và trái ngược của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi suất phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm phát, nó mới trở thành thước đo hiệu quả sự dao động của TTCK. Lãi suất có xu hướng giảm khi lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng với lãi suất, giá cổ phiếu sẽ giảm. Nhưng nếu lạm phát không phải là một vấn đề nghiêm trọng và lãi suất tăng, đầu tư vào TTCK thường mang lại nhiều lãi. Bởi vì trong trường hợp này, lãi suất tăng là do nền kinh tế tăng trưởng.
- Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm.
- Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.
- Những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành biến động: yếu tố về kỹ thuật sản xuất: trang thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển...; yếu tố về thị trường tiêu thụ: khả năng về cạnh tranh và mở rộng thị trường...; yếu tố về con người: chất lượng ban lãnh đạo, trình độ nghề nghiệp của công nhân; tình trạng tài chính của DN...
- Tâm lý nhà đầu tư: Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn bản trong biến động của giá cổ phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với tương lai của giá cổ phiếu, của lợi nhuận DN và của lợi tức cổ phần. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Chính vì thế, cùng một loại chứng khoán, có người cho rằng, xấu quá cần phải bán đi, nhưng ngược lại có người cho rằng, tương lai của nó rất sáng lạn cần phải mua vào. Điều này cũng lý giải tại sao trên TTCK lúc nào cũng có người mua, người bán.
Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà phân tích... cũng có thể khiến thị giá cổ phiếu biến động.
Câu 19: Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán( liên hệ VN).
Rủi ro là những biến cố không lường trước, khi nó xảy ra làm cho thu nhập thực tế khác thu nhập kỳ vọng. Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán:
1. Rủi ro hệ thống: là rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các CK. Sự bấp bênh của môi trường kinh tế nói chung như sự sụt giảm GDP, biến động lãi suất, tốc độ lạm phát thay đổi... là những minh chứng cho rủi ro hệ thống, những biến đổi này tác động đến sự dao động giá cả của các CK trên thị trường. Rủi ro hệ thống bao gồm:
* Rủi ro thị trường: xuất hiện do phản ứng của các nhà đầu tư đối với các hiện tượng trên thị trường. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn. Phản ứng dây chuyền này làm tăng số lượng bán, giá cả CK sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở. Sở dĩ có hiện tượng bầy đàn là do trên thị trường có sự tham gia của 3 nhóm NĐT: Nhóm thứ nhất là nhóm nhà đầu tư thận trọng, họ đưa ra các quyết định dựa trên cơ sở phân tích thông tin kỹ lưỡng, song do mất nhiều chi phí cho việc thu thập và xử lí thông tin nên hiệu quả đầu tư của họ có thể không cao. Nhóm thứ hai là nhóm NĐT “ free rider”, họ mua bán CK dựa trên quyết định của nhóm thứ nhất nhằm tận dụng cơ hội và tiết kiệm chi phí. Rủi ro thị trường sẽ là rất lớn khi tỷ trọng của các NĐT “free rider” cao. Nhóm thứ 3 là NĐT “vĩ nhân”,họ cho rằng thiên hạ luôn sai lầm nên ra quyết định đầu tư ngược lại với thị trường, khi cả thị trường bán, họ là người mua và ngược lại.
* Rủi ro lãi suất: là sự biến động của giá cả CK do sự thay đổi của lãi suất gây ra. Giữa lãi suất thị trường và giá cả CK có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.Khi đầu tư vào CK có thu nhập cố định, nếu lãi suất thị trường tăng lên, cơ hội đầu tư vào các tài sản có mức lợi tức cao hơn sẽ mất đi. Trong khi đó, do sự tăng lên của lãi suất, giá thị trường của tài sản đầu tư sẽ bị giảm và nhà đầu tư sẽ bị thiệt hại về giá khi bán các tài sản đó. Lãi suất thay đổi làm cho chi phí và doanh thu của DN thay đổi. Nếu DN sử dụng nhiều nợ, LS tăng lên làm tăng chi phí lãi vay phải trả và làm cho lợi nhuận của DN sụt giảm, giá cổ phiếu sẽ giảm. Nếu DN là người cho vay, lãi suất tăng sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của DN, giá cổ phiếu cũng sẽ tăng.
* Rủi ro sức mua: Là sự thay đổi giá trị thực của chứng khoán do sự thay đổi sức mua của đồng tiền. Nếu lạm phát vượt quá tỷ lệ lạm phát dự tính, giá trị thực của đồng tiền sẽ bị giảm và làm cho khoản đầu tư cũng bị giảm giá trị. Khi lạm phát thực tế khác với lạm phát dự kiến, rủi ro sức mua sẽ phát sinh.
2. Rủi ro phi hệ thống: là rủi ro chỉ tác động đến một loại tài sản hoặc một nhóm tài sản, nghĩa là rủi ro này chỉ liên quan đến một loại CK cụ thể nào đó. Rủi ro phi hệ thống bao gồm: rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro tỷ giá và rủi ro thanh khoản.
* Rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh là sự biến động giá CK do những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những thay đổi này làm thay đổi doanh thu, lợi nhuận của DN, từ đó làm thay đổi giá cổ phiếu. Rủi ro kinh doanh có thể do yếu tố nội sinh hoặc ngoại sinh. Yếu tố nội sinh phát sinh trong quá trình vận hành hoặc hoạt động của DN như: quản lí, cơ cấu và chất lượng tài sản. Yếu tố ngoại sinh bao gồm những tác động nằm ngoài sự kiểm soát của công ty làm ảnh hưởng đến tình trạng hoạt động của công ty như chi phí tiền vay, thuế, chu kỳ kinh doanh..
* Rủi ro tài chính: Rủi ro tài chính liên quan đến đòn bẩy tài chính, hay nói cách khác liên quan đến cơ cấu nợ của công ty. Sự xuất hiện các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra nghĩa vụ trả nợ trả lãi của công ty và công ty phải đối mặt với dòng tiền ra lớn khi phải thanh toán nợ gốc và lãi. Nếu không trả nợ đúng hạn, uy tín công ty sẽ giảm sút. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến giá cả CP công ty. Rủi ro tài chính có thể tránh được nếu công ty không vay nợ chút nào.
* Rủi ro tỷ giá: là khả năng biến động giá CK khi tỷ giá thay đổi.
* Rủi ro thanh khoản: là sự bất ổn của giá CK khi điều kiện giao dịch thay đổi. Sự thay đổi tính thanh khoản của CK có thể do tác động của những thay đổi trong cấu trúc cổ đông, tâm lý NĐT, chính sách…
*** LIÊN HỆ
Từ đầu năm 2010 đến nay, TTCKVN thường ở trạng thái lình xình, chỉ số Vn-Index xoay quanh mức 500. Điều này cho thấy TTCKVN còn chứa nhiều rủi ro và thách thức.
Trước hết, rủi ro thanh khoản trên TTCKVN là khá cao do thị trường thiếu tính thanh khoản. Quy mô niêm yết, giao dịch cũng như số lượng tài khoản đã có sự tăng trưởng đáng kể trong thời gian qua, song vẫn còn hạn chế. Năm 2009, TTCK Việt Nam TTCK có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng không bền vững: Khối lượng giao dịch từ tháng 11 đến hết năm sụt giảm mạnh so với hai tháng 9, 10. Càng về cuối năm, thanh khoản của thị trường càng trở nên đáng lo ngại.
Chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng và gói kích thích kinh tế năm 2009 của Chính phủ là động lực chính để TTCK phục hồi. Tuy nhiên, do những căng thẳng trên thị trường ngoại hối, nguy cơ lạm phát và nợ Chính phủ gia tăng nên trong hai tháng cuối năm 2009, chính sách tiền tệ bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt. Hơn nữa, từ nửa cuối tháng 10-2009, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng phải chấm dứt cho vay chứng khoán.. Cầu trên TTCK đã chịu tác động mạnh từ những điều chỉnh trên và dẫn tới tính thanh khoản của thị trường giảm sút. Càng về cuối năm, thanh khoản của thị trường càng trở nên đáng lo ngại.. Ngoài ra, việc quy định thời gian giao dịch T+4 và không cho phép nhà đầu tư mua bán cùng loại chứng khoán trong ngày, thông tin thiếu minh bạch,.. cũng là rào cản cho tính thanh khoản của CK, làm tăng rủi ro thanh khoản trên TTCKVN.
Thứ nhất, rủi ro thị trường là rất cao. Điều này là do thị trường Việt Nam chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân. Các nhà đầu tư này có quy mô vốn nhỏ, kiến thức về chứng khoán còn hạn chế, tâm lí thiếu ổn định, thường chịu ảnh hưởng của tâm lí bầy đàn. Mặt khác, do quy mô niêm yết nhỏ, lượng chứng khoán khả mại thấp, thông tin chưa minh bạch nên thị trường dễ bị các nhà đầu tư lớn, các NĐT nước ngoài thao túng, chi phối giá.
Thứ hai, rủi ro kinh doanh là cao. Rủi ro này là sự bất ổn giá CK do tác động của chính hoạt động kinh doanh của công ty, nó tiềm ẩn ở chất lượng tài sản kém, thiếu đồng bộ , ở năng lực quản trị, điều hành kém, ở thông tin thiếu minh bạch và chuẩn xác, ở hiện tượng tham nhũng, trốn thuế, …
Thứ ba, rủi ro về tài chính: Năm 2009, dòng vốn vào - ra thị trường rất mạnh mẽ, đó là do khối các CTCK “tung” các đòn bẩy tài chính hỗ trợ NĐT. Tại một số công ty chứng khoán, tỷ lệ sử dụng đòn bẩy có thể đạt 100-200%. Hình thức hỗ trợ rất đa dạng và thông thoáng, NĐT vốn ít thì được cầm cố từ 40-70% giá trị tiền hay cổ phiếu trong tài khoản để mua tiếp cổ phiếu.. Cuối tháng 6-2009, Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UB CKNN) đã phải lên tiếng yêu cầu các công ty chứng khoán thực hiện nghiêm túc các quy định, đồng thời ngừng ký các hợp đồng repo mới. Tác động từ văn bản của UB CKNN đã giúp giảm rủi ro trên TTCK nhờ hạn chế được những dòng tiền ngắn hạn theo kiểu T +, từ đó NĐT bớt lo lắng với các dòng tiền nợ, làm cho tính ổn định của thị trường tăng lên.
Thứ tư, rủi ro về lãi suất và tỷ giá: Mới đây, đồng loạt các NHTM đã tăng lãi suất cho vay lên trên 14%/năm. khiến cho các doanh nghiệp khó vay được nguồn vốn rẻ, chi phí vay vốn cao, điều này sẽ tác động lớn tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Về tỷ giá, thời gian qua, các DN gia tăng vay nợ USD do tỷ giá ổn định và chênh lệch lãi suất VND và USD đến 7- 8%. Tuy nhiên, gần khi tỷ giá tăng lên, thì khoản vay USD khi đến thời điểm trả, chi phí tính theo VND lại tăng lên đáng kể. Cả hai yếu tố lãi suất và tỷ giá đang đặt các DN giữa nhiều thế kẹt. Tuy nhiên, điều khó là không DN nào có thể chủ động hay dự báo trước được vấn đề này. Đó vẫn là những rủi ro lớn cho DN và khi DN khó khăn, kinh tế khó khăn thì chứng khoán khó lên điểm.
Ngoài ra, TTCKVN còn chịu rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của sàn giao dịch. Điển hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có tổ chức. Việc khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh đã đặt trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến động mới bất lợi trên thị trường, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định này. Khớp lệnh định kỳ có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây tình trạng cung - cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn giao dịch. Tuy vậy, việc khớp lệnh định kỳ này cũng có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư giảm bớt thiệt hại khi hủy lệnh đã đặt sau khi khớp lệnh đối với các chứng khoán còn dư chưa xử lý hết trong phiên giao dịch gần nhất mà họ tham dự. Trong khi đó, việc khớp lệnh liên tục, mặc dù cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua - bán nhiều hơn, nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung - cầu ảo trên thị trường chứng khoán, song có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư ở chỗ: khớp lệnh liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua- bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải chờ đến thời điểm định kỳ như kiểu khớp lệnh định kỳ. Trong nguyên tắc xử lý khớp lệnh liên tục này thì quyền ưu tiên luôn dành cho các lệnh mua có mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn. Trường hợp các lệnh mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh nhập vào hệ thống giao dịch trước. Đến đây, rủi ro cho nhà đầu tư có thể xuất hiện theo hai cách: hoặc rủi ro vì lệnh mua - bán của họ bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với các nhà đầu tư khác có lệnh tương tự nên không thực hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã đặt; hoặc rủi ro vì họ buộc phải mua - bán bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm hiện hành cao (khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt.
Câu 20: Thực trạng hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán tại Việt Nam
1. Thực trạng hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán tại Việt Nam
Lợi nhuận của các công ty chứng khoán chủ yếu dựa trên hoạt động tự doanh
Năm 2009
Từ đầu năm, hàng loạt công ty chứng khoán đã nộp đơn lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xin rút bớt nghiệp vụ tự doanh. Theo quy định, nghiệp vụ này yêu cầu vốn pháp định của doanh nghiệp là 100 tỷ đồng, một số tiền không nhỏ trong tình hình khó khăn hiện nay.
Cổ phiếu xuống dốc không phanh, thậm chí có những mã blue-chip giảm còn 50 - 70% giá trị sổ sách, khiến nhiều công ty chứng khoán lỗ nặng ở mảng tự doanh.
Để giảm bớt gánh nặng, nhiều công ty chứng khoán đã bắt đầu cắt giảm nhân sự, đóng cửa các đại lý nhận lệnh, thu hẹp diện tích hoặc chuyển sàn ra khỏi khu vực trung tâm để giảm bớt chi phí. Không ít công ty chứng khoán đang “ngán” cổ phiếu khi rút bớt hoạt động tự doanh chứng khoán khỏi các nghiệp vụ của mình. Đa phần trong số đó là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như Công ty CP chứng khoán Việt Tín (VTSS), Thái Bình Dương (PSC), Gia Anh (GASC), Mê Kông (MSC)...
Tuy nhiên đến nửa cuối năm 2009 thị trường chứng khoán có dấu hiệu phục hồi với sự tăng điểm của của chỉ số VN-Index ở mức 494,77 điểm (tăng gần 60 % so với mức 315,62 điểm năm 2008) , HNX-Index ở mức 168,17 điểm ( tăng gần 60% so với mức 105,12 điểm năm 2008).
Tình hình hoạt động của 1 số công ty như SSI với doanh thu hợp nhất của công ty đạt 1.121,56 tỷ đồng, trong đó doanh thu từ hoạt động môi giới chứng khoán đạt 196,20 tỷ, doanh thu từ hoạt động tự doanh đạt 603,68 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 804,07 tỷ đồng. Theo công ty chứng khoán VNDirect trong tổng doanh thu 359,91 tỷ đồng của công ty, trong đó mảng môi giới chứng khoán chiếm 63,65 tỷ, mảng tự doanh chiếm 244,08 tỷ đồng,lợi nhuận sau thuế đạt 211,70 tỷ đồng.
Năm 2010
Theo kết quả kinh doanh hợp nhất của CTCK Sài Gòn (SSI), 6 tháng đầu năm, tổng doanh thu hợp nhất của Công ty đạt 831,37 tỷ đồng, trong đó, doanh thu từ môi giới đạt 102,664 tỷ đồng, từ tự doanh đạt 466,78 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế đạt 423,65 tỷ đồng. Tính riêng quý II, SSI đạt doanh thu 381,3 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán 56,42 tỷ đồng, doanh thu tự doanh 152,2 tỷ đồng; lợi nhuận sau thuế 152,95 tỷ đồng.
Còn theo CTCK VNDirect (VND), quý II, trong tổng doanh thu 169,16 tỷ đồng của Công ty, mảng tự doanh chiếm 73,49 tỷ đồng, từ hoạt động môi giới chứng khoán chỉ đạt 33,1 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế đạt 90,12 tỷ đồng.
CTCK Sài Gòn - Hà Nội (SHS) đạt tổng doanh thu 128,042 tỷ đồng trong 6 tháng, bằng 26,22% kế hoạch cả năm. Lợi nhuận trước thuế đạt 85,624 tỷ đồng, hoàn thành 35,97% kế hoạch năm. Trong quý II, CTCK Sao Việt (SVS) đạt tổng doanh thu 13,72 tỷ đồng, trong đó doanh thu từ hoạt động môi giới là 3,84 tỷ đồng và từ tự doanh là 7,55 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm, SVS đạt doanh thu thuần 27,675 tỷ đồng, trong đó doanh thu từ môi giới là 6,93 tỷ đồng và từ tự doanh là 14,57 tỷ đồng.
2. Vai trò của công ty chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường Việt Nam thông qua tác động của nghiệp vụ tự doanh
Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường, nên CTCK có những lợi thế nhất định khi tiến hành hoạt động tự doanh như: CTCK có thể dự đoán diễn biến của thị trường, nắm được xu thế giao dịch; có nhân viên đại diện sàn, nên họ biết thông tin đầy đủ về quan hệ cung cầu đối với từng chứng khoán và không phải nghĩ đến phí giao dịch khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh.
Xét ở mức độ ảnh hưởng, hoạt động tự doanh của mỗi CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn được coi là hoạt động giao dịch của một nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp có những tác động nhất định tới giá cả của thị trường.
Do đó, CTCK có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường.
3. Khó khăn, thuận lợi và giải pháp
a. Khó khăn
-Đội ngũ nhân viên phân tích thị trường nghiệp vụ còn kém và kém nhanh nhậy với những biến động của thị trường.
-CTCK có chế độ phân cấp quản lý và khả năng ra những quyết định đầu tư còn bất hợp lý.
- Hệ thống chính sách chưa hợp lý.
- Kinh tế thế giới phát triển chậm chạp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế.
- Giá cổ phiếu giảm mạnh ảnh hưởng tới tâm lý của nhà đầu tư.
- Nhiều nhà đầu tư rút vốn chuyển sang hình thức đầu tư khác.
b. Thuận lợi
- Các công ty chứng khoán có lợi thế trong việc tiếp cận nguồn thông tin đầy đủ nhất của thị trường.
- Nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, thị trường chứng khoán phục hồi cổ vũ tinh thần nhà đầu tư.
- Chính phủ đưa ra các gói hỗ trợ lãi suất kịp thời để doanh nghiệp nói chung và công ty chứng khoán nói riêng có cơ hội tiếp cận nguồn vốn.
c. Gải pháp
Đối với nhà nước
Nghiên cứu điều chỉnh các chính sách đối với thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán:
- Hoàn chỉnh hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh
- Đầu tư cơ sở hạ tầng thông tin.
- Phát huy vai trò của ủy ban chứng khoán nhà nước.
Đối với công ty chứng khoán
- Nâng cao vốn chủ sở hữu.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, xét lại cơ cấu tổ chức hợp lý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tổng hợp câu hỏi và trả lời ôn tập cuối kì thị trường chứng khoán.doc