Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đoàn kết quốc tế

MỞ ĐẦU Chiến lược đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là hai nội dung lớn, thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trên một nền tảng vững chắc. Đó là sự tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin; là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính; là độc lập dân tộc gắn liền bới giải phóng xã hội, giải phóng con người, vương tới chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện trải qua 80 năm, đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi đó là có đường lối quốc tế đúng đắn, mà cốt lõi là chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Quá trình hình thành và phát triển chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, gắn liền với các thời kỳ phát triển của Đảng và Cách mạng Việt Nam, gắn liền với tiến trình cách mạng thế giới. Đoàn kết quốc tế cùng với đoàn kết dân tộc thực sự trở thành chiến lược cách mạng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện đại, tạo nên tổng hợp lực lượng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cùng với những nỗ lực chủ quan, sự tăng cường, mở rộng đoàn kết, hợp tác với tất cả các nước theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, các bên cùng có lợi, đã tạo cho Việt Nam những nhân tố mới để phát triển. Việt Nam là thành viên trong cộng đồng quốc tế, để tăng cường sức mạnh của mình, một trong những vấn đề quan trọng là phải mở rộng đoàn kết, hợp tác theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập, phát triển. Để thực hiện được mục đích trên cần có sự đoàn kết thống nhất cao độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4801 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đoàn kết quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng vô sản, giải phóng dân phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân.: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập I. Sđd. tr 416. . Bên cạnh đó Người cũng nhận định rằng, “dù màu da có khác nhau, trên thế giới chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Đến đây, vấn đề bạn, thù ở Nguyễn Ái Quốc đã được xác định dứt khoát, rằng áp bức giai cấp và áp bức dân tộc có chung một nguồn gốc là chủ nghĩa đế quốc. Như vậy, cuộc hành trình gần mười năm khắp các châu lục là cơ sở thực tiễn quan trọng trong quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. 1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin với đường lối của Quốc tế Cộng sản Tham gia vào những hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy vũ khí sắc bén để đấu tranh, đó là viết báo, tham gia các buổi mít tinh, thảo luận. Trong đó, Người đều đề cập đến vấn đề đoàn kết quốc tế. Người nói: “Trong các cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đoàn kết với các dân tộc thuộc địa. Nhưng đó lại là vấn đề mà người ta quan tâm hơn cả”. Tại đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Đông Dương thuộc địa, đồng thời là đại biểu duy nhất về vấn đề thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội, Người yêu cầu Đảng phải đoàn kết, ủng hộ cách mạng thuộc địa: “Tôi đến đây, để cùng với các đồng chí góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới… Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa” Hồ Chí Minh. Toàn tập. tập I. sđd. Tr 22 – 23. . Lời phát biểu ngắn gọn của Nguyễn Ái Quốc đã quán triệt tư tưởng chiến lược của Lênin về đoàn kết giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa. Quyết định sáng suốt đó của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với trào lưu phát triển của lịch sử nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại biểu của các dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập đội tiên phong của giai cấp công nhân ở một nước đế quốcc lớn đang áp bức các dân tộc thuộc địa. Bằng những hoạt động, việc làm đó, Nguyễn Ái Quốc nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế, từ đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở rộng thành đoàn kết giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp vô sản thế giới. Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin, và đường lối của Quốc tế Cộng sản là nhân tố quan trọng nhất, nhân tố quyết định hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế cua Nguyến Ái Quốc. Nhưng trải qua những năm tháng bôn ba, tìm đường cứu nước, Người đã đi từ chủ yếu yêu nước đến chủ nghĩa vô sản, từ một nhà yêu nước trở thành chiến sĩ chân chính. Những vấn đế cơ bản trong chiến lược đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến tháng kẻ thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất, mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do… Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước. Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối của cách mạng, Người vẫn bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử toàn thế giới và tiến trình chính trị quốc tế sau thắng lợi của cách mạng XHCN Tháng Mười Nga 1917. Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện doàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cùng với sự phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn. Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư bản chủ nghĩa nói chung; đoàn kết với nước Nga Xô Viết, với Liên Xô và sau này mở rộng ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới; đặc biệt là đoàn kết với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, hai nước cùng cảnh ngộ với Việt Nam trên bán đảo Đông Dương, thực hiện khối đoàn kết Việt – Miên – Lào trong cuộc đấu tranh cống chủ nghĩa đế quốc thực dân giành độc lập tự do cho mỗi dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước. Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong buổi nói chuyện với Đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961, Hồ Chí Minh nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng… lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng” Dẫn theo Hà Bình Nhưỡng; “Trái tim nhân ái”, tạp chí Nhà văn của Hội Nhà văn Việt Nam, số 3 – 2000, tr 20 . Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện các mục tiêu cách mạng Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại. Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người. Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Trong suốt quá trình đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hôi. Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: Chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội II (2 – 1951), Người chỉ rõ: “ tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “ vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”. Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các Đảng Cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa Sôvanh… những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các ĐCS phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhờ dương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Để làm được như vậy, phải kiên quyết đấu tranh mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chống lại chủ nghĩa Sôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.  Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế Các lực lượng cần đoàn kết: Nội hàm khái niệm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, song tập trung chủ yếu vào ba lực lượng: phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam. Đối với phong trào Cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản. Do đánh giá rất cao vai trò của khối đoàn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Tua của ĐXH Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi” Hồ Chí Minh. Toàn tập. tập I. tr 23 – 24. . Tiếp nhận học thuyết Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tìm thấy “cái cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước của các dân tộc bị nô dịch. Đồng thời, Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là phong trào Cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô và sau này là các nước XHCN; là Quốc tế thứ III và sau này là Cục thông tin quốc tế. Từ đó, Người đã dành nhiều thời gian và tâm lực, phấn đấu không mệt mỏi cho việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam không thể tách rời sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên Xô và các nước XHCN khác, của các ĐCS và công nhân thế giới. Nó khẳng định trên thực tế những giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản mà sinh thời Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ. Cho dù lịch sử có đổi thay, song sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện về vật chất của các nước XHCN, của các lực lượng Cộng sản và công nhân cho Việt Nam theo tinh thần Quốc tế vô sản là không thể phủ nhận. Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc… nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị Ban Phương đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập II. Sđd.tr 124 . Thêm vào đó, để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc như hai cái cánh của cách mạng thời đại, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi cách phải “làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”. Người nói, đứng trước CNĐQ, quyền lợi của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất. Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do và công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh của dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hoà bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt Chính phủ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hoà bình” Hồ Chí Minh. Toàn tập. tập II. Sđd. Tr 124. . Bên cạnh ngoại giao nhà nước, Hồ Chí Minh đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của nhân dân Việt Nam tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn hoá của nhân dân thế giới, của nhân dân Á – Phi…, xây dựng các quan hệ hữu nghị, đoàn kết với các lực lượng tiến bộ thế giới. Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hoà bình, tự do, và công lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định: Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay. Hình thức đoàn kết: Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã dưa ra quan điểm về thành lập “ Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để đến Đại hội VI ( 1928) quan điểm này trở thành sự thật. Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý – chính trị và tính chất chính trị - xã hội trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế , tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ CHí Minh dành sự quan tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hoá, và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết định thành lập riêng biệt Mặt Trận Độc Lập Đồng Minh cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt Trận Đoàn Kết Việt– Miên – Lào phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi. Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, họp tác nhiều mặt theo tinh thần “ vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hoá lâu đời với Việt Nam; thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc lập. Với các dân tộc châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền hoà bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần dặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam. Những năm đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng các quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng Đồng minh chống phát xít, nhằm tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước XHCN anh em, của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng chiến chống Pháp và cả nhân dân Mỹ trong kháng chiến chống Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; mặt trận nhân dân Á– Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích có lý, có tình: Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống Chủ nghĩa Đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế, phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ vào phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt tử, có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam, đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ. Đối với phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình. Là một chiến sỹ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết thống nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới, trước hết là trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm cho phong trào Cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của Chủ nghĩa quốc tế vô sản. “Có lý” trước hết là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành với Chủ nghĩa Mác- lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi Đảng, tránh giáo điều. “Có tình” là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng sôvanh, “nước lớn”, “đảng lớn”; không “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu, công khai công kích nhau hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế…gây sức ép với nhau. “Có tình” đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi Đảng phải được tôn trọng, song lợi ích đó không được phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của Đảng khác, của dân tộc khác. “Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc vừa là một nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn Cộng sản. Nó có tác dụng rất lớn không chỉ trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động. Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh dương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán, được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là “lẽ phải không ai chốí cãi được”. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời phấn đấu cho độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập tự do của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó. Những quan điểm trên được Người thể chế hoá sau khi Việt Nam giành được độc lập. Tháng 9 năm 1947, trả lời nhà báo Mỹ S. Êli Mâysi, Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người không chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là ngươì ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hoà bình trong công lý. Giương cao ngọn cờ hoà bình , chống chiến tranh xâm lược là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguốn từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với Chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hoà bình, đấu tranh cho hoà bình, một nền hoà bình thực sự cho tất cả các dân tộc – “hoà bình trong độc lập tự do”. Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà bình là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hoà bình trừu tượng, mà là “một nền hoà bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”, chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hoà bình trong công lý, lòng thiết tha hoà bình trong sự tôn trọng, độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng cảm hoá, lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình. Trên thực tế, đã hình thành một mặt trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực lượng cách mạng xây dựng khối đoàn kết, Rômét Chanđra, Nguyên Chủ tịch Hội đồng hoà bình thế giới cho rằng: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao” Rômét Chanđra: Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại. Báo Nhân dân, ngày 21/5/1980. . Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, từ cường: Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “ tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “ muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiến, chiêng có to tiếng mới lớn.. Hồ Chí Minh chỉ rõ muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người nói: “độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”. Trong quan hệ giữa các Đảng thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “ các Đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và kháng chiến chống thực dân pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống Mỹ, với đường lối độc lập, tự chủ giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Giá trị của chiến lược đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh Hiện thực hoá khẩu hiệu chiến lược đoàn kết của chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, Người không chỉ có công lao đối với cách mạng Việt Nam, mà công lao của Người còn được cả thế giới công nhận. Có thể nói, công lao và đóng góp của Người đối với Việt Nam và thế giới là vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng dân tộc trong thời đại mới, đã hiện thực hoá khẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác – Lênin “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại” Như vậy, lý luận Mác – Lênin đề cập đến cách mạng vô sản, coi đoàn kết quốc tế là vấn đề chiến lược cách mạng. “ Nhận thức lý luận về vấn đề này là nhân tố quyết định con đường cách mạng và chiến lược cách mạng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa trong thời đại mới” Lê Văn Yên. Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2008. Tr 218 . Từ thực tiễn cuộc sống, và nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh liên hệ, phân tích, so sánh một cách toàn diện các con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người cho rằng, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không còn con đường nào khác là con đườn cách mạng vô sản. Trong chỉ đạo mục tiêu, Người không bao giờ rời xa mục tiêu của cách mạng thế giới, mà kết hợp hài hoà với mục tiêu của các mạng giải phóng dân tộc theo yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng. Đây là công lao to lớn của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong việc khắc phục khủng hoảng về con đường cứu nước đúng đắn cho các dân tộc. Thực tiễn tiến trình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX đã chứng minh cho công lao trên của Người và thừa nhận Hồ Chí Minh, người chỉ đường thắng lợi cho phong trào giải phóng dân tộc thế giới. Từ việc xác định hướng đi đúng đắn và biến nó thành hiện thực giải phóng dân tộc thế giới. Hồ Chí Minh dần dần hình thành chiến lược về đoàn kết quốc tế. Từ đó, Người đã hình thành nên những tư tưởng lớn về quốc tế; về chủ nghĩa quốc tế, thực dân; về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa với nhau và với cách mạng ở chính quốc. Theo Người, “Dân tộc cách mệnh” và “thế giới cách mệnh” do “vô sản giai cấp lãnh đạo” có quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu biết khơi dạy lòng căm thù của dân tộc, của giai cấp ở hàng trăm triệu con người bị áp bức thì đây là sức mạnh cách mạng vô cùng to lớn của thời đại. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đem hết sức lực vào việc giáo dục, tổ chức và đoàn kết các dân tộc thuộc địa thành một lực lượng khổng lồ để đoàn kết với giai cấp vô sản ở chính quốc hình thành hai mũi tiến công trong cuộc đấu tranh nhằm chiến thắng chủ nghĩa đế quốc thực dân. Thực tiễn, Người hoạt động không biết mệt mỏi cho sự liên hiệp, đoàn kết giữa hai lực lượng như; Người đã tham gia vào Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, vào Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, rồi Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức…Đó là những việc làm thiết thực để biến khẩu hiệu chiến lược của Lênin thành thực tế sinh động, chống đế quốc, thực dân, giành độc lập tự do và tiến bộ xã hội cho mỗi dân tộc. Quán triệt khẩu hiệu chiến lược của Lênin, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức, Người cũng kêu gọi lại “Hỡi các bạn thân yêu, chúng ta nên sớm đoàn kết lại! Hãy hợp lực để đòi quyền lợi và tự do của chúng ta! Hãy hợp lực để cứu lấy giống nòi” Hồ Chí Minh. Toàn tập. tập 2, Sđd. Tr 438. . Đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở rộng thành đoàn kết với giai cấp vô sản ở các chính quốc và toàn thế giới là chiến lược cách mạng của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa khẩu hiểu chiến lược của Lênin vào cuộc sống, biến nó thành hiện thực sinh động. Đây là đóng góp to lớn của Người đối với cách mạng thế giới đã làm giàu chủ nghĩa Mác – Lênin trên con đường khai phá con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, đó là con đường các dân tộc thuộc địa đi vào quỹ đạo của cách mạng thế giới, phấn đấu vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thực tiễn lịch sử thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954 ở Việt Nam do Hồ Chí Minh cùng Đảng ta lãnh đạo và một loạt các nước Á, Phi, Mỹ La tinh đánh đuổi chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc trong thế kỷ XX chứng minh giá trị thực tiễn của chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, chứng minh không chỉ sự vận dụng mà còn có đóng góp lớn lao của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bắc nhịp cầu đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc Đối với nhân dân thế giới: Hồ Chí Minh có nhiều đóng góp quan trọng. Những năm 20 của thế kỷ XX, nhiều đảng cộng sản còn bàng quan với cách mạng thuộc địa, chủ nghĩa cơ hội, cải lương còn ảnh hưởng xấu trong giai cấp vô sản ở các nước chính quốc. Sự thực lịch sử là quá trình áp bức, bóc lột, khai thác, xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, các dân tộc thuộc địa đang chờ người gieo hạt giống giải phóng. Trở thành người chiến sĩ quốc tế, Hồ Chí Minh đảm nhiệm sứ mệnh này. Hoạt động của Người trong thời gian này, chủ yếu là tuyên truyền, tổ chức các dân tộc thuộc địa nhận thức về vận mệnh của mình, thức tỉnh giai cấp vô sản ở các chính quốc về tình hình thuộc địa, ủng hộ đoàn kết với các dân tộc thuộc địam lên án chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, còn đấu tranh kiên quyết chông chủ nghĩa cơ hội, sô vanh, cải lương, chống tư tưởng hữu khuynh…bảo vệ những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế chân chính với tinh thần trách nhiệm cao. Đây là cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng truyền thống đoàn kết giữa nhiều dana tộc trên thế giới, giữa nhiều đảng cộng sản. Các dân tộc ở châu Á, châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh ngày nay không quên công lao đóng góp của Hồ Chí Minh. Trong cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh trong việc tranh thủ lực lượng đồng minh, nhất là giao thiệp với Quốc dân Đảng Trung Hoa và Mỹ nhằm thêm bạn cho cách mạng Việt Nam, dù nhỏ bé, tạm thời, bấp bênh để thực hiện cho được mục tiêu đặt ra. Đó là quan điểm đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ nhằm thực hiện cho được độc lập, tự do cho dân tộc. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nêu rõ; Việt Nam muốn “làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với môt ai”. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Người có nhiều hoạt động quốc tế làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của họ. Hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là thiết lập được mối quan hệ đoàn kết với nhiều đảng cộng sản, nhiều nước, nhiều tổ chức thế giới, mà hiệu quả cách mạng Việt Nam đã nhân được sự ủng hộ, giúp đõ to lớn của nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do và xây dựng đất nước. Đối với nhân dân Châu Á: Vào nửa sau những năm 20 của thế kỷ XX, Người hoạt động ở khu vực châu Á đã có nhiều đóng góp cho phong trào cách mạng, trên dải đất đông dân cư này. Người liên hiệp các dân tộc như Trung Quốc, Ấn Độ, Mianma, Malaixia...trong Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức, đều nhằm đoàn kết, thống nhất hành động chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Người có nhiều đóng góp trong việc tổ chức, đào tạo cán bộ xây dựng phong trào cách mạng cho các nước khu vực Đông Nam Á. Nhân dân Đông Nam Á, sẽ không quên công lao to lớn của Hồ Chí Minh trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và góp phần xây dựng chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh trở nên gần gũi, thân thiết với biết bao dân tộc châu Á và họ đã dành cho Người những lời lẽ hết sức đẹp đẽ mà không sao kể hết được tình đoàn kết hữu nghị và tôn vinh Người là “Lãnh tụ vĩ đại”. Đối với nhân dân Đông Dương: Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt, bởi vì, ba dân tộc cùng sống trên dải đất núi sông liền một dải, có sự đoàn kết gắn bó lâu đời về lịch sử, văn hoá, đã từng có cùng các kẻ thủ, đã từng giúp nhau trong đấu tranh kẻ thù xâm lược. Thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh ưu tiên cho mối quan hệ đoàn kết đặc biệt giữa ba nước Đông Dương. Người nhiều lần nhấn mạnh đến đoàn kết ba dân tộc Đông Dương là yêu cầu khách quan, và cách mạng của một nước có ảnh hưởng trực tiếp, to lớn đến cách mạng của ba nước. Đến năm 1930, Người chủ trương xây dựng Đảng Cộng sản và giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương trong khuôn khổ mỗi nước, nhằm thúc đẩy ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh ở mỗi nước, tạo sự tin cậy về chính trị, đoàn kết quốc tế một cách tự nguyên, bình đẳng và có hiệu quả. Đến năm 1941, Người quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, vận động Ai Lao độc lập đồng minh, Cao Miên độc lập đồng minh, tiến tới Đông Dương độc lập đồng minh, nhằm động viên mạnh mẽ lực lượng ba dân tộc Đông Duơng để đánh Pháp, đuổi Nhật, thực hiện độc lập tự do cho mỗi nước. Thực tiễn lịch sử đoàn kết và chiến thắng của ba dân tộc Đông dương chứng minh việc giải quyết mối quan hệ đoàn kết giữa ba dân tộc trên tinh thần kết hợp hài hoà giữa đoàn kết quốc tế với việc tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có truyền thống văn hoá lịch sử riêng của Hồ Chí Minh là đúng đắn. Nhân dân Lào, Campuchi khắc sâu thêm hình ảnh Hồ Chí Minh, Người đặt nền tảng và xây đắp tình đoàn kết, hữu nghị của ba dân tộc Đông Dương và góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc của mỗi nước.  Giá trị thực tiễn của chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay Chiến lược đoàn kết quốc tế là một tư tưởng lớn trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh chiến lược đoàn kết quốc tế của Người là đúng đắn và đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc Việt Nam cũng như với nhân dân thế giới. Công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, đang diễn ra trong tình hình thế giới có nhiều biến động sâu sắc. Sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, kéo theo đó là xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, hợp tác và đấu tranh kinh tế giữa các nước trong quan hệ đa phương, đa cực vừa tạo ra những thuận lợi, nhưng cũng làm nảy sinh những khó khăn, thách thức gay gắt. Tình hình trên đặt ra cho Đảng và dân tộc ta những vấn đề lớn trong việc phát triển đất nước trước xu thế chung của thế giới. Một trong những nội dung quan trọng trong giai đoạn hiện nay là vận dụng chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo và phù hợp. Trước hết phải xác định rõ mục tiêu của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trước lúc đi xa, Người đã căn dặn lại: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Hiện nay, đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới - đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải được coi là mục tiêu hàng đầu. Do vậy, cần khai thác mọi khả năng có thể có trên phạm vi quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, với những quan hệ đa chiều nhằm xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Nắm vững được các mục tiêu đó, cần triển khai đồng bộ các chính sách, các giải pháp trên cả bình diện quốc gia và quốc tế về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế để làm cho mục tiêu đó thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm và suy nghĩ của mọi người Việt nam và bạn bè quốc tế. Thứ hai, đoàn kết là phải mở cửa, hội nhập với cộng đồng quốc tế, vừa hợp tác vừa đấu tranh trong hoà bình cùng tồn tại. Một quan điểm lớn trong chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh là coi cách mạng một nước là một bộ phận của cách mạng thế giới. Quan điểm đó thể hiện, một mặt cách mạng một nước nhận được sự đoàn kết, ủng hộ của cách mạng thế giới. Mặt khác, cách mạng một nước có nghĩa vụ đóng góp vào sự phát triển của cách mạng thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng quan điểm đó của Người, chúng ta mở cửa, hội nhập, là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, với phương châm đa dạng hoá, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Vận dụng chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh trong mở cửa hội nhập với thế giới là phải thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, phải giữ vững và phát huy được cốt cách và truyền thống Việt nam, phải làm cho nhân tố Việt nam phát huy trên trường quốc tế. Nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời phải bảo đảm các nguyên tắc; kết hợp lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, bảo đảm độc lập, chủ quyền dân tộc. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sự tuỳ thuộc lẫn nhau để phát triển trở thành quy luật chi phối quan hệ giữa các quốc gia. Vì thế, tăng cuờng đoàn kết quốc tế giữa các quốc gia dân tộc cần phải được đặc biệt chú trọng. Hiện nay, nổi lên vấn đề toàn cầu liên quan đến sự sống còn và phát triển của các quốc gia như; hoà bình, nguy cơ chiến tranh hạt nhân huỷ diệt, môi trường sinh thái, dịch bệnh.. đòi hỏi đến sự hợp tác tham gia của nhiều quốc gia dân tộc mới có thế giải quyết được. Hội nhập với thế giới. Việt Nam tích cực tham gia vào việc giải quyết những vấn đề đó, vì đây vừa là nghĩa vụ quốc tế vừa là nhiệm vụ dân tộc. Thứ ba, hội nhập quốc tế và đoàn kết quốc tế phải nêu cao tinh thần độc lập tự chủ. tự cường. Đây là một điểm và nội dung quan trọng trong chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh khi nào không quán triệt đầy đủ quan điểm độc lập, tự chủ thì cách mạng gặp khó khăn và cũng chứng minh khi nào việc kết hợp độc lập tự chủ, tự lực tự cường và đoàn kết quốc tế thì thuận lợi và làm nên những thắng lợi vẻ vang như cuộc Cách mạng Tháng Tám,cuộc kháng chiến chống Pháp… Hiện nay chúng ta xây dựng đất nước giàu mạnh, bằng chính sức lực và trí thông minh của ta, cũng giống như trước đây Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta “công việc của ta phải do ta làm lấy”, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, không một nước nào có thể phát triển mà không mở cửa, hội nhập với thế giới. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi trọng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế, các yếu tố truyền thống và hiện đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại…Nhưng càng mở rộng quan hệ đoàn kết quốc tế, hợp tác quốc tế, chúng ta càng phải giữ vững độc lập tự chủ, tự cường. không ỷ lại, không phụ thuộc vào bên ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, chúng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển, phải coi trọng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và quốc tế để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Thứ tư. Xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đây là quan điểm và là nguyên lý cực kỳ quan trọng trong chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Ngày nay, công tác xây dựng Đảng càng phải ngang tầm với những đòi hỏi của thời kỳ mới, tập trung ở ba vấn đề; Về bản chất và tính tiên phong của Đảng; về nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và công tác quần chúng đã được các Đại hội Đảng trong nhữgn năm đổi mới bổ sung khá đầy đủ; về quan hệ quốc tế của Đảng. Như vậy, quán triệt và vận dụng chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc vào giai đoạn hiện nay với những nội dung như trên, chúng ta sẽ làm được, vì Đảng Cộng sản Việt Nam có tinh thần độc lập, từ chủ, sáng tạo có tinh thần đoàn kết thuỷ chung, trong sáng, vì Đảng ta là Đảng của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tìm hiểu những giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đoàn kết quốc tế là góp phần thực hiện điều mong muốn cuối cùng của Người trước khi vĩnh biệt chúng ta là; “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. KẾT LUẬN Chiến lược đoàn kết quốc tế là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đã có nhiều người trong nước và trên thế giới nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những tư tưởng và giá trị nhân văn vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó tư tưởng về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế được khẳng định là nội dung thống nhất và đặc sắc trong suốt cả cuộc đời hoạt động của người. Trong thực tế, chiến lược đoàn kết quốc tế đã trở thành tài sản tinh thần quý giá của Đảng ta, dân tộc ta và nhân loại tiến bộ trong thời đại ngày nay. Thế giới ngày nay đã có những thay đổi to lớn song vẫn chưa mất đi bất công và bạo lực. Các nước đang thực thi những thủ đoạn tinh vi, dùng sức mạnh tài chính, thương mại, công nghệ, những phương tiện thông tin đại chúng cực mạnh để chi phối về chính trị, xâm nhập về kinh tế, văn hoá, tư tưởng đối với đa số các nước phát triển và các nước nghèo. Độc lập dân tộc thực sự, tự do dân chủ cho nhân dân, công bằng, hạnh phúc cho mọi người, hoà bình hữu nghị cho các dân tộc còn đang là mục tiêu của loài người. Không có con đường nào khác là các nước phải đoàn kết dân tộc thành một khối vững chắc và đoàn kết với tất cả các nước trên thế giới, vừa đấu tranh cho mục tiêu trên, vừa mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học và văn hoá của nền văn minh trí tuệ. Đồng thời khẳng định những quyền dân tộc cơ bản của mình, giữ gìn bản sắc và cốt cách tốt đẹp của dân tộc mình. Giá trị thực tiễn của đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc được thể hiện: Hiện thực hóa khẩu hiệu chiến lược đoàn kết quốc tế của Chủ nghĩa Mac – Lenin, Người tích cực hoạt động lí luận và thực tiễn trong phong trào cộng sản, công nhân và giải phóng dân tộc để biến khẩu hiệu đó thành hiện thực. Hồ Chí Minh đã lập ra hai tổ chức chính trị mang tính quốc tế “Hội liên hiệp thuộc địa” và “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức”, hình thành mặt trận đoàn kết các dân tộc thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Cùng với các phong trào của giai cấp vô sản ở các nước chính quốc tạo thành dòng thác cách mạng tấn công chủ nghĩa đế quốc, đó là cống hiến vĩ đại đối với cách mạng thế giới, góp phần làm sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin. Là cầu nối tình đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới: với nhiều năm hoạt động cách mạng tại nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh cất cao tiếng nói đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, nhân dân các nước trên thế giới đều coi Người là lãnh tụ vĩ đại của mình. Thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế, Người đã gieo hạt giống đoàn kết và giải phóng khắp thế giới, là hiện thân của tình đoàn kết giữa các dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước hiện nay có những chuyển biến nhanh chóng và sâu sắc, đặt ra những điều kiện mới đòi hỏi phải biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế cho phù hợp. Cần làm rõ đoàn kết để hiện mục tiêu cách mạng giai đoạn hiện nay là xây dựng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Mở cửa, hội nhập quốc tế, là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, tích cực tham gia vào giải quyết những vấn đề toàn cầu hiện nay; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới; Xây dựng đảng trong sạch và vững mạnh là hạt nhân cốt lõi đoàn kết quốc tế và đoàn kết dân tộc. Những quan điểm cơ bản cùng những giá trị thực tiễn của chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh là những bài học rất sâu sắc cần được nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với cách mạng Việt Nam và thế giới tiến bộ trong giai đoạn hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. 2. Phạm văn Đồng: Hồ Chí Minh – tinh hoa của dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb sự thật, Hà Nội, 1976. 3. Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992. 4. Lê Văn Yên: Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 5. Phan Ngọc Liên: Hồ Chí Minh – những hoạt động quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân, HÀ Nội, 1994. 6. Trường Chinh: Chủ tịch Hồ chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb thông tin lí luận, Hà Nội, 1991. 7. Viện thông tin khoa học xã hội: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 1993. 8. Phạm Xanh: Mấy vấn đề đoàn kết hiện thời dưới ánh sáng tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, Tạp chí lịch sử Đảng, số 3 – 1993. 9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 3, năm 2002. 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 4, năm 2002. 11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 6, năm 1980. 12. Tài liệu tham khảo môn học tư tưởng Hồ Chí Minh: phần Tập trích các tác phẩm Hồ Chí Minh. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đoàn kết quốc tế.doc