Ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về các nhóm giải
pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Liên quan đến quản lý hoạt động kinh
doanh vàng, Chính phủ đã chỉ đạo: “Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong
quý II năm 2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh
vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng
miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên
giới”.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, đồng thời căn cứ vào thực tế của thị trường vàng
Việt Nam và các kết quả đã đạt được trong thời gian qua, Nghị định được xây dựng theo
hướng tổ chức lại thị trường vàng thông qua việc NHNN quản lý chặt chẽ và can thiệp
mạnh vào thị trường vàng nhằm ngăn ngừa hoạt động đầu cơ vàng, hạn chế kinh doanh
vàng miếng nhưng vẫn đảm bảo quyền tích trữ vàng, mua bán vàng của người dân.
26 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3426 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trình bày thực trạng thị trường vàng thế giới - Việt Nam từ 2008-2011, bình luận giải pháp quản lý thị trường vàng ở Việt Nam trong giai đoạn này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Trình bày thực trạng thị trường vàng thế giới –
Việt Nam từ 2008 – 2011. Bình luận giải pháp quản
lý thị trường vàng ở Việt Nam trong giai đoạn này
2
1. Quan điểm về vàng: Vàng vừa là hàng hóa, mà vàng cũng là vừa là
tiền.
Vàng trang sức thì là hàng. Bây giờ chúng ta bàn về vàng miếng.
Vàng miếng dùng làm công cụ tích trữ, mua bán, thậm chí dùng để đầu cơ, "lướt sóng"...
đều xem là hàng cả.
Vàng chỉ là tiền khi nó là phương tiện thanh toán. Vậy vàng là phương tiện thanh toán khi
nào? Có ai mua một mớ rau, và nhiều hơn là tivi, tủ lạnh... mà mang vàng ra thanh toán
không? Tính chất tiền của vàng không phát huy được trong các giao dịch thiết yếu hàng
ngày cho nên nó không thể thay thế tiền.
Vàng không thể thay thế tiền không có nghĩa là vàng không phải là tiền. Có thể nói vàng
là "tiền mặt có mệnh giá lớn". Do đó, vàng chỉ là tiền khi còn tồn tại những giao dịch có
3
giá trị lớn mà vì lý do nào đó các bên giao dịch lại muốn thanh toán bằng tiền mặt chứ
không muốn thông qua ngân hàng.
Giao dịch có giá trị lớn cũng là nhu cầu chính đáng, không thể xóa bỏ được. Vì vậy vàng
cũng là tiền.
2. Các yếu tố ảnh hưởng tới giá vàng
2.1 Các yếu tố ảnh hưởng tới giá vàng
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới giá vàng. Các yếu tố quan trọng nhất có thể kể
đến bao gồm : lạm phát, giá dầu, giá trị đồng USD, tình hình địa chính trị thế giới, khủng
hoảng kinh tế, cung và cầu vàng vật chất, chu kỳ mùa, lượng dự trữ của các ngân hàng
trung ương, yếu tố hành vi - tâm lý và các mức cản kỹ thuật của các chuyên gia phân
tích,… Trong thời gian gần đây, sự thao túng của giới đầu cơ đã làm nhiễu loạn thị trường
trong một số thời điểm.
2.1.1. Các Ngân Hàng Trung Ương:
Các NHTW giữ một vai trò quan trọng trong ảnh hưởng đối với giá vàng. Xu hướng
các NHTW ngày càng gia tăng dự trữ bằng vàng thay thế USD. Ngoài việc mua bán vàng,
các NHTW còn tác động đến hoạt động cho vay, hoán đổi và các công cụ phái sinh khác.
Hầu hết các NHTW đều phải báo cáo lượng vàng dự trữ họ đang nắm giữ cho Quỹ Tiền
Tệ Thế Giới IMF vào cuối mỗi tháng. Tuy nhiên có một số NHTW mà lượng vàng họ
nắm giữ không dùng vào mục đích dự trữ nên sẽ không báo cáo cho IMF.
Lượng bán vàng cam kết của các NHTW: hiệp ước CBGA gồm 2 giai đoạn từ năm 1999
đến 2004 và từ 2004 đến 2009, các NHTW đã ký cam kết “Hiệp Ước Bán Vàng Của Các
Ngân Hàng Trung Ương” giai đoạn 2 vào 8/3/2004,bao gồm các NHTW của EU, Thụy Sĩ
và Thụy Điển đồng ý giới hạn lượng vàng bán ra của họ trong vòng 5 năm bắt đầu từ
28/9/2004, các thành viên hiệp ước đồng ý cam kết khối lượng bán tối đa là 2500 tấn. Tuy
nhiên cho đến giờ lượng bán của họ thường không đủ như đã ký kết.
2.1.2. Lạm phát :
Giá vàng thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng của lạm phát
Trong thời kỳ lạm phát cao, tiền giấy mất giá người ta có xu hướng đầu tư vào vàng
4
để giữ giá trị tài sản, vàng là tài sản hữu hiệu để tích trữ và giá trị không tùy thuộc vào
sức khỏe bất kỳ nền kinh tế nào. Vàng là công cụ tài chính hữu hiệu để phòng ngừa lạm
phát. Thông thường để đối phó với tình trạng lạm phát tăng cao, thị trường có khuynh
hướng mua vàng với kỳ vọng giá trị tài sản sẽ không bị giảm sút .Các quỹ đầu tư, đầu cơ
cũng mua vàng với mục tiêu là sử dụng vàng như một phần tài sản đảm bảo giá trị quỹ
trong trường hợp lạm phát cao hay kinh tế suy thoái, giá chứng khoán sụt giảm….
2.3. Giá dầu:
Một quy luật bất thành văn trên thị trường từ trước đến nay là giá vàng thông
thường luôn luôn tăng gấp 10 lần so với giá dầu.Do giá dầu có khả năng tác động mạnh
đến lạm phát nên nó cũng sẽ tác động mạnh đến giá vàng.
2.4. Bất ổn địa - chính trị:
Khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh, khủng bố, thiên tai… : là
các yếu tố tác động mạnh tới giá vàng. Vàng là nơi trú ẩn an toàn khi có bất ổn xảy ra !
2.5. Cung và cầu vàng vật chất:
Nhu cầu tiêu thụ: nhu cầu tích trữ, làm nữ trang, dùng trong công nghiệp…ngày một
tăng làm giá vàng tăng theo. Điều này thể hiện rõ nét trong chu kỳ kinh doanh vàng đặc
biệt của một số nước như mùa cưới hỏi ở Ấn Độ, dịp tết ở Trung Quốc,…Lượng cầu tăng
làm giá vàng tăng và ngược lại.
Lượng sản xuất: Theo Hội Đồng Vàng Thế Giới, khối lượng vàng sản xuất được
trong các năm gần đây khoảng 2500 tấn/năm. Khối lượng sàn xuất vàng của các công ty
khai thác vàng hàng đầu thế giới cũng tác động không nhỏ tới giá vàng. Hiện tại, Úc,
Trung Quốc, Châu Phi là những nơi sản xuất vàng chủ yếu của thế giới.
2.6. Giá trị đồng USD:
Giá trị USD có tương quan tỷ lệ nghịch với giá vàng. Chính vì thế, việc kinh doanh
vàng phải đặc biệt theo dõi sức khỏe của nền kinh tế Mỹ và giá trị đồng USD.
2.7. Các mức giá tâm lý và kỹ thuật:
Các mức giá tâm lý và kỹ thuật ảnh hưởng lớn tới hành động mua và bán trên thị
trường vàng. Hiện tại, mức giá “1000” đang là mức tâm lý vô cùng quan trọng.
Các mức cản tâm lý khác đã tác động nhiều đến giá vàng trong quá khứ như : 500, 600,
700, …
5
Các mức cản kỹ thuật do các chuyên gia khuyến cáo như 950 , 992, ..hoặc các mức
giá đã xuất hiện trong quá khứ như 732, 850, …tác động rất lớn đến các lệnh mua , bán
hoặc dừng lỗ, chốt lời.
2.8. Sức khỏe các nền kinh tế lớn:
Việc phân tích sức khỏe của các nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ, đồng thời với việc phân
tích giá trị các đồng tiền giúp ích rất nhiều đến việc kinh doanh vàng.
2.9. Một số yếu tố khác:
Sự can thiệp của chính quyền vào quá trình khai thác khoáng sản cũng ảnh hưởng
lớn tới giá vàng. Chính sách của quản lý tài chính của các chính quyển cũng là một yếu tố
cần xem xét khi đầu tư vàng.
Tin tức liên quan đến các công ty khai thác vàng, các mỏ vàng, …cũng ảnh hưởng
đáng kể tới giá vàng.
Việc kinh doanh vàng trên sàn giao dịch ETFs: sự ra đời của loại hình kinh doanh
này đã tạo nên cơ hội kinh doanh vàng thuận tiện, hiệu quả cao cho giới đầu tư và là một
trong những nhân tố tác động đến giá vàng tăng cao trong những năm gần đây.
Giới đầu cơ đang có nhiều động thái tác động nhiều đến giá vàng thế giới. Sự phân
tích kỹ hành động của giới đầu cơ có thể giúp ích cho hoạt động kinh doanh vàng.
Tâm lý người tiêu dùng bắt đầu quen với việc giá vàng tăng cao. Tâm lý đám đông
thường xuất hiện khi giá vàng tăng mạnh hay giảm mạnh.
Quá trình bảo hiểm của các nhà sản xuất vàng lớn: các công ty sản xuất vàng thường
có chiến lược bảo hiểm giá vàng cho số lượng vàng sản xuất theo kế hoạch trong tương
lai thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ như forward, option,.. tuy nhiên quá trình này
không phải lúc nào cũng được thực hiện mà tùy theo chu kỳ biến động giá vàng. Thường
thì khi giá vàng đang trong chu kỳ tăng mạnh thì các nhà sản xuất tính toán lại và hạn chế
việc bán trước lượng vàng sẽ sản xuất.
Giá kim loại khác như đồng, bạch kim,…cũng có tác động tới giá vàng theo tỷ lệ
thuận.
Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng chung đến giá vàng thế giới và giá vàng trong
nước
6
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng thế giới:
- Sự biến động của giá đô la Mỹ - lãi suất tiền gởi của Mỹ.
- Sự biến động của giá dầu.
- Mức độ lạm phát của nền kinh tế Mỹ.
- Một số chỉ số của nền kinh tế Mỹ.
Các yếu tố ảnh hưởng giá vàng trong nước:
- Giá vàng trên thế giới.
- Cung cầu của các nhà đầu tư và thị trường trang sức.
- Chính sách về vàng của các ngân hàng, công ty vàng bạc đá quý lớn.
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng Việt Nam
Giá vàng trong nước chịu ảnh hưởng của giá vàng thế giới và tỷ giá VND/USD với hai
nhóm nhân tố ảnh hưởng sau đây:
2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ trong nước:
- Tình hình sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu của các ngành, các cấp, các thành phần
kinh tế.
- Tình hình tài chính, thu chi ngân sách Nhà nước.
- Các chính sách kinh tế, thuế, lãi suất, tiền tệ, tín dụng, giá cả, lưu thông, phân phối, tổ
chứ quản lý xí nghiêp, đầu tư trong và ngoài nước.
- Năng lực điều hành vĩ mô: các biện pháp can thiệp bằng kinh tế, tài chính.
- Tình hình thu nhập quốc dân, thu nhập cá nhân.
- Tình hình lạm phát, các chỉ số giá cả, mặt bằng giá.
- Tâm lý người dân sợ lạm phát và bảo toàn vốn trong kinh doanh.
- Các điều kiện về an ninh, quốc phòng, chính trị và đối ngoại...
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng từ nước ngoài:
- Tình hình giá cả thị trường, cung cầu các nước.
- Mức độ cạnh tranh của thế giới về từng loại mặt hàng.
7
- Tình hình tiền tệ, tín dụng-đầu tư của các nước.
- Các chính sách về thuế và bảo hộ mậu dịch.
- Tình hình chính trị, quân sự và bang giao quốc tế.
- Tình hình thời tiết, khí hậu ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá.
Trên đây là một số phân tích các nguyên nhân chủ yếu tác động vào giá vàng tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Thực tế vẫn còn nhiều nguyên nhân khác, nhiều nhân tố khác
tham dự.
Nếu muốn nhận định, phân tích và dự đoán đúng giá vàng, giá dollar trên thị trường
đòi hỏi phải tập hợp đầy đủ các nguồn thông tin chính xác ở mỗi thời điểm, ở mỗi khu
vực. Việc tập hợp thông tin như vậy, hiện đang là một khó khăn lớn nhất cho các đối
tượng liên quan đến thị trường vàng, dollar. Vì thế, giá vàng, giá dollar vẫn luôn là một
dấu hỏi lớn.
3. Số liệu biến động vàng ở thị trường Việt Nam.
Biểu đồ giá vàng trong 5 năm qua:
(Nguồn: giavanghomnay.com)
8
3.1 Diễn biến của giá vàng trong nước tại một số thời điểm năm 2008.
Quý I: giá vàng tăng liên tục từ đầu năm cho đến giữa tháng 3 từ mức
16,000,000-19,700,000VND/lượng. Đây là thời kỳ mà nhu cầu vàng vật chất trên thị
trường lên cao nhất khi các dịp lễ hội tập trung vào thời kỳ này (Tết Tây, Tết Nguyên
đán…), cùng với giá vàng quốc tế tăng chưa từng có và đạt mức giá kỷ lục vào giữa tháng
3 ($1032.20/Oz), thị trường nội địa chứng kiến giá vàng chạm mức
19,700,000VND/lượng trong ngày 17/3. Cũng trong quý này, con số nhập khẩu vàng
nguyên liệu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục khi lên đến 43 tấn vàng – đã bằng một nửa
khối lượng vàng nhập khẩu trong cả năm 2007. Đây là giai đoạn hiếm có trong lịch sử thị
trường vàng nội địa: khối lượng nhập khẩu cực kỳ lớn khi giá vàng quốc tế liên lục tạo
đỉnh mới, điều này được lý giải bởi nguyên nhân là tỷ giá USD/VND trượt mạnh vào giai
đoạn này từ mức trên 16,000 trở về mức khoảng 15,500.
Quý II: giá vàng biến động trong biên độ giá từ 17,000,000-
19,400,000VND/lượng, đây cũng là giai đoạn mà thị trường vàng nội địa giao dịch khá
sôi động cùng với hàng loạt sự kiện liên quan trực tiếp đến sự biến động giá vàng. Tỷ giá
USD/VND tăng liên tục từ mức 16,100-19,400, vượt hơn 3,300VND mỗi USD so với
mức giá trần theo quy định, NHNN quyết định tăng thuế nhập khẩu vàng từ mức 0.5% lên
đến 1% vào đầu tháng 5, tăng biên độ giao dịch USD/VND từ 1% lên 2% vào cuối tháng
6. Hoạt động nhập khẩu vàng thời kỳ này thu hẹp lại với các chính sách hạn chế nhập
khẩu vàng từ Chính phủ, NHNN cấp phép cho 1 số tổ chức xuất khẩu vàng miếng – 1 sự
kiện hiếm có trước đây.
Quý III: vàng trượt giá mạnh so với các quý trước, từ mức trên 19,000,000
VND/lượng vào nửa đầu tháng 7 trượt mạnh xuống mốc 17,000,000VND/lượng. Giá
vàng ở mức cao vào nửa đầu tháng 7 khi áp lực lạm phát tăng cao ở khắp nơi trên thế
giới, giá dầu thô giao dịch ở thị trường nước ngoài đã tạo đỉnh $147.27/thùng vào ngày
11/7, giá xăng dầu trong nước cũng được điều chỉnh tăng mạnh và đạt mức tăng cao nhất
9
trong lịch sử khi tăng đến 4,500VND mỗi lít trong 1 lần điều chỉnh giá. Giá vàng trượt
mạnh vào cuối quý III này khi giá vàng quốc tế giảm mạnh xuống dưới mốc $750.00/Oz,
giá năng lượng điều chỉnh giảm dần cùng với thị trường USD/VND hạ nhiệt, nhu cầu mua
vàng trong nước tăng cao khi NHNN không cho phép các tổ chức kinh doanh vàng nhập
khẩu vàng, giá vàng quốc tế quy đổi thấp hơn giá vàng trong nước có lúc hơn
1,000,000VND/lượng.
Quý IV: giá vàng trong quý này dao động giữa mức 16,400,000-18,200,000
VND/lượng, thị trường chứng kiến nhiều giai đoạn thị trường vàng giao dịch trầm lắng
khi giá vàng được giao dịch ở mức thấp trong một thời kỳ dài. Giá vàng quốc tế quy đổi
có lúc thấp hơn giá vàng trong nước 2,000,000VND/lượng vào đầu quý và khoảng chênh
lệch này điều chỉnh ngược lại vào thời điểm gần cuối quý.
Điểm lại thị trường vàng nội địa 1 năm qua, có thể nói rằng kênh đầu tư này ngày
càng thu hút nhiều nhà đầu tư, nhu cầu mua vàng trên thị trường không chỉ thuần túy là để
“cất làm của” mà người dân đã linh hoạt hơn trong việc mua khi giá giảm và bán ra khi
giá điều chỉnh tăng. Cùng với sự xuất hiện thêm khá nhiều sàn giao dịch vàng, các nhà
đầu tư linh hoạt hơn trong việc chọn lựa sân chơi phù hợp, hoạt động đầu tư trong lĩnh
vực này ngày càng chuyên nghiệp hơn.
Diễn biến giá vàng thị trường nội địa trong năm 2008
3.2 Những điểm nỗi bật của thị trường vàng Việt Nam năm 2009.
10
Năm 2009 chứng kiến sự xuất hiện liên tiếp những mốc giá vàng chưa từng
có trong lịch sữ, đồng thời cũng ghi nhận những biện pháp can thiệp tích cực nhằm bình
ổn thị trường của ngân sách Nhà nước.
Trong 3 quý đầu năm 2009, giá vàng đã đi ngang trong biên độ rộng, dù có
thời điểm quay trở lại trên mốc 1.000 USD/ounce. Lý giải cho điều này, là khi đó chưa ai
biết được khủng hoảng sẽ kéo dài bao lâu và khi nào là đáy, do đó giới đầu tư chưa hoàn
toàn mạnh tay đổ tiền vào thị trường kim loại quý này. Trong khi đó, giai đoạn 9 tháng
đầu năm cũng chưa đến mùa vàng vật chất.
Thị trường vàng chỉ thật sự tăng mạnh trong quý 4/2009 và dấu mốc quan
trọng nhất của thị trường vàng trong năm qua có lẽ là việc phá vỡ mức kỷ lục 1.033
USD/ounce vào ngày 6/10, cũng như việc thiết lập mức kỷ lục mới tại 1.226,5
USD/ounce vào ngày 2/12.
Việc đồng USD liên tục mất giá đã khiến các ngân hàng trung ương muốn đa
dạng hóa kho dự trữ ngoại hối bằng cách mua vàng. Trong khi đó, một phần trong kế
hoạch bán ra 403 tấn vàng của IMF cũng đã tìm được chủ nhân. Những yếu tố này đã
khiến thị trường đạt mức kỷ lục cao nhất moi thời đại tại 1.226.
Nhưng kể từ mức kỷ lục đó, giá vàng đã sụt giảm liên tục và hiện tại rớt về
dưới 1.100 USD/ounce. Tuy nhiên, giá vàng đã không giảm đột ngột như lo ngại của các
nhà đầu tư. Do dòng tiền chảy vào thị trường vàng là dòng tiền dài hạn, không phải là
dòng tiền nóng, nên việc rút ra nhanh hay chậm sẽ còn tùy thuộc vào tình hình nền kinh
tế.
Năm 2009 cũng chứng kiến hoạt động mua vào mạnh mẽ của các quỹ đầu cơ
vàng, mà cụ thể là quỹ SPDR Gold Trust. Trong khi đó, các công ty khai thác vàng như
Barrick Gold cũng đẩy mạnh việc mua trở lại các hợp đồng phòng hộ giá đã ký trước đó
khi thấy giá vàng tăng mạnh mẽ.
Lượng giao dịch trong thị trường cũng đạt mức kỷ lục chưa từng có, với số
lượng hợp đồng đầu cơ lên mức cao chưa từng thấy trên sàn COMEX trong tháng 11.
11
Nhìn chung, năm 2009, nhất là thời điểm quý 4 là quãng thời gian tuyệt vời nhất của thị
trường kim loại quý này tính từ trước đến giờ.
3.3 Diễn biến giá vàng các quý năm 2010 của Việt Nam.
Cuối quý 1/2010, giá vàng SJC giao dịch tại mức 26,13 – 26,19 triệu
đồng/lượng (mua vào – bán ra). Giá vàng SBJ tại Sacombank ở mức 26,08 – 26,12 triệu
đồng/lượng. Giá vàng rồng Thăng Long tại Bảo Tín Minh Châu ở mức 26,05 – 26,15 triệu
đồng/lượng.
Cuối quý 2/2010, giá vàng SJC giao dịch tại mức 28,54 – 28,62 triệu
đồng/lượng (mua vào – bán ra). Giá vàng SBJ tại Sacombank ở mức 28,54 – 28,62 triệu
đồng/lượng.
Ngày giao dịch ấn tượng của quý 2/2010: Ngày 02/05/2010, người dân đổ xô đi
mua vàng sau khi giá vàng hạ 1,5 triệu đồng/lượng chỉ sau 1 đêm. Yếu tố khác khiến giá
vàng giảm sâu trong thời điểm này còn là bởi Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các doanh
nghiệp lớn tăng cung vàng.
Tuy nhiên giá vàng chỉ giảm được 3 ngày, lực mua quá lớn khiến giá vàng lên lại
mức 26,48 triệu đồng/lượng vào ngày 11/02.
Tỷ giá đôla Mỹ vào ngày 11/02/2010 cũng lên cao và đến 11h trưa cùng ngày ở
mức 19.800 đồng Việt Nam/USD.
Cuối quý 3/2010, giá vàng SJC giao dịch tại mức 31,21 – 31,25 triệu
đồng/lượng (mua vào – bán ra). Giá vàng SBJ tại Sacombank ở mức 26,08 – 26,12 triệu
đồng/lượng. Giá vàng rồng Thăng Long tại Bảo Tín Minh Châu ở mức 31,17 – 31,23 triệu
đồng/lượng.
Tỷ giá đôla Mỹ tại Hà Nội ở mức 19.640 – 19.690 đồng Việt Nam/USD, trong
ngày giao dịch đã có lúc giá đôla Mỹ vượt mức 19.700 đồng Việt Nam/USD.
12
Diễn biến giá vàng SJC trong năm 2010 (Nguồn:SJC)
Quý 4/2010, sự hỗn loạn trên thị trường vàng bắt đầu từ ngày 08/11/2010 khi
người dân đổ xô nhau đi mua vàng, phiên giao dịch ngày 09/11/2010 lịch sử, giá vàng lập
đỉnh cao chưa từng có. Giá vàng SBJ giao dịch ở mức 37,00 – 37,40 triệu đồng/lượng
(mua vào – bán ra). Giá vàng SJC ở mức 36,50 – 37,02 triệu đồng/lượng. Giá vàng rồng
Thăng Long ở mức 36,90 – 37,30 triệu đồng/lượng.
Giá vàng chốt ngày thấp hơn khoảng 800 nghìn đồng/lượng so với mức đỉnh 38,2
triệu đồng/lượng đã thiết lập trong ngày.
Tỷ giá đôla Mỹ tại một số điểm quy đổi ở Hà Nội trong ngày tại mức 21.000 –
21.200 đồng Việt Nam/USD (mua vào – bán ra), mức đỉnh cao được thiết lập trong ngày
là 21.500 đồng Việt Nam/USD.
Tại Hà Nội, có hiện tượng một số cửa hàng ngừng giao dịch ngoại tệ vì không còn
đôla để bán ra. Chênh lệch giữa giá mua và bán vàng nhiều lúc lên tới hơn 1 triệu
đồng/lượng. Đến cuối ngày kỷ lục 09/11, các doanh nghiệp kinh doanh vàng vẫn thận
trọng giữ mức chênh lệch lớn giữa giá mua và bán vàng, mức chênh lệch phổ biến từ
400.000-500.000 đồng mỗi lượng.
13
Cùng thời gian này năm 2009, giá vàng lập kỷ lục. Ngày 11/11/2009, giá vàng lên
kỷ lục 29 triệu đồng/lượng. Trưa ngày 11/11/2009, Ngân hàng Nhà nước công bố cho
phép nhập vàng, giá vàng hạ sâu xuống dưới 25 triệu đồng/lượng.
Chốt phiên giao dịch ngày 30/12/2010, giá vàng SJC ở mức 36,04 – 36,12 triệu
đồng/lượng. Giá vàng SBJ cuối ngày 30/12/2010 ở mức 36,07 – 36,10 triệu
đồng/lượng.
Như vậy so với cuối năm 2009, giá vàng SJC đã tăng 9,53 – 9,51 triệu đồng/lượng
(mua vào – bán ra).
3.4 Diễn biến vàng và những mốc tăng giảm ngoạn mục của giá vàng năm
2011.
Thị trường vàng năm 2011 có thể chia thành 2 giai đoạn: nửa đầu năm 2011 và
nửa cuối năm 2011.
Giai đoạn đầu của năm 2011, giá vàng khá bình ổn, dao động mức 35 – 40 triệu
đồng/lượng. Đỉnh đầu tiên trong năm 2011 được thiết lập vào ngày 19/02 ở mức 38,5
triệu đồng/lượng, vượt mức đỉnh 38,2 triệu đồng/lượng đã được thiết lập ngày
09/11/2010.
14
Đồ thị diễn biến giá vàng từ đầu năm 2011 đến ngày 23/09/2011
Suốt trong vòng 5 tháng sau đó giá vàng dao động quanh mốc 38 triệu đồng/lượng.
Từ nửa cuối năm 2011, giá vàng lên cơn sốt khi liên tục phá vỡ các mốc quan
trọng. Đến ngày 19/07, giá vàng trong nước tăng theo giá vàng thế giới lên mức kỷ lục
mới 39,59 triệu đồng/lượng. Tháng 8 là tháng diễn biến của giá vàng có nhiều đợt tăng
đột biến. Trong tháng, chỉ có một phiên giảm duy nhất là vào ngày 10/8 sau quyết định
Ngân hàng Nhà nước cho phép nhập khẩu 5 tấn vàng. Tuy nhiên, ngay sau đó, giá vàng
lại tăng giá khá mạnh và liên tiếp những ngày sau đó giá vàng liên tục phá vỡ kỷ lục của
chính nó Ngày 23/08, giá vàng đạt mức 49 triệu đồng/lượng, tăng 36% so với mốc 36
triệu đồng/lượng cuối năm 2010.
15
Đồ thị diễn biến giá vàng trong tháng 08/2011
Khách hàng phải mua vàng trong nước với giá “đắt hơn” vàng thế giới từ 1 đến 2
triệu đồng/lượng, thậm chí ở những thời điểm giá vàng lên cơn sốt, khoảng cách chênh
lệch có thể lên tới trên 3 triệu đồng/lượng là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các
nhà đầu tư vàng trong nước trong nửa cuối năm 2011. Nếu như trong khoảng nửa đầu
năm 2011, đặc biệt trong giai đoạn từ tháng 3 đến gần cuối tháng 6, giá vàng trong nước
dao động từ 37 – 38 triệu đồng/lượng, thấp hơn giá vàng thế giới quy đổi thì bước sang
nửa cuối năm 2011, kể từ tháng 7 giá vàng trong nước bắt đầu cao hơn giá vàng thế giới
quy đổi. Khoảng cách trên lệch đó vẫn tiếp tục kéo dài cho đến cuối năm 2011, bất chấp
các biện pháp bình ổn giá vàng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, nguyên nhân chính
yếu khiến giá vàng trong nước vẫn chưa “liên thông” với giá vàng thế giới là do NHNN
quá chú trọng đến việc sử dụng các công cụ quản lý hành chính mang tính tình thế chỉ có
tác dụng nhất thời như cho phép nhập khẩu vàng khi thị trường biến động mạnh, cho phép
ngân hàng được bán vàng huy động, hướng đến việc sử dụng vàng SJC như một thương
hiệu vàng miếng duy nhất...
4. Thị trường vàng (TTV) thế giới thời gian qua.
16
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, các hình thái tiền tệ
khác nhau đã ra đời và không ngừng phát triển nhằm đáp ứng, mở đường cho sự phát triển
của các nền kinh tế, thúc đẩy khu vực hoá, toàn cầu hoá. Các công cụ đầu tư cũng gia tăng
mạnh, với sự bùng phát của thị trường tài chính, thị trường hàng hoá cả về qui mô và tốc
độ luân chuyển.
Tuy nhiên, bất ổn và rủi ro cũng có xu hướng gia tăng. Một mặt, tiền dấu hiệu (giấy
bạc ngân hàng, tiền đúc lẻ, tiền điện tử…) thiếu cơ sở ổn định vững chắc và thực tế luôn
chịu các áp lực giảm giá (do thâm hụt ngân sách của các Chính phủ và các vấn đề chính
trị, xã hội, tiêu cực,…). Tốc độ lưu chuyển tiền tệ ngoài ngân hàng nhanh, cộng với sự
tinh vi, phức tạp của các sản phẩm đầu tư đi kèm với các rủi ro tiềm ẩn, khó lường.
Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998 và gần đây hơn là khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2007 là các minh chứng cụ thể. Trong bối cảnh như vậy, vai trò của vàng với tư cách
của một công cụ tiền tệ, một công cụ đầu tư đã phát triển mạnh mẽ.
Thứ nhất: phải kể đến việc cất trữ, bảo toàn giá trị tài sản trước các rủi ro tiền tệ
của các chế độ tiền danh nghĩa.
Trước các áp lực mất giá của tiền ngân hàng, đặc biệt là sự mất giá của USD trong thời
qua và sự leo thang của lạm phát hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007, Ngân hàng
Trung ương (NHTW) các nước đã điều chỉnh dự trữ ngoại hối quốc gia, chuyển qua mua
ròng vàng sau 2 thập kỷ đóng vai trò nguồn cung ổn định cho thị trường. Năm 2009,
NHTW Trung Quốc mua vào 450 tấn vàng, Ấn Độ mua 200 tấn, Nga mua 71 tấn,… Hiện
nay, Mỹ là quốc gia dẫn đầu về dự trữ vàng thế giới với 8.133 tấn chiếm 78,9% dự trữ
ngoại hối quốc gia, tiếp đó là Đức (3.412 tấn, 71,5%), Ý (2.702,6 tấn, 66,5%), Pháp
(2.987 tấn, 72%)(i)…
Động thái cất trữ vàng của khu vực tư nhân cũng tăng mạnh, đặc biệt là từ những
năm đầu thế kỷ 21. Ngoài áp lực mất giá của các đồng nội tệ, sự bùng phát cất trữ vàng
khu vực tư nhân còn gắn liền với việc nới lỏng quyền sở hữu vàng cá nhân của một số
quốc gia, trong đó phải kể đến Trung quốc, Ấn độ.
Thứ hai: Vàng và các sản phẩm đầu tư vàng trở thành các công cụ đầu tư hấp dẫn
trong nền kinh tế
17
Xu hướng tăng giá vàng: Thống kê giá vàng của USA Gold, giá vàng trên thế giới đã
đảo ngược trạng thái từ năm 2001, liên tục tăng và tăng mạnh kể từ cuối năm 2005. Đáng
chú ý là sự ổn định tương đối của giá vàng trong thập kỷ 90 không phản ánh thực chất
cung – cầu TTV thế giới. Một trong những lý do cơ bản là do các NHTW và các công ty
khai thác vàng kết hợp giữ giá vàng ở mức thấp. Bên cạnh đó, quyền sở hữu vàng cá nhân
cũng được quản lý chặt chẽ. Diễn biến trên TTV thời gian gần đây phản ánh thực chất
hơn tương quan cung cầu vàng. Ngoài nhu cầu vàng với mục tiêu cất trữ, đảm bảo giá trị
tài sản, đặc biệt trong điều kiện rủi ro tiềm ẩn, thì nhu cầu vàng cho mục đích sản xuất,
tiêu dùng cũng tăng nhanh. Theo thống kê của Hiệp hội vàng thế giới (WGC), 9 tháng đầu
năm 2010, tổng lượng vàng trang sức toàn cầu lên tới 1.468 tấn, tăng 18% so với cùng kỳ
năm 2009. Nhu cầu vàng trang sức đã tăng nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các
nền kinh tế Châu Á và tâm lý chuộng sử dụng vàng trang sức của khu vực này, đặc biệt là
Trung quốc, Ấn độ. Bên cạnh đó nhu cầu vàng phục vụ sản xuất cũng tăng mạnh cùng với
sự bùng nổ của các ngành công nghiệp ứng dụng, sự phát triển của ngành nha khoa. Cũng
theo WGC, trong 9 tháng đầu năm 2010, nhu cầu vàng phục vụ sản xuất tăng 19% so với
cùng kỳ năm trước. Đóng góp vào tổng cầu vàng, còn có nhu cầu đầu cơ vàng, gắn liền
với xu thế tăng giá vàng. Hệ quả là, tổng cầu vàng có xu hướng tăng mạnh, vượt so với
tổng cung vàng khoảng 3% năm 2010, kéo dài chuỗi tăng giá vàng trong vòng 10 năm
liên tiếp.
Thứ ba: Mức độ sinh lợi từ đầu tư vàng tương đối cao so với các sản phẩm đầu tư
khác, trong khi mức độ rủi ro thị truờng tương đối thấp .
Giá vàng liên tục tăng và mức tăng lên tới 29% trong năm 2010, đưa vàng trở thành một
kênh đầu tư có khả năng sinh lời cao hơn nhiều so với các kênh đầu tư khác, khi chỉ số
hàng hóa S&P Goldman Sachs tăng 20%, chỉ số S&P 500 tăng 13%, chỉ số MSCI của Thị
trường chứng khoán thế giới (không tính thị trường Mỹ) tăng 6% (tính theo USD) và chỉ
số tổng hợp trái phiếu chính phủ Mỹ Barclays tăng 5,9%(iii ).
Báo cáo của WGC cũng cho thấy, bên cạnh khả năng sinh lời cao, đầu tư vàng còn
hấp dẫn bởi mức độ biến động của giá vàng ở mức tương đối thấp, 16,1% trong suốt cả
năm 2010, mức biến động thấp nhất trong số các hàng hoá thuộc phạm vi giám sát của
18
WGC, thấp hơn đáng kể so với mức biến động giá của các loại hàng hóa thuộc S&P
Goldman Sachs Commodity Index là 21% (tính theo giá giao dịch hàng ngày).
Thứ tư: TTV thế giới phát triển mạnh mẽ.
Thập kỷ qua, TTV thế giới đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Ngoài đầu tư
vàng thỏi, vàng đúc (vàng vật chất), các hình thái đầu tư vàng hiện đại đã phát triển mạnh,
cho phép các tô chức, cá nhân tiếp cận, tham gia vào TTV dễ dàng hơn. Các hình thức
đầu tư đáng quan tâm là các quỹ kinh doanh vàng (ETFs), đầu tư qua tài khoản, sản phẩm
phái sinh vàng, cổ phiếu của các công ty khai thác vàng…, trong đó các sản phẩm ETPs
được giao dịch như các cổ phiếu trên các Sở giao dịch chứng khoán, còn các sản phẩm
phái sinh vàng được giao dịch trên các Sở giao dịch hàng hoá hoặc Sở giao dịch sản phẩm
phái sinh. Theo báo cáo của WGC, đầu tư thuần vào các sản phẩm kinh doanh vàng gold
backed ETFs năm 2009 lên tới 617 tấn, năm 2010 là 361 tấn, đưa tổng lượng vàng nắm
giữ dưới hình thức kinh doanh này vào 31/12/2010 tới 2.167,4 tấn.
5. Thực trạng TTV Việt Nam và một số giải pháp.
+Thực trạng TTV Việt Nam.
Cùng trong bối cảnh bất ổn kinh tế và chịu tác động chi phối của sự leo thang giá
vàng thế giới, TTV trong nước cũng lập nhiều kỷ lục mới, giá vàng liên tục tăng, mức giá
cao nhất (vàng SJC) vào sáng ngày 9/11/2010 là 38,2 triệu đồng/lượng, tăng 44% so với
giá vàng SJC đóng cửa ngày 31/12/2009. Nếu tính vào thời điểm 31/12/2010, thì giá vàng
SJC đã tăng 35%.Năm 2008, với nhiều biến động trong nền kinh tế tác động tiêu cực, thì
nhu cầu nắm giữ, đầu tư vàng tại Việt Nam càng gia tăng. Theo như báo cáo của ngân
hàng ACB tại thị trường trong nước, có những ngày số lượng vàng miếng giao dịch trên
thị trường đạt đến 400.000 lượng/ngày. Nếu cộng thêm số lượng vàng giao dịch tại các
ngân hàng khác số lượng vàng giao dịch tại thị trường trong nước có thể đạt đến mức
500.000 lượng/ngày, tương đương khoảng 19 tấn vàng/ngày. Trong khi đó, năm 2007,
những lúc cao điểm nhất thị trường trong nước cũng chỉ tiêu thụ khoảng 2 tấn vàng /ngày.
19
Giá vàng trong nước thường có xu hướng cao hơn giá vàng thế giới, nhưng đôi khi
cũng có thời điểm thấp hơn (như ngày 15/12/2008). Nguyên nhân của tình trạng này là do
thị trường vàng Việt Nam vẫn chưa thực sự liên thông được với thị trường vàng thế giới
khiến cho dù giá vàng thế giới biến động liên tục nhưng giá vàng trong nước không “đua
kịp” các biến động này. Sự yếu kém trong liên thông giữa thị trường quốc tế và thị trường
trong nước cũng đã gây nhiều bất lợi lớn cho các nhà đầu tư. Một trong những lý do để
giải thích là do lệch múi giờ, tại thị trường Việt Nam các nhà đầu tư không chủ động được
giao dịch trong thời gian ban đêm, khi vàng (cũng như các loại hàng hóa khác) đang được
giao dịch sôi động nhất trên thị trường thế giới.
Giao dịch trên TTV trong nước hiện nay là mua – bán kinh doanh vàng vật chất và
huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá, cho vay vàng chế tác, kinh doanh trang
sức. Các giao dịch diễn ra đơn lẻ, không có sàn giao dịch tập trung. Trước đó, kinh doanh
vàng qua tài khoản cũng diễn ra rất sôi động với mức ký quĩ thấp (7%) trên các sàn giao
dịch đơn lẻ trong nước, do một số ngân hàng, công ty/tổ chức kinh doanh vàng thành lập,
quản lý; một số NHTM cũng được kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài.
Từ đầu tháng 7/2011 đến nay, giá vàng thế giới liên tục tăng cao, từ mức
1.494USD/oz (ngày 01/7/2011) đã lên mức kỷ lục 1.869USD/oz (ngày 19/8/2011).
Nguyên nhân của việc giá vàng thế giới tăng cao là do lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ
công tại Mỹ và Châu Âu, đặc biệt là việc Standard & Poor’s hạ mức tín nhiệm nợ công
của Mỹ đã khiến giá vàng thế giới từ ngày 8/8/2011 tăng mạnh.Cùng với biến động của
giá vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng đã tăng theo.Tuy nhiên, từ thời điểm đầu
tháng 7 đến đầu tháng 8, do nhu cầu vàng trong nước luôn ở mức thấp, tốc độ tăng của giá
vàng trong nước chậm hơn giá vàng thế giới, do đó, có thời điểm, giá vàng trong nước
thấp hơn giá vàng thế giới 700 – 800 nghìn đồng/lượng. Hiện tượng này là do chính sách
tiền tệ chặt chẽ đã tạo ra sức hấp dẫn trong việc nắm giữ tiền Đồng cho người dân,
khuyến khích người dân bán vàng lấy tiền gửi tiết kiệm. Do chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và giá vàng thế giới, đã xuất hiện tình trạng xuất khẩu vàng biến tướng dưới
dạng vàng trang sức, mỹ nghệ. Trước diễn biến bất thường của thị trường vàng trong
nước, NHNN đã triển khai các biện pháp để bình ổn thị trường vàng, cụ thể:
20
- NHNN đã có công văn số 539/NHNN-QLNH.m ngày 08/8/2011 và số
565/NHNN-QLNH ngày 26/7/2011 gửi Bộ Tài chính đề nghị quy định giảm hàm lượng
vàng thành phẩm chịu thuế suất thuế xuất khẩu 10% nhằm ngăn chặn tình trạng xuất khẩu
vàng nguyên liệu biến tướng dưới dạng vàng trang sức, mỹ nghệ. Ngày 02/8/2011, Bộ Tài
chính đã ban hành Thông tư số 111/2011/TT-BTC, trong đó quy định sửa đổi thuế suất
thuế xuất khẩu một số mặt hàng vàng theo đề nghị của NHNN: áp thuế 10% đối với các
loại vàng thành phẩm có hàm lượng vàng từ 80% trở lên.
- Theo dõi sát diễn biến thị trường vàng thế giới và trong nước để chủ động triển
khai các biện pháp ổn định thị trường vàng. Ngày 08/8/2011, NHNN đã đăng tải thông
điệp: NHNN sẵn sàng cho phép nhập khẩu vàng khi cần thiết để bình ổn thị trường vàng,
hạn chế tình trạng đầu cơ, làm giá và nhập lậu.
- Ngày 09/8/2011, để ổn định tâm lý người dân và bình ổn thị trường vàng
trong nước, NHNN đã cấp phép nhập khẩu vàng cho một số doanh nghiệp và tổ
chức tín dụng, đồng thời, yêu cầu các đơn vị này phải khẩn trương bán vàng ra thị
trường để tăng nguồn cung, giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng
thế giới. Sau khi NHNN cho phép nhập khẩu vàng, tâm lý người dân đã ổn định trở
lại, nhu cầu mua vàng giảm mạnh, giá vàng trong nước đã sát với giá thế giới, mặc
dù giá vàng thế giới vẫn liên tục diễn biến phức tạp.
+So sánh TTV trong nước và TTV thế giới đặt ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, mức tăng giá vàng trong nước lớn hơn đáng kể so với mức tăng giá vàng
trên thế giới. Giá vàng đỉnh điểm trong nước tăng 44% so với giá vàng đóng cửa năm
2009. Con số đó của giá vàng London PM Fix là 29%. Nếu cộng cả 9% mất giá của VND
so với USD trong cùng kỳ, thì mức độ tăng giá vàng trong nước vẫn cao hơn nhiều so với
thế giới.
Thứ hai, là một thị trường nhỏ, nhập khẩu vàng, tức là ở vị trí chấp nhận giá (thay vì
làm giá), nhưng thời điểm giá vàng lập kỷ lục ở Việt Nam đã diễn ra sớm hơn thời điểm
giá vàng lập kỷ lục trên thị trường thế giới tới gần 1 tháng (giá vàng thế giới lập kỷ lục
vào ngáy 07/12/2010)
21
Thứ ba , xu hướng tăng giá vàng trong nước mạnh mẽ hơn nhiều so với xu hướng
tăng giá vàng thế giới nói chung và các nước hấp thụ vàng lớn trên thế giới nói riêng.
Theo WGC, mức độ giao động giá vàng thế giới năm 2010 là 16,1%, của Trung quốc là
15,8% và Ấn độ là 16,8%. Tính toán mức độ giao động của giá vàng trong nước năm
2010 cho thấy, mức độ giao động giá vàng trong nứơc là 11,8%, thấp hơn nhiều so với
các mức giao động trên. Điều này cho thấy sự ổn định hơn của xu hướng đi lên đối với
giá vàng trong nước.
Thứ tư, sự phát triển của TTV trong nước đôi khi trái chiều với sự phát triển của
TTV thế giới. Trong khi TTV thế giới đang phát triển nhanh chóng, với các hình thái đầu
tư hiện đại, cho phép các nhà đầu tư tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng, với chi phí thấp hơn
nhiều so với đầu tư, kinh doanh vàng vật chất, thì TTV Việt Nam lại giới hạn ở các giao
dịch vàng vật chất và một số hình thái huy động, cho vay nhất định.
Những khác biệt này, ở những góc độ nhất định, đã có tác động không nhỏ tới vấn đề
quản lý tiền tệ, ổn định vĩ mô và huy động nội lực phát triển kinh tế -xã hội, đó là:
• Trước hết, trong bối cảnh giá trị đồng nội tệ thấp, áp lực mất giá lớn, thì sự gia
tăng mạnh giá vàng, với xu hướng chắc chắn sẽ làm tăng các động lực sử dụng vàng với
tính chất là một công cụ tiền tệ, cho tất cả các mục đích cất trữ, dự phòng, định giá và
thanh toán, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam, với các qui định vàng khá thông thoáng
(Trung Quốc mới nơi lỏng quyền sở hữu vàng cá nhân cách đây 3 năm), gây khó khăn
22
cho việc quản lý tiền tệ của các cơ quan chức năng. Việc tăng mạnh gía vàng và sử dụng
vàng cho các mục đích tiền tệ sẽ đội giá của các mặt hàng được mua – bán, thanh toán
bằng vàng, gây sức ép không nhỏ tới lạm phát trong nền kinh tế. Một khi thiếu cơ chế
quản lý vàng với tính chất là một công cụ tiền tệ trong trường hợp này sẽ khó có thể đạt
được các mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, đặc biệt với xu hướng giá vàng đang
và sẽ còn diễn biến phức tạp.
• Định hướng TTV vào các giao dịch vàng vật chất đơn lẻ sẽ có tác động tiêu cực
nhất định tới sự phát triển của TTV trong nước, tới việc khơi thông nguồn lực này cho
phát triển kinh tế xã hội.
• Quản lý TTV trong nước thoát ly với TTV thế giới còn chứa đựng các động cơ,
những hành vi không đúng đắn (mua bán, xuất nhập lậu, đầu cơ). Duy trì chênh lệch giá
vàng trong và ngoài nước cũng sẽ tạo ra các nhóm lợi ích cục bộ, gây méo mó tới các
quyết định cơ chế, chính sách có liên quan.
+Một số giải pháp.
Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn tiềm ẩn các biến động lên xuống khó lường,
yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển TTV. Theo
đó, vàng với hàm lượng vàng cao nên được quản lý với tích chất của một công cụ tiền tệ.
Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công cụ hữu hiệu để điều chỉnh cung – cầu vàng,
chủ động quản lý có hiệu quả, hiệu lực tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế.
Bên cạnh việc quản lý vàng với tính chất của một công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể
cho việc phát triển TTV theo thông lệ quốc tế, đa dạng hoá các kênh đầu tư, liên thông thị
trường trong nước và quốc tế. Cụ thể:
Thứ nhất, vấn đề lưu thông vàng miếng
Do tính chất tiền tệ của vàng vật chất với hàm lượng cao ở nước ta còn khá mạnh, đặc biệt
trong điều kiện tiền đồng chưa ổn định, song cũng không thể để tình trạng lưu thông vàng
miếng có hàm lượng cao thay thế tiền đồng trong thanh toán. Nhà nước (đại diện là Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam – NHNN) cần phải quản lý giao dịch này, từng bước hạn chế nó
khi điều kiện kinh tế – xã hội cho phép. Chỉ trên cơ sở quản lý vàng với tính chất là công
cụ tiền tệ, NHNN mới có thể quản lý được tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
quản lý được giá cả, góp phần ổn định vĩ mô nền kinh tế. Quản lý nhà nước về vàng với
23
tính chất là công cụ tiền tệ cần xác định cụ thể tiêu chuẩn vàng với tính chất tiền tệ, điều
kiện lưu thông vàng tiền tệ và quản lý quan hệ cung – cầu vàng tiền tệ trong nền kinh tế
(gắn với sự phát triển lành mạnh của TTV và vấn đề liên thông TTV trong nước và quốc
tế).
Thứ hai, đảm bảo sự phát triển lành mạnh TTV trong nền kinh tế
Là một loại hàng hoá và là một công cụ tiền tệ trong nền kinh tế, nên việc tồn tại TTV là
vấn đề khách quan. Đây cũng là thực tế trên thế giới. Không chỉ tồn tại, các TTV trên thế
giới đã có những bước phát triển mạnh trong thời gian gần đây. Đối với nước ta, hoạt
động mua – bán vàng còn là tập quán, có tính lịch sử, văn hoá lâu đời. Vấn đề là làm thế
nào để phát triển lành mạnh TTV, đảm bảo sự thông suốt trong phạm vi nền kinh tế và
liên thông với thị trường quốc tế, hạn chế các tác động tiêu cực và tăng cường đóng góp
của TTV vào sự phát triển của đất nước. Kinh nghiệm cho thấy, để một thị trường phát
triển lành mạnh không có nghĩa để thị trường phát triển tự do, nhưng cũng không thể chỉ
bằng các giải pháp hành chính, nhất là trong bối cảnh hội nhập. Những biến động mạnh
của giá vàng và sự đi trước của giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới vừa qua một
phần là hệ quả của việc bỏ ngỏ thị trường (không có công cụ pháp lý điều tiết) và việc áp
dụng một vài giải pháp điều hành mang tính chất hành chính. Do vậy, nhanh chóng hòan
thiện khuôn khổ pháp lý cho TTV, điều tiết các chủ thể bằng các công cụ và hàng rào kỹ
thuật trên thị trường. Liên quan tới các công cụ, các loại hình hoạt động trên thị trường,
cần có lộ trình phát triển từng bước, phù hợp với điều kiện và trình độ quản lý cụ thể của
đất nước. Khung pháp lý nên định hướng nguyên tắc thị trường có quản lý của Nhà nước
vì các biện pháp hành chính chỉ có tác động tức thì, nhưng tiềm ẩn các hành vi lách luật,
hoạt động ‘chui”, trong khi chi phí theo dõi, giám sát là rất lớn. Và để quản lý được cung,
cầu trên TTV, thì khung pháp lý phải đảm bảo rằng NHNN thực hiện được vai trò quản lý
cuối cùng trên TTV, tức là phải thực hiện quản lý tập trung các đầu mối hoạt động kinh
doanh vàng. Đồng thời, NHNN cần có các công cụ đủ quyền lực để có thể can thịêp khi
có các biến động quá mức trên thị trường.
Thứ ba, liên thông TTV trong nước và thế giới trên cơ sở nới lỏng có kiểm soát hoạt
động xuất nhập khẩu (XNK) vàng.
24
XNK vàng nên được quản lý theo nguyên tắc thị trường, thay vì quota như hiện nay. Việc
áp dụng quota luôn tiềm ẩn các hoạt động XNK vàng lậu, không thể kiểm soát được và
thất thoát nguồn thu cho Nhà nước. Do không kiểm sóat được lượng vàng XNK nên sẽ
không có thông tin chính xác về cung – cầu vàng trong nền kinh tế. Xoá bỏ cơ chế quota
XNK vàng, thì chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế (sau khi đã cộng các chi phí
nhập khẩu) cũng sẽ bị loại bỏ.
Liên quan tới thuế XNK vàng cũng không nhất thiết phải áp thuế nhập khẩu với
mục đích hạn chế nhập vàng, giảm áp lực lên cầu ngoại tệ, vì khả năng tái tạo ngoại tệ của
vàng rất cao. Thực tế, quí I/2009, Việt Nam đã có xuất siêu nhờ xuất siêu vàng. Thuế xuất
khẩu vàng cũng nên được cân nhắc ở mức phù hợp, khuyến khích việc khơi thông đầu ra,
qua đó phát triển công nghịêp khai thác vàng và công nghiệp chế tác vàng trong nước, tạo
công ăn việc làm cho xã hội.
Giải pháp, quan điểm của Chính phủ Việt Nam.
Về việc xây dựng Nghị định mới về quản lý hoạt động kinh doanh vàng:
Ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về các nhóm giải
pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Liên quan đến quản lý hoạt động kinh
doanh vàng, Chính phủ đã chỉ đạo: “Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong
quý II năm 2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh
vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng
miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên
giới”.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, đồng thời căn cứ vào thực tế của thị trường vàng
Việt Nam và các kết quả đã đạt được trong thời gian qua, Nghị định được xây dựng theo
hướng tổ chức lại thị trường vàng thông qua việc NHNN quản lý chặt chẽ và can thiệp
mạnh vào thị trường vàng nhằm ngăn ngừa hoạt động đầu cơ vàng, hạn chế kinh doanh
vàng miếng nhưng vẫn đảm bảo quyền tích trữ vàng, mua bán vàng của người dân.
25
Sau khi hoàn thành Dự thảo Nghị định, NHNN đã thực hiện xin ý kiến các Bộ, ngành
và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Kinh doanh vàng và Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam. Đến nay, NHNN đã hoàn thành việc tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành và
hoàn thiện Dự thảo Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Ngày 16/8/2011,
NHNN đã tổ chức cuộc họp với Tổ soạn thảo Liên ngành và Tổ soạn thảo NHNN để trao đổi,
thống nhất nội dung của Dự thảo Nghị định trước khi gửi sang Bộ Tư pháp thẩm định. Dự
kiến, trong tháng 9/2011, NHNH sẽ trình Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị
định 174/1999/NĐ-CP. Theo đó, về cơ bản, Dự thảo Nghị định đáp ứng được các mục tiêu
do Nghị quyết 11 đề ra, cụ thể:
- Về sản xuất vàng miếng: NHNN là cơ quan tổ chức hoặc cấp phép sản xuất vàng
miếng. Về nguyên tắc, đây là hoạt động hạn chế kinh doanh và cần được quản lý chặt chẽ.
Do đó, tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế trong từng thời kỳ, NHNN sẽ tổ chức sản xuất hoặc
cấp phép cho doanh nghiệp sản xuất vàng miếng nhưng sẽ rất hạn chế.
- Về lưu thông vàng miếng: NHNN chỉ cho phép một số doanh nghiệp và TCTD có
kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh vàng được thực hiện mua bán vàng miếng với tổ
chức, cá nhân nhằm thu hẹp đầu mối, tạo điều kiện thuận lợi đối với việc quản lý hoạt động
mua bán này.
- Về xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu: NHNN là cơ quan tổ chức hoặc cấp phép hoạt
động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu.
- Về sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ: NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố
cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp sản xuất, gia công vàng
trang sức, mỹ nghệ. Riêng hoạt động gia công nhỏ lẻ của cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã
không cần xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện mà được thực hiện theo Giấy chứng nhận
đăng ký hộ kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Về mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ: Tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh mua,
bán vàng trang sức, mỹ nghệ phải thành lập doanh nghiệp và đáp ứng đủ một số điều kiện
theo quy định tại Nghị định nhưng không cần xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh.
26
- Xây dựng cơ chế phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ngành chủ yếu về việc quản lý
chất lượng và kiểm tra, kiểm soát thị trường vàng.
Như vậy với định hướng quản lý nêu trên, Ngân hàng nhà nước đã tham gia trực tiếp
quản lý về quá trình sản xuất và lưu thông vàng miếng; xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu.
Đây là các yếu tố đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước can thiệp hiệu quả trên thị trường vàng,
chống hoạt động đầu cơ lũng đoạn giá vàng, đảm bảo được các mục tiêu của Nghị quyết
11/NĐ-CP.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_14_7024.pdf