Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội: 1.1) Giành độc lập dân tộc và tiến lên Chủ nghĩa Xã hội: Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời. Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử. Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập ” Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.” Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do.” Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 39037 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ nghĩa Xã hội: 1.1) Giành độc lập dân tộc và tiến lên Chủ nghĩa Xã hội: Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời. Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử. Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…” Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.” Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do.” Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở chỗ đó. Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến. Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người. Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau. Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.” 1.2) Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội: 1.2.1) Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người nhấn mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa I) 5-1941. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những chính quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc lập giả hiệu, độc lập kiểu Mỹ. Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì". 1.2.2) Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập dân tộc: Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người già, đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng cao. Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn. Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 1.3) Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu. + Thời kỳ 1930 – 1945: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý nghĩa là: Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai chống lại độc lập dân tộc. Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất cả những ai có lòng yêu nước, thương nòi. Về lực lượng cách mạng ngoài nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. + Thời kỳ 1945 – 1954: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc", "kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến". Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội. + Thời kỳ 1954 – 1969: Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh. Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-1975. 1.4) Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam: Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết. Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai 'trường xuân bất lão'". Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 1.5) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ đổi mới: Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì không có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ sự kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đi lên xây dựng CNXH. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân đó đã được Đảng quán triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi mới. Đại hội lần thứ VI (12-1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước đã khẳng định: "Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh: "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta". Tiếp tục dòng chảy xuyên suốt và thống nhất đó, Báo cáo chính trị được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định bài học quan trọng đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: "Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4-2001) - Đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI, đại hội của dân chủ, trí tuệ, đoàn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng định: "Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên thực tế đã trở thành dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và đề cao trong sự nghiệp đổi mới mà toàn dân ta đang tiến hành. Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nhân dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH trong khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để hơn của thời kỳ CNH-HĐH. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hòa bình" và tệ quan liêu tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Suốt 80 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được một phần sứ mệnh lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song con đường phía trước không hoàn toàn bằng phẳng, trơn tru. Sự đan xen sâu sắc giữa những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta, Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta phải "lớn" hơn ngày hôm qua. Trên bệ phóng của những thành công rực rỡ mà cha ông đã xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Để khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết phải là sự trung thành đối với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, xây dựng thành công CNXH. 2) Tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường: Lời kêu gọi trong dịp 1000 ngày kháng chiến 10/6/1948, Hồ Chủ tịch căn dặn “Mỗi một người dân phải hiểu, có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”. Như vậy muốn độc lập tự do phải tự lực tự cường. Tư tưởng tự lực tự cường đã được thể hiện trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người. Từ việc ra đi tìm đường cứu nước, đến việc chọn con đường giải phóng dân tộc, từ trong kháng chiến cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thật vậy, trước tình cảnh đất nước bị ngoại xâm dày xéo, nhiều phong trào yêu nước xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Phong trào Cần Vương do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, và sau đó là cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Phan Bành và Đinh Công Tráng; Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật; Hương Khê của Phan Đình Phùng; cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo… Tất cả đều bị thất bại, chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Đến Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Với Hội Duy Tân, phong trào Đông Du Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để chống thực dân Pháp. Phan Chu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ luật pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh từ đó buộc thực dân Pháp trao trả độc lập… Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp nên các ông cũng như các sĩ phu cấp tiến khác không thể tìm được phương hướng phù hợp để giải quyết nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, nên sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt. Hồ Chí Minh không đi theo con đường mòn của các bậc tiền bối. Người đã chọn con đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học – kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, xem họ làm như thế nào để trở về nước giúp đồng bào giài phóng dân tộc. Từ thực tiễn gầm 10 năm bôn ba vạn dặm tìm đường cứu nước, Hồ Chủ tịch đã tìm thấy trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7/1920) lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình, đó là giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn việc giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản. Như vậy, Hồ Chủ tịch đã tìm được con đường giải phóng dân tộc và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Người nói “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Theo Lênin, cần phải có sự kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Tuy nhiên, Lênin cũng như những người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc đó cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa chỉ có thể nổ ra và thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thành công. Là người cộng sản hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc thế giới, Hồ Chí Minh sáng tạo ra luận điểm khả năng cách mạng thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng chính quốc. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, nhưng trong đấu tranh đó, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể tự đứng lên giải phóng. Các dân tộc thuộc địa không nên trông chờ, ỷ lại vào cách mạng chính quốc mà phải chủ động đứng lên tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, qua đó góp phần tích cực vào cách mạng thế giới nói chung, cách mạng chính quốc nói riêng. Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Người viết “Hỡi anh em ở các thuộc địa!...Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của Cac Mac, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng cách nỗ lực của bản thân anh em”. Vào những năm 1920, Hồ Chí Minh đã dự đoán cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng chính quốc, cách mạng Việt Nam có thể thành công trước cách mạng Pháp. Nghĩa là Hổ Chủ tịch thấy rõ được tính chủ động lịch sử của các dân tộc thuộc địa trong việc lật đổ chủ nghĩa thực dân để tự giải phóng, không nhất thiết phải chờ đến khi giai cấp công nhân chính quốc giành chính quyền. Hồ Chủ tịch đã vạch ra con đường giải phóng dân tộc trước hết bằng sự nổ lực và sức mạnh của chính mình, tranh thủ thời cơ và sự giúp đỡ quốc tế, cả dân tộc vùng lên tự giải phóng cho mình chứ không phải là làm cách mạng thế giới rồi nhờ sự giúp đỡ của thế giới để giải phóng Việt Nam. Khi phân tích tình hình trong nước, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là nước thuộc địa, nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Vì thế, không phải chỉ giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc, mà chỉ có thể giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, vì giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn thì quyền lợi của mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thực hiện được. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định những luận điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải có tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, tự giải phóng cho ta. Chỉ có chúng ta mới giải quyết được số phận của chúng ta. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đòi hỏi “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến,thì ngày nay chúng ta cần phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà” . Đường lối độc lập tự chủ, tự lực tự cường đã giúp Hồ Chủ tịch lái con thuyền Việt Nam đi giữa hai ngọn sóng Xô – Trung trong thập kỷ 60, thời kỳ mà giữa hai nước Liên Xô, Trung Quốc có những bất đồng lớn. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam luôn cần đến sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, nhưng Người chỉ rõ sự nghiệp cách mạng Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam quyết định. Vì chúng ta có thế, có lực thì bên ngoài mới ủng hộ, giúp đỡ và sự ủng hộ giúp đỡ đó mới mang lại hiệu quả. Người cho rằng muốn người ta giúp cho thì trước hết phải tự cứu mình đã; chúng ta lo tìm bạn bè nhưng trước hết phải tổ chức lực lượng của chính mình. Theo Hồ Chí Minh, độc lập không có nghĩa là biệt lập đứng riêng một mình mà để có thể hợp tác bình đẳng với tất cả các nước thì cần phải độc lập tự chủ. Vì vậy, độc lập tự chủ, tự lực tự cường là biểu hiện của tinh thần yêu nước chân chính, gắn bó mật thiết với tinh thần quốc tế trong sáng. Những người có tư tưởng dân tộc hẹp hòi và ỷ lại, không tự lực tự cường đều bị Hồ Chí Minh phê phán. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường có mối quan hệ chặt chẽ với mở rộng hợp tác quốc tế. Người đã từng nói “Nhờ Liên Xô thắng lợi mà những nước thuộc địa như Trung Quốc và những nước thuộc địa như Triểu Tiên, Việt Nam đã đánh được hoặc đang đánh đuổi bọn đế quốc xâm lăng trả lại tự do, độc lập”. Trên báo L’Humanité ngày 2/8/1919, Người viết “xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”. Khi được Standley Harrison, phóng viên báo Telepress, vào tháng 3/1949 hỏi: khi ngoại thương Việt Nam đã khôi phục thì Việt Nam sẽ giao dịch với những nước dân chủ nhân dân những gì? Người trả lời “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”. Hồ Chí Minh cho rằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam cần đến sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, nhưng không được trông chờ ỷ lại, mà phải tự lực cách sinh dựa vào sức mình là chính phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”, “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác đến giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Sự giúp đỡ của bạn bè là quý báu, chúng ta phải biết ơn sự giúp đở đó, nhưng chớ vì bạn giúp ta nhiều mà trông chờ ỷ lại, mà phải đem sức ta mà giải phóng cho ta. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua sự giúp đỡ đó có điều kiện phát huy những tiềm năng của Việt Nam. Muốn vậy phải sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội. Người nhắc nhở, các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng các vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tức là có thêm điều kiện để tự lực cánh sinh. Bởi vậy, chính phủ phải có kế hoạch để sự dụng hợp lý sự giúp đỡ ấy. Cán bộ ta phải ra sức công tác, phải làm việc tốt với các chuyên gia bạn, học tập kinh nghiệm tiên tiến của các nước bạn, phải bảo quản và sử dụng tốt những máy móc và vật liệu các nước bạn đã giúp ta, phải nghiêm khắc chống bệnh quan liêu, lãng phí, tham ô. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ, tự lực tự cường, Đại hội X đã xác định: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, “phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ tối đa ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”, “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển… Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần quán triệt tư tưởng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của Hồ Chủ tịch. Chúng ta phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. 3) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo: Nhìn vào quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ thấy rất rõ đó là một quá trình đổi mới sáng tạo liên tục trong nhận thức tư tưởng, cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có thể nói, Hồ Chí Minh là con người đổi mới, là một người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi mới. Ngay từ năm 1927, trong Đường cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tất". Danh từ "đổi mới" là danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà Người đã nêu ra từ năm 1949 trong bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân". Bốn năm sau, trong bài nói chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày 6/2/1953, Người đã đưa ra luận điểm bất diệt: “Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”. Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện, "chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi" là nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh đã xác định trong Di chúc của Người. Có thể nói, đổi mới chính là linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết luận này được rút ra từ những sự kiện lịch sử. Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà lịch sử về sau đã chứng minh tính chất phi thường của nó - "muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy". Ý nghĩ này thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi đến chốn của Hồ Chí Minh. Đến khi 15 tuổi, Người đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người tham gia công tác bí mật, làm liên lạc. Người khâm phục những nhà yêu nước tiền bối Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng phải có cách làm khác với cách làm của các cụ. Trong khi các trí thức và thanh niên có tinh thần yêu nước đua nhau theo phái Đông du sang Nhật thì Người lại chọn con đường sang nước Pháp và các nước khác để xem họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào. Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết chiến lược, sách lược là gì, không rõ CHXH và chủ nghĩa cộng sản khác nhau thế nào, cũng chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần phải có quyết định trong việc lựa chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén chỉ dựa vào một tiêu chí duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc địa, để đưa ra quyết định đúng đắn. Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn mạnh đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư bản và coi việc chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trong khi Quốc tế cộng sản có quan điểm cho rằng công cuộc giải phóng thuộc địa chỉ có thể thực hiện sau khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vô sản, thì Người đã không như thường lệ, chỉ giản đơn phụ họa và chứng minh cho những quan điểm đó, mà đã khảng khái và dũng cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây, một là, Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không chờ đến sau khi "giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên ngôn thành lập của Quốc tế cộng sản năm 1919 và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Quốc tế cộng sản về sau (1928) đã xác định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng vô sản Pháp, chứ không phải đợi sau khi cuộc cách mạng vô sản Pháp thắng lợi rồi mới tiến hành. Đây là tư duy đổi mới bước đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Và, như chúng ta đều biết, về sau, khi đã cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư tưởng: cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản chính quốc và giúp cho phong trào công nhân ở các nước chính quốc. Những quan điểm đổi mới táo bạo và to lớn được viết trong Báo cáo trên thể hiện tinh thần đổi mới, tầm cao trí tuệ và khí phách anh hùng cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó chỉ có thể là sản phẩm phi thường của một trí tuệ phi thường, một tư duy đổi mới phi thường. ở đây, xin phép được lưu ý ràng, Hồ Chí Minh đã viết báo cáo đó trong lần đầu tiên đến Mátxcơva vào năm 1924. Lúc đó, Người mới theo Lênin và Quốc tế cộng sản được 4 năm trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học ngắn ngày và có lẽ là ngẫu nhiên tại Trường Đại học phương Đông. Vậy mà, Người đã dũng cảm và trung thực, bất chấp mọi sự nguy hiểm về mặt chính trị có thể xảy ra đối với bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc đáo hết sức khác thường của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của đất nước làm thước đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn phong của bản báo cáo là văn phong biện luận. Sau khi nêu lên những sự thật về tình trạng giai cấp ở Việt Nam, Người đã viết: "Điều đó, không thể chối cãi được". (Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, nghĩa là 31 năm sau, Người lại dùng câu: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" sau khi nêu lên những quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để đi đến tuyên bố về quyền dân tộc chính đáng không thể phủ nhận của nhân dân Việt Nam). Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi thường ban đầu đó, về sau Hồ Chí Minh đã đi đến những quan điểm đổi mới sáng tạo hết sức phi thường, những kết luận hết sức phi thường trong việc đổi mới chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể thấy, trong điều kiện giai cấp và quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong điều kiện "công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành" (theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là trong điều kiện giai cấp công nhân công xưởng mới ở thời kỳ manh nha hình thành và với thực trạng giai cấp và quan hệ giai cấp đó thì liệu có thể áp dụng học thuyết đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản quá độ trực tiếp lên CHXH của chủ nghĩa Mác - Lênin được không, Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm nêu lên những nhận xét và quan điểm: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây", "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước", "xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó" và "chúng ta phải coi chừng”! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu (chế độ nô lệ, chế độ nông nô - N.H) không?". Có thể nói, những nhận thức nêu lên trong bản báo cáo trên chính là ngọn nguồn tư tưởng của đường lối giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới chiến lược, sách lược bước đầu được xác định ở Hội nghị Trung ương VIII (khoá I), để rồi sau đó, được hoàn chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm sau, trong Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh đã trực tiếp trả lời cho những vấn đề nêu trên với những nội dung hoàn toàn mới mẻ như sau: "Thời đại của chúng ta là thời đại mới, thời đại cách mạng thắng lợi...". "Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới". Và, "tuỳ theo hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau để đi đến CHXH. Đối với Việt Nam là một nước đi lên CHXH từ xã hội phong kiến thuộc địa thì phải "kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CHXH". Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm về chính trị và kinh tế của chế độ dân chủ mới: sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện "nhân dân dân chủ chuyên chính", phát triển nền kinh tế 5 thành phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước, trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo). Nhìn vào những quan điểm mới mang tính hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, chúng xứng đáng được mệnh đanh là một học thuyết mới - học thuyết Hồ Chí Minh. Trong một bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà cách mạng lão thành, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã có lý khi đề cập đến phương pháp luận, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở dẫn đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông viết: "Suốt đời mình, Cụ Hồ có tính quen là quan sát thực tế... Sát thực tế là tính Cụ Hồ", "óc phân tích tổng hợp của Cụ Hồ rất sắc sảo". Và, "Cụ Hồ là người Việt Nam đầu tiên đề cao tầm quan trọng của lý luận. Theo Cụ Hồ, lý luận đối với một chính đảng quan trọng như linh hồn đối với con người. Song người ta thấy Cụ Hồ sau khi đã vạch ra tổng lộ tuyên thì chú trọng đặc biệt đến thực tiễn. Thực tiễn có thể chứng minh hoặc bác bỏ, hoặc đòi sửa đổi chủ trương mang tính lý luận. Thấy sai trái hay thiếu sót thì can đảm sửa, bổ sung, hay bỏ đi, đến đây thì thực tiễn là ưu tiên. Cụ Hồ là người dám nhìn thẳng vào sự thật. Cụ xem thực tiễn là trọng yếu số một. Cụ không thích lý luận tư biện cũng như không thích thực tiễn mù quáng". Trong thư từ biệt gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp trước khi rời Paris năm 1923, Người viết: “Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập". 30 năm sau, Người viết rất rõ trong Thường thức chính trị: "Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp bức bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản. Nhưng để đi đến mục đích ấy, mỗi nước phải tuỳ theo điều kiện của mình mà tiến dần"... "Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã lội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ củ phong kiến, thực hiện "người cày có ruộng", xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải bảo vệ tư sản dân tộc, vì họ cũng chống đế quốc, chống phong kiến và họ là một lực lượng để phát triển công nghệ, nông nghiệp và thương nghiệp. Bước thứ hai là tiến lên CHXH, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản". Thật rõ ràng, không thể đặt vấn đề một cách máy móc, giáo điều, Việt Nam nhất định sẽ đi đến CHXH nhưng từ điểm xuất phát là xã hội thuộc của và phong kiến, nên phải theo một con đường riêng thích hợp, mọi chủ trương chính sách đều phải xuất phát từ hoàn cảnh thực tế, cụ thể của đất nước và mỗi khi tình hình biến đối, có điều kiện mới nảy sinh thì phải kịp thời có sự thay đổi trong nhận thức tư tưởng và trong hành động, kể cả trong chiến lược, sách lược cách mạng, vận dụng linh hoạt phép biện chứng duy vật, lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất, coi lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân trên hết. Đó là những cơ sở khiến cho Hồ Chí Minh, với trí tuệ phi thường của mình, sáng tạo nên một hệ thống những quan điểm mới về chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và tính chất của thời đại mới, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Xét đến cùng, theo học thuyết Hồ Chí Minh, lợi ích của tổ quốc, của nhân dân mới là “cái bất biến”, tất cả mọi cái khác, kể cả những quan điểm, tư tưởng, nếu muốn duy trì địa vị là chân lý hoặc trở thành chân lý mới, đều phải phù hợp với "cái bất biến" đó. Những gì trái với nó đều không phải là chân lý, càng không phải là chân lý mới. Người nói: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức không phải chân lý". 4) Đẩy mạnh công cuộc đổi mới sáng tạo vì độc lập dân tộc và CNXH: Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã và đang đem lại những thắng lợi to lớn. Thực tế đã minh chứng: Đảng Cộng sản Việt Nam chính là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tự đổi mới, hoàn thiện, nâng cao năng lực lãnh đạo cách mạng, tiếp tục huy động trí tuệ và sức mạnh của toàn dân, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. _ Đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam: Bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở Việt Nam là những chủ trương và giải pháp do Hội nghị Trung ương 6 khóa IV Đảng Cộng sản Việt Nam (8-1979) đề ra nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho sản xuất bung ra. Tiếp đó, Đảng và Chính phủ đề ra nhiều chính sách cụ thể: Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (13-1-1981) về khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp; Quyết định 25 CP và 26 CP (21-1-1981) về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6-1985) xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp để chuyển sang hạch toán kinh doanh; Kết luận của Bộ Chính trị (8-1986) về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và cơ cấu sản xuất. Đó là quá trình đổi mới từng bước và cũng từng bước hình thành đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986). _ Đổi mới nhận thức thực tiễn và tư duy lý luận: Đường lối đổi mới của Đại hội VI trước hết là đổi mới nhận thức thực tiễn và tư duy lý luận. Đổi mới nhận thức thực tiễn là thái độ của Đảng trong đánh giá tình hình với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, thấy rõ những thành tích nhưng cũng chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục. Đổi mới tư duy lý luận hướng vào nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những quy luật khách quan và đặc trưng cơ bản. Từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, Đại hội VI đã nêu lên những bài học quan trọng, trong đó có bài học: Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội, làm trái quy luật, nhất là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ sự đổi mới trong tư duy lý luận, Đại hội VI quyết định đổi mới chính sách kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần (kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp); đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp, kết hợp kế hoạch với thị trường, nhận thức đúng vai trò của kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường; thực hiện những chương trình kinh tế lớn để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân. Đại hội VI nhấn mạnh đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, khắc phục bệnh quan liêu, chú trọng lấy dân làm gốc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật. Đại hội VI chú trọng đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, coi trọng thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Với đường lối đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, Đại hội VI của Đảng là bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển đất nước. Hơn 20 năm đổi mới là thời gian quá ngắn so với lịch sử dân tộc và chỉ chiếm 1/4 thời gian tồn tại và phát triển của Đảng, nhưng lại gặt hái được nhiều giá trị lớn. Đảng ta có bước trưởng thành, vượt lên chính mình. Lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, trên diễn đàn đại hội, mở đầu Báo cáo chính trị, thay mặt toàn Đảng, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nói rõ quan điểm và thái độ của Đảng trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Tinh thần này đánh dấu sự đột phá trong đổi mới tư duy của Đảng. Nhìn thẳng vào sự thật là cùng với đánh giá đúng những thành tích đã đạt được, phải chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ nguyên nhân, nêu ra biện pháp khắc phục. Điều này chỉ có được với một Đảng chân chính, thật sự Cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng, một điểm mấu chốt là tạo lòng tin của nhân dân đối với Đảng - những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của Đảng - như Bác Hồ viết. Lòng tin này xuất phát từ tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Qua hơn 20 năm đổi mới, trừ một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; mắc tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân, Đảng ta vẫn xứng đáng là “đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Bởi vì thành quả và giá trị lớn nhất qua 20 năm đổi mới là dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Bảo đảm được tốc độ tăng trưởng kinh tế, ngay cả khi kinh tế thế giới suy thoái và khủng khoảng, chúng ta vẫn đạt tăng trưởng trên 5% và là một trong số ít các nước tăng trưởng dương; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị-xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Lời mở đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phòng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới; Suốt cả cuộc đời, Người hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho dân tộc độc lập, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và cho toàn nhân loại. Người dành tất cả tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí, con cháu, già, trẻ, gái, trai, miền xuôi, miền ngược, Bắc cũng như Nam. Mỗi một bài nói, bài viết, một lời căn dặn, một buổi gặp gỡ, công tác của Người đều chứa đựng ý nghĩa tư tưởng, hành vi và quan hệ đạo đức cách mạng sáng ngời. Con người, cuộc sống và sự nghiệp cách mạng của Người đều là tấm gương đạo đức cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập suốt đời. Tuy Người đã đi xa, nhưng để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả, trong đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh chủ tịch HCM có viết: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo.” Những tư tưởng vĩ đại vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải có nhiều công trình khoa học tầm cỡ quốc gia nghiên cứu, cần nhiều thời gian để tìm tòi đúc kết. Do vậy, ở đây em không tham vọng trình bày được toàn bộ tư tưởng của Người, mà chỉ là 1 góc cạnh dựa trên cơ sở học tập, sưu tập tài liệu, thêm một chút nghiềm ngẫm. Từ đó xin được góp phần làm hiểu rõ 3 vấn đề cơ bản trong hệ tư tưởng của Người: _ Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. _ Tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường. _ Tư tưởng đổi mới và sáng tạo. Lời kết Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ tư tưởng giá trị : Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự chủ tự lực tự cường, đổi mới sáng tạo, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, tư tưởng, là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.doc
Luận văn liên quan