Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của dân tộc và nhân loại, sự biến đổi một số thành phần môi trường sẽ gây tác động đáng kể đối với các hệ sinh thái. Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường luôn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu và cấp bách của mỗi quốc gia nhất là ở các quốc gia đang phát triển. Như chúng ta đã biết, hiện nay hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam đang rất phát triển. Hoạt động này đã mang lại thu nhập đáng kể cho người khai thác, đồng thời tạo hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phải thừa nhận thực tế là bấy lâu con người chỉ chú trọng phát triển kinh tế hơn là quan tâm đến bảo vệ môi trường. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản hiện và đang gây ô nhiễm môi trường và ngày càng nghiêm trọng hơn. Để bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường như là nghị quyết 41-NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước Và ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường 2005, trong đó tại điều 44 quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản. Quy định này nhằm ngăn ngừa, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua bên cạnh một số kết quả đạt được vẫn còn đó những hạn chế chưa khắc phục do việc am hiểu và chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản còn hạn chế. Bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề thực thi pháp luật còn nhiều bất cập. Xuất phát từ tầm quan trọng của môi trường và nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong quá trình cộng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như đã nêu trên, người viết đã chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản – Pháp luật và thực tiễn”, nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản có hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ đã đề ra. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu pháp luật Việt nam về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản với mục đích là nhằm nâng cao hiểu biết về những chính sách và pháp luật mà Nhà nước ta đã đề ra nhằm phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Tiếp đến là tìm hiểu vấn đề thực thi pháp luật của các tổ chức, cá nhân có đạt được những kết quả khả quan hay không. Mục đích cuối cùng của quá trình nghiên cứu là trang bị cho mình những kiến thức hữu ích trrong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đồng thời, với vốn hiểu biết của mình, từ đó có một số đề xuất đóng góp nhằm phục vụ cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong nội dung đề tài nghiên cứu của mình người viết chủ yếu đề cập đến một số loại khoáng sản như than, bauxite và cát trong quá trình khai thác ở một số nơi. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp: phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách, báo cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp. Đồng thời vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Đảng trên tinh thần các Nghị quyết qua các kỳ đại hội, cụ thể là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để làm phương hướng đề xuất những kiến nghị phù hợp với tình hình xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường ở nước ta. 5. Cấu trúc của đề tài Để thuận tiện cho việc theo dõi, nghiên cứu cũng như tránh bỏ sót những vấn đề quan trọng cần đề cập, người viết phân chia luận văn làm ba chương, bao gồm: Chương 1. Những lý luận cơ bản về môi trường và hoạt động khai thác khoáng sản Chương 2. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản Chương 3. Thực tiễn và các giải pháp bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản Qua đây người viết xin gởi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể quý thầy cô Khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ đặc biệt là thầy Kim Oanh Na – người đã tận tình hướng dẫn cho người viết hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được của đề tài vẫn còn những thiếu sót nhất định do người viết còn hạn chế về trình độ, khả năng và điều kiện nghiên cứu chưa thuận lợi. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô cùng bạn đọc!

doc41 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5140 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của dân tộc và nhân loại, sự biến đổi một số thành phần môi trường sẽ gây tác động đáng kể đối với các hệ sinh thái. Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường luôn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu và cấp bách của mỗi quốc gia nhất là ở các quốc gia đang phát triển. Như chúng ta đã biết, hiện nay hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam đang rất phát triển. Hoạt động này đã mang lại thu nhập đáng kể cho người khai thác, đồng thời tạo hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phải thừa nhận thực tế là bấy lâu con người chỉ chú trọng phát triển kinh tế hơn là quan tâm đến bảo vệ môi trường. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản hiện và đang gây ô nhiễm môi trường và ngày càng nghiêm trọng hơn. Để bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường như là nghị quyết 41-NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước… Và ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường 2005, trong đó tại điều 44 quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản. Quy định này nhằm ngăn ngừa, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua bên cạnh một số kết quả đạt được vẫn còn đó những hạn chế chưa khắc phục do việc am hiểu và chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản còn hạn chế. Bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề thực thi pháp luật còn nhiều bất cập. Xuất phát từ tầm quan trọng của môi trường và nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong quá trình cộng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như đã nêu trên, người viết đã chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản – Pháp luật và thực tiễn”, nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản có hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ đã đề ra. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu pháp luật Việt nam về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản với mục đích là nhằm nâng cao hiểu biết về những chính sách và pháp luật mà Nhà nước ta đã đề ra nhằm phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Tiếp đến là tìm hiểu vấn đề thực thi pháp luật của các tổ chức, cá nhân có đạt được những kết quả khả quan hay không. Mục đích cuối cùng của quá trình nghiên cứu là trang bị cho mình những kiến thức hữu ích trrong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đồng thời, với vốn hiểu biết của mình, từ đó có một số đề xuất đóng góp nhằm phục vụ cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong nội dung đề tài nghiên cứu của mình người viết chủ yếu đề cập đến một số loại khoáng sản như than, bauxite và cát trong quá trình khai thác ở một số nơi. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp: phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách, báo cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp. Đồng thời vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Đảng trên tinh thần các Nghị quyết qua các kỳ đại hội, cụ thể là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để làm phương hướng đề xuất những kiến nghị phù hợp với tình hình xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường ở nước ta. 5. Cấu trúc của đề tài Để thuận tiện cho việc theo dõi, nghiên cứu cũng như tránh bỏ sót những vấn đề quan trọng cần đề cập, người viết phân chia luận văn làm ba chương, bao gồm: Chương 1. Những lý luận cơ bản về môi trường và hoạt động khai thác khoáng sản Chương 2. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản Chương 3. Thực tiễn và các giải pháp bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản Qua đây người viết xin gởi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể quý thầy cô Khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ đặc biệt là thầy Kim Oanh Na – người đã tận tình hướng dẫn cho người viết hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được của đề tài vẫn còn những thiếu sót nhất định do người viết còn hạn chế về trình độ, khả năng và điều kiện nghiên cứu chưa thuận lợi. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô cùng bạn đọc! CHƯƠNG 1 NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Để nghiên cứu thành công một vấn đề cụ thể trong khoa học pháp lý, thì việc nghiên cứu vấn đề lý luận là một nền tảng vững chắc, làm cơ sở để nhận định luật thực định, có phương hướng đề ra cách thức giải quyết những vấn đề cần hoàn thiện về mặt pháp lý cũng như về thực tiễn một cách phù hợp nhất. 1.1 Khái quát về môi trường 1.1.1 Khái niệm môi trường Thuật ngữ “môi trường” có thể được dùng trong rất nhiều các trường hợp khác nhau như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường pháp lý,…Tất cả các thuật ngữ trên đều có điểm chung là: “là tập hợp các điều kiện và hiện tượng bên ngoài có một ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện nào đó”. Môi trường theo nghĩa thông thường “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ hay sinh vật ấy”, là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ”, là “nơi chốn trong các nơi chốn, nhưng có thể làm một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kỳ hay một xã hội”. Môi trường sử dụng trong lĩnh vực pháp lý là một khái niệm được hiểu như là như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và tự nhiên bao quanh con người. Khoản 1 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước cộng xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ hợp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa môi trường “bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến sự sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”. Theo định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên và dĩ nhiên mối quan hệ giữa con người với nhau tạo thành trung tâm đó chứ không phải mối liên hệ giữa các thành phần khác của môi trường. Như vậy bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong một môi trường của nó. Tuy nhiên môi trường, cái mà loài người hiện nay phải đối mặt và nghiên cứu bảo vệ nó là môi trường sống bao quanh con người. Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại: Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả không khí, động, thực vật, đất,nước… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ xã hội giữa người với người, đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định… Ở các cấp khác nhau như: Liên Hiệp Quốc, hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển. 1.1.2 Khái niệm ô nhiễm môi trường Ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa học định nghĩa. Dưới góc độ sinh học, khái niệm này chỉ tình trạng của môi trường trong đó những yếu tố hóa học, lý học của nó thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học, ô nhiễm môi trường là sự thay đổi không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lí, hóa học, sinh học mà qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe của con người, các loài động thực vật và các điều kiện sống khác. Dưới góc độ pháp lý. ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật (khoản 6 điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005). Có thể thấy điểm chung nhất giữa các định nghĩa nêu trên về ô nhiễm môi trường là chúng đều đề cập đến sự biến đổi các thành phần môi trường theo hướng xấu, gây bất lợi cho con người và sinh vật. Sự biến đổi các thành phần môi trường có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chủ yếu là do các chất gây ô nhiễm. Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có thể gây hại đến sức của con người, đến sự phát triển của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ. Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu. Điều này có nghĩa là những nguyên tố tự nhiên nào đó do sự tác động của con người dẫn đến nó bị biến đổi theo chiều hướng xấu đi không còn phù hợp với những tiêu chuẩn môi trường. Ví dụ như: Tại khu dân cư người ta tiến hành đo đạc và phân tích hàm lượng khí SO2 trong không khí thấy giá trị của nó là 0,5 mg/m3. Theo quy chuẩn Việt Nam (QCVN) 05:2009 của Bộ tài nguyên môi trường thì giới hạn cho phép của thông số này là 0,3 mg/m3. Như vậy không khí khu dân cư đó đã bị ô nhiễm khí SO2. 1.1.3 Khái niệm về bảo vệ môi trường Bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt động nhằm giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo môi trường sinh thái, ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Theo khoản 3 điều 6 của Luật Bảo vệ môi trường 2005 có quy định: “Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thối, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”. Thế giới ngày càng phát triển đã gây nên tác động xấu đến môi trường, làm cho môi trường ngày càng biến đổi sâu sắc, rộng lớn, bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa sự sống còn của hành tinh chúng ta. Vì vậy vấn đề môi trường và phát triển đã trở thành vấn đề hết sức cấp bách của chúng ta. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận rõ tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị 36-CT/TW, ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước” đã chỉ rõ: “Bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đối giảm nghèo của mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới”. Mục tiêu của công tác bảo vệ môi trường là “ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường ở các nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. 1.1.4 Chức năng và vai trò của môi trường 1.1.4.1 Chức năng của môi trường Môi trường là cái nôi sinh thành và phát triển của con người. Những yếu tố cấu thành môi trường như không khí, nước, ánh sáng đều rất quan trọng đối với con người. Không khí để thở, nước để ăn uống và sinh hoạt, không gian là nơi để con người sinh sống… tất cả đều là những thành phần của môi trường có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của con người. Sống trong môi trường, con người một mặt chịu ảnh hưởng của nhân tố môi trường, mặt khác con người lại tác động vào môi trường và làm cho môi trương biến đổi, sự ảnh hưởng của môi trường lại ảnh hưởng trở lại con người. Sự phát triển kinh tế - xã hội, hay nói cách khác sự phát triển là một quá trình sử dụng các tài nguyên sống và không sống để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con người. Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát triển của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên có các chức năng sau: - Thứ nhất: Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên của con người. Chức năng đầu tiên của môi trường là nơi sinh sống và phát triển của xã hội loài người. Với chức năng này môi trường là nơi cung cấp hệ sinh thái như yếu tố vật chất cơ bản giúp sự tồn tại và phát triển của con người bao gồm không khí, nguồn nước, đất, cây cối, rừng và sinh vật. Những yếu tố này bị tổn hại đến một mức độ nhất định thì hậu quả của nó đe dọa đến sự sống của con người. Môi trường là không gian sống, là khung cảnh lao động, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí của con người. - Thứ hai: Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối tượng lao động sản xuất và hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật chất của loài người. Trong số này một số có thể tái tạo được, một số khác không thể tái tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai thác nhanh hơn mức độ tái tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc khủng hoảng đối với môi trường. Với chức năng thứ hai này môi trường là nơi cung cấp nguyên liệu và năng lượng phục vụ hoạt động sản xuất kinh tế và đời sống của con người. Để tồn tại và phát triển, con người phải dựa vào các tài nguyên sẵn có trong tự nhiên và môi trường là nơi cung cấp các yếu tố đó. - Thứ ba: Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong cuộc sống của con người và của quá trình sản xuất. Trong quá trình sinh sống và phát triển xã hội, con người một mặt khai thác các nguồn tài nguyên để sinh hoạt và sản xuất các loại hàng hóa khác nhau nhưng lại thải vào môi trường các chất thải trong quá trình sinh hoạt và sản xuất. 1.1.4.2 Vai trò của môi trường đối với đời sống kinh tế - xã hội Từ việc nhận thức chức năng của môi trường cho thấy môi trường có vai trò đặc biệt đối với đời sống kinh tế - xã hội. Môi trường là không gian chứa đựng các cơ thể sống bao hàm xã hội loài người, giới sinh vật (động vật và thực vật). Mỗi cơ thể sống không thể tồn tại ở ngoài môi trường được. Vì vậy nói tới vai trò của môi trường đối với đời sống xã hội điều đầu tiên cần phải nhấn mạnh: Môi trường là không gian sống của mọi loài sinh vật (kể cả con người),các loài sinh vật sinh ra, lớn lên, trưởng thành và tiêu vong đều ở trong môi trường. Nếu không gian môi trường trong sạch sẽ làm cho chất lượng cuộc sống được nâng cao, mọi loài sinh vật sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển tốt, ngược lại nếu không gian môi trường bị ô nhiễm, môi trường bị suy thoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của cuộc sống và như vậy sẽ cản trở sự phát triển bình thường của mọi loài sinh vật, trong đó có xã hội loài người. Do đó bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường trong sạch có tác dụng trực tiếp đến việc bảo tồn và duy trì sự sống của mọi sinh vật ở trong môi trường. Môi trường là nơi cung cấp các yếu tố cần thiết, các điều kiện cần thiết cho sự sống của tất cả các loài sinh vật. Ăngghen nói “con người là sản phẩm của tự nhiên”, con người tồn tại trong môi trường tự nhiên, cùng phát triển với môi trường tự nhiên, vật chất trong cơ thể con người do môi trường tự nhiên cung cấp, không khí mà con người hít thở, nước mà con người uống… cũng đều từ môi trường tự nhiên và thức ăn của con người xét cho cùng cũng từ môi trường tự nhiên: lúa gạo, hoa màu, rau xanh, trái cây đều mọc từ đất, tôm cá lớn lên từ ao nước sông, hồ, biển… Con người và môi trường luôn thống nhất với nhau, sống trong môi trường con người một mặt chịu sự ảnh hưởng của môi trường, mặt khác con người lại tác động vào môi trường làm cho môi trường biến đổi, sự biến đổi của môi trường lại ảnh hưởng trở lại đối với con người. Những thứ mà môi trường tự nhiên cung cấp cho con người bao gồm những thứ có khả năng tái tạo được và những thứ không có khả năng không có khả năng tái tạo. Vì vậy, để đảm bảo cho xã hội phát triển con người cần phải biết giữ gìn những nguồn lực của tự nhiên để sử dụng lâu dài trong tương lai. Môi trường là nơi diễn ra mọi quá trình lao động sản xuất, dù đó là sản xuất công nghiệp hay nông nghiệp cũng đều phải dựa trên nền tảng của môi trường. Các hoạt động văn hóa, xã hội, nghiên cứu khoa học, sáng tạo nghệ thuật… cũng phải dựa vào môi trường, sử dụng các “chất liệu” do môi trường cung cấp. Nói tóm lại mọi sự sống trên trái đất và mọi quá trình hoạt động của con người đều được tiến hành trong môi trường, đều dựa vào môi trường và sử dụng các yếu tố có sẵn của môi trường. Xuất phát từ nhận thức đó chúng ta môi trường có vai trò to lớn, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi loài sinh vật sống trong môi trường. 1.1.5 Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân tạo nên sự phát triển của kinh tế - xã hội: đó là sự ra đời của máy móc, công cụ khoa học kỹ thuật, đó là sự thông minh cùng với óc sáng tạo và khả năng lao động của con người… nhưng hơn tất cả đó là môi trường. Tự bản thân máy móc, công cụ sẽ không phát huy tác dụng nếu không có nguyên vật liệu, nhiên liệu; con người dù thông minh sáng tạo đến bao nhiêu cũng sẽ không thể có không gian để tồn tại và sản xuất nếu không có môi trường. Không thể tách sự phát triển kinh tế - xã hội khỏi môi trường, môi trường và phát triển có mối quan hệ khăng khít với nhau. “Nếu không bảo vệ môi trường một cách chính đáng, phát triển sẽ bị yếu dần. Ngược lại, không có phát triển, bảo vệ môi trường sẽ thất bại”. Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu hướng chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống, giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi tích cực và tiêu cực đối với môi trường. triển kinh tế - xã hội là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi trường, do vậy ở đây nảy sinh mâu thuẫn giữa việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Trong phạm vi một quốc gia, cũng như trên toàn thế giới, luôn luôn tồn tại hai hệ thống: Hệ thống kinh tế - xã hội và hệ thống môi trường. Hệ thống kinh tế - xã hội cấu thành bởi các khâu: Sản xuất, lưu thông phân phối, tiêu thụ, tạo nên một dòng luân chuyển nguyên liệu, năng lượng, hàng hóa, phế thải giữa các phần tử của hệ thống. Hệ thống môi trường với các thành phần thiên nhiên và xã hội cùng tồn tại trên một địa bàn với hệ thống kinh tế - xã hội. Mối quan hệ hay mâu thuẫn đều được biểu hiện rất rõ ràng. Hệ thống kinh tế lấy nguyên liệu, năng lượng từ hệ thống môi trường. Đây là một chức năng của môi trường: cung cấp nguyên, nhiên liệu cho cuộc sống con người. Nếu vì phát triển kinh tế mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được hoặc khai thác quá khả năng phục hồi đối với tài nguyên tái tạo được thì sẽ dẫn tới không còn nguyên liệu, năng lượng, từ đó phải đình chỉ sản xuất, giảm sút hoặc triệt tiêu hệ thống kinh tế. Chất thải là thứ mà cuộc sống sinh hoạt của con người và các hoạt động kinh tế thải ra môi trường nhều nhất. Hầu hết các phế thải đều độc hại đối với sức khỏe và sinh mệnh con người, tác động xấu đến không khí, nước, đất, các nhân tố môi trường và tài nguyên thiên nhiên khác. Những chất độc hại đó làm tổn hại chất lượng môi trường khiến cho hệ thống kinh tế không thể hoạt động một cách bình thường được. Để cho sự phát triển được bền vững, việc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước đòi hỏi mỗi quốc gia phải có tính toán, phải căn cứ vào tình hình tài nguyên và trình độ phát triển của đất nước mà định ra chiến lược chung của quốc gia. Môi trường và phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ khắng khít bền chặt và bao hàm cả mâu thuẫn gay gắt. Vấn đề quan trọng là phải giải quyết được mâu thuẫn đó một cách hợp lý và có lợi nhất. 1.2 Khái quát về hoạt động khai thác khoáng sản 1.2.1 Khái niệm về khoáng sản Khoáng sản là những dạng vật chất rất gần gũi và đóng vai trò to lớn trong đời sống con người như sắt, than đá, kẽm, vàng, dầu khí, nước khoáng thiên nhiên… Giá trị to lớn của khoáng sản cũng như tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản tất yếu dẫn tới Nhà nước quản lý khoáng sản bằng pháp luật. Dưới góc độ pháp luật, khoáng sản được hiểu bao gồm các tài nguyên trong lòng đất, trên mặt đất dưới dạng những tích tụ tự nhiên khoáng vật, khoáng chất có ích ở thể rắn, thể lỏng, thể khí, hiện tại hoặc sau này có thể khai thác. Khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể được khai tác lại, cũng là khoáng sản (khoản 1 Điều 3 Luật khoáng sản 1996; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khoáng sản 2005). Luật khoáng sản 2010 được Quốc hội thông qua ngảy 17 tháng 11 năm 2010 có quy định như sau: “Khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ”. 1.2.1 Phân loại khoáng sản Theo tính chất của công dụng, Khoáng sản được chia ra làm bốn nhóm: Khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim, khoáng sản nhiên liệu và khoáng sản nước. - Khoáng sản kim loại là những quặng, qua quá trình chế luyện, lấy ra kim loại hoặc hợp chất của chúng, thuộc nhóm này gồm: Nhóm khoáng sản sắt và hợp kim sắt (sắt, Mangan, Crôm…); Nhóm kim lại cơ bản (Thiếc, Đồng, Chì, Kẽm…); Nhóm kim loại nhẹ (Nhôm, Titan, Magiê…); Nhóm kim loại phóng xạ (Uran, thori, rađi) và nhóm kim loại hiếm và đất hiếm. - Khoáng sản phi kim là những quặng được sử dụng trực tiếp hoặc qua chế biến để lấy ra đơn chất hoặc hợp chất không kim loại: nhóm khoáng sản hóa chất và phân bón (lưu huỳnh, apatit, phôtphorit…); Nhóm nguyên liệu gốm sứ - chịu lửa (sét, kaolin…) và nhóm nguyên liệu kiến trúc xây dựng (cát, đá vôi, đá hoa…). - Khoáng sản nhiên liệu gồm các đá có nguồn gốc sinh vật (than bùn, than đá, dầu…). Loại khoáng sản này ngoài việc làm chất đốt, khoáng sản nhiên liệu còn để sản xuất ra hóa phẩm, dược phẩm và các thành phần khác (sợi nhân tạo, vật liệu khuôn đúc.v.v…). - Khoáng sản nước: Là các loại nước được dùng cho sinh hoạt và công nghiệp như nước khoáng, bùn khoáng sử dụng trong y tế và sinh hoạt. 1.2.3 Khái niệm khai thác khoáng sản Khai thác khoáng sản là hoạt động xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, sản xuất và các hoạt động có liên quan trực tiếp nhằm thu hồi khoáng sản (khoản điều 3 Luật khoáng sản 1996). Theo Luật khoáng sản 2010 thì khai thác khoáng sản lả hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, làm giàu và các hoạt động có liên quan. Đây là hoạt động được tiến hành sau khi đã có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và được tính từ khi mỏ bắt đầu xây dựng cơ bản (hay còn gọi là mở mỏ), khai thác bình thường theo công thức thiết kế, cho đến khi mỏ mỏ kết thúc khai thác (đóng cửa mỏ - phục hồi môi trường). Trước đây, trong thời kỳ bao cấp hoạt động khai thác khoáng sản chủ yếu do các tổng công ty, công ty Nhà nước thực hiện tại các mỏ đã được tìm kiếm, thăm dò bằng nguồn vốn của Nhà nước như apatit, quặng sắt, than, đá vôi, sét làm nguyên liệu xi măng, thiếc… với số lượng rất ít. Sau năm 1996 khi Luật khoáng sản được ban hành, với chính sách đầu tư của Nhà nước, hoạt động khai thác đã phát triển nhanh cả về quy mô và thành phần kinh tế tham gia hoạt động khoáng sản, nhất là trong vài năm trở lại đây. 1.2.4 Vai trò của khoáng sản Tuy không có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của loài như các thành phần môi trường nước, đất và không khí… nhưng tài nguyên khoáng sản cũng là những yếu tố hết sức quan trọng trong việc bảo đảm sự duy trì và phát triển xã hội. Xét từ phương diện cá nhân, con người có thể tồn mà không cần đến tài nguyên khoáng sản, nhưng trên bình diện chung thì một xã hội không thể phát triển bền vững và toàn diện nếu không có bất kì một tài nguyên khoáng sản nào. Vai trò và tầm quan trọng của khoáng sản được thể hiện ở những khía cạnh sau đây: Về phương diện kinh tế: Khoáng sản là nguồn nguyên liệu chính cho nhiều ngành công nghiệp then chốt, như đá vôi dùng cho sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng; quặng sắt được dùng cho ngành luyện kim, cơ khí… Than đá, dầu mỏ, khí gas… là những khoáng sản cung cấp năng lượng chủ yếu cho nhiều ngành kinh tế quan trọng cũng như phục vụ sinh hoạt hằng ngày của con người, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên là những tài nguyên có giá trị cao trong việc bảo vệ sức khỏe con người, đồng thời cũng là nguồn nguyên liệu đặc biệt đối với một số nghành công nghiệp. Bản thân nghành công nghiệp khoáng sản là một nghành chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của nhiều nước, như công nghiệp khai thác đồng ở Chilê, công nghiệp than đá ở Ucraina, công nghiệp dầu mỏ ở Cooet, Irăc và Veneduela. Xuất khẩu khoáng sản thường đem lại nguồn thu lớn cho các quốc gia, nhiều nước có nguồn thu ngân sách chủ yếu là từ khai khoáng: Bruei, Cooet, Veneduela là những ví dụ điển hình. Về phương diện chính trị: Khoáng sản tạo cho các quốc gia có một vị trí quan trọng trong giao lưu quốc tế. Nó góp phần không nhỏ vào việc làm tăng tính độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Thậm chí trong một số trường hợp, nó còn làm tăng các ảnh hưởng về mặt chính trị của quốc gia này đối với quốc gia khác, các quốc gia không có tài nguyên khoáng sản thường phụ thuộc rất nhiều về kinh tế cũng như chính trị đối với các quốc gia có ưu thế trong vấn đề này. Vai trò, tầm quan trọng của tài nguyên khoáng sản còn thể hiện trong các ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của các hoạt động khoáng sản tới môi trường xung quanh. Thực tế cho thấy các ảnh hưởng của hoạt động khoáng sản tới các thành phần môi trường khác như đất, nước, không khí, hệ sinh thái… thường rất nghiêm trọng. Điều này bắt nguồn từ đặc điểm của hoạt động khoáng sản là thường được tiến hành trên quy môi rộng lớn, với số lượng khai thác nhiều, thời gian hoạt động kéo dài và thường phải sử dụng nhiều phương tiện và hóa chất trợ giúp. Phạm vi và mức độ ảnh hưởng tới môi trường càng nghiêm trọng khi đó là những hoạt động khai thác khoáng sản độc hại. 1.3 Khai thác khoáng sản và tác động đến môi trường 1.3.1 Hiện trạng khai khoáng sản ở nước ta Việt Nam là nước có tiềm năng về tài nguyên khoáng sản. Cho đến nay ngành Địa chất đã tìm kiếm, phát hiện hơn 5000 mỏ và điểm quặng của khoảng 60 loại khoáng sản khác nhau. Một số khoáng sản đã được phát hiện và được khai thác từ rất lâu như vàng, thiếc, chì, kẽm, than đá và các loại vật liệu xây dựng; số khác mới được phát hiện và được khai thác như dầu khí, sắt đồng… Một số nơi, có những mỏ tập trung như than ở Quảng Ninh, bôxit ở Tây Nguyên và apatit, đất hiếm ở miền Bắc. + Nhu cầu của cuộc sống đã tạo nên áp lực của việc khai thác khoáng sản - Nhu cầu về vật liệu xây dựng: Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng của ngành Xây dựng có bước đột phá lớn, đòi hỏi khối lượng lớn khoáng sản, vật liệu xây dựng để đáp ứng. Vì vậy, hàng loạt mỏ mới với các quy mô vừa và nhỏ được mở ra trên khắp mọi miền đất nước. - Nhu cầu xuất khẩu khoáng sản: Một số khoáng sản được khai thác chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu như: Quặng ilmenit, chì-kẽm, crôm, thiếc, mangan, quặng sắt... Sản phẩm xuất khẩu dưới dạng quặng thô, quặng tinh hoặc đã được chế biến thành kim loại. Nhu cầu xuất khẩu quặng có xu hướng gia tăng trong đó có than sạch. Chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước khác. - Nhu cầu giải quyết công ăn việc làm: Nước ta lực lượng lao động trẻ, khoẻ, phần lớn là lao động phổ thông, cần có việc làm đang ngày càng gia tăng. Tài nguyên khoáng sản của nước ta phân bố trên diện rộng, đa dạng, phong phú về chủng loại và nhu cầu đáp ứng cho thị trường ngày một tăng, nên một bộ phận lớn lao động còn chưa có việc làm đã tham gia hoạt động khai thác khoáng sản. - Các nhu cầu khác: Việc chuyển đổi cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường đã làm xuất hiện nhiều thành phần kinh tế. Ngoài các doanh nghiệp nhà nước, còn có các thành phần kinh tế khác. Trong số các doanh nghiệp được thành lập có nhiều doanh nghiệp đăng ký ngành nghề kinh doanh liên quan đến hoạt động khoáng sản. Một lực lượng khác là các tổ hợp kinh doanh, khai thác khoáng sản hình thành ở hầu hết các huyện, xã. Lực lượng này chủ yếu tham gia kinh doanh, khai thác các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (đá, cát, sỏi...), hình thức khai thác rất linh hoạt, phong phú, theo mùa vụ…, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nguyên liệu khoáng sản cho xây dựng tại địa phương. Vì vậy, hiện nay việc khai thác khoáng sản đang được tiến hành rộng rãi ở các địa phương. Bên cạnh việc đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển của đất nước, các hoạt động này cũng góp phần không nhỏ vào việc gây ô nhiễm môi trường sống, tác hại đến sức khoẻ của con người và sự phát triển bền vững của đất nước. + Các hình thức khai thác khoáng sản - Khai thác khoáng sản quy mô công nghiệp Khai thác khoáng sản quy mô công nghiệp đang từng bước được nâng cao về năng lực công nghệ, thiết bị, quản lý. Hoạt động sản xuất, kinh doanh đã có sự gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu lợi nhuận, kinh tế với trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên khoáng sản. Do khả năng đầu tư còn hạn chế nên các mỏ khai thác quy mô công nghiệp ở nước ta hiện chưa đồng đều về hiệu quả kinh tế, về việc chấp hành các quy định của pháp luật về khoáng sản, về bảo vệ môi trường. - Khai thác khoáng sản quy mô nhỏ, tận thu Hình thức khai thác này đang diễn ra phổ biến ở hầu hết các địa phương trong cả nước và tập trung chủ yếu vào các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng Ngoài ra nhiều tỉnh còn khai thác than, quặng sắt, antimon, thiếc, chì, kẽm, bôxit, quặng ilmenit dọc theo bờ biển để xuất khẩu. Do vốn đầu tư ít, khai thác bằng phương pháp thủ công hoặc bán cơ giới là chính, nên trong quá trình khai thác đã làm ảnh hưởng đến môi trường, cảnh quan. - Khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản Việc khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản, kéo theo các hậu quả nghiêm trọng như tàn phá môi trường, làm thất thoát, lãng phí tài nguyên. Việc khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản gây hậu quả lớn đến môi trường, chủ yếu là nạn khai thác vàng, sử dụng cyanur, hoá chất độc hại để thu hồi vàng đã diễn ra ở Quảng Nam, Lâm Đồng, Đà Nẵng; khai thác chì, kẽm, thiếc, than ở các tỉnh miền núi phía Bắc; khai thác quặng ilmenit dọc bờ biển, đã phá hoại các rừng cây chắn sóng, chắn gió, chắn cát ven biển; khai thác cát, sỏi lòng sông gây xói lở bờ, đê, kè, ảnh hưởng các công trình giao thông, gây ô nhiễm nguồn nước; khai thác đá vật liệu xây dựng phá hoại cảnh quan, môi trường, gây ô nhiễm không khí. 1.3.2 Tác động của hoạt động khai thác khoáng sản đến môi trường Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động khai thác khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành công nghiệp khai thác mỏ đã và đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam. Trong những năm qua, hoạt động khai khoáng sản đã đóng góp tới 5,6% GDP. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường. Quá trình khai thác mỏ phục vụ cho lợi ích của mình, con người đã làm thay đổi môi trường xung quanh. Yếu tố chính gây tác động đến môi trường là khai trường của các mỏ, bãi thải, khí độc hại, bụi và nước thải… làm phá vỡ cân bằng điều kiện sinh thái, đã được hình thành từ hàng chục triệu năm, gây ra sự ô nhiễm nặng nề đối với môi trường và là vấn đề cấp bách mang tính chất xã hội và chính trị của cộng đồng. + Ô nhiễm không khí, nước Các hoạt động khai thác khoáng sản thường sinh ra bụi, nước thải với khối lượng lớn, gây ô nhiễm không khí và nước. Tác động hoá học của hoạt động khai thác khoáng sản tới nguồn nước: Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan nổ sẽ thúc đẩy các quá trình hoà tan, rửa lũa các thành phần chứa trong quặng và đất đá, quá trình tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước, chất thải rắn, bụi thải không được quản lý, xử lý chặt chẽ, tham gia vào thành phần nước mưa, nước chảy tràn cung cấp cho nguồn nước tự nhiên,... là những tác động hoá học làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần hoá học của nguồn nước xung quanh các khu mỏ. Nước ở các mỏ than thường có hàm lượng các ion kim loại nặng, á kim, các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ... cao hơn so với nước mặt và nước biển khu vực đối chứng và cao hơn TCVN từ 1-3 lần. Trong các mỏ thiếc sa khoáng, biểu hiện chính của ô nhiễm hoá học là làm đục nước bởi bùn - sét lơ lửng, tăng hàm lượng các ion sắt và một số khoáng vật nặng. Việc khai thác và tuyển quặng vàng phải dùng đến thuốc tuyển chứa Hg. Ngoài ra, các nguyên tố kim loại nặng như asen, antimoan, các loại quặng sunfua, có thể rửa lũa hoà tan vào nước. Vì vậy, ô nhiễm hoá học do khai thác và tuyển quặng vàng là nguy cơ đáng lo ngại đối với nguồn nước sinh hoạt và nước nông nghiệp. Tại những khu vực này, nước thường bị nhiễm bẩn bởi bùn sét, một số kim loại nặng và hợp chất độc như Hg, As, Pb v.v... mà nguyên nhân chính là do nước thải, chất thải rắn không được xử lý đổ bừa bãi ra khai trường và khu vực tuyển quặng. Việc khai thác vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho sản xuất phân bón và hoá chất như đá vôi cho nguyên liệu xi măng, đá xây dựng các loại, sét, cát sỏi, apatit, ... đã gây những tác động xấu đến môi trường như làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước. Nhìn chung quy trình khai thác đá còn lạc hậu, không có hệ thống thu bụi, nhiều khí hàm lượng bụi tại nơi làm việc lớn gấp 9 lần với tiêu chuẩn cho phép. + Ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên khác Khai thác khoáng sản là quá trình con người bằng phương pháp khai thác lộ thiên hoặc hầm lò đưa khoáng sản từ lòng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các hình thức khai thác bao gồm: khai thác thủ công, khai thác quy mô nhỏ và khai thác quy mô vừa. Bất cứ hình thức khai thác khoáng sản nào cũng dẫn  đến sự suy thoái môi trường. Nghiêm trọng nhất là khai thác ở các vùng mỏ, đặc biệt là hoạt động của các mỏ khai thác than, quặng và vật liệu xây dựng. Năm 2006 các mỏ than của Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam đã thải vào môi trường tới 182,6 triệu m3 đất đá và khoảng 70 triệu m3 nước thải từ mỏ. Quá trình khai thác khoáng sản thường qua ba bước: mở cửa mỏ, khai thác và đóng cửa mỏ. Như vậy, tất cả các công đoạn khai thác đều tác động đến tài nguyên và môi trường đất. Hơn nữa, công nghệ khai thác hiện nay chưa hợp lý, đặc biệt các mỏ kim loại và các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du. Vì vậy, việc khai thác khoáng sản trước hết tác động đến rừng và đất rừng xung quanh vùng mỏ. Hoạt động khai thác khoáng sản là một trong những nguyên nhân làm giảm độ che phủ do rừng cây bị chặt hạ, lớp phủ thực vật bị suy giảm. Hoạt động khai thác khoáng sản cũng làm cho thực vật, động vật bị giảm số lượng hoặc tuyệt chủng do các điều kiện sinh sống ở rừng cây, đồng cỏ và sông nước xấu đi. Một số loài thực vật bị giảm số lượng, động vật phải di cư sang nơi khác. Do đặc thù của khai thác mỏ là một hoạt động công nghiệp không giống các hoạt động công nghiệp khác về nhiều mặt, như phải di dời một khối lượng lớn đất đá ra khỏi lòng đất tạo nên một khoảng trống rất lớn và rất sâu. Một khối lượng lớn chất thải rắn được hình thành do những vật liệu có ích thường chỉ chiếm một phần nhỏ của khối lượng quặng được khai thác, dẫn đến khối lượng đất đá thải vượt khối lượng quặng nằm trong lòng đất. Chất thải rắn, không sử dụng được cho các mục đích khác, đã tạo nên trên bề mặt đất địa hình mấp mô, xen kẽ giữa các hố sâu và các đống đất, đá. Đặc biệt ở những khu vực khai thác "thổ phỉ", tình hình còn khó khăn hơn nhiều. Một số diện tích đất xung quanh các bãi thải quặng có thể bị bồi lấp do sạt lở, xói mòn của đất đá từ các bãi thải, gây thoái hoá lớp đất mặt. Việc đổ bỏ đất đá thải tạo tiền đề cho mưa lũ bồi lấp các sông suối, các thung lũng và đồng ruộng phía chân bãi thải và các khu vực lân cận. Khi có mưa lớn thường gây ra các dòng bùn di chuyển xuống vùng thấp, vùng đất canh tác, gây tác hại tới hoa màu, ruộng vườn, nhà cửa, vào mùa mưa lũ thường gây ra lũ bùn đá, gây thiệt hại tới môi trường kinh tế và môi trường xã hội. Tóm lại: Các hoạt động khai thác khoáng sản đã gây ra rất nhiều tác động xấu đến môi trường xung quanh, nhưng có thể nói tóm lại trong một số tác động như sau: sử dụng chưa thực sự có hiệu quả các nguồn khoáng sản tự nhiên; tác động đến cảnh quan và hình thái môi trường; tích tụ hoặc phát tán chất thải rắn, làm ảnh hưởng đến nguồn nước, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất, gây tiếng ồn và chấn động; gây ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn của người lao động. 1.3.3 Sự cần thiết bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản Xuất phát từ việc nhận thức rõ tầm quan trọng của môi trường, cùng với việc phân tích sự tác động của hoạt động khai thác khoáng sản đến mối trường cho thấy môi trường trong hoạt động này bị ảnh hưởng rất lớn, do đó đòi hỏi cần phải bảo vệ môi trường trong hoạt động này là vệc làm hết sức cần thiết. Bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản là sử dụng tổng hợp các biện pháp nhằm giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản, đồng thời góp phần khai thác, sử dụng hợp lý, tài nguyên khoáng sản. Bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản không chỉ nhằm bảo vệ các thành phần môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản mà còn phải giữ gìn trữ lượng, chất lượng khoáng sản với tư cách là một thành phần môi trường quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của con người, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà trữ lượng khoáng sản đang suy giảm và hầu hết không tái tạo lại được, đồng thời nhu cầu sử dụng khoáng sản của con người ngày càng lớn. 1.4 Khái quát chính sách bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã thành công trong nhiều lĩnh vực, giữ gìn ổn định về chính trị; kinh tế phát triển với tốc độ cao liên tục trong nhiều năm; xây dựng xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, văn minh hơn, môi trường được bảo vệ và cải thiện, nhờ đó quá trình phát triển của Việt Nam được đánh giá là theo hướng bền vững. Đạt được những thành công ban đầu nói trên, chính là nhờ Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường đúng đắn, tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước, tinh hoa của thời đại, đặc biệt là chính sách môi trường được thiết kế với thực tiễn sinh động của Việt Nam. Vấn đề bảo vệ môi trường được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Vì vậy, vấn đề này đã được văn kiện các kỳ đại hội Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) liên tục đề cập đến. Văn kiện đã định ra các quan điểm, giải pháp phù hợp, kịp thời, đặc bệt đại hội lần IX ĐCSVN đã nêu rõ chủ trương phát triển trong thời gian tới là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, đặt mục tiêu môi trường cũng quan trọng như tăng trưởng kinh tế và đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đánh giá một cách khách quan các nguy cơ và thách thức đối với môi trường, đề ra các quan điểm, mục tiêu cụ thể và các giải pháp hết sức quan trọng nhằm bảo vệ môi trường để phát triển bền vững trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại đất nước. Tiếp theo là quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chiến lược xác định các thách thức đối với môi trường Việt Nam trong những năm tới là: Nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết; thách thức trong việc lựa chọn các lợi ích phát triển kinh tế và môi trường; cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu; gia tăng dân số, di dân và đói nghèo; nhận thức về môi trường còn thấp; tổ chức và năng lực quản lý chưa đáp ứng yêu cầu; hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của các vần đề môi trường khu vực và toàn cầu. Với quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa, chặt chẽ với bảo vệ môi trường; bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội; phòng ngừa là chủ yếu và bảo vệ môi trường phải kết hợp giữa nội lực và hợp tác quốc tế, chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm 2010 là hạn chế tốc độ gia tăng ô nhiễm và định hướng mục tiêu đến 2020 là ngăn chặn về cơ bản tốc độ gia tăng ô nhiễm, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức ổn định và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về môi trường để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa. Những giải pháp chiến lược then chốt được lựa chọn bao gồm: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường; tăng cường quản lý Nhà nước; pháp luật về bảo vệ môi trường; áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường; tăng cường đầu tư cho bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Trong chương này người viết tập chung phân tích một số trách nhiệm mà tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải thực hiện như: lập báo cáo đánh giá tác động môi trường; cam kết bảo vệ môi trường; lập các dự án cải tạo, phục hồi môi trường; ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường, tuân thủ các quy định về quản lý chất thải; nghĩa vụ về tài chính và một số trách nhiệm pháp lý mà tổ chức, cá nhân có hành vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam 2.1 Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trong việc bảo vệ môi trường Khoáng sản là tài nguyên không thể tái tạo được, là tài sản quan trọng của quốc gia, chính vì vậy khoáng sản phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Để khuyến khích tổ chức, cá nhân bảo vệ, sử dung có hiệu quả mọi tài nguyên khoáng sản của đất nước trong hoạt động khai khoáng sản nói chung và hoạt động khai thác khoáng sản nói riêng, đồng thời bảo vệ được môi trường. Bên cạnh quyền và nghĩa vụ mà luật đã quy định thì tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản còn có một số trách nhiệm như sau: 2.1.1 Tuân thủ các quy định về lập và thưc hiện các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản muốn được cấp phép khai thác, ngoài báo cáo nghiên cứu khả thi, luận chứng kinh tế, kĩ thuật về môi trường, thì phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt. Theo quy định tại khoản 20 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 có hiệu lực ngày 01/7/2006 thì: “Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”. Qua quy định này ta có thể nhận thấy: - Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào nếu muốn thực hiện dự án có thể gây ảnh hưởng đến môi trường đều phải thực hiện phân tích và đánh giá tác động môi trường và phải đề xuất các biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường. - ĐTM không phải là một nghĩa vụ mang tính hình thức, tức là không phải chỉ là một điều kiện giấy tờ cần phải có cho việc phê duyệt một dự án mà nó là một nghĩa vụ mang tính chất nội dung. Như vậy việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp cho các nhà đầu tư chủ động lựa chọn những phương án khả thi về kinh tế và kĩ thuật trong kế hoạch phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường của mình. Đồng thời đây là cách thức để cơ quan có thẩm quyền để kiểm soát các hoạt ảnh hưởng đến môi trường hiệu quả nhất. Hiện nay việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường được quy định tại Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006 ngày 9/8/2006 của Chính phủ; Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 8/12/2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường. Theo quy định thì tổ chức, cá nhân là chủ dự án đầu tư thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (sau đây gọi là chủ dự án) tự tiến hành hoặc thuê tổ chức tư vấn có đủ điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết để tiến hành đánh giá tác động môi trường và lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chủ dự án gửi văn bản thông báo về các hạng mục đầu tư chính, các vấn đề môi trường, các giải pháp bảo vệ môi trường của dự án và đề nghị Ủy ban nhân dân, Ủy ban mặt trận tổ quốc cấp xã đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án tham gia ý kiến (theo quy định tại khoản 2 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT); chủ dự án gửi hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tấc động môi trường đến Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (theo quy định tại khoản 3 mục III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT), thời điểm gửi hồ sơ đề nghị thẩm định, phê duyệt báo cáo tác động môi trường của các dự án được quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 21/2008/NĐ-CP (trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ, trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhân được hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm thông báo để chủ dự án bổ sung hoàn chỉnh). Một bản báo đánh giá tác động môi trường muốn được phê duyệt phải đảm bảo các nội dung sau (quy định tại điều 20 Luật Bảo vệ môi trường 2005 và phụ lục 4 thông tư 05/2008/TT-BTNMT): - Liệt kê tên công trình và mô tả chi tiết các công trình trong dự án (không gian, thời gian, khối lượng thi công, công nghệ vận hành…) cũng như mô tả cho cả dự án. - Đánh giá chung về hiện trạng môi trường nơi thực hiện dự án và vùng kế cận. kèm với đánh giá chi tiết tác động môi trường có khả năng xảy ra khi dự án được thực hiện. Việc đánh giá trên phải trung thực, khách quan nhằm giúp cơ quan thẩm định biết mức độ nhạy cảm và sức chịu tải của môi trường nơi có dự án cũng như các thành phần môi trường, yếu tố kinh tế - xã hội chị tác động của dự án, bên cạnh những đánh giá trên người lập báo cáo còn phải nêu dự báo rủi ro về sự cố môi trường do công trình gây ra. - Biện pháp cụ thể để giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và những biện pháp này phải đảm bảo tính khả thi. - Cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường xuyên suốt từ khi xây dựng cho đến suốt quá trình vận hành công trình. - Danh mục công trình, chương trình quản lý và giám sát các vấn đề môi trường trong quá trình triển khai thực hiện. - Dự toán kinh phí xây dựng các hạng mục công trình bảo vệ môi trường trong tổng dự toán kinh phí của dự án. - Ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã và đại diện dân cư nơi thực hiện dự án (tổng hợp cả ý kiến đồng ý và không đồng ý về việc triển khai dự án tại địa phương hay việc triển khai biện pháp bảo vệ môi trường mà chủ công trình đưa ra). - Chỉ dẫn nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá. Để lập được báo cáo tác động môi trường đầy đủ với những nội dung trên, người lập báo cáo cần qua những bước tìm hiểu rõ rãng và có tầm nhìn sâu, rộng về vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ môi trường nơi có dự án sẽ tiến hành. Đánh giá giá tác động môi trường là một trong những giải pháp quan trọng trong quản lý ô nhiễm công nghiệp, góp phần tích cực trong việc phòng ngừa ô nhiễm do các hoạt động sản xuất gây ra. Thấy được vai trò to lớn của việc đánh giá tác động nên nhà làm luật đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong thời gian qua thì vấn đề đánh giá tác động môi trường không được chủ các dự án đầu tư quan tâm, Mặc dù đa số tất cả các dự án đầu tư đều thực hiện công tác đánh giá tác động môi trường, nhưng hầu hết chỉ dùng để đối phó, để dự án được thông qua nên họ chỉ làm qua loa, chú trọng làm cho đủ thủ tục chứ không quan tâm đến những tác động và nguy cơ môi trường thực sự, dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm quy định về đánh giá tác động gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn.doc
Luận văn liên quan