MỤC LỤC
A - PHẦN MỞ ĐẦU
B – PHẦN NỘI DUNG
I – Khái quát chung về thành phần kinh tế nhà nước
1 – Thành phần kinh tế nhà nước
1.1 Khái niệm thành phần KTNN
1.2 Cơ sở hình thành của KTNN
1.3 Đặc điểm của thành phần KTNN
2 – Sự khác nhau giữa KTNN và KTTB độc quyền
II – Sự hình thành và phát triển thành phần KTNN ở Việt Nam
1 Giai đoạn1945 – 1960
2 Giai đoạn1960 – 1975
3 Giai đoạn1975 – đầu những năm 1980
4 Giai đoạn1980 – 1985
5 Giai đoạn1985 – 1990
6 Giai đoạn1990 đến nay
III – Vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
1 – Tính tất yếu vai trò chủ đạo của thành phần KTNN
2 – Vai trò chủ đạo của KTNN
IV – Thực trạng của KTNN hiện nay
1 – Quy mô và tổ chức của các DNNN
2 – Kỹ thuật và công nghệ trong các DNNN
3 – Tổ chức quản lý của các DNNN
4 – Hiệu quả của các DNNN
5 – Những cơ hội và thác thức đối với DNNN trong thời gian tới
V - Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước.
1 – Về định hướng tổ chức phát triển DNNN hoạt động kinh doanh hoạt động công ích
1.1 - Đối với DNNN hoạt động kinh doanh
1.2 - Đối với DNNN hoạt động công ích
2 – Về việc sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách
2.1 - Đối với DN hoạt động kinh doanh
2.2 - Đối với DN hoạt động công ích
2.3 – Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được
3 - Đổi mới và nâng cao hoạt của các tổng công ty nhà nước, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh
4 - Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN
5 – Thực hiện giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN
C - PHẦN KẾT LUẬN
41 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2670 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế tập thể đã ra 84,4% thu nhập quốc dân.
Xét trên phương diện kinh tế, vai trò của kinh tế quốc doanh trong giai đoạn này được thể hiện không chỉ như là một công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện chủ trương công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và chiến đấu cho cả hậu phương và tiền tuyến mà còn như là một tấm gương phản ánh sự thành công của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Còn xét trên phương diện chính trị, xã hội, kinh tế quốc doanh luôn được quan niệmk là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong trong việc tăng cường và mở rộng quan hệ sản xuất mới và quan hệ sản xuất XHCN.
3.Giai đoạn từ 1975 đến đầu những năm 80.
Cùng với chủ trương tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất XHCN và công nghiệp hoá XHCN công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam đã làm cho số lượng xí nghiệp quốc doanh ở tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp đều tăng lên một cách nhanh chóng, đến năm 1980 nước ta đã có:
+ Công nghiệp: 2627 xí nghiệp quốc doanh.
+ Nông nghiệp: 232 nông trường quốc doanh.
+ Thương nghiệp: 10915 điểm bán hàng của thương nghiệp quốc doanh.
Trong giai đoạn này kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trò quan trọng trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới XHCN, cũng như trong công cuộc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, xét trên giác độ kinh tế, sức đóng góp của kinh tế quốc doanh đã giảm so với trước. Đến năm 1980 công nghiệp quốc doanh chỉ tạo ra được 68,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh chiếm 29,8% tổng mức bán lẻ.
4. Giai đoạn từ 1980-1985.
Trong những năm 1980-1985 mặc dù nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn so với trước, năng lực sản xuất của kinh tế quốc doanh nói riêng và sức sản xuất xã hội nói chung không được sử dụng hết do thiếu vật tư một cách nghiêm trọng song xuất phát từ quan niệm truyền thống về quan hệ sản xuất XHCN nên các giải pháp tháo gỡ trong giai đoạn này vẫn tập trung chủ yêu vào cải tiến quản lý đối với xí nghiệp quốc doanh. ở giai đoạn này cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý đã được cải tiến dần trên nguyên tắc phi tập trung hoá trong quản lý kinh tế, song kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò tuyệt đối đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các xí nghiệp quốc doanh nắm toàn bộ các nghành then chốt như : điện, luyện kim, khai thác, xi măng, gang thép, hoá chất cơ bản…Tuy nhiên đóng góp của các xí nghiệp quốc doanh vào tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đã giảm, tính đến năm 1985 kinh tế quốc doanh chỉ tạo ra được 37% tổng sản phẩm xã hội và 28% thu nhập quốc dân.
5. Giai đoạn từ 1985-1990.
Giai đoạn bắt đầu thực hiện đổi mới kinh tế, tư tưởng xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần được đưa ra. Trong quá trình hình thành kinh tế nhiều thành phần công tác quản lý kinh tế quốc doanh vẫn tiệp tục được cải tiến theo hướng phi tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý đối với kinh tế quốc doanh. Điểm nổi bật trong cải tiến quản lý ở giai đoạn này là việc tách bạch giữa quyền quản lý nhà nước về kinh tế và quyền quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quan điểm mới nổi bật ở giai đoạn này là quan niệm không phải nền kinh tế quá độ nên CNXH ở nước ta chỉ có kinh tế quốc doanh, chủ trương của đảng và nhà nước ta không chỉ bó hẹp trong phạm vi cải tiến quản lý đối với kinh tế quốc doanh mà còn phát huy sức sản xuất của kinh tế tư nhân, cá thể cũng như các thành phần kinh tế khác. Trong cơ chế kinh tế mới đó kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trò chủ đạo nhưng không phải độc tôn. Năm 1990, kinh tế quốc doanh tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội.
6.Giai đoạn từ năm 1990 đến nay.
Chúng ta khẳng định chủ trương lâu dài là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ trương này được biến thành thực tế bởi quá trình ban hành và hoàn thiện hệ thống luật pháp, đặc biệt là pháp luật về kinh tế, nhằm tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Đến năm 1996, Trong công nghiệp còn 6032 DNNN số doanh nghiệp này tạo ra 41% GDP (doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra 59%). Trong cơ chế kinh tế mới DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo và chủ lực: Trên giác độ kinh tế, DNNN nắm giữ toàn bộ những ngành trọng yếu như điện, than sạch, thép cán, xi măng, dầu thô, giấy…
Như vậy, lịch sử phát triển của KTNN từ sau cách mạng tháng tám đến nay đã hình thành một hệ thống DNNN trên khắp đất nước. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước này nhiều về số lượng, nắm giữ các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, sử dụng lực lượng lao động kỹ thuật có trình độ cao, lực lượng DNNN đã đóng vai trò rất quan trọng, mở đường và hướng dẫn đối với việc phát triển nền kinh tế nước ta trước đây và ngày nay. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống DNNN vẫn đóng vài trò chủ đạo đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
III. VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại đồng thời nhiều thành phần kinh tế những nền kinh tế nhiều thành phần ở những nước có chế độ chính trị khác nhau lại mang những đặc điểm khác nhau rất căn bản. Nếu như trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thành phần kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị thì trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở nước ta thì thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo và KTNN cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho sự đi lên và phát triển của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sở dĩ thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo bởi vì những lý do chính sau:
Thứ nhất, chúng ta đều biết “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”. Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu dưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thành phần KTNN của nước ta mà trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta do hạn chế của trình độ lực lượng sản xuất phát triển còn thấp, các quan hệ sở hữu còn tồn tại dưới nhiều hình thức, do đó nền kinh tế nước ta ở giai đoạn này là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà không ai có thể phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… điều đó đòi hỏi cơ chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và công cụ hữu hiệu nhất mà thông qua nó nhà nước thể hiện vai trò điều tiết của mình đó là thành phân KTNN. Chỉ có KTNN mới có thể bảo đảm vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo cho lợi ích của người lao động, khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó của KTNN đã được chứng minh qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở nước ta sau đổi mới đến nay:
Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn, khắc nghiệt như: thể chế xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Mĩ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực 1997 – 1998 tác động mạnh, thiên tai liên tiếp xảy ra việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới nhưng bao hàm cả những khó khăn thách thức. Song chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, quốc phòng an ninh được tăng cường, sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Kết quả trên có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó KTNN góp phần rất to lớn. Năm 2000 DNNN làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu DNNN là đối tác chủ yếu trong hợp tác đầu tư nước ngoài, chiếm 98% số dự án liên doanh với nước ngoài. DNNN có năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu ngày càng hoàn thiện và từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Các tổng công ty có quy mô lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng nắm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động, trình độ công nghệ quả lý có nhiều tiến bộ. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN được nâng lên, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội. Đây cũng là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an ninh quốc phòng. Có thể khẳng định KTNN nói chung và các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Đứng vững trước những tác động của khủng hoảng kinh tế quốc tế, khu vực. Tạo tiền đề cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN.
Thứ hai là KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trường vẫn chưa hoàn thiện, người dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ tạo nguồn đầu tư cơ bản, kinh tế tư nhân còn nhỏ bé thì DNNN có vai trò huy động vốn đầu tư xây dựng những công trình lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp như các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, năng lượng vv…Để thực hiện được điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục đích: dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lượng vật chất chủ lực để nhà nước can thiệp, bình ổn thị trường, hạn chế ảnh hưởng xấu của ngành nghề độc quyền tự nhiên có tác hại lớn cho nền kinh tế.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ có DNNN là những đơn vị tổ chức kinh tế lớn của quốc gia là có đủ khả năng hợp tác liên doanh với các công ty lớn quốc tế đồng thời làm đối trọng với họ trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của đất nước.
Không chỉ riêng Việt Nam mà Trung Quốc cũng là nước chủ trương xây dựng CNXH thông qua phát triển nền kinh tế thị trường mà KTNN giữ vai trò chủ đạo, với tỉ trọng trên70% của chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế song Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới, đạt khoảng trên dưới 10% liên tục trong nhiều năm và đang có dự báo cho rằng trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế số một thế giới, lớn hơn cả Mỹ về giá trị tuyệt đối. Ngay chính ở các nước tư bản, DNNN cũng còn có vai trò không nhỏ. Theo đánh giá của UNDP, DNNN trong các nước tư bản phát triển vẫn còn chiếm khoảng 10%.
Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trò chủ đạo và sự tồn tại của KTNN là một tất yếu khách quan và chỉ có phát huy vai trò chủ đạo của KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế cho nên tạo ra khối lượng hàng hoá dịch vụ công cộng lớn chi phối giá cả thị trường, dẫn đát giá cả thị trường bằng chính chất lượng, giá cả của sản phẩn dịch vụ do mình cung cấp. Thông qua đó Nhà nước có thể kiểm soát được thị trường, xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành một nền kinh tế vững mạnh toàn diện luôn chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
1.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Như chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan và trong thời kỳ quá độ hiên nay vai trò ấy lại được thể hiên sâu sắc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội Đảng VIII đã khẳng định KTNN có 4 vai trò:
- Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
- Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Là lực lượng vật chất để thực hiện chức năng quản lý điều tiết vĩ mô.
- Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi rộng khắp ở các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nước. Tính chất chủ đạo của KTNN thể hiện qua các nội dung chính sau đây:
Nội dung thứ nhất cũng là nội dung quan trọng nhất của KTNN đó là KTNN thực hiện chức năng điều tiết hệ thống kinh tế xã hội thông qua các công cụ xã hội khác nhau trong đó DNNN là công cụ thiết yếu.
Ở nước ta các DNNN được hình thành ở các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh được coi là không hấp dẫn bởi khả năng sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản xuất sản phẩm công cộng. Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hướng này tạo ra tính cân đối giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là công cụ điều tiết, việc hình thành và tồn tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó không cố định, luôn được nhà nước thực hiện theo phương châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế kinh quốc dân dang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không đủ sức kinh doanh hoặc chối từ thì ở đó và khi đó cần có sự có mặt của DNNN. Đến một lúc nào đó khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh, quá trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế hình thành vai trò điều tiết của DNNN.
Chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết kinh tế trong phạm vi từng vùng. Ở từng vùng cũng diễn ra hiện tượng các doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi nhuận nên dẫn đến những mất cân đối trong sản xuất kinh doanh của từng vùng. Chính DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà những vùng kinh tế của đất nước đang đòi hỏi nhằm điều tiết cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết vùng của DNNN đặc biệt quan trọng đối với các vùng xa, vùng sâu và vùng nông thôn.
Nội dung thứ hai. Do KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế nên tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp đồng thời tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúcđẩy các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển.
Nội dung thứ ba. KTNN kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Như vậy, thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở chỗ: chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN) tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội. Do đó xác định nội dung chủ đạo của khu vực KTNN theo các tính chất nêu trên sẽ giúp chúng ta trong việc định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế hiện có, định hướng cho hoạt động đầu tư của Ngân Hàng Nhà Nước và thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung
IV. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
1. Quy mô và tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước
Chỉ tính trong 10 năm từ 1990 – 2000. Chúng ta đã 3 lần thực hiện việc cải cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào những năm từ 1990 – 1993 với mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. Lần thứ hai từ năm 1994 – 1997, chúng ta đã thành lập 18 Tổng công ty 91 và 77 Tổng công ty 90. Lần thứ ba chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó là việc giao bán, khoán và cho thuê các DNNN.
Sau 3 lần cải cách đổi mới DNNN thì năm 2000 so với năm 1990 quy mô của các doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 12300 doanh nghiệp xuống còn 5280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới 76,1%. Tuy có sự giảm sút về quy mô nhưng các DNNN vẫn đạt được mức tăng trưởng mạnh. Trong 5 năm từ 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN đạt 11,7%. tỉ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 40,3%. Đồng thời quá trình tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã mở rộng quy mô vốn của các doanh nghiệp, giảm được sự tài trợ đáng kể của ngân sách nhà nước, một số ngành mới đã và đang áp dụng công nghệ cao thực sự mang lại hiệu quả đáng kể như: dầu khí, năng lượng, bưu chính viễn thông vv… Trong đó quyền chủ động của các sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được phát huy.
Tuy vậy cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như việc doanh nghiệp hoạt động chông chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp cùng thuộc một ngành thì phân bố rất phân tán, manh mún thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Ví dụ như ở địa bàn Hà Nội các ngành sản xuất thiết bị có 35 đơn vị, trong đó có 27 doanh nghiệp do Trung ương quản lý nhưng lại được tập trung vào 7 đầu mối quản lý khác nhau. Bộ Công nghiệp có 8 doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 8 doanh nghiệp và Bộ Xây dựng có 7 doanh nghiệp.
2. Kỹ thuật và công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước
Kể từ khi chúng ta chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (mô hình kinh tế chỉ huy hướng nội) sang cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về công nghiệp hoá - hiện đại hoá của các nước trên thế giới để chuyển sang mô hình kinh tế hướng ngoại. Điều này đã tạo cho KTNN nói riêng và tổng thể nền kinh tế nước ta có nhiều thuận lợi trong vấn đề chuyển giao công nghệ. Song nhìn chung hiện nay trình độ khoa học công nghệ nước ta còn lạc hậu, thấp kém. So với các nước láng giềng chúng ta còn kém xa, chúng ta chậm 10 năm so với Trung Quốc, chậm từ 20-30 năm so với Đài Loan ở thời điểm bắt đầu công nghiệp hoá.
Đồng thời với quá trình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ KTNN ở nước ta còn đang xây dựng cho mình chiến lược phát triển mang tính tổng thể, lâu dài bao gồm cả nghiên cứu, ứng dụng và thử nghiệm.v.v. Điều này đã và đang đem lại những hiệu quả to lớn và thiết thực. Hiện nay đã có nhiều ngành thuộc thành phần KTNN tạo ra những loại sản phẩm không chỉ có sức cạnh tranh mạnh ở thị trường nội địa mà còn có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế như : dệt may, chế biến thuỷ hải sản…Ngoài ra KTNN cũng đang hướng sự phát triển vào những nghành, lĩnh vực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại như: tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá. Điều này đòi hỏi nhà nước phải có những sách lược đúng đắn khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Đó là yếu tố vật chất quan trọng tạo đà cho các doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt đi đầu về ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
Mặc dù vậy việc phát triển khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay còn tồn tại rất nhiều hạn chế, do đó khi thực hiện hợp tác, chuyển giao công nghệ với nước ngoài cần tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ mới nhất, tiên tiến nhất tránh không để cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghê “ của các nước phát triển. Để thực hiện được điều đó thì các DNNN phải đầu tư cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tránh việc chảy máu chất xám bởi trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã xuất hiện xu thế bỏ doanh nghiệp nhà nước để ra làm ngoài với đồng lương cao hơn trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước rất cần những người có khả năng trình độ để nghiên cứu, thử nghiêm, ứng dụng…các loại công nghệ mới.
3. Tổ chức quản lý của các doanh nghiệp nhà nước.
Những cải tổ cơ chế quản lý nhà nước từ năm 1981 đến này có thể coi là một bước cách mạng trong mô hình tổ chức kinh tế xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc doanh sang vai trò một phát nhân có quyền tổ chức và kinh doanh hàng hoá độc lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở một số điểm như cơ chế thực khi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản hành chính trước kia ( như duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra chức năng của cơ quan chủ quản…) đồng thời lại buộc phải thừa nhận quyền tự chủ quá rộng rãi của doanh nghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp quá nhiều vào công việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm
Điển hình cho tình trạng này là vụ việc của công ty Dệt Nam Định. Một phần hoạt động sai nguyên tắc tài chính của Dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không hiệu quả song cả 26 dự án này đều được Bộ Công Nghiệp ký duyệt, các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra thanh tra vừa phân tán vừa chồng chéo ( do các văn bản pháp quy cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàng lọc ) Nhưng đồng thời lại không có một cơ quan nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự mất mát tài sản của nhà nước. Cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng nữa đều đại diện cho một lợi ích độc lập, đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu nhà nước không quản lý tốt ( mà điều này khó làm được nếu không có những tiêu chuẩn tốt về kế toán, thống kê, kiểm toán ) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận thành chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và công nhân. Ngoài ra còn có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách nhiệm của những người có liên quan chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính không rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó đòi trở thành phổ biến, doanh nghiệp không thể phá sản vì chủ nợ không đệ đơn… Là hậu quả của chính tình trạng thể chế hoá sở hữu nhà nước chưa tìm được hình thức hợp lý.
4. Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước.
Vấn đề hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt quan trọng vì đã là doanh nghiệp kinh doanh đương nhiên phải có hiệu quả thì mới tồn tại phát triển. Thực tế các DNNN của chúng ta bên cạnh những thành tựu to lớn đã và đang bộc lộ những yếu kém khá nghiêm trọng:
Quy mô các DNNN còn nhỏ (vốn bình quân chỉ là 12 tỉ đồng) Cơ cấu có nhiều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Kết quả khảo sát 10 ngành cho thấy ngoài một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực, số còn lại lạc hậu so với thế giới từ 10 đền 20 năm, thậm chí 30 năm. Đến tháng 5-2001 mới chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp nhà nước đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước: trong 4 năm (1997 - 2000) ngân sách nhà nước đã đầu tư thêm cho DNNN gần 8200 tỉ đồng, giãn nợ 540 tỉ đồng, giảm tính khấu hao 200 tỉ đồng và cho vay ưu đãi đầu tư 9000 tỉ đồng. Đến năm 2000 số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả mới chỉ là 40% bị lỗ liên tục chiếm tới 29%. Tình hình đúng như vậy nhưng từ đó để đi đến khẳng định chỉ có các doanh nghiệp tư nhân mới có lãi và DNNN chỉ có thua lỗ, kém hiệu quả là hoàn toàn không đúng. Nhận định này thiếu cả cơ sở lý luận và thực tiễn, coi một số hiện tượng trùng với bản chất, bởi nếu đi sâu nghiên cứu chúng ta cũng dễ thấy không chỉ DNNN mới thua lỗ mà cũng có nhiều doanh nghiệp tư nhân cũng thua lỗ. Khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực với những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội có thể coi là khủng hoảng của kinh tế tư nhân.
Thực tế ở thành phố Hải Phòng ( cũng như ở nhiều địa phương khác ) cho thấy, tỉ lệ nợ quá hạn của các khoản vay tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp tư nhân vào khoảng 36% tính đến tháng 6-2001 cao gấp đôi so với DNNN trong đó phần lớn là nợ khó có khả năng thanh toán. Trong tổng số các DNNN có đến 70% là hoạt động có lãi và khi lãi khi lỗ. Số DNNN thua lỗ tuy còn nhiều nhưng chỉ là thiểu số. Ở Trung Quốc có 500 doanh nghiệp hàng đầu là các DNNN lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả làm đầu tầu thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển. ở nhiều nước khác cũng đều có DNNN hoạt động có hiệu quả và doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ phải phá sản.
Như vậy thua lỗ, hiệu quả thấp là đồng hành của cả DNNN và doanh nghiệp tư nhân. Có nhiều nguyên nhân không liên quan đến sở hữu doanh nghiệp trong đó có nguyên nhân rất cơ bản là điều kiện sản xuất kinh doanh của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, biến động rủi ro lớn các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế yếu kém, nhất là trình độ quản lý, kinh nghiệm thương trường.
5. Những cơ hội và thách thức mới đối với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.
Trong tương lai không xa DNNN phải đối mặt với hai sức ép cạnh tranh lớn, sức ép cạnh tranh thứ nhất là cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác và chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế siêu quốc gia sau khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập vào AFTA hay sau khi hiệp định tự do thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thi hành.
Về các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác: ở nước ta sau khi có luật doanh nghiệp ra đời chỉ trong một thời gian ngắn, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phát triển một cách rầm rộ người ta ví như hình ảnh “ nấm mọc sau cơn mưa” cả nước có khoảng 23000 doanh nghiệp loại này đầu tư một khoản vốn khoảng 25000 tỉ đồng vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngoài một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, còn lại các ngành sản xuất không đòi hỏi vốn đầu tư lớn thì tư nhân đang lấn dần thị phần của DNNN. Một khu vực khác cũng là một đối thủ cạnh tranh đáng kể với DNNN là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài, các doanh nghiệp này có ưu thế hơn các DNNN về vốn, công nghệ hiện đang được nhà nước ta khuyến khích và ưu đãi, đang len lỏi vào một số các lĩnh vực kinh tế lớn của nước ta như: dầu khí, chế biến thuỷ hải sản, xây dựng công nghiệp, sản xuất hoá chất, xi măng…đáng chú ý hơn cả là năm 2000 tốc độ tăng trưởng của DNNN chỉ có 11% thì doanh nghiệp tư bản tư nhân tăng 14% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trên 20%, do đó trong thời gian tới nếu nước ta không có biện pháp để củng cố sức mạnh của DNNN thì DNNN sẽ bị lấn át ngay trên thị trường sân nhà.
Khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập AFTA và thực hiện hiệp định thương mại Việt-Mỹ thì sức cạnh tranh sẽ cụ thể hoá bằng cạnh tranh hàng hoá, hay yếu tố quan trọng nhất là chất lượng hàng hoá và giá cả hảng hoá. Hiện tại ngoài một số mặt hàng như hoá mỹ phẩm, đồ nhựa, than, một số hoá chất cơ bản…Giá của ta rẻ hơn của nước ngoài, còn lại một số mặt hàng như giấy, phân bón, xi măng, hàng điện tử, hàng cơ khí…Thì hàng của ta đều cao hơn hàng nước ngoài từ 20-40%
Hai cuộc cạnh tranh trên đây chính là vấn đề cấp bách và nghiêm trọng đối với các DNNN. Trong thời gian tới nước ta cần phải đẩy mạn việc cải tổ, xây dựng, sắp xếp…để KTNN giữ được vai trò chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
V. NHỮNG GIẢI PHÁP CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHÀ NƯỚC.
Việc cải cách đổi mới thành phần KTNN nói chung và các DNNN nói riêng trong giai đoạn hiện nay là cực kỳ cần thiết và cấp bách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước. Để tổ quốc vững bước trên con đường CNH - HĐH, tại hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã thông qua nghị quyết về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN. Trên cơ sở đó, nhằn tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân, việc định hướng sắp xếp phát triển DNNN trong thời gian tới bao gồm những giải pháp lớn sau:
1. Về định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích.
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phống xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia, sản xuất thuốc lá điếu.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với DNNN hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoán sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hoá chất cơ bản, phân hoá học, thuốc bản vệ thực vật, sản xuất xi măng công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghệ thực phầm quan trọng, sản xuất hoá dược thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không, đường sắt, viễn dương, khinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ bản; chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết:
Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% sang hình thức công ty TNHH một chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các DNNN.
Căn cứ trên đây, chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể các DNNN hiện có để chiển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đối với DNNN. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Việc thành lập mới DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong các lĩnh vực: in bạc và chứng chỉ có giá, điều hành bay, đảm bảo hàng hải, kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện, sản xuất sửa chữa vũ khí, khí tài, trang thiết bị chuyên dùng cho quốc phồng, an ninh, doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phồng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế quốc phồng theo quyết định của chính phủ. Các doanh nghiệp của quân đội và công an được sắp xếp và phát triển theo định hướng này.
Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới lớn, xuất bản sách giáo khoa, sách báo cáo chính trị, phim thời sự và tài liệu, quản lý bảo chì hệ thống quốc gia, sân bay, quản lý thuỷ nông đầu nguồn, trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn thoát nước ở đô thị lớn, ánh sáng đường phố, quản lý bảo chì hệ thống đường bộ, bến xe đường thuỷ quan trọng; sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ khác theo quy định của chính phủ.
Trong từng thời kỳ chính phủ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, chính phủ căn cứ vào định hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duy phân loại cụ thể để chuyển khai thực hiên. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ được sắp xếp lại. Việc thành lập mới do DNNN hoạt động công ích phải được xem xét chặc chẽ đúng định hướng có yêu cầu và có đủ điều kiện cần thiết. Khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩn dịch vụ công ích mà xã hội cần và pháp luật không cần.
2. Về việc sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách.
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu theo cơ chế thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối các ngành vùng, các sản phẩm dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích sản xuất không phân biệt thành phần kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật chung. Đối vớ DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh bình đẳng.
Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát DNNN.
Đổi mới chế độ kế toán kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp
-Về vốn: doanh nghiệp(DN) được tiếp cân và thu hút các nguồn vốn trên thị trường để phát triển kinh doanh; được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, hàng hoá ứ đọng.
Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001- 2005 cơ bản tạo dủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp. Không thu thuế sử dụng vốn ngân sách, chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm lập công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại DN. Nghiên cứu ban hành luật sử dụng vốn nhà nước vào đầu tư và kinh doanh.
DN được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài sản do DN đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính tài sản dó làm ra theo hướng thực hiện hài hoà các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, từng lĩnh vực cụ thể khuyến khích DN tiếp tục tái đầu tư phát triển
-Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của DNNN trong quyết định đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt.
-Về đổi mới: hiện đại hoá công nghệ: DN được áp dụng chế độ ưu đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực cho DN; chi phí này được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ DN đầu tư đổi mới công nghệ.
-Về lao động, tiền lương: DN quyết định việc tuyển chon lao động và chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động do mình tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của DN; được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.
-Về cán bộ quản lý DN: DN chủ động lựa chọn và bố chí cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan nhà nước và tổ chức có thẩm quyền ra quyết đinh bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của DN. Nhà nước có cơ chế khuyến khích vật chât, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý DN.
-Về thanh tra kiểm tra: hàng năm DN phải được kiểm toán, kết quả kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của DN. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với DN và thông báo trước cho DN. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi DN đã có đấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra, kiểm tra.
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà nhà nước quyết định quy mô tổ chức, chính sách tài chính đối với DN công ích.
Chuyển từ cơ chế cấp vốn giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình DN, thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho DNNN hoạt động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý lao động tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ mà nhà nước giao và đặt hàng. DN công ích cũng phải thực hiện hạch toán.
Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được.
Giải quyết lao động dôi dư
Bổ sung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp cơ cấu lại DNNN. DN phải ra soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lượng lao động cần thiết. Lao động dôi dư được DN tạo điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ Luật lao động. Bổ sung, sửa đổi một số chính sách cụ thể đối với người lao động dôi dư có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi. Chính phủ bố trí nguồn kinh phí để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư.
Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật lao động theo hướng cho phép áp dụng chế độ mất việc đối với số lao động dôi dư tai thời điểm giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN. Khẩn trương bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội; ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng nhà nước DN và người lao động cùng đóng góp.
Xử lý nợ không thanh toán được.
Chính phủ quy định biện pháp giải quyêt dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thanh toán của DN đối với ngân sách nhà nước và ngân hàng, đồng thời có giải pháp để ngăn ngừa sự tái phát. Thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của DNNN để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tao điều kiện lành mạnh hoá tài chính DN.
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Nâng cao hiệu quả các tổng công ty nhà nước
Tổng công ty nhà nước phải có vốn đều lệ đủ lớn, có thể huy đông vốn từ nhiều nguồn, trong đó vôn nhà nước là chủ yếu ;thực hiện kinh doanh đa ngành ,có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên vê sản xuất về tài chính, thị trường …có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến ,năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng canh tranh trên thị trương trong nước và quốc tế. Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiên có nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; làm lực lượng chủ lực trong việc đảm bảo các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô;cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuât khẩu đóng góp lớn cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiêu quả. Những ngành ,lĩnh vực then chốt sản phẩm cần tổ chức tổng công ty nhà nước:khai thác ,chế biên dầu khí và kinh doanh buôn bán xăng dầu;sản xuât và cung ứng điện;khai thác ,chế biến ,cung ứng than, các khoáng sản quan trọng ,luyện kim ,cơ khí chế tạo,sản xuât xi măng, bưu chính viễn thông,đien tử ,hàng không ,hàng hải, đường sắt hoá chất và phân hoá học ,sản xuất một số hàng tiêu dung và công nghiêp thực phẩm quan trọng ,hoá dược,xây dựng ,kinh doanh buôn bán lương thực, ngân hàng ,bảo hiểm…
Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế cần có sư điều chỉnh phù hợp.Những tổng công ty đang hoạt động không có đủ các yêu cầu trên sẽ được sắp xếp lại.
Thí điểm rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các DN thành viên là những công ty TNHH một chủ (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối. Ngoài ra, tổng công ty có thể đầu ty vào các DN thuộc thành phần kinh tế khác.
Tổng công ty 100% vốn nhà nước phải có hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại công ty, nhận và chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn, tài sản nhà nước giao. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị:
Trình thủ tướng chính phủ (hoặc bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) xem xét quyết định: chủ trương thành lập, sáp nhập, chuyển đổi sở hữu, giải thể đơn vị thành viên; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch, uỷ viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc; phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, quy hoạch, kế hoạch phát triển trung hạn, dài hạn của tổng công ty, các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chính phủ phê duyệt.
Quyết định bổ nhiệm phó tổng giám đốc, kế toán trưởng thông qua việc bổ nhiệm giám đốc đơn vị thành viên để tổng giám đốc ra quyết định, quyết định và chịu trách nhiệm về các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt và phương án tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh, biên chế bộ máy quản lý tổng công ty; quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế.
Chính phủ quy định tiền lương, chế độ thưởng cho hội đồng quản trị gắn với hiệu quả của tổng công ty.
Thành lập các tập đoàn kinh tế
Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ti nhà nước có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn cho nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí viễn thông điện lực, xây dựng…
4. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Mục tiêu cổ phần hoá DNNN là nhằm: tạo ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý, có hiệu quả cho DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với DN; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, DN, người lao động. Cổ phần hoá DNNN không được biến thành nhân hoá DNNN.
Đối tượng cổ phần hoá là những DNNN hiện có mà nhà nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp DNNN và điều kiện thực tế của từng DN mà quyết định chuyển DNNN hiện có thành công ty cổ phần trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, hoặc nhà nước không giữ cổ phần.
Hình thức cổ phần hoá bao gồm: giữ nguyên giá trị DN, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần hiện có của DN cho các cổ đông; cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của DN; chuyển toàn bộ DN thành công ti cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của DN thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh các bộ phận còn lại của DN.
Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho người lao động, giữa các DN thực hiện cổ phần hoá. Có quy định để người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi, bổ xung cơ chế, ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó người lao động với doanh nghiệp; dành một tỉ lệ cổ phần thích hợp để bán ra ngoài DN. Nghiên cứu sử dụng một phần vốn tự có của DN để hình thành cổ phần của người lao động, người lao động được hưởng lãi nhưng không được rút cổ phần này ra khỏi DN. Mở rộng việc bán cổ phần DN công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản cho ngưởi sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Có chính sách khuyến khích DN cổ phần hoá sử dụng nhiều lao động và có quy định cho phép chuyển nợ thành vốn góp cổ phần.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị DN theo hướng gắn với thị trường, nghiên cứu đặt giá trị quyển sử dụng đất và giá trị DN, thí điểm đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các chế định tài chính trung gian.
Nhà đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với DN cổ phần hoá mà nhà nước không giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của luật DN và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, kinh nghiệp quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Số tiền thu được từ bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách với người lao động và để nhà nước tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được dựa vào ngân sách để chi thường xuyên.
Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với DNNN đã chuyển sang công ti cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với DN cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những DN khi cổ phần hoá có khó khăn.
Chỉ đạo chặt chẽ DNNN đầu tư một phần vốn để lập mới công ti cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết.
Thực hiện giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước.
Đối với DN có quy mô nhỏ có mức vốn nhà nước dưới năm tỉ đồng nhà nước không cần nắm giữ, không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng DN một cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao , bán được chuyển thành công ti cổ phần của người lao động. Sáp nhập, giải thể, phá sản những DNNN hoạt động không hiệu quả nhưng không thực hiện được các hình thức nói trên.
Sửa đổi bổ xung luật phá sản DN theo hướng người quyết định thành lập DN có quyền đề nghị tuyên bố phá sản.
Đảy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN.
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy trong hơn 10 năm qua Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiêu quả hoạt động của KTNN. Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn có nhiều khó khăn gay gắt, KTNN đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chuyển sang thời kỳ hiện đại hoá theo định hướng XHCN.
Mặc dù còn một số hạn chế bất cập nhưng KTNNđã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế góp phần ổn định kinh tế xã hội, góp phần tăng cường thế và lực của đất nước. DNNN chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài là lực lượng quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo nhiều sản phẩm dịch vụ công ích thiết yêu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. DNNN ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên đời sống người lao động từng mức được cải thiện.
Đối với tôi việc đi sâu, nghiên cứu tìm hiểu kỹ về đề tài này đã giúp ích cho tôi rất nhiều trong việc nâng cao nhận thức và tư duy kinh tế, có những quan niệm và hiểu biết đúng đắn về thành phần kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó đồng thời xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá của tổ quốc.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng tuy nhiên trong khuôn khổ đề án này còn có rất nhiều những thiếu sót, hạn chế khó tránh khỏi. Một lần nữa rất mong có sự góp ý và chỉ bảo của thày cô và các bạn đồng thời tôi cũng gửi lời cảm ơn trân thành tới PGS.TS Mai Hữu Thực người đã rất tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành để án này.
Xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
A - PHẦN MỞ ĐẦU
B – PHẦN NỘI DUNG
I – Khái quát chung về thành phần kinh tế nhà nước
1 – Thành phần kinh tế nhà nước
1.1 Khái niệm thành phần KTNN
1.2 Cơ sở hình thành của KTNN
1.3 Đặc điểm của thành phần KTNN
2 – Sự khác nhau giữa KTNN và KTTB độc quyền
II – Sự hình thành và phát triển thành phần KTNN ở Việt Nam
1 Giai đoạn1945 – 1960
2 Giai đoạn1960 – 1975
3 Giai đoạn1975 – đầu những năm 1980
4 Giai đoạn1980 – 1985
5 Giai đoạn1985 – 1990
6 Giai đoạn1990 đến nay
III – Vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
1 – Tính tất yếu vai trò chủ đạo của thành phần KTNN
2 – Vai trò chủ đạo của KTNN
IV – Thực trạng của KTNN hiện nay
1 – Quy mô và tổ chức của các DNNN
2 – Kỹ thuật và công nghệ trong các DNNN
3 – Tổ chức quản lý của các DNNN
4 – Hiệu quả của các DNNN
5 – Những cơ hội và thác thức đối với DNNN trong thời gian tới
V - Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước.
1 – Về định hướng tổ chức phát triển DNNN hoạt động kinh doanh hoạt động công ích
1.1 - Đối với DNNN hoạt động kinh doanh
1.2 - Đối với DNNN hoạt động công ích
2 – Về việc sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách
2.1 - Đối với DN hoạt động kinh doanh
2.2 - Đối với DN hoạt động công ích
2.3 – Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được
3 - Đổi mới và nâng cao hoạt của các tổng công ty nhà nước, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh
4 - Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN
5 – Thực hiện giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN
C - PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-----------@--------------
1 Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin
2 Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX
3 Tạp chí cộng sản
4 Tạp chí kinh tế và phát triển
5 Tạp chí thông tin lý luận
6 Tạp chí nghiên cứu trao đổi
7 Tạp chí cộng sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu KTNN và vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam.doc