MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Suốt cả cuộc đời, Người phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Cùng với sự nghiệp của Đảng ta, dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu thế một tài sản tinh thần vô giá. Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng kinh tế là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quy luật kinh tế khách quan vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những tư tưởng đó đã chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và kiến quốc thành công.
Ngày nay, điều kiện trong nước và thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh nói riêng vẫn có ý nghĩa lớn lao.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định đường lối đổi mới, tạo cho nền kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (1994) đã xác định, trong đó có nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, ngày càng biểu hiện rõ nét. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh nhằm rút ra những bài học và vận dụng những tư tưởng đó phù hợp với bối cảnh mới để góp phần đắc lực vào việc phát triển nền kinh tế nói chung, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thành công nói riêng.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kinh tế, đánh giá quá trình vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, tác giả chọn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là một đề tài rộng và còn khá mới mẻ. Mặc dù vậy, đã có một số đề tài và sách chuyên khảo nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh dưới nhiều góc độ khác nhau.
* Đề tài khoa học:
- Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX02 (1991 - 1996), trong một số đề tài nhánh KX02 - 05 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” và KX 02 - 13 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân” có đề cập đến một số nội dung của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh.
.
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14498 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
00 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên khoảng 150.000, tăng gần 2 lần so với 9 năm trước đây (1991 - 1999): tổng số nguồn vốn đăng ký đạt hơn 302.250 tỷ đồng (tương đương 18 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ)” [7, tr.71].
Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân vào việc phát triển kinh tế là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. Riêng số doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 96% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước) đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 - 26% lực lượng lao động cả nước. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội (khoảng hơn 6 triệu người). Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 37,7% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước phát triển quan trọng. Tính đến tháng 6-2004, có:
4.575 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép và có hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 43 tỷ USD. Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động [7, tr.71].
- Ba là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành và phát triển.
Nền kinh tế nhiều thành phần theo chủ trương của Đảng và được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hóa bằng các luật, pháp lệnh. Với Luật doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp 1992 quy định đã thực sự đi vào cuộc sống. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự, Luật Thương mại, Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã tạo khuôn khổ pháp lý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình thành và vận hành từng bước. Đồng thời, Nhà nước đã thể chế hóa thành cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế,... Nhờ đó, Nhà nước đã góp phần tích cực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường trong suốt gần 20 năm qua.
Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp; chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của doanh nghiệp sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân, chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
- Bốn là, cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về cơ cấu ngành kinh tế: Từ năm 1988 đến nay, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục ( năm 1988 là 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8%, năm 2003 là 40%, năm 2005 chiếm 41% GDP). Từ chỗ chưa khai thác dầu, đến nay đã có sản lượng (quy ra dầu) gần 20 triệu tấn/năm; ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp xây dựng phát triển khá mạnh; sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988 là 46,3%, năm 2003 còn 21,8%; năm 2005 là 20,5%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên đơn vị diện tích tăng lên. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,2% năm 2003, 38,5 năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành bưu chính viễn thông và dịch vụ phát triển nhanh. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý… có bước phát triển khá.
Về cơ cấu các vùng kinh tế: Có sự chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh và quan tâm hỗ trợ các vùng còn có nhiều khó khăn. Ba vùng kinh tế trọng điểm đã phát triển với tốc độ cao hơn mức bình quân của cả nước, hiện chiếm hơn 60% GDP của cả nước, dần dần phát huy lợi thế so sánh, bước đầu có vai trò thúc đẩy các vùng khác phát triển. Các vùng kinh tế còn khó khăn đang từng bước vươn lên, có chuyển biến tốt về đời sống kinh tế - xã hội. Tốc độ đô thị hóa tương đối nhanh. Các vùng ngoại thành, ven đô thị được chú trọng phát triển.
Về cơ cấu lao động: Có sự chuyển dịch theo hướng tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm, còn lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng nhanh. “Năm 1990, lao động nông, lâm ngư nghiệp chiếm 73,02% tổng số lao động xã hội, năm 2004 còn 58%, năm 2005 còn 57%; năm 2005 lao động trong nông nghiệp và xây dựng là gần 18%, trong dịch vụ là 25%” [7, tr.73].
Việc dịch chuyển cơ cấu đầu tư có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP tăng khá nhanh; nguồn vốn tích lũy trong nước đã được khai thác tốt hơn, chiếm 60% tổng vốn đầu tư. Mặt khác, đã huy động được nhiều vốn bên ngoài cho đầu tư phát triển. Đã hướng mạnh hơn đầu tư vào các mục tiêu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; bổ sung thiết bị và hiện đại hóa một số ngành công nghiệp; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất; xây dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo - nhất là ở vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn.
- Năm là, đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Từ sau khi xóa bỏ thành công chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt (như thương mại, dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ...). Đặc biệt là nước ta tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ngày 28-7-1995; đã không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu. Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó, nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hóa với nước ngoài.
2.1.2. Những yếu kém, hạn chế của nền kinh tế nước ta
2.1.2.1. Những mặt yếu kém
Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta cũng còn tồn tại những mặt hạn chế, những vấn đề bất cập đòi hỏi được giải quyết.
- Về nhận thức: Chưa hình thành một khung lý luận vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nhiều khi chưa thực thi đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của kinh tế trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức chưa rõ về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các nhân tố cấu thành chủ yếu của nền kinh tế thị trường: Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp, nên chưa phát huy tốt tác dụng của các nhân tố đó.
Đã có ý kiến cho rằng không nên phân định các thành phần kinh tế, vì sự phân định đó sẽ dẫn đến thái độ phân biệt đối xử. Nhưng nhiều ý kiến khác lại cho rằng, phân định các thành phần kinh tế là cần thiết, vì đó là thực tế khách quan, giúp nhận rõ xu hướng vận động và phát triển của nền kinh tế để có chính sách phát triển và quản lý phù hợp. Cũng chưa có sự thống nhất nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Có ý kiến cho rằng xác định như vậy sẽ tạo ra không bình đẳng và cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; có ý kiến đề nghị không nên đặt vấn đề có một thành phần kinh tế nào đóng vai trò chủ đạo. Ý kiến ngược lại cho rằng, kinh tế nhà nước nhất thiết phải giữ vai trò chủ đạo, nếu không sẽ không bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa. Lại có ý kiến cho rằng, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo chứ không phải kinh tế nhà nước; Nhà nước là lực lượng định hướng, dẫn dắt và quản lý sự phát triển.v.v. và v.v…
Quan niệm về “bóc lột”, về kinh tế tư bản tư nhân vẫn chưa thật rõ, một số người còn ấn tượng khá nặng nề, gây cản trở không nhỏ về tâm lý và chính sách cho sự phát triển kinh tế. Có ý kiến cho rằng, việc không cho đảng viên làm kinh tế tư nhân cũng là một yếu tố gây sự khó khăn, e ngại, nhất là cho những tư nhân muốn đầu tư kinh doanh lớn. Ngược lại có ý kiến cho rằng, phát triển kinh tế tư nhân, nhất là kinh tế tư bản tư nhân, tất yếu sẽ tích tụ những nguy cơ của khuynh hướng tư bản chủ nghĩa.
Về vai trò, xu hướng và triển vọng của khu vực kinh tế tư nhân, có ý kiến cho rằng kinh tế tư nhân là động lực (hoặc một trong những động lực phát triển) của nền kinh tế thị trường ở nước ta, trước hết là đối với sự tăng trưởng nhanh, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội; kinh tế tư nhân là một thành tố cơ bản của nền kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng, chúng ta không thể tránh khỏi chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản, nếu cho phép phát triển kinh tế tư bản tư nhân.
Hiện nay chúng ta chưa định hướng cụ thể tiêu chí khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của các nước đã hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nước ta khó có thể đạt tới một nước công nghiệp vào năm 2020.
Nói chung, các bước đi của cả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa được làm rõ. Chậm cụ thể hóa mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn. Nhận thức như thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ và sự phụ thuộc giữa các nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau.
- Về thực tiễn: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng; chất lượng tăng trưởng còn thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế còn thiếu vững chắc; đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn rất khó khăn. Tăng trưởng những năm qua chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành, những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước, điều đó làm giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu hết các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh tuy có tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tạo lập và chuẩn bị các tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng nhìn chung, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trong chiến lược 10 năm (2001 - 2010), với mục tiêu là đến năm 2010 “tạo được nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, thì phần việc tạo ra nền tảng trong 5 năm qua thực hiện còn có mặt chậm trễ và thiếu đồng bộ. Tích lũy từ nền kinh tế còn thấp; kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu hai, ba thập kỷ so với các nước trong khu vực. Tỷ lệ công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực còn rất thấp, sử dụng công nghệ trung bình còn là phổ biến.
Kinh tế nhà nước chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế tập thể phát triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa phát triển đúng với tiềm năng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách...
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hình thành đồng bộ. Hệ thống thị trường còn bất cập, thị trường chứng khoán mới được hình thành, thị trường lao động còn sơ khai, thị trường tài chính mới đang từng bước được xác lập, thị trường khoa học - công nghệ chưa thực sự ra đời. Hệ thống pháp luật trên lĩnh vực kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa mang tính quốc tế, chưa đồng bộ và thiếu ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, còn thiếu nhiều văn bản dưới luật.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, làm ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả kinh tế, sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ còn có phần chậm lại. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh chưa được đẩy mạnh; chưa hình thành rõ nét các ngành, sản phẩm động lực, mũi nhọn, có sức cạnh tranh và hiệu quả cao; tỷ lệ giá trị mới tạo ra được còn thấp. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy tốt lợi thế so sánh và đóng vai trò thúc đẩy các vùng khác phát triển. Các vùng khó khăn vươn lên còn chậm.
Việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề khác còn rất khó khăn. Tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp. Tỷ lệ thu hút lao động trẻ trong xã hội có xu hướng giảm. Đầu tư còn phân tán, thất thoát, lãng phí; nhiều dự án kém hiệu quả. Vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định rõ ràng; phương pháp quản lý còn nặng về can thiệp hành chính, thiếu căn cứ thị trường, thiếu dự báo tin cậy, thiếu chủ động và chưa có chiến lược để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.2.2. Nguyên nhân yếu kém của nền kinh tế
Những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém trên đây có nhiều nguyên nhân.
* Về khách quan:
- Sự chống phá của các thế lực thù địch và tình trạng thoái trào của chủ nghĩa xã hội thế giới có tác động tiêu cực tới tâm tư, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, có tác động bất lợi tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những biến động phức tạp về chính trị, kinh tế... trên thế giới cũng như ở một số nước đã có tác động không thuận đến nước ta.
- Đổi mới vì chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử; nhiều vấn đề nảy sinh tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lý, thực tiễn chưa đủ sáng tỏ, ý kiến thường rất khác nhau, đặc biệt là trong bối cảnh mới của tình hình thế giới.
* Về chủ quan:
- Sự chưa ngang tầm trong lãnh đạo của Đảng kể cả năng lực, phẩm chất và trí tuệ. Biểu hiện ở chỗ:
+ Nhận thức của cán bộ, đảng viên trên một số vấn đề quan trọng chưa có sự thống nhất cao trong hoạch định và thực thực hiện một số chủ trương, giải pháp còn có sự ngập ngừng, lúng túng, thiếu dứt khoát, không triệt để.
+ Việc tổ chức quán triệt và thực hiện các Nghị quyết của Đảng chưa tốt, chậm cụ thể hóa, thể chế hóa, thiếu kiên quyết. Còn tình trạng nói mà không làm, nói nhiều làm ít, ra nghị quyết mà không thực hiện, hoặc thực hiện nửa vời. Việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc triển khai nghị quyết làm chưa tốt; việc xử lý sai phạm trong thực hiện nghị quyết không nghiêm, chưa đúng người, đúng tội.
+ Phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới. Việc đổi mới hệ thống chính trị chưa được quan tâm đúng mức, còn chậm trễ so với đổi mới kinh tế.
+ Chưa có biện pháp mạnh mẽ, đồng bộ và kiên quyết để tăng cường có hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ và đảng viên cũng như trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
+ Đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt bất cập trước yêu cầu mới; thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn; một số thiếu gương mẫu về đạo đức, lối sống.
+ Công tác lý luận của Đảng chưa ngang tầm trước sự phát triển của thực tiễn, trình độ tổng kết thực tiễn còn yếu. Việc nghiên cứu các vấn đề trong nước và quốc tế chưa sâu; khả năng nắm bắt và dự báo về tình hình thế giới, khu vực, về chiến lược của các nước lớn còn hạn chế.
+ Năng lực thể chế hóa đường lối của Đảng, triển khai thực hiện, năng lực điều hành của Nhà nước còn bất cập trước đòi hỏi của thực tiễn, nhất là giải quyết một số vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc.
+ Vai trò giám sát, phản biện của các ban của Đảng, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn yếu; chưa có cơ chế hợp lý để phát huy vai trò của các bộ phận này.
2.2. PHƯƠNG HƯỚNG QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NUỚC TA HIỆN NAY
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn kinh tế Việt Nam hiện nay, chúng tôi xin đưa ra một số phương hướng cần quán triệt khi thực hiện vấn đề này
2.2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hóa là một nhiệm vụ tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay đứng trước những thuận lợi và khó khăn mới, thời cơ và thách thức đan xen nhau. Vì vậy, một yêu cầu lớn đặt ra cho nước ta là để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tranh thủ thời cơ, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, sẵn sàng vượt qua mọi thử thách. Vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, chúng ta có thể đề cập trên một số vấn đề sau:
Một là, thấy rõ được tính tất yếu khách quan, mục tiêu, vai trò và nội dung của công nghiệp hóa đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta hiện nay là phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, để tạo điều kiện cần thiết nâng cao đời sống nhân dân. Cho đến Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ:
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp [15, tr.18-19].
Đồng thời, Đảng ta cũng làm sáng tỏ thực chất, mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta như sau: "Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao", hay " công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững" [52, tr.132].
Như vậy, công nghiệp hoá không chỉ tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, mà là quá trình thay đổi cơ bản, toàn diện cách thức tổ chức, hoạt động quản lý nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, chúng ta phải chọn nông nghiệp, nông thôn là điểm khởi đầu cho công nghiệp hoá. Điều đó do vị trí của nông nghiệp, do mối quan hệ tác động giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng nhấn mạnh: Từ nay đến cuối thập kỷ, phải rất quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ... xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải biết kết hợp giữa xây dựng công nghệ mới, cải tiến, nâng cấp công nghệ hiện có. Ngay từ năm 1960, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Muốn cơ giới hoá nông nghiệp cũng còn phải mất 15-20 năm chứ không phải làm ngay một lúc được. Cho nên phải cải tiến nông cụ hiện có, phải làm những loại máy móc đơn giản, thợ mộc cũng đóng được, nông dân cũng làm được" [47, tr.181-182]. Vận dụng quan điểm này, ngày nay chúng ta phải kết hợp các loại hình công nghệ từ thô sơ đến trung bình, đồng thời phải mạnh dạn đi tắt vào các ngành công nghệ hiện đại để có thể phát triển theo con đường "rút ngắn".
Hai là, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề quan trọng là tìm kiếm và khai thác các nguồn lực
Trong các nguồn lực, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải coi nội lực là chính, có tính chất quyết định, nguồn lực bên ngoài đóng vai trò quan trọng. Muốn có nội lực mạnh, buộc chúng ta phải phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm trong cả sản xuất và tiêu dùng.
Hơn nữa, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh ý chí tự lực tự cường. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế, chứ không phải là việc làm của riêng doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Nhưng trong điều kiện của nước ta hiện nay, việc huy động các nguồn vốn bên ngoài để phát triển sản xuất cũng rất quan trọng. Song, nguồn vốn ấy phải được sử dụng một cách có hiệu quả, hợp lý trên tinh thần dựa vào sức mình là chính.
Ba là, phải coi trọng vai trò của khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với việc từng bước hình thành, phát triển kinh tế tri thức.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của khoa học - công nghệ. Người đã nói: "Công nghệ mà xa rời toàn bộ kinh tế của quốc dân, mất liên lạc với nó, thì công nghệ không lãnh đạo được kinh tế của quốc dân [43, tr.499]. Đặc biệt, trong khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, khi nhân loại bước vào nền kinh tế tri thức, buộc chúng ta phải lựa chọn và xây dựng cho được một chiến lược khoa học công nghệ chính xác, phải gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Một mặt, áp dụng những bước tiến tuần tự về công nghệ, mặt khác tranh thủ những cơ hội “đi tắt, đón đầu”, hình thành những ngành mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học, công nghệ thế giới như ngành điện tử, tin học, ngành cơ khí chính xác, ngành dầu khí, ngành vật liệu xây dựng, ngành hoá chất... để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.
2.2.2. Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng khẳng định, sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan và là đặc trưng của thời kỳ quá độ. Song, do chưa nhận thức được thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử lâu dài, trải qua nhiều chặng đường, phải bắc nhiều nhịp cầu nhỏ để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như ở nước ta nên trên thực tế, chúng ta đã dùng biện pháp hành chính để nhanh chóng xoá đi các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Chính điều đó đã tạo lên một bức tường ngăn cách giữa kinh tế công hữu xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng vào cuối những năm 70 đầu những năm 80.
Trên cơ sở quan niệm về các thành phần kinh tế mà Lênin đã chỉ ra trong thời kỳ quá độ và tư tưởng Hồ Chí Minh thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần, tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể mà Đảng ta xác định cơ cấu thành phần kinh tế cho phù hợp.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh, thừa nhận phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, cụ thể là thừa nhận năm thành phần kinh tế chia làm 2 nhóm:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa: Bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
- Các thành phần kinh tế khác: Bao gồm kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước.
Đến Đại hội VII của Đảng ( 1991) tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta bao gồm 5 thành phần kinh tế là: Kinh tế quốc doanh; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước.
Đồng thời Đại hội cũng khẳng định cả 5 thành phần kinh tế này đều hoạt động bình đẳng trước pháp luật, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Đại hội VIII (1996) vẫn tiếp tục khẳng định nền kinh tế có 5 thành phần kinh tế đó là: Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước.
Từ tổng kết lý luận và thực tiễn của 15 năm đổi mới, Đại hội IX của Đảng đã có bước phát triển mới trong việc xác định cơ cấu các thành phần kinh tế. Đại hội nêu rõ nền kinh tế nước ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế là: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Mỗi thành phần kinh tế có quy luật vận động, hình thức thể hiện riêng, song chúng lại chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau trong một cơ cấu thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể là quan trọng. Thành phần kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Còn bốn thành phần kinh tế (cá thể - tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) đều được xem là nội lực để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội X của Đảng (tháng 4 năm 2006) đã khẳng định: ở nước ta hiện nay có 5 thành phần kinh tế như sau: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân); kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội đánh giá:
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu [18, tr.337].
Như vậy, so với Đại hội IX, Đại hội X vừa có sự kế thừa vừa có bổ sung, phát triển thêm một số điểm cho phù hợp với tình hình mới như: Để chung kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vào thành phần kinh tế tư nhân; khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân, doanh nghiệp cổ phần. Đồng thời nhận thức sâu sắc hơn nội hàm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở chỗ nó không phải thể hiện ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỷ trọng đóng góp vào GDP cao hay thấp, mà ở chỗ đó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Trong quá trình hoạt động, các thành phần kinh tế tự do kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh và cùng bình đẳng trước pháp luật trong việc hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ công dân.
Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy kinh tế để phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, để phát triển lực lượng sản xuất xã hội, để từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất. Việc sắp xếp vị trí vai trò của các thành phần kinh tế là kết quả của một quá trình nhận thức, xuất phát từ thực tiễn đất nước và chính điều đó đã trở lại với tư tưởng của Hồ Chí Minh là huy động toàn bộ sức mạnh của toàn dân để xây dựng và phát triển kinh tế, “ đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”.
2.2.3. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, dịch vụ hợp lý
Trong tư duy Hồ Chí Minh, nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế. Vì một nền nông nghiệp phát triển sẽ làm cho đời sống của nông dân Việt Nam được nâng cao, có điều kiện khai thác được mọi tiềm năng về lao động, đất đai của dân tộc.
Song, do tư tưởng chủ quan, duy ý chí, chúng ta đã đưa ra chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý”, nhưng trên thực tế chúng ta đã đầu tư không hợp lý vào nhiều công trình lớn đòi hỏi vốn đầu tư nhiều, thời hạn đầu tư dài mà hiệu quả kinh tế lại không cao, làm cho đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Đại hội VI đã mở đầu thời kỳ đổi mới bằng cách trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đã đề ra ba chương trình kinh tế lớn là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, thực tế là đã đưa nông nghiệp về với vị trí quan trọng hàng đầu.
Do đó quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứa IX của Đảng đã khẳng định: Trong nhiều năm tới, vẫn coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một trọng điểm cần tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết. Chúng ta vẫn:
Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá… phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới… cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn [16, tr.92-93].
Như vậy, nhiệm vụ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được xác định là thực hiện cơ khí hoá, hiện đại hoá các khâu sản xuất trong nông nghiệp, xây dựng và phát triển nông nghiệp, cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại địa bàn nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nông thôn.
Trong kinh tế nông thôn có sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế. Để có nền kinh tế thị trường với tính cách là công cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn, các thành phần kinh tế phải vận động theo hướng chung: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng trong kinh tế nông thôn; kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước… cùng phát triển trở thành nội lực xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, phải chú trọng phát triển kinh tế trang trại, các loại hình kinh tế hợp tác và khuyến khích nông dân đóng góp vốn, lao động của mình với các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất hàng hoá.
Để tiếp tục thực hiện đường lối đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Hội nghị trung ương năm, khoá IX đã ban hành Nghị quyết về “đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”. Nghị quyết đã nêu những nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải pháp lớn để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Trong đó về nội dung tổng quát của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, Nghị quyết cho rằng: công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp.
Song bản thân nông nghiệp tự nó không phát triển được, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, các ngành khác phải lấy phục vụ nông nghiệp làm trung tâm, trong đó có ngành công nghiệp dịch vụ.. Vì vậy Đại hội IX của Đảng đã đưa ra yêu cầu: Tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, nhất là giống và kỹ thuật sản xuất khác ở nông thôn để tạo ra sự đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Triển khai đến cơ sở chính sách ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt chú ý đến công nghệ cao để sản xuất nông sản, thực phẩm sạch theo tiêu chuẩn quốc tế và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao.
Mặt khác, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cũng đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng của nông nghiệp, nông thôn như vấn đề điện - đường-trường-trạm để phục vụ cho phát triển nông nghiệp, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nông dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong những năm tới, cơ cấu kinh tế - xã hội của nước ta phải thay đổi nhanh chóng theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội nhưng nông nghiệp, nông thôn và nông dân vẫn là những vấn đề có tầm quan trọng chiến lược như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp thịnh thì nước ta thịnh”. Vì vậy, nó đòi hỏi Nhà nước ta phải có chính sách nhằm liên kết ba nhà: nhà nông-nhà khoa học-nhà doanh nghiệp, để giải phóng người nông dân, để xây dựng và phát triển nông thôn về kinh tế theo hướng giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh, hiện đại và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2.4. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Bối cảnh trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi so với thời kỳ Hồ Chí Minh sống và hoạt động. Xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang lôi kéo tất cả các nước, các dân tộc hội nhập quốc tế với quy mô chưa từng có. Đó vừa là cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức trong quá trình đi lên của mỗi nước. Ở nước ta, quá trình đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, vấn đề mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng quan trọng cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với sự giúp đỡ từ bên ngoài để đề ra những chủ trương đúng đắn chỉ đạo thực tiễn, đem lại những thắng lợi to lớn trong mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Với phương châm “thêm bạn bớt thù”, để xây dựng và phát triển kinh tế, tất yếu chúng ta phải phát huy cả nhân tố bên trong (nguồn nội lực) và nhân tố bên ngoài (yếu tố ngoại lực), trong đó yếu tố nội lực bao giờ cũng mang tính quyết định, còn yếu tố ngoại lực có vai trò quan trọng nhưng nó chỉ phát huy được tác dụng thông qua yếu tố nội lực. Vì vậy, Đảng ta chủ trương mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Thực chất của vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại nói trên nhằm giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Dựa trên quan điểm của Hồ Chí Minh là Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” [42, tr.220] và xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm về chính sách đối ngoại trong giai đoạn mới, Đảng ta khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển [13, tr.147].
Chính trong mối quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế được mở rộng chưa từng có đã cho phép chúng ta có nhiều cơ hội khai thác, thu hút được nguồn lực bên ngoài để phát huy sức mạnh dân tộc nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song, để tận dụng có hiệu quả mọi thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế, để đối phó với các loại thách thức, nguy cơ lại đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một nền kinh tế tự chủ, tức là tự chủ trong hoạch định đường lối chiến lược, trong việc sử dụng các giải pháp, huy động các nguồn lực để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực để tham gia hợp tác quốc tế.
Xuất phát từ đặc điểm, tình hình thế giới, từ nhu cầu phát triển của đất nước cùng những thành tựu đã đạt được sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX của Đảng (Tháng 4 năm 2001) đã khẳng định:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững [16, tr.89].
Đồng thời về các đối tác trong mối quan hệ rộng mở cũng đã được Đại hội IX nêu rõ:
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN… tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống… thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương [16, tr.121].
Đại hội X của Đảng (T4/2006) lại một lần nữa khẳng định chính sách nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội cũng xác định nhiệm vụ của công tác đối ngoại là “giữ vững môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [18, tr.38] và chủ trương phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, lấy lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
Thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ động xây dựng chiến lược và xác định từng bước lộ trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trước hết là phấn đấu đến cuối năm 2006, nước ta ra nhập tổ chức Thương mại thế giới ( WTO). Điều đó đặt ra hàng loạt thách thức cho phát triển kinh tế ở tầm điều hành vĩ mô và cho các loại hình doanh nghiệp của nước ta, tìm cách bứt phá, tận dụng lợi thế của hội nhập để giành thắng lợi trong cuộc cạnh trành toàn cầu.
Như vậy, những thành tựu chúng ta đạt được sau 20 năm đổi mới là kết quả của việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong điều kiện mới nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh đã về với cõi vĩnh hằng, song di sản lý luận mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, trong đó có tư tưởng của Người về xây dựng và phát triển kinh tế, vẫn còn nguyên tính thời sự. Chính sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 20 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế. Vì vậy trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi không có lợi đối với sự phát triển của các nuớc xã hội chủ nghĩa, song Đại hội đại biểu tòn quốc lần thứ X của Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định một vấn đề có tính nguyên tắc: Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng và phát triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp và đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai sau.
Trong giai đoạn hiện nay, vai trò nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ nó tạo cơ sở lý luận cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tư tưởng ấy còn được biểu hiện ở nhiều nội dung phong phú, có tính hệ thống:
- Lý luận về thời kỳ quá độ và những đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ;
- Quan điểm về mối quan hệ giữa sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân, về xác lập vai trò làm chủ của nhân dân lao động;
- Quan điểm về phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa;
- Quan điểm về lựa chọn, xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý;
- Quan điểm về cơ chế quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ;
- Quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với sự giúp đỡ, ủng hộ của các nước trên thế giới nhằm tận dụng lợi thế quốc tế để phát triển kinh tế nước nhà, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong những nội dung đó, Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng sáng tạo học thuyết kinh tế - chính trị Mác - Lênin mà còn có những phát kiến mới phù hợp với cách suy nghĩ, cách làm của người Việt Nam bằng những ngôn từ dễ hiểu, dễ nhớ.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Người được Đảng và Nhà nước ta vận dụng và phát triển theo một số hướng cơ bản sau đây:
Một là, xác định rõ mục tiêu phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá làm nền tảng tinh thần của dân tộc.
Hai là, phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm tận dụng mọi nguồn lực vốn có trong nhân dân để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ba là, tập trung phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, phát triển cơ cấu công-nông nghiệp-dịch vụ hợp lý theo hướng của một nền kinh tế hiện đại.
Bốn là, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh kinh tế trong nước với sức mạnh kinh tế của thời đại để làm cho dân giàu nước mạnh, sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Như vậy là, ngay trong lĩnh vực kinh tế, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có sức sống và giá trị lâu bền đối với việc xây dựng, phát triển và chấn hưng dân tộc. Tư tưởng ấy vẫn là cơ sở, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (1996), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và tổ chức hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam”, Lịch sử Đảng, (3).
2. Phạm Ngọc Anh (1997), “Quan niệm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Lịch sử Đảng, (3).
3. Phạm Ngọc Anh (1998), “Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác tài chính”, Lịch sử Đảng, (6).
4. Phạm Ngọc Anh (2000), “Một số đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Lịch sử Đảng, (11).
5. Phạm Ngọc Anh (2003), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ph.Ăngghen (1971), Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Khánh Bật (1997), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, quan liêu”, Lịch sử Đảng, (12).
9. Nguyễn Khánh Bật (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
10. Bộ công nghiệp-Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Trần Xuân Châu (1997), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế hợp tác”, Nghiên cứu lý luận, (8).
12. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, lưu hành nội bộ.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hoàng Ánh Đông (2002), “Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
20. Võ Nguyên Giáp (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Xuân Hỡi (1991), “Vài nét về Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề quản lý kinh tế”, Lịch sử Đảng, (3).
24. Nguyễn Mạnh Hùng (2002), Một số nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
25. Nguyễn Thế Hinh (2001), “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ quản lý”, Cộng sản, (10).
26. Nguyễn Thế Hinh (2003), “Mục đích của đường lối phát triển kinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Thời báo Kinh tế và phát triển, (2).
27. Nguyễn Thế Hinh (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
28. Hoàng Ngọc Hoà (1998), “Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”, Cộng sản, (10).
29. Vũ Đức Khiển (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa văn hoá với kinh tế và chính trị”, Khoa học xã hội, (2).
30. V.I..Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
31. V.I..Lênin (1978), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
32. V.I..Lênin (1978), Toàn tập, Tập 43, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
33. V.I..Lênin (1978), Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
34. Đặng Ngọc Lợi (2004), “Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động kinh tế đối ngoại”, Cộng sản, (7).
35. C.Mác và Ph.Ănghen (1970), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập , Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Lý Hoàng Mai (5/2005), “Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới”, Nghiên cứu kinh tế, (324).
38. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (1998), Về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (1990), Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
52. Đỗ Mười (1995), Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Bạch Đình Ninh (1993), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp”, Nghiên cứu lý luận, (2).
54. Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1996-2005, (2005), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
55. Nguyễn Huy Oánh (1999), “Cần, kiệm, liêm, chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu lý luận, (6).
56. Nguyễn Huy Oánh (2000), “Nhận thức của Hồ Chí Minh về vai trò của công nghiệp và khoa học công nghệ trong tiến trình lịch sử”, Nghiên cứu kinh tế, (5).
57. Nguyễn Huy Oánh (2004), Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Trần Văn Phòng (2002), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”, Khoa học chính trị, (6).
59. Vũ Văn Phúc (2000), “Một số luận điểm kinh tế của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Nghiên cứu lý luận, (2).
60. Đỗ Thanh Phương (1997), “Quan hệ giữa phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu lý luận, (4).
61. Bùi Đình Phong (1998), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”, Lịch sử Đảng, (9).
62. Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước,(2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Ngô Quang Thành (2000), “Một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế”, Sinh hoạt lý luận, (3).
64. Song Thành (2000), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cách mạng khoa học - công nghệ và trí thức”, Cộng sản, (13).
65. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
66. Mạch Quang Thắng (1992), “Phong cách Hồ Chí Minh trong lĩnh vực quản lý kinh tế”, Lịch sử Đảng, (4).
67. Vũ Anh Tuấn (1997), “Một số nội dụng cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội”, Nghiên cứu lý luận, (7).
68. Lê Văn Tuấn (1993), “Tính thống nhất giữa kinh tế và xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Cộng sản, (9).
69. Nguyễn Quang Trung (2001), “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và biện pháp quản lý kinh tế”, Giáo dục lý luận, (1).
70. Nguyễn Thanh Tùng (1995), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá”, Nghiên cứu lý luận, (3).
71. Đỗ Thế Tùng (2002), “Mấy suy nghĩ về phương pháp luận nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh”, Lý luận chính trị, (4).
72. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba Đảng lao động Việt Nam (1960), Nxb Sự thật, Hà Nội.
73. Hà Xuân Vấn (1993), “Tìm hiểu tư tưởng Mác-Lênin, Hồ Chí Minh về kinh tế quốc tế”, Thông tin lý luận, (2).
74. Hồ Trọng Viện (1994), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và con đường phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta”, Cộng sản, (5).
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.doc