MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU . 2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1.1. Lịch sử hình thành thị trường tài chính 4
1.2. Khái niệm về thị trường tài chính: . . 7
1.3. Chức năng của thị trường tài chính: . 7
1.4. Phân loại thị trường tài chính: 8
1.5.Vai trò của thị trường tài chính. 11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1.Thị trường tiền tệ:
2.1.1. Thị trường vốn ngắn hạn: . 15
2.1.2. Thị trường liên ngân hàng: . 15
2.2. Thị trường hối đoái: 15
2.3. Thị trường chứng khoán: . .16
2.3.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam . 17
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế 24
3.2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế . .25
3.3. Thị trường tài chính góp phần đầy nhanh quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế . .26
CHƯƠNG 4 :ĐÁNH GIÁ VÀ ĐƯA RA GIẢI PHÁP:
4.1 Đánh giá: 28
4.1.1. Về thị trường tiền tệ . 28
4.1.2. Về thị trường chứng khoán: . 28
4.2 Giải pháp: . 28
KẾT LUẬN
1.Lời mở đầu :
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhu cầu về vốn luôn là vấn đề quan trọng được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt đầu vào một năm tài khóa mới. Để thấy rằng việc hình thành một thị trường vốn cho phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng thì việc tìm hiểu thị trường vốn hay thị trường tài chính (TTTC) ra đời là do đâu và nó có vai trò to lớn như thế nào đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng là điều hết sức cần thiết. Đó chính là lý do chung tôi tập trung nghiên cứu chuyên đề:“tổng quan về thị trường tài chính”.
TTTC là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường hay nói chính xác hơn, là nền kinh tế tiền tệ, ở đó, bên cạnh các thị trường khác, thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa “người cho vay đầu tiên” và “người sử dụng cuối cùng”, tạo ra vô số các giao dịch, và ở mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một nền kinh tế - như là sự lưu thông máu trong một cơ thể - một nền kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại.
Trong nền kinh tế thị trường cung và cầu gặp nhau tạo thành thị trường. Giá cả hàng hoá xuất hiện nhằm giải quyết trạng thái cân bằng cung và cầu là yêu cầu cấp bách. Hàng hoá trong thị trường tài chính là các công cụ tài chính. Đối với mỗi chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn để đầu tư cho phát triển kinh doanh, phát triển sản xuất là yếu tố sống còn, vì vậy vốn có vị trí to lớn trong nền kinh tế.
Trong mối quan hệ tương quan với các thị trường khác, TTTC có vị trí là thị trường khởi điểm cho các loại thị trường, nó có tác dụng chi phối điều hành và xâm nhập vào các loại thị trường khác. Biết rõ mối quan hệ giữa thị trường tài chính và các thị trường khác, chính phủ có thể giải quyết nạn khan hiếm vốn và điều hành quản lý kinh tế thị trường thông qua thị trường tài chính.
TTTC nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động kinh doanh, sản xuất của nền kinh tế. Tạo ra tốc độ vòng luân chuyển vốn nhanh, góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Tạo điều kiện cho sự thành lập các tổ chức kinh tế mới.
TTTC tạo ra cơ hội đầu tư và đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội. Các tổ chức kinh tế và người dân thông qua TTTC sử dụng hợp lý nguồn vốn để đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau để bảo đảm và tăng nguồn vốn.
TTTC giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả.
Có thể nói, TTTC là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua TTTC mà hình thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn, trung hạn và dài hạn.
Ở Việt Nam, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,gia nhập WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự đổi mới cả về mặt nhận thức và thực tiễn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thi trường tài chính là hết sức quan trọng, nó sẽ giúp cho các nhà đầu tư hiểu rõ loại thị trường đặc biệt này, từ đó nắm bắt được tầm quan trọng, ảnh hưởng của nó đối với hoạt động SXKD để có kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12313 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan về thị trường tài chính, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rỗi có cơ hội đầu tư như nhau và được tự do tham gia vào thị trường để tìm kiếm những nơi đầu tư có suất sinh lợi cao nhất, tạo thành thói quen tích lũy tiền tệ một cách thường xuyên hơn, là một nguồn đầu vào không thể thiếu của thị trường. Nếu thị trường không kích thích được người dân tích lũy và tham gia vào thị trường như là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế thì thị trường đó sẽ không thể hoạt động tốt. Đồng thời, nhà đầu tư trên thị trường khi tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đầu tư phải nhận thức được việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất, có hiệu suất sử dụng đồng vốn cao nhất để bảo toàn vốn, sinh lời và tích lũy. Chính vì vậy, thị trường tài chính có chức năng nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, kích thích đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để tăng hiệu quả đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là làm gia tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Tính thanh khoản là tính chất dễ dàng chuyển hóa các tài sản tài chính thành tiền mặt và được thực hiện ở thị trường thứ cấp, là thị trường mua bán, giao dịch cổ phiếu và các giấy tờ có giá đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Tính thanh khoản ở thị trường tài chính càng cao thì càng thu hút nhiều chủ thể tham gia vào thị trường và giúp chủ sở hữu các tài sản tài chính dễ dàng chuyển đổi danh mục đầu tư theo yêu cầu. Do đó, mỗi thị trường khác nhau có tính thanh khoản khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển các định chế tài chính của thị trường ấy. Nếu các cơ chế của thị trường thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính lưu thông thông suốt. Ngoài ra, thị trường tài chính còn có chức năng định giá tài sản tài chính, phân phối vốn trên thị trường theo tín hiệu của thị trường.Tùy thuộc vào các chức năng khác nhau của thị trường cũng như các tiêu chí phân loại khác nhau, thị trường tài chính cũng có nhiều cách phân loại khác nhau. Nhưng tựu trung lại, thị trường tài chính thường có ba cách phân loại cơ bản: theo thời hạn, tính chất luân chuyển vốn và theo cơ cấu của thị trường.
1.4. Phân loại thị trường tài chính:
Căn cứ theo thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành: thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán. - Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn. Các chứng từ có giá ngắn hạn như: tín phiếu Kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa các Ngân hàng, thỏa thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, … Đây là thị trường nhằm thỏa mãn những nhu cầu vốn trong ngắn hạn. Căn cứ theo mục đích này của thị trường mà không cần quan tâm đến thời hạn của các chứng từ có giá, khái niệm trên được hiểu theo nghĩa của thị trường mở thì thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá. - Thị trường hối đoái là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế. Thị trường ngoại hối là một cơ chế mà nhờ đó giá trị tương đối của các đồng tiền quốc gia được xác lập. Đặc điểm của thị trường ngoại hối là tiền được đổi lấy tiền, đây là thị trường thực sự và tất yếu mang tính quốc tế; cứ khi nào mà dân chúng ở những khu vực đồng tiền khác nhau còn kinh doanh với nhau thì các giao dịch ngoại hối còn rất cần thiết. Ngày nay, thị trường hối đoái mang tính toàn cầu nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp trong nước đều phải tham gia các thị trường hối đoái để mua - bán, vay - cho vay ngoại tệ. Các nghiệp vụ trên thị trường hối đoái phần lớn mang tính chất ngắn hạn (không quá một năm) nên thị trường này được xem là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Khi đó, thị trường tài chính chỉ bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. - Thị trường chứng khoán là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá trung hạn và dài hạn. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng nhất của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành; qua đó, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Sản phẩm tài chính trên thị trường chứng khoán là các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác như: chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phát sinh - hợp đồng tương lai, quyền chọn, quyền mua cổ phiếu, chứng quyền. Thị trường chứng khoán tập trung vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế. Do đó, nó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. Căn cứ vào cơ cấu của thị trường, thị trường tài chính được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. - Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành lần đầu các chứng từ có giá để huy động và tập trung vốn. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp có đặc điểm là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành, tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế. Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thường là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, Công ty phát hành, Tập đoàn bảo lãnh phát hành, …Thị trường sơ cấp thường diễn ra trong một thời gian nhất định. - Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán trao đổi các chứng từ có giá đã phát hành lần đầu. Trên thị trường này, các nhà đầu tư chuyển nhượng quyền mua bán chứng khoán và điều đó làm cho chứng khoán đã phát hành có tính thanh khoản. Khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành nên luồng tiền chỉ vận chuyển giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá giao dịch chứng khoán do cung - cầu trên thị trường quyết định. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị trường sơ cấp là cơ sở và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường thứ cấp; vì đó là nơi cung cấp hàng hóa chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường sơ cấp; vì nếu không có thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán thì rất khó để phát hành và thu hút nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trên thực tế, tổ chức thị trường không phân biệt đâu là thị trường sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp. Vì tại một thị trường có thể cùng diễn ra đồng thời hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành và chứng khoán mua bán lại. Điều cần quan tâm là phải coi trọng thị trường sơ cấp vì đây là thị trường tạo vốn và có cơ chế giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp để bảo vệ thị trường tài chính ổn định. Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn. - Thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán nợ. Thực chất các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, …) là các thỏa thuận có tính hợp đồng. Trong đó, người vay vốn thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoản thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới kỳ hạn cuối cùng thì thanh toán giá trị gốc. Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ nợ được chia làm ba loại khác nhau: - Công cụ nợ ngắn hạn. - Công cụ nợ trung hạn. - Công cụ nợ dài hạn.Quan hệ vay mượn dựa trên công cụ nợ thường ấn định trước thời hạn và lãi suất cố định. Người sở hữu công cụ nợ không có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành của bên vay. - Thị trường công cụ vốn là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán vốn. Vốn được huy động trên thị trường bằng việc bán cổ phần, chứng chỉ quỹ đầu tư, …Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông, họ góp vốn vào các doanh nghiệp cổ phần trên cơ sở gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được chia cổ tức dựa trên kết quả kinh doanh theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ. Chính vì vậy mà giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ nợ nhưng cổ tức có thể cao hoặc thấp hơn lãi trái phiếu, vì nó tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng họ có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành doanh nghiệp vì họ là chủ sở hữu. Người giữ chứng khoán vốn có nhiều rủi ro hơn người giữ chứng khoán nợ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Người giữ chứng khoán nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước.Ngoài ra, trong cách phân loại này, còn có thị trường công cụ phái sinh. Đây là thị trường phát hành và mua bán các chứng khoán phát sinh, như: chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng tương lai, …
Ngày nay, một thị trường tài chính không nhất thiết phải có không gian vật lý. Vì vậy, thị trường tài chính còn được phân theo thể thức sau:- Thị trường thô sơ và thị trường vi tính hóa.- Thị trường thường trực và thị trường huy động.- Thị trường chứng khoán đã đăng ký và thị trường lưu lượng chứng khoán.
Mỗi cách phân loại thị trường tùy thuộc vào tiêu chí mà chúng ta muốn hướng đến. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thị trường tài chính tại Việt Nam cũng đã được hình thành và phát triển. Nhằm đánh giá thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, tiểu luận này chỉ tập trung phân tích trên ba thị trường trong phân loại theo thời hạn luân chuyển vốn. Đó là thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán.[right][size=1][url=]Copyright © N2C : Ngôi Nhà Chung của Học sinh - Sinh viên - Posted by fairy_n6[/url][/size][/right]
1.5.Vai trò của thị trường tài chính.
Vai trò đầu tiên : và cũng là quan trọng nhất của thị trường tài chính là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lời đến những người có cơ hội đầu tư sinh lời.
Để thực hiện được vai trò này, thị trường phải tạo ra các kênh huy động vốn từ nơi thừa, như: cá nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tổ chức đoàn thể xã hội, Chính phủ, … ở trong và ngoài nước để chuyển sang các nhà đầu tư thiếu vốn, như: các đơn vị kinh tế, Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình… bằng hình thức tài trợ trực tiếp hoặc tài trợ gián tiếp:
Tài trợ trực tiếp:
Người cần vốn phát hành các loại CK lần đầu ( CK khởi thủy) để huy động nguồn vốn nhàn rỗi của người có vốn nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình. Ở đây, quan hệ giữa người có vốn và người cần vốn không phải qua bất kì trung gian nào, nguồn tài chính vận động thẳng từ người thừa vốn đến người thiếu vốn trong khi CK vận động theo chiều ngược lại. Do đó mà vốn được lưu chuyển nhanh chóng hơn nhiều so với thông qua các tổ chức tài chính trung gian, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các chủ thể.
Tài trợ gián tiếp:
Các trung gian tài chính phát hành CK thứ cấp để huy động các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của những người có vốn, sau đó mới dùng số tiền này mua lại CK khởi thủy của những người thiếu vốn. Ở đây, nguồn tài chính không vận động thẳng từ người thừa vốn sang người thiếu vốn mà phải qua các trung gian nhất định.
Vai trò thứ hai:Thị trường tài chính thúc đẩy nâng cao việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư.
Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản thân mình, bên cạnh đó người cho vay cũng phải cân nhắc, lựa chọn dự án hoạt động hiệu quả cao, an toàn, ít rủi ro với khả năng sinh lãi cao nhất trước khi đầu tư vào đó. Chính cái sân chơi với đích đén là đầu tư và tiết kiệm để sinh lời và tích lũy mà TTTC tạo ra, đã kích thích các nhà đầu tư tích cực tính toán trong kinh doanh vì mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Với sự linh hoạt của thị trường tài chính, người có tiền nhàn rỗi có nhiều cơ hội để lựa chọn hình thức và thời điểm đầu tư thích hợp hơn, như: dễ dàng bán các CK đã mua để rút vốn và thực hiện đầu tư vào các CK khác, tức là, có thể lưu chuyển vốn từ nơi kinh doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh có hiệu quả, tạo ra sự luân chuyển vốn một cách linh hoạt trong nền kinh tế.
Vai trò thứ ba:
Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới đều tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính. Việc hình thành và phát triển thị trường tài chính của mỗi quốc gia sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình hội nhập của mỗi quốc gia, mở ra khả năng to lớn cho sự hợp tác và phát triển. TTTC sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư mua, bán CK mà không cần phải qua các thủ tục phức tạp và không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Như vậy TTTC bổ sung thêm hình thức đầu tư của nước ngoài vào trong nước, tận dụng được nguồn vốn của nước ngoài, cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước.
Vai trò thứ tư.
TTTC đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ của Nhà nước trong việc điều hoà các hoạt động kinh tế- xã hội.
Bằng việc sử dụng các công cụ của TTTC cùng với cơ chế hoạt động của thị trường, Nhà nước có thể thực thi có hiệu quả các chính sách tài chính và tiền tệ như:
Thông qua thực hiện chính sách thị trường mở bằng việc mua, bán chứng khoán của Chính phủ, thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu của các NHTM, Nhà nước có thể thực hiện việc điều hành lưu thông tiền tệ.
TTTC là nơi Nhà Nước tiến hành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Điều này sẽ giúp Nhà nước giải quyết bội chi NSNN, mà không phải phát hành tiền, từ đó ngăn chặn lạm phát, kiềm chế lạm phát giúp thực hiện cả chính sách tài chính và tiền tệ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1.Thị trường tiền tệ:
2.1.1. Thị trường vốn ngắn hạn:(Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ)
Nhìn chung, thị trường này chưa thực sự phát triển và Ngân hàng Nhà nước (NHTW) chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
2.1.2. Thị trường liên ngân hàng:
Hoạt động Ngân hàng hiện đang nóng với những diễn biến trái chiều và ba vấn đề nổi cộm: các Ngân hàng thương mại khan hiếm tiền đồng Việt Nam, cung ngoại tệ trong nền kinh tế tăng cao và sức ép dư luận về chống lạm phát từ việc cung ứng tiền ra lưu thông. Ba vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đáp ứng nhu cầu về tiền đồng Việt Nam, cũng như cung ngoại tệ quá lớn và tăng mạnh, thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phải đẩy mạnh mua ngoại tệ vào cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông. Song cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông thì lại gặp phải sức ép của dư luận về chống lạm phát đang tăng cao từ góc độ tiền tệ. Càng về cuối năm khối lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam càng tăng mạnh, lớn nhất đó là kiều hối. Cũng về thời điểm cuối năm, các NHTM cổ phần và doanh nghiệp cổ phần gấp rút phát hành cổ phiếu mới để hoàn thành kế hoạch năm 2007 về tăng vốn điều vốn lệ theo nghị quyết đại hội cổ đông biểu quyết nhất trí từ đầu năm. Cổ đông là người Việt Nam ở nước ngoài, cổ đông nước ngoài phải chuyển tiền về Việt Nam để góp vốn. Một bộ phận khác người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về cho người thân vay mượn hoặc đầu tư hộ vào các loại trái phiếu khác nhau. Bên cạnh đó là tiền từ nước ngoài chuyển về đầu tư vào thị trường trường bất động sản. Một nguồn vốn ngoại tệ quan trọng khác đó là vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thường sôi động vào cuối năm. Số vốn này bao gồm cả việc mua chứng khoán trên Sở GDCK TP.HCM, Trung tâm GDCK Hà Nội, cả số vốn mua cổ phần trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược của các doanh nghiệp Việt Nam. Tất cả số ngoại tệ đó phải chuyển sang nội tệ, tức là đồng Việt Nam. Song NHNN Việt Nam với tư cách người mua bán cuối cùng can thiệp trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thì hạn chế mua vào. Những nguồn vốn ngoại tệ lớn tiếp theo đó là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA và nguồn thu từ khách quốc tế chi tiêu tại Việt Nam.Về kim ngạch xuất nhập khẩu, đến hết tháng 11/2007, Việt Nam đạt kim ngạch nhập khẩu 54,11 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu tăng 20, nhập siêu 9,0 tỷ USD và dự báo cả năm 2007 cũng dừng ở mức 9,0 tỷ USD. Do nhập siêu nên thu hút một lượng vốn ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên, cung ngoại tệ vẫn dồi dào thể hiện tập trung ở thặng dư cán cân vãng lai, đến nay chưa có con số thống kê được công bố chính thức. Nguồn thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho hay, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007, NHNN đã mua vào 9 tỷ USD để tăng quỹ dự trữ, tương ứng cung ứng ra lưu thông 144.000 tỷ đồng. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, phát biểu tại cuộc hội thảo hai Luật Ngân hàng, tổ chức sáng ngày 29/11/2007 tại TP.HCM thì con số này của cả năm 2007 không thấp hơn 12 tỷ USD. Như vậy số tiền đồng Việt Nam cung ứng ra lưu thông qua kênh mua ngoại tệ lên tới gần 200.000 tỷ đồng. Với việc mua vào một khối lượng lớn USD đã làm cho quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia hiện nay lên tới 20 tỷ USD.Song mua khối lượng lớn như vậy nhưng lượng cung USD hiện nay trên thị trường vẫn đang rất lớn, nếu không mua vào, tỷ giá VND/USD giảm mạnh và các NHTM trở nên tình trạng thừa vốn USD, nhưng khan hiếm đồng Việt Nam.Cũng do tình trạng thiếu hụt đồng Việt Nam, nên có thời điểm lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã lên tới 12%/năm, thậm chí có thời điểm lên tới 18%/năm, cao hơn lãi suất cho khách hàng vay vốn. NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn cung ứng hơn 10.000 tỷ đồng cho các NHTM, nhưng không thấm gì so với nhu cầu khan hiếm tiền đồng Việt Nam hiện nay của thị trường tiền tệ. Cũng chính do tình trạng đó, nên hiện nay các NHTM đang đẩy mạnh huy động vốn trong nền kinh tế bằng nhiều biện pháp khác nhau, như tăng chi phí khuyến mãi, tăng lãi suất, từ đó tạo áp lực tăng lãi suất cho vay và từ đó góp phần tạo thêm áp lực gia tăng lạm phát.
Bởi vậy, trong điều hành chính sách tiền tệ cần có chiến lược dài hạn, chủ động hơn, đảm bảo khoa học và sát thông lệ quốc tế. Cần tham khảo và học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực, như: Trung Quốc, Philippines,… có điều kiện giống Việt Nam nhưng họ không lúng túng như nước ta.
2.2. Thị trường hối đoái:
Tỷ giá hối đoái sụt giảm gần đây chủ yếu do áp lực giảm cung ứng tiền VND trong lưu thông để kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, nhiều định chế tài chính lớn đều đưa ra nhận định, khả năng tỷ giá VND/USD sẽ theo chiều hướng đi xuống trong thời gian từ nay đến hết năm 2007. Tuy nhiên ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng, tỷ giá hối đoái sẽ không mất hơn 0,5% trong những tháng còn lại của năm (từ đầu năm đến nay tỷ giá giảm 0,5%). NHNN sẽ có động thái can thiệp khi đồng USD giảm dưới mức 16.000 VND/USD. Thị trường đang xuất hiện tình trạng khan hiếm tiền đồng, tỷ giá sụt giảm. Vậy tại sao NHNN vẫn chưa có động thái tích cực trong việc hút USD về?Đây là một bài toán đã được NHNN tính toán, vì nếu tiếp tục tung VND hút USD về thì lượng tiền trong lưu thông sẽ gia tăng, kéo theo lạm phát. Điều này cho thấy, nếu NHNN không thực hiện chủ trương trên, tốc độ lạm phát còn cao hơn. Nhiều khả năng, tốc độ lạm phát của Việt Nam trong năm nay sẽ cao hơn mức tăng trưởng của nền kinh tế, khó đạt được mục tiêu mà Chính phủ và Quốc hội đã đề ra. Như vậy, để kiềm chế lạm phát buộc NHNN phải hạn chế việc đưa tiền ra. Theo đó, ngoài các chính sách khác, NHNN đành giảm hoặc ngưng mua USD. Trên thị trường, lãi suất huy động VND đang chuyển động tăng do khan hiếm VND, kéo theo lãi suất đầu ra tăng. Hậu quả là giá cả tăng, doanh nghiệp phải điều chỉnh giá bán đảm bảo lợi nhuận, lúc này lạm phát sẽ còn cao hơn? Việc khan hiếm tiền đồng chỉ là nhất thời. Trên thực tế, hiện còn nhiều ngân hàng đang dư vốn khả dụng và chưa giải ngân kịp. Điều này được chứng minh, gần đây nhiều nhà băng phải chạy đua giải ngân để đảm bảo chỉ tiêu cuối năm, trong đó đáng chú ý là cho vay mua bất động sản; gia tăng hạn mức, thời gian, đồng thời giảm lãi suất đầu ra để thu hút khách hàng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam năm nay dự báo sẽ lên đến 30 - 40%. Như vậy, nếu tăng thêm cung tiền, khả năng tín dụng tăng trưởng nóng còn cao hơn sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế. Lãi suất qua đêm có những thời điểm lên đến 16 - 17%/năm và hiện vẫn duy trì trên mức 10%/năm, cao gần gấp 3 lần so với trước, thưa ông? Về căn bản, mức tăng trưởng tín dụng đang gia tăng nóng, tính thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng chỉ biến động trong một thời gian ngắn. Có thể gần đây, nhu cầu thanh toán hàng hóa của khách hàng tăng mạnh nên họ cần đến vốn ngân hàng. Từ đó, các ngân hàng đổ xô vay trên thị trường liên ngân hàng khiến lãi suất qua đêm biến động. Nhưng sau Tết Dương lịch, tính thanh khoản của thị trường liên ngân hàng sẽ ổn định trở lại. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc dự báo và quản trị rủi ro thanh khoản của một số ngân hàng còn yếu kém. Nếu các ngân hàng xây dựng được bảng cân đối tài sản đến từng ngày, chắc chắn sẽ không xảy ra hiện tượng khan hiếm tiền đồng như thời gian gần đây. Tỷ giá hối đoái sẽ biến động như thế nào trong thời gian tới và NHNN sẽ có động thái điều chỉnh vào lúc nào? Với tỷ giá hối đoái, nếu đã biến động thì sẽ mạnh hơn cả lãi suất, có thể lên đến 5 - 10%. Nếu kinh doanh trên thị trường hối đoái mà không có dự báo trước dẫn đến lỗ là chuyện bình thường. Người mua cuối cùng bao giờ cũng là NHNN. Nếu thấy cần, NHNN sẽ mua vào và ngưng mua khi thấy không cần thiết. Tuy nhiên, khi tỷ giá xuống mức 16.000 VND/USD sẽ có điều chỉnh ngay, vì nếu để tỷ giá xuống thấp sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, nhiều khả năng tỷ giá chỉ có thể sụt giảm xuống mức xấp xỉ 16.000 VND/USD. Hiện nay mức giảm của tỷ giá là 0,5%, nên mức tối đa chỉ xuống khoảng 1% cho cả năm 2007. Thực tế, NHNN có mua vào USD và lượng USD hút về từ đầu tháng 8 đến nay đạt gần 6 tỷ USD. Nhưng do vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp vào Việt Nam tăng nhanh, cung dội, trong khi cầu yếu đã góp phần làm tỷ giá suy giảm.
2.3. Thị trường chứng khoán:
2.3.1. Những thành tựu đạt được của thị trường chứng khoán Việt NamVề tổ chức và phát triển thị trường: Thị trường chứng khoán có tổ chức phá triển nhanh về quy mô, tổng mức vốn hóa trên thị trường ngày càng tăng. Doanh nghiệp và chính phủ đã sử dụng thị trường chứng khoán như một kênh đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Khung pháp lý, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán từng bước được hoàn thiện. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường, hoạt động sản xuất kinh doanh có bước phát triển khá về quy mô, doanh số và lợi nhuận. Thị trường chứng khoán đã làm gia tăng uy tín của công ty niêm yết. Thị trường chứng khoán góp phần tạo sự thành công của chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước kết nối với niêm yết và đăng ký giao dịch. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện nâng cao trình độ quản lý, đều hành hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực chứng khoán. Góp phần đa dạng hóa va phát triển các định chế tài chính trung gian. Thị trường chứng khoán giúp đẩy mạnh việc phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong công chúng.Thị trường chứng khoán từng bước thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế.
2.3.2. Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán chưa thật sự khẳng định được vai trò của một kênh huy động vốn chủ lực trong nền kinh tế hiện nay. Môi trường pháp lý chưa có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển, thể chế cho hoạt động thị trường còn chưa hoàn chỉnh.Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khoán, ngân hàng trong chính sách điều hành quản lý thị trường còn nhiều hạn chế.Quy mô thị trường chứng khoán còn nhỏ, hàng hóa giao dịch với số lượng chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Chỉ số VN-Index chưa thực sự trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế. Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường chứng khoán còn mất cân đối gây nên những biến động cho thị trường. Thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự ổn định, vững chắc, kể cả hoạt động giao dịch mà nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc vào tâm lý đầu tư ngắn hạn. Tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường tự do còn rộng. Hệ thống các tổ chức trung gian và hổ trợ thị trường còn hạn chế về năng lực tài chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ. Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của các thị trường giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán còn bất cập trước sự phát triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại. Khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do công nghệ tin học, một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn yếu. Thị trường chứng khoán còn thiếu khả năng tiếp cận với thị trường chứng khoán thế giới trong xu thế hội nhập. Chưa có kinh nghiệm trong quản lý chính sách. Từ thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, để củng cố và phát triển, chúng ta phải thực sự nâng cao vai trò của thị trường tài chính trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Với tốc độ hội nhập và toàn cầu hoá ngày càng cao hiện nay, một đất nước muốn tồn tại và phát triển không còn sự lựa chọn nào khác là hội nhập, nếu không sẽ lạc hậu rồi suy tàn. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tác động của nền kinh tế thị trường, cho nên, từ khi bắt đầu đổi mới đất nước đến nay (ĐH VI năm 1986), chúng ta đã tích cực thực hiện chính sách mở cửa, tham gia các tổ chức thương mại, Ngân hàng trong khu vực và thế giới: WTO, ASEAN, WB, IMF, ADB…
Dưới ảnh hưởng của TTTC trong nền kinh tế thị trường, nhịp độ kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mạnh mẽ, đặc biệt là trong đầu tư và tài chính. Tất cả nhờ vao vai trò to lớn của TTTC.
Hiện nay, Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao trong vòng 5 năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư đóng góp khoảng 50% - 55% tăng trưởng kinh tế hằng năm. Bởi vậy, huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là một khâu cốt yếu của toàn bộ hệ thống các ngân hàng nước ta.
Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh nghiệp và người sản xuất còn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng.
Để có vốn cho vay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng.
Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể: vốn huy động của hệ thống Ngân hàng
Năm 2004 tăng 26,5% so với năm trước
năm 2005 tăng 25,53%
Năm 2006 tăng 17,7%
Năm 2007 tăng 24,94%
Năm 2008 tăng 30,39%
Năm 2009 tăng 18%
Và 6 tháng đầu năm 2010 tăng hơn 12%.
Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm trên 70% thị phần huy động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm tốn, nhưng đang có xu hướng tăng nhanh.
Bên cạnh các kênh huy động vốn nói trên hệ thống ngân hàng còn là đầu mối đàm phán và ký kết, tổ chức tiếp nhận vốn và cho vay nhiều dự án của WB, ADB,... về điện lực, giao thông nông thôn, cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo.
Huy động vốn của ngân sách chủ yếu bằng hình thức phát hành tín phiếu Kho bạc nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, với sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư...; phát hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước, phát hành công trái và vốn của Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện, vốn của Bảo hiểm xã hội chuyển cho Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển). Thêm vào đó còn có nguồn vốn ODA do Ngân hàng Phát triển cho vay lại.
Trong giai đoạn 2004 - 2009, Chính phủ đã phát hành khoảng gần 60.000 tỉ đồng trái phiếu; trong đó 50.000 tỉ đồng phát hành qua Kho bạc Nhà nước, 8.000 tỉ đồng phát hành qua đấu giá trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh...
Cuối năm 2010, Chính phủ cũng lần đầu tiên phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế, thời hạn trái phiếu là 10 năm. Giá bán cuối cùng của trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài bằng 98,223% mệnh giá, với lãi suất là 6,875%/năm, tính ra theo lãi suất của nó, lãi suất của 100% mệnh giá trái phiếu là 7,125%/năm. So với một số nước có mức độ tín nhiệm tương đương Việt Nam thì lãi suất trái phiếu của Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, lãi suất trái phiếu cùng kỳ hạn của Phi-lip-pin là 8,075%/năm, của In-đô-nê-xi-a là 7,75%/năm. Toàn bộ số vốn phát hành trái phiếu Chính phủ nói trên được Bộ Tài chính để Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam vay lại đầu tư cho các dự án đóng tàu.
Đến ngày 31-12-2005, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tham gia với tư cách "vốn mồi" để thực hiện trên 6.600 dự án thuộc đối tượng hỗ trợ theo quy định của Chính phủ với tổng số vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký khoảng 160.000 tỉ đồng, đã giải ngân gần 110.000 tỉ đồng, dư nợ 79.578 tỉ đồng. Cùng với hình thức hỗ trợ trực tiếp, hình thức bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng được đẩy mạnh. Đến nay đã có 1.846 dự án được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với tổng số vốn hỗ trợ theo hợp đồng là 1.550 tỉ đồng và 5 dự án được bảo lãnh tín dụng đầu tư với tổng số vốn gần 30 tỉ đồng; với hai hình thức hỗ trợ gián tiếp này đã tạo vốn để huy động hàng chục ngàn tỉ đồng từ các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng cho đầu tư phát triển.
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động gần 7.000 tỉ đồng trái phiếu địa phương; riêng Hà Nội cũng huy động được hàng trăm tỉ đồng qua phát hành trái phiếu xây dựng cầu Thanh Trì. Đây là một giải pháp rất quan trọng để huy động vốn cho đầu tư phát triển, giảm sức ép về cung ứng vốn từ hệ thống ngân hàng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để giảm sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng và được phép của Chính phủ, một số loại trái phiếu doanh nghiệp cũng được phát hành để huy động vốn trong xã hội, như: trái phiếu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, trái phiếu của Tổng công ty Dầu khí... Tính đến nay, số vốn trái phiếu doanh nghiệp phát hành cũng lên tới vài nghìn tỉ đồng.
Một kênh huy động vốn quan trọng khác là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hình thức bán đấu giá và bán cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hóa mà cổ phiếu có tính thanh khoản cao, lợi nhuận hấp dẫn, như: Vinamilk, Công ty Cao su miền Nam, một số nhà máy điện... đã thu được hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước. Đó là chưa kể hàng chục ngàn tỉ đồng đã được huy động trong doanh nghiệp tư nhân.
Đối với vai trò nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thì, các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn lực tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngoài.
Đối với nguồn lực tài chính trong nước, sự phát triển đa dạng các dịch vụ về tài
chính làm cho những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi mà không còn là tình trạng đưa vào cất trữ ở nhà như cách mà người ta gọi là “tiết kiệm ngây thơ” của trước đây. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để.
Đối với nguồn lực tài chính bên ngoài, các chính sách khơi thông luồng tiền vào và ra bằng cơ chế giám sát hơn góp phần thu hút nguồn lực tài chính lớn của các tập đoàn nước ngoài.
Khi TTTC phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai, minh bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, TTTC có vai trò kích thích việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Như đã trình bày ở trên, với tốc độ tự do hóa toàn cầu hiện nay, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam hiện nay đang tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau:
- Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành trên thị trường phải do thị trường quyết định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế. Tự do hóa lãi suất thường gắn liền với nó là tự hóa tỷ giá hối đoái, có tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế.
- Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt: là thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Việc áp dụng cơ chế này là phù hợp với thị trường tài chính hiện tại của Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là điều chỉnh tỷ giá linh hoạt tương ứng với một rổ tiền tệ, gồm các đồng tiền tham gia vào thương mại với Việt Nam hơn là neo chặt vào dollar Mỹ. Mấu chốt của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá dao động trong một giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam phải được tiến hành từng bước và gắn với tự do hóa các lĩnh vực khác như:
- Tự do hóa giao dịch vãng lai
- Tự do hóa giao dịch vốn
- Thực hiện chuyển đổi đồng bản tệ
Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với các giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính qua biên giới của công dân nước sở tại và nước ngoài; các luồng vốn nước ngoài được tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là lớn mạnh và đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng tiền chuyển đổi tự do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển đổi sang những ngoại tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế theo tỷ giá hối đoái thị trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc gia.
Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường có thể hòa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội nhập quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. Những vùng, miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương mại của nhau thông qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài chính được tự do hóa. Các tổ chức, công dân của một nước có thể đầu tư, giao dịch, mua bán hàng hoá và dịch vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu như nền tài chính của hai nước được liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên đều được thể hiện trên thị trường. Vì thế mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu. Để đáp ứng cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng phải có sự hội nhập quốc tế sâu rộng vào thị trường thế giới. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng phải thực sự có tiềm lực tài chính và uy tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của các Ngân hàng hay tổ chức tài chính là yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính, ngoài thực hiện các hoạt động và dịch vụ, yếu tố con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là người ở đó, cũng được thể hiện thông qua quá trình giao dịch, hoạt động trên thị trường. Từ đó mà tính văn hóa, xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội nhập, đan xen vào nhau.
Ta đã biết, sự ra đời của TTTC là để giải quyết mâu thuẫn giữa cung cầu về nguồn tài chính, và chính sự linh hoạt mà thị trường này tạo ra trong sự luân chuyển vốn đẩy đã nhanh quá trình tự do hoá và hội nhập, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao trong vòng năm năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
3.1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế
Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng thương mại là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ thống Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng huy động vốn của mọi thành phần kinh tế trong xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, …Lãi suất huy động trên thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là lãi suất thực dương, tức là phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho hệ thống Ngân hàng. Từ nguồn vốn huy động này, các Ngân hàng thương mại cung ứng một lượng vốn dồi dào cho nền kinh tế thông qua hoạt động cấp tín dụng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai. Mặt khác, nhà đầu tư cần vốn chỉ phải bỏ ra chi phí rất thấp nhưng có thể huy động nguồn vốn lớn, tức thì, không bị bó hẹp như cơ chế cho vay. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào sự thuyết phục của nhà đầu tư từ những dự án kinh tế có sức sinh lời cao. Điều quan trọng là cần phải khơi thông cơ chế hoạt động cho thị trường chứng khoán phát triển.
3.2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế Các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn lực tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngoài. Đối với nguồn lực tài chính trong nước, cần phát triển đa dạng các dịch vụ về tài chính để những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi hơn là đưa vào cất trữ. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để. Đối với nguồn lực tài chính bên ngoài, cần có chính sách khơi thông luồng tiền vào và ra bằng cơ chế giám sát hơn là các biện pháp quản lý hành chánh, để thu hút nguồn lực tài chính lớn của các tập đoàn nước ngoài.Thị trường tài chính phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai, minh bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, thị trường tài chính có vai trò kích thích việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
3.3. Thị trường tài chính góp phần đầy nhanh quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốctế Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính.Đối với tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau: Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với các giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính qua biên giới của công dân nước sở tại và nước ngoài; các luồng vốn nước ngoài được tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là lớn mạnh và đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng tiền chuyển đổi tự do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển đổi sang những ngoại tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế theo tỷ giá hối đoái thị trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc gia. Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường có thể hòa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội nhập quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. Những vùng, miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương mại của nhau thông qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài chính được tự do hóa. Các tổ chức, công dân của một nước có thể đầu tư, giao dịch, mua bán hàng hoá và dịch vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu như nền tài chính của hai nước được liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên đều được thể hiện trên thị trường. Vì thế mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu. Để đáp ứng cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng phải có sự hội nhập quốc tế sâu rộng vào thị trường thế giới. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng phải thực sự có tiềm lực tài chính và uy tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của các Ngân hàng hay tổ chức tài chính là yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính, ngoài thực hiện các hoạt động và dịch vụ, yếu tố con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là người ở đó, cũng được thể hiện thông qua quá trình giao dịch, hoạt động trên thị trường. Từ đó mà tính văn hóa, xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội nhập, đan xen vào nhau.
CHƯƠNG 4 :ĐÁNH GIÁ VÀ ĐƯA RA GIẢI PHÁP:
4.1 Đánh giá:
4.1.1. Về thị trường tiền tệ.
Nhìn chung thị trường này chưa phát triển và NHNN, chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHNN ít có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
4.1.2. Về thị trường chứng khoán:
Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa.
4.2 Giải pháp:
- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, đưa các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- NHNN và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm; có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu.
- NHNN có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này
- NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế.
Kết luận:
Việc hình thành thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước. Đây là thị trường tiền đề cho mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội được diễn ra, bắt đầu từ việc tạo lập nguồn vốn đến nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và cuối cùng là hội nhập và nền kinh tế thế giới. Cho nên, thị trường tài chính cần được xây dựng trên những nền tảng vững chắc, có cơ chế giám sát phù hợp nhằm hạn chế những tác hại, rủi ro khi có khuảng hoảng tài chính.[right][size=1][url=]Copyright © N2C : Ngôi Nhà Chung của Học sinh - Sinh viên - Posted by fairy_n6[/url][/size][/right]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tổng quan về thị trường tài chính, thực trạng và giải pháp.doc