MỤC LỤC
Trang
A. LỜI NÓI ĐẦU 1
B. NỘI DUNG .1
I. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín .1
II. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác .4
1. Có thiệt hại xảy ra 4
2. Hành vi gây thiệt hại được xác định là hành vi trái pháp luật .6
3. Quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật .6
4. Có lỗi của người gây thiệt hại 7
III. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc tính mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân 10
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại .11
2. Nguyên tắc tính mức bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị xâm hại 12
3. Phương thức bồi thường 17
IV. Thực trạng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác & Kiến nghị .18
1. Thực trạng 18
2. Kiến nghị 19
C. KẾT LUẬN .20
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
A. LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi người sống trong xã hội đều có những quyền cơ bản, một trong số đó là quyền nhân thân hay chính là “nhân quyền”. Theo qui định của pháp luật, quyền nhân thân là quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, cụ thể như là danh dự, nhân phẩm, uy tín . Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, công nghệ thông tin cũng đã len lỏi sâu rộng vào cuộc sống của con người mang lại cho chúng ta một cuộc sống đầy đủ hơn, tiếp cận thông tin tốt hơn, đó là những mặt tốt của vấn đề. Tuy thế, trong xã hội hiện đại này, tên họ, hình ảnh, nhân phẩm, danh dự của nhiều công dân rất dễ bị bêu rếu, xúc phạm trên mạng Internet, trên báo chí với nhiều động cơ, mục đích khác nhau, điều đó khiến cho những người bị xúc phạm đó gặp không ít khó khăn trong cuộc sống.
Để bảo vệ quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều phương thức khác nhau. Trong số đó đã được cụ thể hóa trong luật pháp như Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác tại Điều 611 – Bộ luật Dân sự 2005.
B. NỘI DUNG
I. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
- Danh dự đối với cá nhân là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó. Danh dự của một con người được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có được.
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5510 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi người sống trong xã hội đều có những quyền cơ bản, một trong số đó là quyền nhân thân hay chính là “nhân quyền”. Theo qui định của pháp luật, quyền nhân thân là quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, cụ thể như là danh dự, nhân phẩm, uy tín ... Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, công nghệ thông tin cũng đã len lỏi sâu rộng vào cuộc sống của con người mang lại cho chúng ta một cuộc sống đầy đủ hơn, tiếp cận thông tin tốt hơn, đó là những mặt tốt của vấn đề. Tuy thế, trong xã hội hiện đại này, tên họ, hình ảnh, nhân phẩm, danh dự của nhiều công dân rất dễ bị bêu rếu, xúc phạm trên mạng Internet, trên báo chí với nhiều động cơ, mục đích khác nhau, điều đó khiến cho những người bị xúc phạm đó gặp không ít khó khăn trong cuộc sống.
Để bảo vệ quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều phương thức khác nhau. Trong số đó đã được cụ thể hóa trong luật pháp như Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác tại Điều 611 – Bộ luật Dân sự 2005.
NỘI DUNG
I. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
- Danh dự đối với cá nhân là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó. Danh dự của một con người được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có được.
Còn đối với tổ chức thì danh dự là sự đánh giá của xã hội và sự tín nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó.
- Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người.
- Uy tín đối với cá nhân là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ chức, một dân tộc cảm phục tôn kính và tự nguyện nghe theo.
Còn với tổ chức, uy tín là những giá trị tốt đẹp mà tổ chức đạt được trong quá trình hoạt động và được mọi người công nhận.
Nội dung của ba khái niệm “danh dự”, “nhân phẩm”, “uy tín” có sự đan xen với nhau. Trong đó, khái niệm danh dự là khái niệm rộng nhất, danh dự chứa đựng cả nhân phẩm và uy tín. Do đó, xâm phạm nhân phẩm, uy tín chắc chắn sẽ xâm phạm danh dự của cá nhân, tổ chức.
Mặc dù danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân không trị giá được bằng tiền, tuy nhiên, xâm phạm đến những giá trị này có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể bị xâm phạm. Chính vì thế, không chỉ ở nước ta, mà ở hầu hết các nước trên thế giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người đều được bảo vệ. Tuy thế, phương thức bảo vệ có khác nhau. Ở Việt Nam, điều đó được thể hiện rõ nhất qua các quy định của pháp luật. Pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và bảo vệ danh dự, uy tín của tổ chức.
- Theo Hiến pháp năm 1992, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trong những quyền cơ bản của công dân, là quyền hiến định :
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
(Điều 71 Hiến pháp 1992).
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử
lý nghiêm minh”.
(Điều 72 Hiến pháp 1992).
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật”.
(Điều 73 Hiến pháp 1992).
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được thừa nhận trong Hiến pháp thể hiện sự tôn trọng của chúng ta đối với quyền này; đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong việc ban hành các quy định cụ thể để bảo vệ quyền này : được thể hiện trong Luật Hình sự, Tố tụng Hình sự, Hôn nhân gia đình, Báo chí, Dân sự và Tố tụng dân sự.
- Theo Bộ luật Hình sự năm 1999, chủ thể có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh như: Tội làm nhục người khác (Điều 121), Tội vu khống (Điều 122), Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226), Tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy (Điều 253).
- Theo Điều 7 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 : “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của của họ mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật”.
- Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 : Quyền được bảo vệ danh dự nhân phẩm, uy tín được quy định tại các Điều 31- Quyền của cá nhân đối với hình ảnh; Điều 37- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Điều 38 –
Quyền bí mật đời tư.
Vì thế nên khi danh dự, nhân phẩm, uy tín của một người bị xâm phạm, họ sẽ có các quyền được quy định tại Điều 25 :
« Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại. »
Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2005 đã cụ thể hóa điều đó :
« Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. »
Qua những dẫn chứng trên, đã khẳng định một điều là : mỗi người đều có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Khi quyền này bị xâm phạm, thì người xâm phạm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
II. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Về trách nhiệm gây thiệt hạt ngoài hợp đồng, được xác định theo nội dung Thông tư số 173 – UBTP, phải thỏa mãn bốn điều kiện :
Điều kiện thứ nhất : phải có thiệt hại.
Điều kiện thứ hai : Phải có hành vi trái pháp luật.
Điều kiện thứ ba : Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Điều kiện thứ tư : Phải có lỗi của người gây thiệt hại.
Trên cơ sở đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm nhân phẩm, danh dự, uy tín của người khác được xác định như sau :
1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại nói chung là những hậu quả bất lợi ngoài ý muốn về tài sản hoặc phi tài sản do một sự kiện hoặc một hành vi nào đó gây ra. Vì vậy thiệt hại là một yếu tố cơ bản cấu thành nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín nói riêng. Thiệt hại xảy ra được coi là điều kiện có tính bắt buộc và là tiền đề trong việc quyết định phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục lại tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại, chỉ cần có thiệt hại xảy ra kể cả thiệt hại không nghiêm trọng thì người gây thiệt hại vẫn phải có trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại hiểu theo nghĩa thông thường còn là sự bị mất hoặc bị giảm bớt những lợi ích vật chất hay tinh thần của một người do sự kiện gây thiệt hại của người khác, nó còn bao gồm cả những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại…tất cả những thiệt hại này được xác định bằng giá trị một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại là tiền đề quan trọng có tính bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì vậy điều kiện đầu tiên khi đánh giá thiệt hại để làm cơ sở quy trách nhiệm bồi thường đó là: phải xác định được thiệt hại khách quan chứ không phải là những thiệt hại theo suy diễn chủ quan của những người làm luật và áp dụng pháp luật bởi thiệt hại thường bao gồm cả hai loại trực tiếp và gián tiếp. Nhất là những thiệt hại do xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm là những thiệt hại về các quyền nhân thân rất khó xác định những tổn thất thực tế thành tiền một cách chính xác tuyệt đối. Giống như cách xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, những thiệt hại do xâm phạm đến các quyền nhân thân được xác định bao gồm: “trách nhiệm bồi thường về vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần” (Điều 307 BLDS).
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì :
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí cho tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được xác định là : nếu trước khi bị xâm phạm, các chủ thể này có thu nhập thực tế, tuy nhiên do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nên thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
2. Hành vi gây thiệt hại được xác định là hành vi trái pháp luật.
Pháp luật cấm tất cả những hành vi gây tổn thất cho người khác, cho dù đó là hành vi cố ý hay vô ý. Trong lĩnh vực pháp lý, một người phải thực hiện một việc, hoặc cấm không được thực hiện một việc cụ thể nhưng người đó không thực hiện hoặc thực hiện việc pháp luật cấm đều bị coi là hành vi trái pháp luật.
Mà như ta đã biết Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó.
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó. Trên thực tế, nếu xét về hậu quả hành vi thì không phải bao giờ hành vi gây thiệt hại cũng bị coi là hành vi trái pháp luật. Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện hành vi đó, hay đo là những hành vi phù hợp với phạm vi mà luật cho phép. Ví dụ như gây thiệt hại trong các trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết hay sự kiện bất ngờ.
3. Quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Quan hệ nhân quả là mối quan hệ khách quan của bản thân các sự vật, tất cả các hiện tượng đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất định. Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại xảy ra, cần thiết phải phân biệt nguyên nhân với những điều kiện nhất định. Những điều kiện này là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra, nhưng bản thân chúng không gây ra một biến cố nào. Còn một nguyên nhân nhất định, trong những hoàn cảnh cụ thể chỉ có thể gây ra một hậu quả nhất định.
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 604 BLDS dưới dạng: “Người nào…xâm phạm…mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”. Ở đây hành vi xâm phạm đến danh dự, uy tín của người khác là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là một vấn đề rất phức tạp. Theo phép biện chứng duy vật thì quan hệ nhân quả là một dạng của mối liên hệ giữa các hiện tượng (sự vật, quá trình) trong đó một hiện tượng được coi là nguyên nhân với những điều kiện nhất định đã làm phát sinh một hiện tượng khác (gọi là kết quả). trách nhiệm bồi thường dân sự dựa trên cơ sở của mối quan hệ mang ý nghĩa nhân quả giữa hành vi khách quan (hành vi trái PL) với hậu quả (thiệt hại xảy ra). Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng sẽ không phát sinh nếu thiệt hại xảy ra không phải là kết quả tất yếu trực tiếp của hành vi trái pháp luật thuộc về người gây thiệt hại xâm phạm đến các quyền nhân thân của người bị thiệt hại. Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người gây thiệt hại chúng ta cần phải đảm bảo cho được tính tất yếu khách quan vốn có quy luật của sự việc, hiện tượng chứ không thể chỉ căn cứ vào một sự ngẫu nhiên nào đó. Đây cũng chính là yếu tố cần phải tuân thủ của các cán bộ làm công tác xét xử để tránh việc suy đoán nhận định một cách tùy tiện khi giải quyết các vụ án tranh chấp về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến các quyền nhân thân của chủ thể.
4. Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là một trong bốn yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác nói riêng. Chúng ta bắt buộc phải xem xét đến yếu tố này, bởi lẽ, trên thực tế đã chứng minh có những trường hợp xảy ra, lỗi hoàn toàn thuộc về người chịu thiệt hại. Ví dụ như, có những ca sĩ, diễn viên, tự mình đã tạo ra scandan với những hình thức khác nhau để mong muốn mình được mọi người quan tâm, để ý đến. Vô tình hay cố ý, những hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính họ. Lỗi trong những trường hợp này thuộc về chính bản thân những người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Lúc này, trách nhiệm gây ra thiệt hại không thể quy cho ai khác được.
Theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự thì : Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Như vậy khi lỗi là của người gây ra thiệt hại thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới hai dạng hình thức là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp này, cho dù người gây thiệt hại có mong muốn hay không mong muốn hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác nhưng đã có thái độ để mặc cho hậu quả xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình.
Khi một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ xâm phạm đền danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng lại để mặc cho danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm thì lỗi của người gây thiệt hại là cố ý. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi có ý thức của người gây thiệt hại và trong tâm thức của người đó mong muốn thiệt hại xảy ra cho người khác đã làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người đó.
- Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Hành vi của một người mà xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà người đó đã không mong muốn, không để mặc cho hậu quả xảy ra mà là do không kiểm soát được diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra thì người đo phải bồi thường.
Khi xét đến yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta không thể không xét đến trường hợp hỗn hợp lỗi. Tại Điều 617 Bộ luật dân sự 2005 thì : Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Việc trách nhiệm hỗn hợp lỗi căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Nhưng lỗi trong trách nhiệm dân sự có những trường hợp là lỗi suy đoán. Bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán là có lỗi. Người bị thiệt hại trong nhiều trường hợp không thể chứng minh được, nếu buộc họ chứng minh sẽ bất lợi cho họ. Vì vậy, Bộ luật Dân sự đã quy định nghĩa vụ chứng minh về lỗi thuộc về người gây thiệt hại như là một sự bổ sung nghĩa vụ của người đó.
Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì được coi là không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Những người chưa có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi, không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của họ, thì họ không phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp trên cha mẹ, người giám hộ, trường học, bệnh viện là những người theo quy định của pháp luật phải quản lý, chăm sóc, giáo dục…được suy đoán là đã có lỗi khi không thực hiện các nghĩa vụ nêu trên và họ phải chịu trách nhiệm do lỗi của họ.
Trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi, mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí người gây ra thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi (khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên, có trường hợp người gây ra thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì không phải bồi thường.
Trong nhiều vụ án phức tạp, thiệt hại xảy ra do lỗi hỗn hợp của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thì Thẩm phán cần xác định đúng mức độ lỗi của các bên, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và lỗi của người gây thiệt hại hay người bị thiệt hại trên cơ sở đó mới ra được quyết định bản án một cách khách quan đúng pháp luật. Xem xét một sự kiện để xác định xem nó có gây thiệt hại hay không cấn phải xét đến góc độ tâm lý và đánh giá thái độ của người gây thiệt hại xem họ có lỗi hay không? Nghĩa là cần xem người gây thiệt hại đã vận dụng hết các khả năng của mình để tránh không gây thiệt hại hay chưa? Hay nói cách khác liệu người gây thiệt hại có khả năng để lựa chọn cách xử sự không gây thiệt hại hay không?
Trên đây là phân tích về bốn yếu tố cơ bản mang tính điều kiện là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác. Các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng qua lại với nhau. Ngoài những trường hợp đặc biệt do luật định, bất cứ quyết định nào nhằm xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh là đầy đủ bốn yếu tố trên. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này thì có nghĩa là việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chưa được xem xét một cách khách quan, toàn diện.
Khi hành vi của một chủ thể được xác định đầy đủ bốn yếu tố như trên thì có nghĩa là họ sẽ có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Vậy, câu hỏi đặt ra là Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác và bồi thường như thế nào và nồi thường bao nhiêu được đề cập đến trong phần III này.
III. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc tính mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân.
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khi do hành vi của một chủ thể này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà thiệt hại đối với người bị xâm phạm đã xảy ra và yếu tố lỗi thuộc về người gây ra hành vi xâm phạm thì đương nhiên người gây ra hành vi ấy hay gọi là người gây thiệt hại đương nhiên phải bồi thường. Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước…Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện. Bộ luật Dân sự quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân (Điều 606 BLDS) mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, Bộ luật Dân sự 2005 quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân như sau :
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “khả năng bằng hành vi của họ tự tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ” (Điều 19 BLDS) họ phải chịu trách nhiệm do hành vi bất hợp pháp của họ bằng tài sản của chính họ. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, nhiều người tuy có đầy đủ năng lực hành vi nhưng khả năng về tài sản của họ trên thực tế không có. Vì vậy khi quyết định bồi thường đối với những người này có thể động viên cha mẹ bồi thường thay cho con em họ, nếu cha mẹ tự nguyện bồi thường thì ghi nhận sự tự nguyện đó mà không buộc cha mẹ phải bồi thường thay cho con em họ.
- Người dưới 18 tuổi là những người không có hoặc không đầy đủ năng lực hành vi. Vì vậy, cha mẹ là người phải bồi thường thiệt hại do con em họ gây ra. Tuy nhiên, cách thức dùng tài sản để bồi thường được quy định đối với những người vị thành niên khác nhau. Đối với những người dưới 15 tuổi thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường; nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng, thì lấy tài sản của con để bồi thường. Đối với những người từ 15 đến dưới 18 tuổi thì lấy tài sản của con để bồi thường cha mẹ chịu trách nhiệm bổ
sung phần còn thiếu.
- Những người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lý thì trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên mà không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường.
- Người giám hộ đương nhiên, giám hộ được cử đối với những người phải có giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLDS được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Người giám hộ có nghĩa vụ bổ sung. Tuy nhiên nếu họ chứng minh được rằng họ không có lỗi trong việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong trường hợp này sẽ không có người bồi thường thiệt hại bởi những người được giám hộ không có khả năng về năng lực hành vi để bồi thường, nếu họ có tài sản có thể dùng tài sản của họ để bồi thường.
2. Nguyên tắc tính mức bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị xâm hại.
a. Phải bồi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại vật chất đã xảy ra và bù đắp một phần những tổn thất tinh thần bằng một lượng giá trị vật chất nhất định.
Đây là nguyên tắc chung bao trùm và là một nguyên tắc công bằng hợp lý, phù hợp với tập quán của nhân dân ta là gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Bồi thường toàn bộ các thiệt hại vật chất là bồi thường tất cả các thiệt hại vật chất đã xảy ra bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. Còn bồi thường kịp thời là bồi thường đúng lúc người bị thiệt hại đang cần để dùng vào việc hạn chế khắc phục thiệt hại. Do đó, việc bồi thường đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng là rất quan trọng nhằm phát huy tối đa hiệu quả của việc bồi thường.
* Những thiệt hại phải bồi thường toàn bộ trong quan hệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là:
- Các thiệt hại vật chất: là những tổn thất vật chất cụ thể, có thể cảm nhận
được bằng các giác quan có thể tính toán được bằng tiền:
+ Các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại:
~ Chi phí phải bỏ ra do xâm phạm thân thể, sức khỏe khi bị làm nhục, bị hiếp dâm, cưỡng dâm…có thể gồm các khoản dành cho việc chữa trị vết thương, do bị truyền bệnh (các khoản thuốc men, khám chữa, viện phí...), chi phí cho việc bồi dưỡng phục hồi sức khỏe.
~ Chi phí cho việc giám định (sức khỏe, tài liệu…).
~ Phí tổn tàu xe đi lại của nạn nhân (đi giám định, đi khám chữa bệnh, đi theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, xét xử…).
~ Chi phí thu hồi của một ấn phẩm hay đăng lời cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng để khôi phục lại danh dự, nhân phẩm… .
Điều 611 quy định phải bồi thường chi phí hợp lý, thế nhưng khái niệm “chi phí hợp lý” ở đây chỉ mang tính chỉ mang tính định tính, không phải là yếu tố định lượng. Việc xác định thế nào là chi phí cho từng vụ án là thuộc trách nhiệm của Thẩm phán giải quyết của vụ án bởi lẽ mỗi vụ án có đặc thù riêng, không vụ nào giống vụ nào, cho nên thiệt hại cụ thể của từng vụ án là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, xem xét đánh giá chi phí nào là chi phí hợp lý phải đặt trong bối cảnh không gian, thời gian và diễn biến cụ thể của từng vụ án. Ví dụ chi phí cho đi lại để thu hồi một ấn phẩm, hay giá trị số thuốc theo đơn phải mua ở nước ngoài…không thể cao hơn mức giá trung bình ở địa phương tại thời điểm đó. Mức giá trung bình được coi là mức giá hợp lý. Nếu người bị thiệt hại đưa ra mức giá cao hơn rất nhiều so với lần mức giá trung bình ở địa phương là không hợp lý. Nếu các chi phí không liên quan trực tiếp đến hành vi gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm thì cũng không được coi là những chi phí hợp lý của vụ án.
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút phải là những khoản thu nhập có thực không được suy đoán. Trước khi có hành vi gây thiệt hại họ vẫn có thu nhập bình thường, ổn định nhưng từ khi có hành vi xâm phạm đến quan hệ nhân thân này thì khoản thu nhập đó không còn, hoặc bị giảm sút so với trước. Vì vậy khoản thu nhập bị mất chính là khoản thu nhập không thu được của người bị hại. Khoản thu nhập bị mất đó có thể là:
~ Thu nhập bị mất trong thời gian nạn nhân nằm viện (ví dụ như để điều trị tâm lý do chịu ảnh hưởng từ việc danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình bị xâm phạm), hoặc sau khi ra viện nhưng vẫn phải nghỉ lao động nên
không có thu nhập.
~ Thu nhập bị mất của người thân phải nghỉ lao động đi chăm sóc hoặc thời gian đi tìm nạn nhân (ở các vụ hiếp dâm, làm nhục, mua bán phụ nữ, trẻ em…)
~ Các khoản thu nhập bị mất do bị mất việc làm. Ví dụ: một người bác sĩ, do hành vi của người khác đã làm mất uy tín của người bác sĩ đó, như là đã loan tin rằng bác sĩ trình độ thấp, chữa cho nhiều bệnh nhân không khỏi, thu tiền công chữa bệnh cao mà trên thực tế lại không phải như thế, hành vi này đã dẫn đến khách hàng từ chối không đến khám bệnh, mọi người xa lánh, mất thể diện với đồng nghiệp. Nếu dẫn đến không hành nghề được thì phải tính đến thu nhập bị mất. Nếu chỉ giảm khách hàng thì tính đến khoản thu nhập bị giảm sút.
~ Đối với hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người sản xuất kinh doanh mà gây thiệt hại cho việc kinh doanh của người đó thì thiệt hại phải bồi thường có thể là toàn bộ giá trị lô hàng không bán được (đây là thu nhập bị mất) hoặc mức chênh lệch của lợi nhuận. Nếu do hành vi xâm phạm mà hiện nay phải thu hẹp sản xuất, hàng bán chậm thì đây là thu nhập bị giảm sút.
Như vậy khoản thu nhập bị giảm sút chính là khoản chênh lệch trước khi có hành vi gây thiệt hại và sau khi có hành vi gây thiệt hại.
* Những thiệt hại chỉ bồi thường một phần trong quan hệ danh dự, nhân phẩm
Ngoài những thiệt hại vật chất nói trên, hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác còn gây ra những thiệt hại tinh thần. Khoản tiền bù đắp về tinh thần không phải là đại lượng để xác định những thiệt hại về tinh thần mà người bị thiệt hại hoặc người thân thích của họ bị tổn thất bởi lẽ những tổn thất về tinh thần không thể cân, đong, đo, đếm, xác định được một cách chính xác hoặc tương đối chính xác như thiệt hại về vật chất; mức độ tổn thất về tinh thần nhiều hay ít cũng không phụ thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm; cũng không phụ thuộc vào hình thức lỗi của người xâm phạm, mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, bị xa lánh, bị hiểu lầm của người bị thiệt hại hoặc người thân thích của người bị thiệt hại... . Muốn hạn chế, khắc phục những thiệt hại về tinh thần phải dùng nhiều biện pháp như chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai… Tuy vậy, biện pháp buộc người gây thiệt hại về tinh thần phải bồi thường bằng một số tiền nhất định có tác dụng an ủi, động viên là dịu bớt nỗi đau của họ, góp phần giảm bớt những thiệt hại tinh thần mà họ phải gành chịu.
- Những tổn thất tinh thần có thể gồm:
+ Sự đau đớn thể xác hoặc mất tự do
~ Đau đớn về thể xác có thể xảy ra khi nạn nhân đang bị thủ phạm dùng bạo lực tấn công (hiếp dâm, ngược đãi, làm nhục…)
~ Những cơn đau do bệnh tật tạo ra (thủ phạm hiếp dâm..có thể truyền bệnh cho nạn nhân)
~ Sự đau đớn về tinh thần: cảm giác tủi nhục, uất ức, bực bội…ở trạng thái ức chế cao độ có thể gây nên những bất ổn về tâm thần.
~ Mất tự do: có thể do bị tạm giam, bị tù oan
Tóm lại, cảm giác đau đớn về thể xác và tinh thần hoặc bị mất tự do cần phải coi là thiệt hại về tinh thần vì đó là những hiện tượng có thật mà nạn nhân phải gánh chịu.
+ Thiệt hại do mất khả năng vui chơi, giải trí.
Từ các hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm gây nên những tổn thương các bộ phận cơ thể làm mất khả năng thực hiện các chức năng bình thường của con nguời gây nên bệnh tật dẫn làm cho họ lo lắng, buồn phiền, suy giảm niềm vui, niềm lạc quan trong cuộc sống. Nếu hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm kéo dài có thể tạo ra sự khủng hoảng, suy sụp về tinh thần có thể đưa đến các trạng thái bệnh lý tâm thần.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ kịp thời không làm triệt tiêu nguyên tắc tự định đoạt, tự do thỏa thuận của Bộ luật dân sự 2005. Vì vậy các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường thấp hơn so với thực tế hay lựa chọn các phương thức bồi thường (bằng tiền mặt, thực hiện một công việc…) cho phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của các bên. Tuy nhiên, sự thỏa thuận này phải trên cơ sở tự nguyện, không trái với pháp luật và đạo đức xã hội thì mới có giá trị pháp lý.
Trong trường hợp nhiều người cùng có hành vi gây thiệt hại về danh dự,
nhân phẩm cho một hoặc một số người thì họ cũng chịu trách nhiệm liên đới bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người gây thiệt hại được xác định trên cơ sở lỗi của họ. Trong trường hợp không xác định được lỗi của mỗi người thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng nhau cho toàn bộ thiệt hại.
b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường hoặc không phải bồi thường trong các trường hợp đặc biệt.
* Giảm mức bồi thường.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 605 “Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”. Dưới góc độ lý thuyết thì các hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý là thể hiện sự chống đối xã hội cao hơn các hành vi do lỗi vô ý. Do đó nguyên tắc này không đặt vấn đề giảm bồi thường do lỗi cố ý, mà chỉ xem xét giảm bồi thường trong trường hợp người gây thiệt hại do lỗi vô ý. Đây là nguyên tắc cụ thể bổ sung cho nguyên tắc trên nhằm vừa đảm bảo tính khả thi của các quyết định buộc bồi thường, vừa căn cứ và mức độ lỗi để đảm bảo tính hợp lý khi buộc bồi thường. Tuy nhiên quy định này mới chỉ định tính chứ chưa định lượng tức là không quy định cụ thể việc giảm mức bồi thường bao nhiêu, cho nên việc quyết định giảm mức bồi thường trong từng vụ cụ thể phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, mức độ lỗi của người gây thiệt hại. Mặt khác, phải xem mức thiệt hại là lớn hay nhỏ. Nếu thiệt hại không lớn thì dù gây thiệt hại chỉ có lỗi vô ý cũng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nhưng nếu thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại thì cần xem xét để giảm mức bồi thường.
Khi xem xét thiệt hại có quá lớn so với khả năng kinh tế hay không thì không thể chỉ nhìn vào hoàn cảnh kinh tế, thu nhập hiện tại của đương sự mà phải tính đến khả năng thu nhập về sau này của đương sự.
Có những trường hợp ban đầu kẻ vi phạm chỉ có ý định xâm phạm danh dự, nhân phẩm nhưng quá trình diễn biến, kẻ vi phạm đã gây thiệt hại về cả sức khỏe , quyền tự do…thì thiệt hại gây ra càng lớn và mỗi vụ án đều có tình tiết thiệt hại, điều kiện hoàn cảnh của các bên rất khác nhau. Do đó không thể quy định một mức bồi thường chung cho tất cả các vụ án, mà trách nhiệm của Thẩm phán phải xem xét kỹ từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, khi ấn định mức bồi thường cũng phải dựa trên nguyên tắc mỗi công dân đều phải tự chịu trách nhiệm về chính hành vi của mình. Vì thế khi quyết định mức bồi thường phải xem xét đến lỗi của cả hai bên (nguời gây thiệt hại và người bị thiệt hại). Nếu hai bên đều có lỗi thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây nên chứ không phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Phần thiệt hại do chính lỗi của người bị thiệt hại thì không bắt người gây thiệt hại bồi thường.
- Người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thỏa thuận với nhau về mức bồi thường thấp hơn thiệt hại, thì ngay cả trong trường hợp lỗi cố ý nhưng có sự thỏa thuận với người bị thiệt hại về mức bồi thường thấp hơn thiệt hại, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội, được Tòa án công nhận thì người gây thiệt hại được miễn giảm phần bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
* Không phải bồi thường.
Theo quy định tại Điều 617 Bộ luật Dân sự thì nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.
Những trường hợp đó xác định như sau :
- Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó là vô ý hay cố ý, mà người gây thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì người gây thiệt hại không phải bồi thường - Việc gây thiệt hại trong tình huống bất ngờ.
- Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại cũng có lỗi cố ý trong việc gây ra thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Có nghĩa là trong trường hợp, người bị thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín cố ý gây ra thiệt hại này, còn người gây thiệt hại vì lý do nào có (có thể là do chính người bị thiệt hại lợi dụng để thực hiện mục đích) mà vô ý gây ra thiệt hại.
3. Phương thức bồi thường
Về phương thức bồi thường: tùy từng vụ có thể áp dụng bồi thường một lần nhưng có thể bồi thường theo tháng, quý cho đến khi thiệt hại của họ được khắc phục.
Trong trường hợp phải bồi thường trong một thời gian dài thì khi mức bồi
thường không còn phù hợp với thực tế, thì người gây thiệt hại hoặc người bị thiệt hại có thể yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường (khoản 3 Điều 605 Bộ luật Dân sự 2005)
Đồng thời với việc bồi thường về vật chất, người gây thiệt hại phải công khai xin lỗi trước công chúng, đính chính những điều sai sự thật mà người gây thiệt hại đã làm để nhằm lấy lại danh dự, nhân phẩm, uy tín cho người bị hại.
Việc quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về các hình thức bồi thường cũng như việc ấn định thiệt hại khá chi tiết, xét về cơ bản đã đảm bảo được quyền lợi của cả người bị thiệt hại và người gây thiệt hại. Đây được coi là những chuẩn mực pháp lý vững chắc cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như Tòa án làm căn cứ giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung cũng như việc giải quyết bồi thường một cách đúng đắn trên thực tế.
IV. Thực trạng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác & Kiến nghị.
1. Thực trạng
Những năm gần đây, số lượng những vụ việc xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được giải quyết tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tăng lên đáng kể, đặc biệt là số vụ việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Toà án. Mặc dù những vụ việc này chủ yếu được giải quyết tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội và phần lớn liên quan đến cá nhân, tổ chức hoạt động văn học, nghệ thuật, tuy nhiên, điều này cũng chứng tỏ mức độ nhận thức cao hơn của cá nhân, tổ chức về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và hoạt động giải quyết những vụ việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của Tòa án.
Tuy nhiên, thực tế của việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín còn khá nhiều bất cập như :
- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gặp khó khăn trong xác định hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín.
- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gặp khó khăn trong xác định mức bù đắp tổn thất tinh thần. Thực tế, bên bị xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín thường chứng minh tổn thất tinh thần và yêu cầu được bồi thường nhưng mức bồi thường trong bản án, quyết định của Toà án lại rất nhỏ so với tổn thất mà bên bị xâm phạm phải ghánh chịu. Chính vì vậy, bên bị xâm phạm không thấy thoả đáng; bản án, quyết định của Toà án không mang tính thuyết phục, thậm chí còn gây khiếu kiện kéo dài.
Trong lĩnh vực bồi thường tổn thất về tinh thần còn một vấn đề nổi cộm, hết sức bức xúc hiện được rất nhiều người quan tâm đó là việc bồi thường những tổn thất về tinh thần trong các trường hợp bị báo đài đưa tin sai sự thật và đặc biệt là những người bị bắt giam, bị xét xử oan. Những tổn thất về tinh thần của những người này có thể nói là không nhỏ song hiện nay ta chưa có quy định về quy chế cũng như quỹ để giải quyết vấn đề bồi thường này. Mặt khác những tổn thất về tinh thần trong các trường hợp nêu trên không chỉ ở chính những người bị thiệt hại phải gánh chịu mà cả gia đình, những người thân thích của họ phải chịu đựng những tổn thất về tinh thần như nỗi xấu hổ, mất cơ hội việc làm…Do vậy ngoài những tổn thất về tinh thần của chính nạn nhân được bồi thường thì những tổn thất về tinh thần của gia đình, người thân gần gũi nhất với họ có được xem xét giải quyết không?
2. Kiến nghị
Để trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác được áp dụng tốt hơn trong cuộc sống, vấn đề cần hướng đến là cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; đồng thời cần nâng cao nhận thức của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội để quyền này được tôn trọng và bảo vệ tốt hơn. Để làm được như thế, chúng ta phải thực hiện một số biện pháp cụ thể :
- Thường xuyên tổng kết đánh giá tình hình áp dụng pháp luật, nắm bắt tình hình phản ánh Tòa án nhân dân các địa phương về khó khăn vướng mắc xung quanh việc thực hiện những quy định của bộ luật dân sự trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến các quyền nhân thân của các cá nhân trong xã hội.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hữu quan như công an, kiểm sát, tòa án…để xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh nhằm tạo ra quy chế
đồng bộ, hỗ trợ tương tác về hoạt động công vụ thống nhất trong cả nước.
- Liên tục kiện toàn tổ chức bộ máy Tòa án không ngừng tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử nhằm đáp ứng kịp nhu cầu xét xử trong tình hình kinh tế - xã hội hiện nay.
- Đối với các vụ án do xâm phạm danh dự, nhân phẩm mà người gây thiệt hại bị Tòa án buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai theo quy định của khoản 3 Điều 307 Bộ luật dân sự thì Tòa án nhân dân các cấp nên tổ chức đưa các vụ án này về xét xử lưu động tại địa phương nơi xảy ra sự việc để tạo điều kiện cho người gây thiệt hại có thể xin lỗi và cải chính công khai trước nhân dân địa phương, nhằm giải tỏa một phần những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
- Đẩy mạnh công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật sâu rộng trong nhân dân. Đây sẽ là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống bằng các hình thức như tổ chức các câu lạc bộ về pháp luật, các cuộc thi về tìm hiểu luật…
KẾT LUẬN
Hiến pháp 1992 đã khẳng định quyền nhân thân là một quyền cơ bản của con người. Chính vì thế, mỗi người đều có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín của mình. Khi quyền này bị xâm phạm, thì cần thiết người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mình đã gây ra. Vì thế, nên ngoài Hiến pháp, còn có những văn bản pháp luật khác đã đề cập đến vấn đề này.
Khi mỗi người được đảm bảo những quyền tối thiểu như vậy, họ có thể yên tâm lao động, công tác, xây dựng một xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện hơn nữa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2 – Trường Đại học Luật Hà Nội
NXB Công an nhân dân.
Bộ luật dân sự năm 2005 NXB
NXB Lao động.
Tham khảo sách : Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng. – TS Phùng Trung Tập.
NXB Hà Nội.
Luận án thạc sĩ luật học - Lê Thị Bích Lan - Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và uy tín
“Một số ý kiến về khoản tiền bù đắp về tinh thần do bị xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ,danh dự, nhân phẩm, uy tín quy định tại Bộ luật dân sự” – Bài viết của Chánh tòa Tòa hình sự Đinh Văn Quế.
“Nguyên tắc tính mức bồi thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm hại” – Bài viết của Chánh tòa Tòa dân sự Tưởng Duy Lượng.
Website : thongtinphapluatdansu.wordpress.com
ledinhnghi.net
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.doc