Trong những năm qua, cây cao su đã khẳng định được vị trí của mình trong tập đoàn cây công nghiệp dài ngày và ngành sản xuất cao su thiên nhiên đã trở thành ngành sản xuất có hiệu quả toàn diện. Cây cao su và công nghiệp chế biến các sản phẩm của cây cao su đã trở thành một trong những ngành kinh tế mòi nhọn của đất nước. Cùng với một số mặt hàng khác cao su Việt nam đã và đang trở thành mặt hàng chủ lực có sức cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế.
Từ khi Tổng quan phát triển ngành cao su Việt nam đến năm 2010 được phê duyệt tháng 2/1995, sản xuất cao su trong nước không ngừng lớn mạnh: diện tích cao su tăng 7,9%/năm, sản lượng mủ tăng 15,8%/năm, và năng suất tăng 8,4%/năm. Bên cạnh đó, công nghiệp sơ chế mủ cao su cũng đã được đầu tư cải tiến công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, đưa công suất chế biến tăng nhanh từ 180 nghìn tấn năm 1994 lên 294 nghìn tấn năm 2000 để đảm bảo chế biến hết lượng mủ sản xuất ra. Đặc biệt, chủng loại sản phẩm có nhiều chuyển biến, trong đó tỷ lệ loại mủ SVR 10,20 tăng từ 9% lên 13-15% để phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới.
106 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4296 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của hoạt động xuất khẩu cao su trong nền kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nam nằm ở vị trí khá thuận lợi để bán cao su cho Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản... là những nước tiêu thụ cao su thiên nhiên với sản lượng lớn. Ngoài ra, thị trường Bắc và Trung Mỹ cũng là các thị trường có nhu cầu cao về cao su và đang tiếp tục gia tăng.
Lợi thế thứ tư là về giá thành sản xuất cao su: Do giá nhân công của nước ta thấp, đồng thời với việc đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng và có sự ưu đãi của nhà nước trong việc phát triển cao su thiờn nhiên nờn giá thành cao su sản phẩm của nước ta thấp hơn nhiều so với các nước sản xuất cao su chớnh trờn thế giới. Đây là một trong những lợi thế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu cao su Việt nam.
Tóm lại, khả năng cạnh tranh của cao su thiên nhiờn Việt nam nằm ở điều kiện đất đai, khí hậu, lực lượng lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi cho giao dịch và giá thành sản phẩm thấp.
Tiềm năng về thị trường xuất khẩu :
Vấn đề tìm thị trường tiêu thụ không khó khăn lắm, mà có thể núi đó cú lối thoát ra cho ngành xuất khẩu cao su. Hiệp định thương mại ký với Trung Quốc về buôn bán cao su cho thấy trước mắt cũng như lâu dài Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ cao su lớn của Việt nam trong thời gian tới.
Thị trường truyền thống trước đây là Liên bang Nga một thời bị đóng băng do khó khăn về thanh toán, nay đã có dấu hiệu trở lại bằng việc bán hàng thông qua một số Công ty Việt kiều tại Nga. Thị trường Nga-Belarut có thể mua của Việt nam 30000 tấn.
Một tín hiệu tốt lành khác là Hàn Quốc đã bắt đầu chuyển qua mua cao su mủ kem (latex) của Việt nam vì chất lượng tốt hơn, giá cả cạnh tranh hơn so với sản phẩm cùng loại của Malaixia và Thái lan. Nhu cầu của Hàn Quốc mỗi năm nhập khoảng 50000 tấn. Một số doanh nghiệp của nước này như tập đoàn Samsung, công ty thương mại TeiJoung đã ký hợp đồng mua tổng số khoảng 25-30 nghìn tấn mủ kem.
Ngoài ra, cao su Việt nam còn có thể bán tại các thị trường Iraq, EU, Singapore, Đài loan...
II. ĐỊNH HƯỚNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CAO SU
1. Định hướng chung về sản xuất và xuất khẩu cây công nghiệp
*/ Định hướng sản xuất các mặt hàng cây công nghiệp trong nước:
Tầm quan trọng của các loại cây công nghiệp trong phát triển kinh tế xã hội đã được Đảng và nhà nước ta nhìn nhận và đánh giá một cách đúng đắn. Đại hội Đảng VIII đã đề ra phương hướng: “Phỏt triển mạnh các loại cây công nghiệp ... có hiệu quả kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp, coi trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất; áp dụng công nghệ sinh học...Đến năm 2000 đưa tỷ trọng cây công nghiệp chiếm khoảng 45% giá trị sản phẩm ngành trồng trọt”.
Như vậy đến năm 2010, chóng ta phải đưa ngành sản xuất cây công nghiệp trở thành sản xuất nông nghiệp lớn của đất nước, mở rộng diện tích lên 3,5-4 triệu ha, tăng tỉ trọng trong giá trị ngành trồng trọt lên mức 40-45%. Sản lượng một số cây công nghiệp chính sẽ như sau:
Bảng 24: Dự báo sản lượng một số cõy cụng nghiệp vào năm 2010
Đơn vị: sản lượng: tấn, diện tích: ha
Các ngành sản xuất
Diện tích
Sản lượng
Các ngành sản xuất
Diện tích
Sản lượng
Cà phê
350000
431000
Lạc
300000
450000
Cao su
700000
400000
Mía đường
300000
1 200 000
Hạt điều
300000
30000
Dâu tằm
500000
500000
Chè
100000
85000
Đậu tương
100000
120000
Dừa
300000
1 600 000
Hồ tiêu
10000
15000
(Nguồn: Tổng hợp các dự án phát triển cây công nghiệp của Bộ NN và PTNT)
Bên cạnh việc tăng diện tích, sản lượng và giá trị cây công nghiệp, cần chú trọng nâng cao và ổn định năng suất, chất lượng cây công nghiệp nhằm đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước, mở rộng thị trường nội địa, đồng thời phục vụ tốt cho xuất khẩu.
*/ Định hướng xuất khẩu mặt hàng cây công nghiệp:
Về cơ cấu xuất khẩu, để nâng cao uy tín của hàng Việt nam trên thị trường quốc tế, định hướng quan trọng đối với ngành sản xuất cây công nghiệp là cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỉ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm thô, nguyên liệu. Phát triển mạnh ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm nông sản nhằm tăng khối lượng và chất lượng hàng chế biến xuất khẩu là hướng đi cần thiết của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ. Nú góp phần biến nước ta từ một nước xuất khẩu 70% hàng thô và sơ chế thành nước chủ yếu xuất khẩu hàng đã qua chế biến; nâng tỉ trọng hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Bên cạnh đó, do đặc điểm của cây công nghiệp là mỗi loại cây phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu của mỗi vùng khác nhau. Để mặt hàng cây công nghiệp đạt chất lượng và hiệu quả cao cần tiếp tục hình thành cỏc vựng chuyên môn hoá sản xuất cây công nghiệp xuất khẩu. Bên canh việc xác định các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, việc tìm ra một cơ cấu thị trường thích hợp cũng không kém phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Thị trường Việt nam trong thời gian tới có xu hướng chuyển dịch từ Đông sang Tây, từ châu Á sang châu Âu và Bắc Mĩ. Theo số liệu của Bé Thương mại, dự báo cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt nam theo châu lục đến năm 2010 sẽ như sau:
Bảng 25: Thị trường xuất khẩu Việt nam đến năm 2010
Đơn vị:%
Châu lục
1991-1995
2000
2010
Châu á-TBD
80
50
45
Châu Âu
15
25
25
Châu Mỹ
2
20
25
Châu Phi
3
5
5
(Nguồn: Điểm tin kinh tế-số 232 ngày 24/10/1998)
2. Định hướng về sản xuất và xuất khẩu cao su:
2.1. Định hướng sản xuất:
Tổng quan phát triển ngành cao su Việt nam đến năm 2005 đã được phê duyệt ngày 5/2/1996 trong đó có đề ta những định hướng về sản xuất cao su ở Việt nam. Đến năm 2000, Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã tiến hành rà soát lại tổng quan cao su. Báo cáo rà soát tổng quan cao su của Viện đã đưa ra một số thay đổi trong định hướng phát triển cao su ở nước ta.
Nghị quyết 09/2000/NQ-CP cũng đã chỉ rõ quan điểm chung để phát triển cao su đến năm 2010 là: “Tập trung thâm canh 400 nghìn ha cao su hiện có đạt năng suất cao, tiếp tục phát triển cao su ở những nơi thích hợp, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chủ yếu ở Miền Trung và Tõy Nguyờn, nhất là vùng biên giới, trong tương lai sản lượng cao su mủ khô đạt khoảng 600 nghìn tấn vào năm 2010, phát triển ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ mủ cao su và ngành công nghiệp gỗ cao su nhằm nâng cao hiệu quả của cây cao su”.
Cụ thể, về bố trí diện tích cao su, căn cứ vào Báo cáo rà soát tổng quan, có 2 phương án thực thi đến năm 2010:
Bảng 26: Bố trí sản xuất cao su đến 2010
Đơn vị: ha
Vùng
Hiện trạng 2000
2005(PAI)
2010(PAII)
Cả nước
402 755
500 000
700 000
Duyên hải miền Trung
42 609
90 000
120 000
Tây Nguyên
89 321
140 000
280 000
Đông Nam Bé
270 845
270 000
300 000
(Nguồn: Viện Quy hoạch và TKNN, 2000)
Trong phương án I, cao su tư nhân và tiểu điền chiếm tỉ trọng 35,4%, trong phương án II chiếm tỉ trong 50%, bình quân phượng án I phải trồng mới 98 nghìn ha, ở phương án II là 200 nghìn ha. Tổng diện tích trồng mới và tái canh trong phương án I là 130,6 nghìn ha, trong phương án II là 226 nghìn ha. Để thực hiện định hướng này, từ nay đến năm 2005 cần phấn đấu đạt diện tích vườn cao su là 500 nghìn ha, còn diện tích 700 nghìn ha là qui mô khung của cao su Việt nam và sẽ phấn đấu đạt được mức này vào năm 2010.
Hiện nay, năng suất cao su Việt nam ở mức 10-11 tạ/ha thấp hơn nhiều so với các nước sản xuất cao su chính như Thái lan, Malaixia, Inđụnờxia. Để nâng cao hơn nữa năng suất và chất lượng cao su chóng ta sẽ phải ứng dụng nhanh tiến bộ kỹ thuật về sinh học trước hết là giống, tập trung thâm canh vườn cây hiện có, mở rộng diện tích phù hợp với khả năng của vốn và với phương châm vườn cây phải được thâm canh ngay từ đầu. Dự kiến đến năm 2010, năng suất cao su bình quân cả nước đạt 15 tạ/ha.
Về sản lượng, năm 2000 Việt nam đạt sản lượng 220 nghìn tấn, chiếm hơn 3% sản lượng thế giới. Dự kiến đến năm 2005 sản lượng sẽ đạt 320 nghìn tấn và năm 2010 đạt 400 nghìn tấn.
Trong công nghiệp mục tiêu của ngành công nghiệp sơ chế mủ cao su là tạo ra sản phẩm có chất lượng và đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời với việc đầu tư mới cho các cơ sở sản xuất hiện đại, cần phát triển các xưởng sản xuất nhở với các loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Để đảm bảo cho mủ được khai thác từ vườn cây được sơ chế hết, công suất thiết kế các nhà máy phải cao hơn nhu cầu sơ chế từ 10-20%. Dự kiến bố trí việc xây dựng thờm cỏc nhà máy ở cỏc vựng như sau:
Bảng 27: Dự kiến xây dựng các nhà máy chế biến
Đơn vị: nhà máy
Vùng
Số nhà máy
Phương án I
Phương án II
1. Khu bốn cũ
9
14
2. Duyên hảI Trung Bé
5
7
3. Tây nguyên
7
12
4. Đông nam bé
17
17
Tổng cộng
38
50
(Nguồn: Tổng quan PT cao su đến năm 2005-2010, Viện QHTKNN)
Ngoài việc xây dựng mới cần tích cực cải tạo, nâng cấp và tận dụng hết công suất các nhà máy hiện có để giảm bớt chi phí đầu tư. Ước tính tổng công suất thiết kế của các nhà máy và xưởng sơ chế năm 2005 đạt 338-386 nghìn tấn , 2010 đạt 400-450 nghìn tấn. Bên cạnh đó cần quan tâm đến việc lùa chọn thiết bị công nghệ phù hợp cho từng giai đoạn, hoàn thiện từng bước cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến và bảo đảm chất lượng nguyên liệu.
2.2. Định hướng xuất khẩu:
Hiện nay nhu cầu tiêu thụ cao su nguyên liệu hay còn gọi là cao su sống (mủ) ở trong nước vẫn còn thấp, chỉ vào khoảng 20% sản lượng cao su sản xuất hàng năm. Vậy chúng ta còn phải xuất khẩu tới 80% sản lượng sản xuất hàng năm. Vào năm 1998, hoạt động xuất khẩu cao su đạt kim ngạch 134 triệu USD. Trong khi đó, nước ta cũng phải bỏ ra nhiều triệu USD để nhập khẩu các sản phẩm làm từ cao su như săm lốp xe ụtụ, xe máy, và các thiết bị khác... Trong thời gian tới, ta sẽ phải xây dựng được ngành chế biến cao su đủ mạnh để tận dụng nguồn nguyên liệu cao su trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm làm từ cao su trên thị trường nội địa và giảm tỷ trọng cao su sống trong cơ cấu xuất khẩu cao su. Theo dự báo đến năm 2010, nước ta sẽ xuất khẩu khoảng 250 nghìn tấn cao su, đạt kim ngạch xuất khẩu vào khoảng trên 500 triệu USD.
Trong những năm qua, Trung Quốc chính là thị trường tiêu thụ chính cho cao su nguyên liệu của ta. Gần đây, Trung Quốc lại xây dựng thêm 5 cơ sở chế biến cao su tại các tỉnh giỏp biờn với nước ta, nhằm khai thác nguồn nguyên liệu cao su sống bán qua biên giới qua con đường tiểu ngạch. Việc Hiệp định Thương mại Việt-Trung đã được ký kết tạo điều kiện cho chóng ta có thể xuất khẩu cao su theo con đường chính ngạch, giảm được rủi ro trong quan hệ giao dịch mậu biên. Như vậy, Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường đầy tiềm năng cho mặt hàng cao su của ta. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, mục tiêu lâu dài của chúng ta là xuất khẩu cao su thành phẩm chứ không phải là cao su nguyên liệu. Bên cạnh đó, ta cũng cần nghiên cứu thị trường tiêu thụ cao su của các nước công nghiệp phát triển vỡ cỏc nước này thường có nhu cầu tiêu thụ cao su rất lớn, đặc biệt là thị trường Mỹ và Nhật bản (là hai nước tiêu thụ cao su lớn nhất thế giới). Do giá dầu lên cao, nên giá cao su tổng hợp (nhân tạo) cũng tăng mạnh và đõy chớnh là cơ hội cho cao su thiên nhiên chiếm lĩnh thị trường. Đồng thời, ta cũng cần khôi phục lại các thị trường truyền thống của mặt hàng cao su, đó là Liên bang Nga và các nước thuộc Liờn Xụ (cũ) cũng như các nước XHCN ở Đông Âu. Các thị trường này đã quen thuộc và dễ chấp nhận sản phẩm cao su của ta, không quá khắt khe như các thị trường mới tiếp cận.
Giá cao su quốc tế trong thời gian gần đây liên tục giảm, tuy có dấu hiệu hồi phục nhưng chắc chắn không thể tăng trong ngắn hạn. Hơn nữa, giá cao su xuất khẩu của ta lại thường thấp hơn giá quốc tế khoảng 15-20%. Như vậy, vấn đề thị trường và giá xuất khẩu sẽ là những vấn đề chính trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của ngành cao su. Chỉ có việc thực hiện thành công các biện pháp này mới đảm bảo được quyền lợi cho người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu cũng như sự phát triển bền vững của ngành cao su Việt nam.
III. MỘT SỐ BIỆP PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KHẨU CAO SU Ở VIỆT NAM:
1. Nhóm biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất mặt hàng cao su xuất khẩu:
1.1. Giải pháp khoa học công nghệ:
Theo đánh giá của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì khoa học công nghệ đã đóng góp tới 30-40% tăng trưởng sản lượng nông nghiệp trong thời gian vừa qua và ngày càng khẳng định rõ vai trò, vị trí quan trọng như là yếu tố động lực trực tiếp của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới, ngành cao su cần tăng cường công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cây cao su:
Tập trung đầu tư cho nghiên cứu cơ bản và ứng dụng nhằm tạo một bước có tính “đột phỏ” về năng suất, chất lượng cho cây cao su, đồng thời tiến hành nghiên cứu kinh tế, nghiên cứu thị trường. Để thực hiện mục tiêu này cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động của Viện nghiên cứu cao su theo hướng bám sát các ứng dụng thực tế trong ngành bao gồm từ lĩnh vực giống, phân bón, chế độ khai thác, công nghệ chế biến sản phẩm (chuẩn hoá quy trình và tạo ra sản phẩm mới)...
Có cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất: như nâng dần tỷ trọng của nguồn vốn quỹ dành cho khoa học kỹ thuật trong tổng doanh thu của ngành; đầu tư mở rộng mạng lưới thí nghiệm cỏc vựng duyên hải miền Trung hiện nay vẫn còn khá mỏng để làm cơ sở cho việc phát triển vững chắc cao su ở trong vùng.
Tăng cường công tác khuyến nông, đưa nhanh và trực tiếp đến người sản xuất (hộ nông dân).
Kiện toàn và sắp xếp hệ thống nghiên cứu khoa học để huy động và phát huy được sức mạnh trí tuệ của đội ngò cán bộ khoa học kỹ thuật. Tăng cường đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học.
. Các giải pháp về mặt kỹ thuật:
Để sản xuất cao su đạt hiệu quả cao, chóng ta không chỉ cần đầu tư cho việc nghiên cứu mà vấn đề quan trọng là chúng ta phải biết áp dụng những biện pháp hợp lý, đồng bộ và toàn diện trong suốt quá trình sản xuất từ khâu gieo trồng, chăm sóc tới thu hoạch, bảo quản và chế biến để có thể nâng cao năng suất trong khi vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm. Các biện pháp có thể áp dụng là:
*/ Về giống cây trồng:
Tập trung nghiên cứu và quản lý chương trình giống của ngành. Trong 3-5 năm phải xác định được một cơ cấu bộ giống mới để đưa vào sản xuất.
Nghiên cứu tuyển chọn một số giống cây địa phương có phẩm chất tốt, lai tạo các giống cây mới có năng suất cao, chất lượng tốt thích ứng với từng vùng sinh thái nông nghiệp, có khả năng tạo ra được các loại cây tốt, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiờu dùng.
Hợp tác trao đổi với các nước khỏc trờn thế giới nhằm học hỏi các kỹ thuật tiên tiến cũng như nhập khẩu các giống có hiệu quả kinh tế cao đưa vào trồng thử nghiệm và nhân rộng nếu có hiệu quả.
Cải tạo các vườn cao su đã già cần thanh lọc giống, cõy kém chất lượng, đồng thời tuyển chọn giống cao su cho cỏc vựng mới.
Nghiên cứu giải pháp rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản và tăng cường tính đồng đều để phát huy ưu thế của giống mới.
*/ Về chăm sóc và thu hoạch:
Nghiên cứu và ban hành khuyến cáo cho từng vùng trong việc sử dụng phân xanh, phân hữu cơ, với chế độ bón phân theo hướng tận dụng những thành tựu về công nghệ sinh học và bón phân theo chuẩn đoán dinh dưỡng. Mục tiêu bón phân không chỉ làm ổn định sản lượng, không ảnh hưởng đến sinh thái mà còn gia tăng sản lượng gỗ.
Nghiên cứu xác định chế độ khai thác với từng bộ giống để tối ưu hoá chu kỳ khai thác. Nghiên cứu xác định quy trình chuẩn đoán sinh lý để có cơ sở điều chỉnh chế độ cạo và kích thích; nghiên cứu sâu bệnh ảnh hưởng đến sản lượng.
*/ Về chế biến:
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chế biến cho từng loại sản phẩm, tận dụng mọi nguồn vốn sẵn có trong nước như từ ngân sách nhà nước, của các ngành hữu quan hay nguồn vốn nhàn rỗi trong dân...
Đối với các nhà máy chế biến, cần áp dụng khoa học công nghệ thích hợp, tiên tiến nhằm nâng cấp và hiện đại hoỏ cỏc nhà máy chế biến hiện có trên cơ sở lấy hiệu quả làm mục tiêu, xây mới một số nhà máy tại vùng nguyên liệu, đồng thời trong mỗi nhà máy cần cải tiến công nghệ, đổi mới thiết bị để nõng công suất các nhà máy chế biến .
Nghiên cứu hoàn thiện quy trình đỏnh đụng tại lô, tồn trữ nguyên liệu mủ đông và chế biến mủ SVR 10, 20 từ nguyên liệu mủ đông.
Đa dạng hoá sản phẩm chế biến, tăng sản phẩm chế biến loại SVR 10 và SVR 20 để tiện tiêu thu vì thị trường thế giới hiện nay phần lớn tập trung tiêu thụ 2 loại sản phẩm này, hạn chế chế biến các sản phẩm cao cấp như SVR 3L và 5L vì khó tiêu thụ.
áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu, để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ (đặc biệt công nghệ sạch) vừa nâng cao uy tín cho hàng hoá Việt nam trên thị trường thế giới.
Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến bằng cách đưa ra các chính sách ưu đãi và đơn giản hoỏ cỏc thủ tục hành chính.
Tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi kỹ thuật và chuyển giao công nghệ với các hiệp hội, nước sản xuất và xuất khẩu cao su trong khu vực và trên thế giới.
*/ Về bảo quản:
Cần phải tổ chức lại công tác bảo quản hàng hoá như sửa chữa, nâng cấp và xây dựng một hệ thống kho tàng an toàn và đảm bảo yêu cầu vệ sinh nhằm phục vụ công tác bảo quản và cất trữ cao su, khi giá cả trên thị trường thế giới biến động theo hướng xấu hoặc khi sản xuất trong nước được mùa nhưng lại gặp giá bán bất lợi.
Đồng thời, cần hoàn thiện và hiện đại hoá quy trình bảo quản nhằm nâng cao điều kiện cất trữ và bảo quản hiện vẫn còn rất thiếu và lạc hậu ở nước ta, tránh tình trạng các doanh nghiệp tìm cách xuất khẩu bằng mọi giá bất kể giá cao hay thấp, do thiếu hệ thống kho tàng cất trữ, bảo quản.
*/ Trong vận chuyển:
Tổ chức lại hệ thống vận tải cho phù hợp để đảm bảo an toàn, tránh gây nên hư háng làm giảm số lượng cũng như chất lượng thành phẩm hoặc sản phẩm xuất khẩu, tránh tình trạng phải tái chế lại hàng ở các cảng hoặc cửa khẩu sau khi chuyên chở.
Tập huấn về kiến thức thương phẩm học cho lái xe và đội ngò cán bộ giao nhận.
Trang bị một cách đồng bộ từ khâu chuyên chở hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi chế biến, từ nơi chế biến đến các nhà máy sản xuất ra các sản phẩm hoặc đến kho cảng để xuất khẩu.
1.3. Giải pháp về chính sách sử dụng đất:
Mét trong những khó khăn của chương trình phát triển cao su nước ta là vấn đề cấp quyền sử dụng đất cho hộ nông dân, các chủ trang trại để làm cơ sở vay vốn phát triển cao su tiểu điền còn chậm, gây ảnh hưởng tới tiến độ phát triển cao su. Bên cạnh đó, thủ tục giao đất giữa các địa phương với các doanh nghiệp nhà nước còn chưa nhất quán dẫn đến hiện tượng các hộ nông dân bao chiếm đất trống trọc xảy ra tương đối phổ biến ở một số vùng, chủ yếu là Tõy nguyờn gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp, các tổ chức mở rộng diện tích cao su. Giải pháp của vấn đề này là:
Các địa phương đẩy nhanh tốc độ cấp sổ đỏ cho hộ nông dân .
Có chính sách tạo điều kiện cho các chủ trang trại có quyền sử dụng đất theo Luật đất đai để hộ nông dân và chủ trang trại có cơ sở pháp lý để vay vốn trồng cao su.
Có chính sách khuyến khích về lãi suất ngân hàng, thuế đất, thuế vốn.. đối với các doanh nghiệp và các chủ đầu tư phát triển cao su vì đất mở rộng diện tích cao su hiện nay chủ yếu ở vựng sõu, vựng xa, cơ sở hạ tầng khó khăn.
1.4. Giải pháp về tổ chức và quản lý sản xuất:
Để đạt được hiệu quả sản xuất cao hơn, nhà nước cũng cần tiến hành hoàn thiện hơn nữa các mô hình tổ chức quản lý sản xuất cao su.
Đối với Tổng công ty cao su, điểm chưa thật hợp lý còn tồn tại chính là mối quan hệ giữa tổng công ty và các đơn vị thành viên. Tổng công ty chưa thực hiện được vai trò quản lý toàn bộ nguồn vốn được nhà nước giao. Trách nhiệm quản lý của Tổng công ty hiện tại nặng về quản lý đầu tư và hành chính nhưng nhẹ về quản lý kinh doanh, các Công ty là các chủ thể độc lập được quyền quyết định kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Để giải quyết được vấn đề, cần tăng cường thêm một số chức năng về tổ chức kinh doanh ở Tổng công ty, đồng thời đẩy nhanh cổ phần hoỏ cỏc doanh nghiệp thành viên, lúc đó Tổng công ty là người thay mặt nhà nước quản lý số vốn ở các doanh nghiệp này, có trách nhiệm quản lý phần vốn góp , sử dụng hiệu quả cổ tức thu được để không làm giảm vốn , việc đầu tư không chỉ dừng lại ở đầu tư cho các doanh nghiệp thành viên mà sẽ mở rộng đầu tư vào những ngành có liên quan hoặc cho hiệu quả cao.
Trong tương lai, các tiểu điền và trang trại trong xu thế chung sẽ hình thành các hợp tác xã hoặc các hiệp hội để tự bảo vệ quyền lợi của mình trước doanh nghiệp, nhưng trước mắt các doanh nghiệp địa phương và đơn vị cơ sở sẽ là động lực thúc đẩy phát triển chính và khi có chủ trương, cơ chế cho phép, các doanh nghiệp có thể bỏ vốn để cao su tiểu điền phát triển. Từ những nhận định trên, việc giữ nguyên hình thức phát triển đại điền như hiện tại, trước mắt sẽ có hiệu quả hơn; đối với các công ty mới thành lập, tuỳ theo quy hoạch về đất đai của địa phương sẽ có một cơ cấu quy mô hợp lý cho từng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ không phát triển với quy mô quá lớn nhưng phải vừa đủ lớn để bảo đảm nguồn nguyên liệu cho nhà máy chế biến ở quy mô có hiệu quả. Quy mô này tối thiểu là 3 nghìn ha ở những công ty nhỏ và không vượt quá 10 nghỡn ha ở khu vực Tõy nguyờn.
Bên cạnh đó, cũng cần thiết phải hoàn thiện việc khoán vườn cây cao su: có những phương án khoỏn trờn từng loại vườn cây cụ thể như: khoán vườn cây trồng lại trên đất thanh lý, khoán vườn cây kiến thiết cơ bản hiện có, khoán vườn cây khai thác.
1.5. Giải pháp về đầu tư:
Để đạt được mục tiêu sản xuất, xuất khẩu đã đề ra, Nhà nước cần có chính sách đầu tư hợp lý vào tất cả cỏc khõu trong quá trình sản xuất, chế biến nông sản. Vốn để thực hiện chiến lược đầu tư có thể được huy động từ nhiều nguồn như:
Tạo vốn và thu hót đầu tư trong nước, trong đó huy động vốn tự có của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, huy động vốn nhàn rỗi trong dân để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, sản xuất, chế biến ..Cụ thể là tiến hành thu hót cổ phần cho các dự án công nghiệp có hiệu quả bằng cách thông qua công ty tài chính cao su phát hành trái phiếu công trình.
Vay vốn tín dụng nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng phát triển nông thôn và ngân hàng thương mại.
Huy động vốn nước ngoài và tham gia hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh doanh. Theo thoả thuận giữa TCty cao su và quỹ ADF về dự án phát triển cao su ở các công ty cao su, phía ADF sẽ tài trợ cho dù án với tổng mức vốn khoảng 38 triệu USD với lãi suất thấp cho trồng mới 26000 ha và chăm sóc các vườn cây hiện có. Tổng công ty sẽ tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo để có thể tiếp nhận nguồn vốn này trong năm 2001.
Tuy vậy, trước hết cần xây dựng được định hướng đúng đắn và phù hợp xuất phát từ thực trạng của nền nông nghiệp nước ta, tránh đầu tư dàn trải gây lãng phí. Trong thời gian tới, đầu tư phát triển sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản nên chú trọng vào cỏc khõu sau:
*/ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (như thuỷ lợi, điện lực, đường giao thông nông thôn, hệ thống dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp..) nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá nông thôn và thu hót vốn đầu tư nước ngoài.
*/ Đầu tư xây dựng hệ thống các nhà máy, cơ sở chế biến cao su với trang thiết bị hiện đại và đồng bộ nhằm tạo ra sự đa dạng về chủng loại cũng như cải thiện chất lượng cao su xuất khẩu. Từ đó tăng hàm lượng sản phẩm đã qua chế biến trong cơ cấu xuất khẩu cao su và nâng cao được hiờụ quả kinh doanh.
*/ Đầu tư xây dựng dịch vụ thị trường từ khâu thu mua, vận chuyển bảo quản cao su nguyên liệu đến khâu nghiên cứu, tiếp cận và thâm nhập các thị trường xuất khẩu tiềm năng.
*/ Đầu tư đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học nông nghiệp nhằm cải thiện được năng suất và chất lượng, tạo ưu thế cho hàng cao su xuất khẩu của Việt nam khi thâm nhập thị trường thế giới.
*/ Đầu tư cho công tác phát triển nguồn nhân lực, nhằm xây dựng được đội ngò cán bộ kỹ thuật và quản lý sản xuất kinh doanh có trình độ để đưa nền nông nghiệp của ta bắt kịp nhịp phát triển của các nền nông nghiệp trên thế giới.
2. Nhóm biện pháp hỗ trợ về chính sách của Nhà nước
2.1. Nhóm biện pháp hỗ trợ về tài chính - tớn dụng
2.1.1. Chính sách trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp hàng xuất khẩu là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho doanh nghiệp xuất khẩu khi họ xuất khẩu được hàng ra nước ngoài.
Chính sách này nhằm giúp cho các đơn vị xuất khẩu tăng doanh thu, nâng cao khả năng cạnh tranh, và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Chính sách trợ cấp hiện nay tồn tại duới hai hình thức chủ yếu là:
-Trợ cấp trực tiếp: như áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, hoàn lại thuế, cung cấp miễn phí các dịch vụ như điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trực tiếp thưởng một khoản tiền nào đó cho các doanh nghiệp nếu thực hiện được một thương vụ tốt có kim ngạch cao hoặc xuất sang một thị trường mới. Trợ cấp trực tiếp: như áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, hoàn lại thuế, cung cấp miễn phí các dịch vụ như điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trực tiếp thưởng một khoản tiền nào đó cho các doanh nghiệp nếu thực hiện được một thương vụ tốt có kim ngạch cao hoặc xuất sang một thị trường mới.
- Trợ cấp gián tiếp: Là hoạt động mà Nhà nước dùng ngân sách của mình để hỗ trợ gián tiếp cho các nhà sản xuất, xuất khẩu như các hoạt động giới thiệu sản phẩm thông qua triển lãm, quảng cáo, hội chợ, hay đào tạo chuyên môn, đào tạo kỹ thuật và quản lý miễn phí. Cũng có thể Nhà nước đứng ra ký kết các hiệp định thương mại với các nước để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhằm mục đích đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Trợ cấp xuất khẩu đối với mặt hàng nào, mức độ ra sao là tuỳ thuộc vào chính sách của từng Nhà nước. Các mặt hàng nông sản trong đó có cao su thường là đối tượng hay được các nước trợ cấp.
Ở Việt Nam biện pháp này đã được áp dụng, như việc Nhà nước cho các doanh nghiệp sản xuất, các doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng mức thuế xuất khẩu ưu đãi bằng 0%, hay nhập khẩu thiết bị toàn bộ thì được miễn thuế. Mặt khác, việc ký kết các hiệp định giữa Nhà nước với nước ngoài cũng đó giỳp cỏc doanh nghiệp xuất khẩu tìm kiếm được thị trường. Ví dụ: năm 2000 nhà nước ta đã ký Hiệp định thương mại Việt-Trung, mở ra một thị trường lớn và ổn định là Trung quốc cho cao su xuất khẩu của Việt nam, tránh được tình trạng của cao su Việt nam trước kia phải xuất sang Trung quốc theo con đường tiểu ngạch nên thường bị Ðp giá và sản lượng xuất khẩu không ổn định.
Để đẩy mạnh xuất khẩu cao su, Nhà nước nên nghiên cứu áp dụng linh hoạt và đa dạng các hình thức trợ cấp như sau:
Khuyến khích, thưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu được sản phẩm ra nước ngoài hoặc các doanh nghiệp tìm được thị trường xuất khẩu mới, hoặc các doanh nghiệp xuất khẩu được với số lượng lớn... để khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tăng cường hoạt động xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.
Tổ chức các triển lãm, hội chợ quốc tế nhằm giỳp cỏc doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm và trao đổi kinh nghiệm với nước ngoài.
Tổ chức hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia các triển lãm, hội chợ ở nước ngoài, giúp họ có cơ hội tìm hiểu thị trường mới và tìm kiếm đối tác mới.
Tích cực đàm phán, kí kết các hiệp định thương mại với nước ngoài nhằm mở ra các thị trường mới lớn và ổn định hơn cho doanh nghiệp trong nước.
2.1.2. Chính sách trợ giá xuất khẩu
Trong một vài năm gần đây, chính sách trợ giỏ đó được áp dụng cho sản xuất lương thực ở nước ta, ví dụ như khi giá lương thực giảm xuống dưới mức giá sàn quy định thì Nhà nước có biện pháp bù giá hay mua tạm trữ để bình ổn giá, điều này đó giỳp cho sản xuất lương thực của Việt Nam không ngừng phát triển. Hiện nay chóng ta đang soạn thảo quy chế thành lập quỹ bình ổn giá, và sẽ thực hiện chính sách bù giá xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản chính, bao gồm cả cao su. Nhà nước nên áp dụng biện pháp này, đặc biệt là khi thị trường nước ngoài có biến động bất lợi về giá cả. Khi đó, người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có thể tránh được rủi ro, thiệt hại khi thị trường biến động. Nhưng cũng cần lưu ý rằng đây là biện pháp mà các tổ chức thương mại quốc tế và WTO cho là biện pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Do vậy khi áp dụng biện pháp này cần phải rất thận trọng và khéo léo làm sao có thể dung hoà được lợi Ých của quốc gia với các quy định và tập quán mậu dịch quốc tế.
2.1.3. Chính sách áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt
“Tỷ giá hối đoái là giá cả một loại tiền tệ được biểu hiện qua một loại tiền tệ khỏc”. Sự thay đổi tỷ giá nhìn chung có ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, cũng như nhập khẩu, đầu tư và du lịch. Khi đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ sẽ làm cho hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn, có điều kiện để cạnh tranh, xâm nhập vào thị trường nước ngoài dẫn đến xuất khẩu tăng. Nhưng hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, vì người nhập khẩu phải dùng số tiền nội tệ nhiều hơn để quy đổi ra ngoại tệ dùng cho việc nhập khẩu. Ngược lại, khi đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ thì sẽ làm cho hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn, có sức cạnh tranh cao hơn so với hàng nội. Điều này sẽ dẫn đến nhập khẩu tăng nhưng xuất khẩu giảm.
Liên quan đến việc điều chỉnh tỷ giá hàng hối đoái, ở nước ta đến ngày 1/1/1989, ngân hàng Nhà nước Việt Nam tuyên bố xoá bỏ tỷ giá hối đoái nội bộ vốn vẫn được áp dụng từ trước năm 1989 và đưa ra hệ thống một tỷ giá sát với giá thị trường. Đõy chớnh là một biện pháp phá giá mạnh đồng tiền của mình nhằm kích thích sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu. Việc Chính phủ thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá, điều chỉnh linh hoạt hơn tỷ giá giữa “USD-đồng tiền Việt nam”, phần nào đó khộp dần khoảng cách giữa tỷ giá qui định của Ngân hàng trung ương với thị trường tự do; song cần linh hoạt hơn nữa (không nên định giá quá cao đồng nội tệ), tuy nhiên không nên áp dụng biện pháp đột ngột (tạo nên cỏc cỳ xốc), mà cần sát với thị trường, nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và đảm bảo sự ổn định, tăng trưởng kinh tế.
2.1.4. Biện pháp tín dụng và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Trong những năm qua, chóng ta cũng đã quan tâm đến nhóm biện pháp này để kích thích sản xuất và xuất khẩu phát triển bằng việc Nhà nước đứng ra ký các hiệp định vay nợ cho phát triển sản xuất hoặc lãi suất cho vay liên tục được hạ thấp. Nguồn vốn vay phục vụ sản xuất và xuất khẩu cao su cũng phải chịu lãi suất tương tự, trừ các trường hợp đặc biệt như vay vốn để thực hiện các dự án/ chương trình xoỏ đúi giảm nghèo hay chương trình 135 chẳng hạn. Thường thời hạn vay vốn là ngắn hạn nên rất khó cho người sản xuất cao su đầu tư phát triển lâu dài, đặc biệt là khi cây cao su đòi hỏi một thời gian sinh trưởng tới hơn 30 năm. Do vậy, chính sách tín dụng thời gian tới cần cải tiến để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cao su theo hướng sau:
Áp dụng chính sách cho vay tín dụng trung và dài hạn để người sản xuất có thể đầu tư cho sản xuất cao su phù hợp với thời kỳ sinh trưởng trên 30 năm của nó và đảm bảo hiệu quả kinh tế lâu dài.
Quy mô của các khoản vay tín dụng cần phải lớn hơn và tập trung hơn, tránh tình trạng vốn vay bị chia cắt phân đều hoặc phân nhỏ giọt cho các ngành hay các địa phương. Điều này dễ dẫn đến hiện tượng nơi cần vốn thì thiếu, còn nơi chưa cần hoặc cần Ýt thì lại thừa hay sử dụng vốn không hiệu quả.
Ngoài nguồn vốn tín dụng trong nước, cũng cần tận dụng nguồn vốn vay từ bên ngoài (các chương trình viện trợ phát triển hay từ các TC tín dụng quốc tế) để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, nước ta nhận được những khoản vốn tín dụng khá lớn từ ADB, WB, IMF, từ các Chương trình viện trợ phát triển song phương,... đầu tư cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và cho phát triển sản xuất, nhất là đối với các mặt hàng nông sản tiềm năng như cao su.
Bên cạnh việc áp dụng chính sách tín dụng phù hợp, Chính phủ cũng cần chú ý đến thực hiện biện pháp bảo đảm và bảo hiểm tín dụng. Vì trong cơ chế thị trường, các ngân hàng đều rất thận trọng trong việc cấp vốn vay và chỉ cho vay nếu có bảo đảm hay thế chấp. Do vậy, Nhà nước cần dùng uy tín hay nguồn vốn của mình (ngân sách) đứng ra bảo lãnh cho các đơn vị vay vốn trong và ngoài nước nếu có rủi ro xảy ra. Biện pháp này đã, đang và sẽ góp phần kích thích sản xuất và xuất khẩu cao su phát triển.
2.2. Chính sách thuế
Thuế có vai trò vô cùng quan trọng trong điều tiết, hướng dẫn và quản lí nền kinh tế chính vì vậy sự điều chỉnh về thuế sẽ có tác dụng làm cho ngành sản xuất này tăng, ngành sản xuất khác giảm. Hiện nay, một đơn vị sản xuất, kinh doanh xuất khẩu thường phải chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các loại thuế như: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu... Ngoài ra, người sản xuất còn phải chịu hàng loạt các loại phí như: điện, thuỷ lợi, an ninh... Nhiều khi các loại phí này lại còn cao hơn cả thuế, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp thu mua xuất khẩu. Do vậy, Nhà nước nên:
Có chính sách thu thuế và phí rõ ràng, thống nhất, không trùng lặp hay chồng chéo.
Giảm thuế cho những doanh nghiệp xuất khẩu tìm được thị trường mới, hoặc có kim ngạch xuất khẩu cao, vì chi phí thuế sẽ được tính vào vào giá bán làm tăng giá xuất khẩu và giảm khả năng cạnh tranh của cao su nước ta, trong khi đó, chính sách của nhà nước ta là đặc biệt ưu tiên đầu tư nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu và tạo điều kiện xâm nhập vào thị trường mới ở nước ngoài.
Bỏ chế độ thu một số loại thuế đánh vào hàng cao su xuất khẩu, hành động này trước mắt có thể không có lợi cho việc thu ngân sách nhưng về lâu dài sẽ mang lại lợi Ých lớn hơn nhiều cả về mặt hiệu quả kinh tế và phát triển xã hội vì việc phát triển sản xuất xuất khẩu cũng đã góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá nông thôn ở Việt Nam.
Miễn thuế nhập khẩu các loại tư liệu sản xuất quan trọng để nhập khẩu được những loại giống tốt, những công nghệ chế biến tiên tiến, tạo sức chuyển biến mới cho mặt hàng cao su xuất khẩu.
Đánh thuế nhập khẩu cao vào những sản phẩm cao su từ nước khác như săm, lốp các loại xe, đệm mót,... hiện đang xuất hiện rất nhiều trên thị trường Việt Nam nhằm bảo vệ cho sản phẩm nội địa, đồng thời phải có biện pháp quản lý thị trường và chống buôn lậu có hiệu quả, không để những mặt hàng nhập lậu trèn thuế này đánh bại sản phẩm nội địa trờn chớnh thị trường của chúng ta.
2.3. Đổi mới hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động sản xuất và xuất khẩu.
Đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương là cần thiết và cấp bách vì cần thống nhất quan điểm cho phù hợp với hệ thống kinh tế mở, với xu thế "tự do hoá hoạt động thương mại" đang diễn ra với mức độ khác nhau ở nhiều nước trên thế giới. Trong khuôn khổ pháp luật nước ta, Nhà nước có khả năng tiến hành các biện pháp và chính sách xúc tiến sản xuất và xuất khẩu, xoá bỏ các rào cản, nhất là về tổ chức, cơ chế, thể chế và các thủ tục đang tác động đến hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ cho sản xuất và chế biến, đồng thời cần hoàn thiện lại chính sách và cơ chế quản lý thương mại, phù hợp với yêu cầu của AFTA/ ASEAN, của APEC và của WTO... để khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong cơ chế xuất khẩu hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu ngoài quốc doanh đang phải chịu những một số bất lợi so với các doanh nghiệp xuất khẩu quốc doanh. Các hợp đồng xuất khẩu lớn và thuận lợi hoặc hợp đồng trả nợ bằng sản phẩm đều do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện. Trong thời gian tới, Nhà nước nên tổ chức đấu thầu đối với các hợp đồng xuất khẩu để vừa có thể tăng nguồn thu cho Nhà nước vừa đảm bảo tính công bằng trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, theo luật thương mại và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, các doanh nghiệp trong nước được phép kinh doanh với nước ngoài không bị ràng buộc như trước nữa nên cũng không cần phải duy trì chế độ quản lý xuất khẩu theo đầu mối. Tuy vậy, việc dành nhiều tự do hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng dễ dẫn đến tình trạng có quá nhiều các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong một lĩnh vực tạo hiện tượng lộn xộn và khó kiểm soát cho các cơ quan chức năng. Điều này cũng sẽ tạo ra sự cạnh tranh không cần thiết, làm giảm hiệu quả xuất khẩu không cao.
3. Nhóm biện pháp hỗ trợ hoạt động xúc tiến xuất khẩu
3.1. Về tổ chức, thể chế và hợp tác
*/ Thành lập và kiện toàn các cơ quan chức năng trong việc xúc tiến thương mại nhằm giỳp cỏc doanh nghiệp nâng cao năng lực “marketing”, tiếp cận và tìm hiểu các thị trường tiềm năng và nắm bắt các cơ hội kinh doanh trên thị trường thế giới. Bộ Thương mại và Bộ nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cần chỉ đạo các ban ngành liên quan phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý và điều hành xuất khẩu. Đồng thời, các cơ quan này cũng đóng vai trò tham mưu cho cơ quan Bộ hữu quan và Chính phủ đưa ra các biện pháp và chính sách phù hợp trong từng tình huống nhất định để có thể bảo vệ được quyền lợi cho người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu.
*/ Hỗ trợ việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội ngành cao su trong nước, giúp tổ chức này trở thành chất xúc tác gắn kết các cá nhân, đơn vị cùng tham gia sản xuất cao su. Chỉ có làm được như vậy mới tạo ra được sự đoàn kết và sức mạnh tổng hợp của ngành hàng và tạo đà cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu cao su phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế, tránh việc hàng xuất khẩu của ta bị Ðp giá như hiện nay.
*/ Phát huy vai trò của Hiệp hội ngành cao su trong việc hướng dẫn, phối hợp và tổ chức một cách có hiệu quả cho các hội viên của mình tham gia tích cực vào các chương trỡnh/hoạt động phát triển xuất khẩu cao su; hợp tác với các cơ quan hữu quan tổ chức tốt hệ thống thông tin thị trường, giỳp cỏc doanh nghiệp xuất khẩu tìm hiểu và nắm bắt các cơ hội mở rộng thị trường; tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ của các doanh nghiệp thành viên, cung cấp các dịch vụ tư vấn và trợ giúp kỹ thuật...
*/ Khi xúc tiến hoạt động thương mại vào thị trường nước ngoài cần triệt để sử dụng lợi Ých của mạng Internet bằng cách gửi e-mail, khai thác dữ liệu, tìm kiếm bạn hàng, quảng cáo và bán hàng trên mạng. Việc tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài tìm hiểu thị trường cần thu xếp chu đáo vì chi phí khá tốn kém. Tốt nhất là nên kết hợp đi thăm các hội chợ triển lãm ngành hàng. Hàng trong nước và hàng nhập khẩu có thể trình bày thông qua các công ty và đại lý ở ở trên các thị trường tiềm năng, không nhất thiết phải sang tận nơi. Có thể tổ chức các đoàn tham quan hội chợ triển lãm, đồng thời mang catalogue, hàng mẫu sang tiếp thị vì thường các công ty trưng bày chính là các công ty nhập khẩu.
*/ Ngoài ra, cũng cần mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế từ cấp Chính phủ, Hiệp hội hay chớnh cỏc doanh nghiệp xuất khẩu. Thông qua các Hiệp định thương mại cấp Chính phủ, cao su xuất khẩu sẽ có điều kiện tiếp cận và thâm nhập thị trường tốt hơn, nhất là đối với các thị trường cao cấp giàu tiềm năng. Hiệp hội cao su cũng có thể mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, qua đó có thể thiết lập các mối quan hệ làm ăn, hợp tác hay trao đổi thông tin với các tổ chức, hiệp hội cao su quốc tế hoặc của các quốc gia khác khác trên thế giới. Bằng cách này các Hiệp hội sẽ có thể giỳp cỏp doanh nghiệp thành viên tiếp cận được với các thị trường bên ngoài và tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường. Bản thõn cỏc doanh nghiệp cũng phải chủ động tìm kiếm và thiết lập quan hệ bạn hàng lâu dài với các đối tác nước ngoài, đồng thời tìm kiếmkhả năng mở rộng thị trường và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu bằng cách khai thác các mối quan hệ hợp tác này.
3.2. Về thị trường:
*/ Biện pháp mở rộng thị trường cao su nội địa:
Cần nắm rõ thông tin về nhu cầu sử dụng cao su nguyên liệu cả về số lượng, chất lượng, phương thức mua hàng... của các doanh nghiệp sử dụng cao su nguyên liệu trong cả nước, có kế hoạch phân chia thị phần cho các công ty trong nội bộ ngành, tránh trường hợp tranh bán giữa các công ty.
Nghiên cứu và tìm hiểu các dự án công nghiệp cao su có triển vọng để tham gia góp vốn bằng sản phẩm cho các doanh nghiệp sản xuất.
Tài trợ hoặc trực tiếp nghiên cứu những đề tài ứng dụng sử dụng cao su thiên nhiên để gián tiếp kích thích nhu cầu sử dụng cao su nguyên liệu.
*/ Tổ chức lại đầu mối xuất khẩu trong nội bộ ngành:
Để phát huy tính nhất quán trong giao dịch, sức mạnh tổng hợp của ngành cao su, cần tổ chức lại khâu xuất, nhập khẩu trong ngành cao su. Công tác xuất, nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, thiết bị, nói chung tất cả các loại phục vụ cho sản xuất và kinh doanh đều phải tập trung vào một đầu mối.
*/ Đa dạng hoá sản phẩm, chuyển đổi chủng loại:
Là vấn đề cốt yếu cho sự vững bền của ngành cao su. Ngành vá xe sẽ tiếp tục sử dụng một phần rất lớn khoảng 70% sản lượng cao su thiên nhiên được sản xuất ra vì tính chất kỹ thuật sẵn có của cao su thiên nhiên so với cao su tổng hợp. Nhu cầu của ngành vá xe là loại TSR10,20 & RSS3. Khuynh hướng tương lai là tỷ trọng RSS3 sẽ giảm xuống và được thay bằng TSR 20 & 10.
*/ Cải thiện phương thức mua bán:
Sản lượng cao su thiên nhiên sẽ gia tăng với tốc độ 15%/ năm do đó mở rộng thị trường xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu của ngành trong những năm tới. Bên cạnh việc bảo đảm chất lượng, sản xuất theo yêu cầu kỹ thuật của khách hàng, cần cải thiện các biện pháp mua bán. Các phương thức cần được xem xét là:
Lập văn phòng, trạm giao dịch tại các nước mua hàng, trên quan điểm chủ đạo là thâm nhập vào các thị trường mới như Mỹ, Trung đông, nối lại quan hệ với thị trường cũ Nga, Đông âu, và củng cố các thị trường đó cú.
Xúc tiến quảng bá và tiếp thị.
Bảo đảm sự tin cậy của khách hàng bằng việc quản lý chất lượng: Các đơn vị cần làm chủ được khâu quản lý của mình và công cụ chứng minh với bên ngoài là chứng chỉ ISO 9000.
Ngoài ra cần có kế hoạch thâm nhập thị trường kỳ hạn: hiện nay cao su thiên nhiên chỉ mới được giao dịch tại thị trường hàng hoá, người sản xuất chưa được bảo vệ trước sự thăng trầm và rủi ro của giá cả. Trong tương lai gần, ta phải tìm cách bảo vệ hoặc với ngân hàng hoặc tại thị trường kỳ hạn.
Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường: nhà nước cần tăng cường đầu tư hệ thống thông tin hiện đại để nắm bắt giá cả hàng ngày tại các thị trường xuất nhập khẩu trên thế giới.
3.3. Đẩy mạnh hoạt động “marketing” Quốc tế
Khi xúc tiến các hoạt động xuất khẩu cao su, đặc biệt là vào thời điểm hiện nay, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng cả hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đó là: các yếu tố hạn chế và các yếu tố kích thích trao đổi quốc tế. Nhóm yếu tố hạn chế bao gồm các vấn đề nh: thuế xuất nhập khẩu tại nước xuất và nước nhập, hạn ngạch và cấm vận, kiểm soát tỷ giá, hàng rào phi thuế quan, tính đa dạng của thị trường bờn ngoài... Nhóm nhân tố thúc đẩy trao đổi quốc tế bao gồm: các tổ chức quốc tế, nhất là các tổ chức có liên quan đến cao su trên thế giới như Hội đồng Cao su Quốc tế, Tổ chức Cao su Thiên nhiên Quốc tế (INRC, INRO)..., các thực thể kinh tế (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, EU, ASEAN...), các chính sách và qui định của từng quốc gia, xu hướng phát triển của nhu cầu thị trường, công nghệ mới, thông tin và vận tải...
Để củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, việc nghiên cứu kỹ môi trường kinh tế của nước nhập khẩu là quan trọng. Môi trường này quyết định sức hấp dẫn của thị trường xuất khẩu thông qua việc phản ánh tiềm năng thị trường và hệ thống hạ tầng cơ sở thương mại của một quốc gia. Việc xác định và đánh giá mức độ hấp dẫn của thị trường có thể căn cứ vào ba yếu tố là dân số, cơ cấu kinh tế và mức sống của dân cư, Những đặc trưng này của môi trường kinh tế có thể được sử dụng là tiêu thức phân nhóm các thị trường xuất khẩu.
Bên cạnh đó môi trường luật pháp chính trị cũng có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng tới cả nước nhập và xuất khẩu. Hiện nay các nước nhập khẩu cao su chủ yếu trên thế giới như Mỹ, Hàn quốc đang bắt đầu ổn định lại sau cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - chính trị, tuy nhiên dư âm của nó vẫn còn ảnh hưởng nặng nề đến thị trường xuất nhập khẩu cao su thế giới. Vậy để có được nguồn xuất khẩu cao su ổn định, các doanh nghiệp cần lưu ý:
- Tìm hiểu môi trường luật pháp - chính trị tại nước XK: Môi trường này có ảnh hưởng thông qua việc tạo cơ hội xuất khẩu, áp dụng các chính sách và biện pháp bảo vệ xuất khẩu, hình thành các khu chế xuất. Từ đó học hỏi, rút kinh nghiệm và áp dụng vào thực tiễn của nước mình/ doanh nghiệp mình.
- Môi trường luật pháp - chính trị tại nước nhập khẩu: Môi trường này có ảnh hưởng rất khác nhau đối với các doanh nghiệp xuất khẩu ở các nước nhập khõủ khác nhau. Khi nghiên cứu môi trường này cần chú ý tới các yếu tố sau:
+ Thái độ đối với các nhà đầu tư, xuất khẩu nước ngoài
+ Sù ổn định về hệ thống chính trị.
+ Quy định về tỷ giá chuyển đổi
+ Thủ tục và quy định hành chính.
- Môi trường luật pháp quốc tế: Cần nghiên cứu và nắm vững các nguyên tắc pháp lý chi phối các hoạt động thương mại quốc tế. Hầu hết các nguồn luật quốc tế đều xuất phát từ các công ước, hiệp định hay tập quán, thông lệ buôn bán quốc tế.
Việc lùa chọn thị trường xuất khẩu là vấn đề hết sức phức tạp và quan trọng trong quá trình quyết định chiến lược xúc tiến xuất khẩu. Đây là khâu then chốt liên quan trực tiếp đến sự thành công của doanh nghiệp cũng như cho phép tiết kiệm thời gian, kinh phí để thâm nhập và phát triển thị trường bên ngoài. Mục đích của việc lùa chọn thị trường xuất khẩu là xác định các thị trường có triển vọng và phù hợp với khả năng của doanh nghiệp cũng như xác định được các đặc điểm của từng thị trường để có thể đề ra được chiến lược tiếp cận một cách có hiệu quả nhất.
Các chiến lược marketing đóng góp một phần không nhỏ vào việc thu hót sự chú ý còng nh đầu tư của các nước nhập khẩu nh các chính sách về sản phẩm, về giá, chính sách phân phối hoặc các chính sách xúc tiến bán hàng...
Cao su là loại sản phẩm mang tính đặc thù, vì vậy tính đa dạng và tiện lợi của sản phẩm là cần thiết. Bên cạnh đó giá cả cũng quyết định một phần lớn vào việc thâm nhập thị trường quốc tế, phát triển thị phần và doanh số bán, hay tối đa hoá lợi nhuận. Chiến lược giá cũng có thể được sử dụng nhằm kích thích tiêu dùng đối với cỏc nhúm đối tượng tiêu dùng khác nhau trên thị trường.
Có thể thực hiện các hoạt động xúc tiến bán hàng thông qua việc tham gia và giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ triển lãm quốc tế, ra nhập các Hiệp hội ngành hàng ở cấp quốc tế, tận dụng quan hệ hợp tác thương mại của Nhà nước... Ngoài ra, trong thời đại phát triển về công nghệ thông tin như hiện nay mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp thị sản phẩm của mình một cách có hiệu quả thông qua việc sử dụng các công nghệ mạng điện tử như: Internet, E-commerce, E-mail, xây dựng trang web riêng của doanh nghiệp...
KẾT LUẬN
Cho đến nay chóng ta có quyền tự hào về những thành tựu đáng phấn khởi của ngành cao su Việt nam: tiềm lực cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có của ngành gấp khoảng 15 lần so với năm 1975; nhiều vùng đất hoang hoá trước đây trở thành vùng kinh tế mới; đã góp phần giải quyết tốt công tác định canh định cư của đồng bào cỏc dõn tộc Ýt người trên địa bàn và điều động, phân bổ dân cư trong phạm vi cả nước; đã sử dụng trên 15 vạn lao động, đảm bảo đời sống cho 30 vạn khẩu trong nông nghiệp; đã góp phần tích cực vào việc phủ xanh đất trống đồi trọc, chống xói mòn, bảo vệ đất; đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân cao su không ngừng được cải thiện, đó xoỏ bỏ cảnh “cao su đi dễ khó về” đối với người công nhân trong các đồn điền cao su của chế độ cò.
Trong những năm qua, cây cao su đã khẳng định được vị trí của mình trong tập đoàn cây công nghiệp dài ngày và ngành sản xuất cao su thiên nhiên đã trở thành ngành sản xuất có hiệu quả toàn diện. Cây cao su và công nghiệp chế biến các sản phẩm của cây cao su đã trở thành một trong những ngành kinh tế mòi nhọn của đất nước. Cùng với một số mặt hàng khác cao su Việt nam đã và đang trở thành mặt hàng chủ lực có sức cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế.
Từ khi Tổng quan phát triển ngành cao su Việt nam đến năm 2010 được phê duyệt tháng 2/1995, sản xuất cao su trong nước không ngừng lớn mạnh: diện tích cao su tăng 7,9%/năm, sản lượng mủ tăng 15,8%/năm, và năng suất tăng 8,4%/năm. Bên cạnh đó, công nghiệp sơ chế mủ cao su cũng đã được đầu tư cải tiến công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, đưa công suất chế biến tăng nhanh từ 180 nghìn tấn năm 1994 lên 294 nghìn tấn năm 2000 để đảm bảo chế biến hết lượng mủ sản xuất ra. Đặc biệt, chủng loại sản phẩm có nhiều chuyển biến, trong đó tỷ lệ loại mủ SVR 10,20 tăng từ 9% lên 13-15% để phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới.
Trên thế giới, mặt hàng cao su của Việt nam cũng bước đầu tạo được vị thế vững chắc. Hàng năm giá trị xuất khẩu đạt 120-180 triệu USD, có năm lên tới 190 triệu USD. Sản phẩm cao su đã được xuất khẩu sang nhiều thị trường, từ những thị trường truyền thống nh Nga và các nước Đông Âu, tới những thị trường trong khu vực nh Trung Quốc, Malaixia, hay những thị trường có tiềm năng lớn nh Bắc Mỹ, Tây Âu, Bắc ỏ. Trờn cỏc thị trường này, sản phẩm cao su Việt nam được ưa chuộng bởi giá thành khá rẻ. Song cũng còn những vấn đề như: chủng loại sản phẩm chưa phù hợp, phải đối mặt với hàng rào thuế quan, phi thuế quan và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường cao su thế giới đang làm xuất khẩu cao su của Việt nam gặp không Ýt khó khăn, đặc biệt trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường.
Tuy còn muôn vàn khó khăn trước mắt trong việc ổn định, phát triển và tìm được hướng đi đúng, nhưng với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và nhà nước, được hỗ trợ và khích lệ nhiều mặt từ các chính sách tài chính, tín dụng, thuế, xúc tiến thương mại ... Chóng ta tin tưởng chắc chắn rằng mục tiêu sản xuất và xuất khẩu cao su tới năm 2010 đề ra trong Tổng quan phát triển sẽ được hoàn thành xuất sắc. Trong tương lai, ngành cao su vẫn sẽ giữ vững tốc độ tăng trưởng cao và trở thành ngành mòi nhọn của nền nông công nghiệp Việt nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_tiem_nang_va_mot_so_giai_phap_4334.doc