Vấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam

MỤC LỤC: Trang SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP NHÂN VIỆT NAM SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁCH MẠNG VIÊT NAM. GIAI CẤP CÔNG NHÂN LUÔN LÀ LỰC LƯ ỢNG ĐI ĐẦU Ở VIỆT NAM,GIAI CẤP CÔNG NHÂN LÀ DŨNG CẢM NHẤT; CÁCH MẠNG NHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIÊT NAM –THỰC TRẠNG VÀ SUY NGẪM XÂY DỰNG,PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6353 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM Giai cấp công nhân việt nam ra đời từ đầu thế kỉ 20.sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,dưới sự thống trị của đế quốc pháp,nên giai cấp cong nhân việt nam phát triển chậm. Mặc dù số lượng ít,trình độ nghề nghiệp thấp ,còn mang nhiều tàn dư của tập quán nông nhân,song giai cấp công nhân việt nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta do những diều kiện sau đây: _Giai cấp công nhân VN sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm.ở giai cấp công nhan nỗi nhuc mất nước cộng với nỗi khổ vì áp bức bóc lột của giai cấp tư sản làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dan tộc kết họp làm một,khiến cho động cơ cách mạng của giai cấp cong nhân dược tăng lên gấp bội . _Giai cấp cong nhân VN ra đời từng bước trưỏng thành trong không khí sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân kể từ khi thực dân pháp đặt chân lên đất nước ta , _Vào lúc đó phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển,cuộc cách mang tháng mười nga bùng nổ và gình thắng lợi ảnh hưởng đến phong trào công nhân thế giới,phong trào cong nhân VN cũng không ngoại lệ.chính vào lúc đó nhà yêu nước Nguyễn ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mac_lê nin và ở đó người đã phát hiện ra là phải biêt phát huy sức mạnh của giai cấp công nhân đẻ làm cuộc cánh mạng dân chủ nhân dân là con đường duy nhất. Tấm gương cách mạng nga và một số phong trào cánh mạng ở nhiều nước đã cổ vũ cho phong trào cong nhân non trẻ việt nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta đồng thời cũng là chất súc tác khích lệ nhân dân lựa chọn ,tiếp nhận con đường cách mạng chủ nghĩa và đi theo con đường của giai cấp công nhân.Từ đó giai cấp công nhân việt nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cánh mạng. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIÊT NAM Giai cấp công nhân trên toàn thế giới cũng như ở từng quốc gia đều có môt sứ mệnh lịch sử nhất đinh và nhiêm vụ của họ là phải hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó.ở việt nam cũng vậy ,giai cấp công nhân cũng có sứ mệnh lịch sủ của mình. Ở nước ta giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dan.Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên phong của mình là đảng cộng sản việt nam ,đấu tranh giành chính quyền,thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dâniTrong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ,giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dung thành công chủ nghĩa xã hội,không có người bóc lột người ,giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức,bóc lôt,bất công. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁCH MẠNG VIÊT NAM. Lịch sử viêt nam chứng minh rằng ,giai cấp công nhân viêt nam ra đời chưa được bao lâu ngay cả khi chưa có đảng mà đã tổ choc một cách tự phát nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân và dược nhân dân ủng hộ.Những cuộc đấu tranh không chỉ giới hạn trong công nhân ,mà còn tác động sâu sắc đến các tầng lớp khac, đặc biệt là giai cấp nông dân,làm cho bọn thực dân hoảng sợ. Giai cấp công nhân việt nam đã lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong cũa nó là đảng cộng sản việt nam .Để có thể lãnh đạo ,giai cấp công nhân phải có lực lượng ,có tổ choc tiêu biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình.Lực lượng đó là đảng cộng sản.Xét về thành phần xuât thân thì nước ta có nhiều đảng viên không phải là công nhân,nhưng bất cứ đảng viên nào cũng phảI đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ý tưởng ở lý luận Mac _Lê nin và đường lối cách mạng.ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân,vì lợi ích của giai cấp công nhân,của nhân dân lao động ,và của cả dân tộc. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay ,đội ngũ công nhân việt nam bao gồm những người lao động chân tay và lao động chí óc hoạt động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tạo thành một lực lượng giai cấp công nhân thống nhất đai diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của đảng đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.Họ là lực lượng điđầu rong công cuôc công nghiệp hoá,hiện đại hoá. GIAI CẤP CÔNG NHÂN LUÔN LÀ LỰC LƯ ỢNG ĐI ĐẦU Tại Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam khoá VIII, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đó khẳng định như vậy. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ không lớn trong dân số và lực lượng lao động xó hội, nhưng giai cấp công nhân vẫn luôn luôn là lực lượng đi đầu, giữ vai trũ nũng cốt trong khối liờn minh cụng nhõn-nụng dõn-trớ thức và khối đại đoàn kết dân tộc, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát biểu tại Hội nghị, Tổng Bí thư nêu rừ: ''Trong thời kỳ quỏ độ với nhiều hỡnh thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xó hội khỏc nhau cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xó hội đó thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xó hội. Trong bối cảnh đó, mối quan hệ giữa các giai cấp, cỏc tầng lớp xó hội là quan hệ hợp tỏc và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lónh đạo thống nhất của Đảng. Lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay hoàn toàn thống nhất với lợi ớch toàn dõn tộc vỡ mục tiờu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xó hội, dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh''. Khẳng định sự cần thiết phải xây dựng và phát triển các tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nêu rừ, nội dung hoạt động của tổ chức công đoàn trong các đơn vị này là phát động thi đua hoàn thành nhiệm vụ sản xuất gắn với việc yêu cầu giới chủ bảo đảm sự đói ngộ và quyền lợi thỏa đáng cho giai cấp công nhân và người lao động làm thuê; đấu tranh đũi giới chủ  phải thực hiện đúng luật pháp của Nhà nước Việt Nam, thực hiện đúng các hợp đồng lao động; xây dựng mối quan hệ vừa đoàn kết, vừa đấu tranh với giới chủ trong việc bảo đảm hài hũa cỏc lợi ớch. Tổng Bí thư cũng lưu ý Ban Chấp hành Tổng Liờn đoàn Lao động Việt Nam về trách nhiệm trong việc giúp Trung ương xây dựng Nghị quyết về giai cấp công nhân, trong đó phải làm rừ được những vấn đề lý luận và thực tiễn bức xúc hiện nay như: định nghĩa về giai cấp công nhân trong tỡnh hỡnh mới; về nội dung búc lột và chống búc lột, làm chủ và làm thuờ; về hỡnh thức tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức công đoàn trong các loại hỡnh doanh nghiệp; về vai trũ tiờn phong và lónh đạo của giai cấp công nhân. Tổng Bí thư cũng yêu cầu Tổng Liên đoàn tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công nhân, viên chức. Đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu để có hỡnh thức tổ chức cỏc trường lớp phù hợp với điều kiện và tỡnh hỡnh hiện nay để bổ túc và nâng cao trỡnh độ học vấn, trỡnh độ nghiệp vụ của công nhân viên chức lao động; tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn hoạt động có hiệu quả, sát thực tế, khắc phục bệnh hành chính hóa, tạo điều kiện để công đoàn tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xó hội. Ở VIỆT NAM,GIAI CẤP CÔNG NHÂN LÀ DŨNG CẢM NHẤT,CÁCH MẠNG NHẤT. Từ khi bước lên vũ đài chính trị, giai cấp công nhân luôn luôn dũng cảm nhất, cách mạng nhất, gan góc đương đầu với bọn đế quốc, thực dõn.. Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân Việt Nam đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất 1897. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) giai cấp công nhân nước ta mới chỉ có 10 vạn người, trỡnh độ cũn yếu kộm. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929) số lượng công nhân đó tăng lên 22 vạn, chiếm 1,2% dân số. Vừa mới ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam đó trở thành lực lượng tiên phong của xó hội Việt Nam. Trong ba phần tư thế kỷ qua, giai cấp công nhân Việt Nam mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đó dẫn dắt cỏch mạng nước ta thu được những thành quả vĩ đại, giành lại độc lập dân tộc, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, thống nhất nước nhà. Ngày nay giai cấp công nhân thông qua Đảng tiên phong của mỡnh đang thực hiện sứ mệnh lónh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH) đất nước đưa nước ta phát triển theo con đường xó hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân Việt Nam phát triển qua nhiều thời kỳ, đặc biệt từ năm 1986 khi Đảng tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đến nay. Năm 1985 đội ngũ công nhân nước ta có 3,38 triệu người, chiếm 16% lực lượng lao động xó hội. Năm 1998 số lượng công nhân tăng lên 5.646.675 người. Năm 1999 là 6.304.350 người. Năm 2000 là 7.639.914 người, chiếm 9% dân số, 16% lao động xó hội. Năm 2002 là 10,81 triệu người, chiếm 13,55% dân số. Lịch sử đó chứng minh kể từ khi bước lên vũ đài chính trị, giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn là lực lượng tiên phong gắn liền với quá trỡnh đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có truyền thống yêu nước, ý thức tự tụn dõn tộc, dự cũn non trẻ, song giai cấp công nhân đó sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử dân tộc thừa nhận, giao phó sứ mệnh lónh đạo cách mạng Việt Nam từ sau thất bại của phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến, lập trường tư sản và tiểu tư sản. Ra đời muộn, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đó sớm tiếp thu chủ nghĩa Mỏc- Lờ nin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được lónh tụ Nguyễn Ái Quốc giỏo dục, rốn luyện đó sớm giỏc ngộ mục tiờu, lý tưởng, chân lý của thời đại là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xó hội, giai cấp cụng nhõn Việt Nam luụn luụn nờu cao tinh thần và bản chất cỏch mạng triệt để. Chủ yếu xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân, phong kiến bóc lột, bần cùng hoá nên giai cấp công nhân có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, liên minh giai cấp đó trở thành cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc. Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn là lực lượng đi đầu và lónh đạo sự nghiệp đổi mới. Tổng kết 30 năm hoạt động của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó đánh giá: “ Giai cấp phong kiến đó đầu hàng đế quốc, giai cấp tư sản non yếu thỡ chỉ mong thoả hiệp với đế quốc để tỡm một lối sống. Cỏc tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cỏch mạng tiờn phong và kinh nghiệm của phong trào vụ sản quốc tế, giai cấp cụng nhõn ta đó tỏ ra là người lónh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam” Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương khoá X, lại tiếp tục khẳng định: Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xó hội to lớn, đang phát triển, có sứ mệnh lịch sử lónh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trỡnh CNH, HĐH đất nước, giai cấp công nhân nước ta đó cú những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đó hỡnh thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trũ là giai cấp lónh đạo cách mạng, vỡ vậy: “ Xõy dựng giai cấp cụng nhõn nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xó hội” và đó cũng chính là đũi hỏi của sự nghiệp đổi mới, của chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế-xó hội. Trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, giai cấp công nhân nước ta luôn luôn giữ vai trũ trung tõm của quỏ trỡnh biến đổi cách mạng và quyết định xu hướng của sự biến đổi đó. Vốn sẵn có truyền thống cách mạng và kinh nghiệm đấu tranh, giai cấp công nhân luôn là giai cấp tiên phong, là lực lượng chủ đạo, là cơ sở xó hội chủ yếu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trỡnh độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, cụng nhõn lành nghề, tỏc phong cụng nghiệp và kỷ luật lao động cũn nhiều hạn chế. Giỏc ngộ giai cấp và bản lĩnh chớnh trị của cụng nhõn khụng đồng đều. Tỷ lệ cán bộ lónh đạo, đảng viên xuất thân từ công nhân cũn thấp. Lợi ớch của một bộ phận cụng nhõn được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới. Đồng thời những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế-xó hội cũng đó ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tư tưởng, tỡnh cảm của cụng nhõn. Để tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, không những phải kiờn trỡ những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp do Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương khoá X đề ra, mà cũn đũi hỏi sự năng động, sáng tạo, quyết tâm cao của các cấp uỷ Đảng, của cả hệ thống chính trị trong quá trỡnh tổ chức thực hiện. Đặc biệt là nâng cao nhận thức lý luận và thực tiễn, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng cho sát với thực tiễn, phát huy vai trũ hạt nhõn lónh đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó dạy: “Muốn tổ chức và phỏt triển lực lượng xõy dựng to lớn của giai cấp cụng nhõn thỡ cần cú cụng đoàn mạnh và cán bộ công đoàn tốt” Muốn thực hiện lời dạy của Lênin: “Công đoàn là trường học của chủ nghĩa cộng sản”, Người chỉ rừ “cỏn bộ cụng đoàn phải thấm nhuần và giáo dục cho công nhân thấm nhuần ý thức làm chủ tập thể và cấn kiệm xõy dựng nước nhà. Nâng cao nhiệt tỡnh lao động và tôn trọng kỷ luật lao động. Đẩy mạnh thi đua yêu nước. Ra sức giúp đỡ nông dân cải tiến kỹ thuật canh tác, củng cố hơn nữa khối công nông liên minh. Chống tệ quan liờu, lóng phớ, tham ụ, chống tư tưởng chờ đợi, ỷ lại và cục bộ. Cán bộ phải cố gắng học tập văn hóa, chính trị, nghiệp vụ. Kinh tế của ta ngày càng phát triển, hàng ngũ công nhân ngày càng thêm đông. Muốn làm trũn nhiệm vụ của mỡnh thỡ cỏn bộ phải luụn luụn cố gắng học tập, cố gắng vươn lên để không ngừng tiến bộ. Phải tiếp tục đẩy mạnh cải tiến quản lý thực hiện tốt cụng nhõn tham gia quản lý và cỏn bộ tham gia lao động. Công đoàn phải thực sự chăm nom nơi ăn, nơi ở của công nhân, viên chức công đoàn phải đi sát quần chúng, tăng cường kiểm tra, bớt giấy tờ và hội họp. Đó gần nửa thộ kỷ, nhưng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIÊT NAM –THỰC TRẠNG VÀ SUY NGẪM Xõy dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về tổ chức, giỏi về chuyên môn, vững vàng về bản lĩnh chính trị, đủ sức làm chủ quá trỡnh đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa là trách nhiệm của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Giai cấp công nhân Việt Nam chính là nền tảng và là cơ sở chính trị - xó hội vững chắc của Đảng. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh trong điều kiện hiện nay về thực chất là góp phần quan trọng vào quá trỡnh xõy dựng Đảng. Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức rừ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đó đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam đó cú bước phát triển lớn mạnh, trưởng thành về chất và có những đóng góp to lớn vào quá trỡnh đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, giai cấp công nhân nước ta đang phải đối mặt với không ít thách thức, những con số khảo sát dưới đây thực sự là những vấn đề rất đáng để chúng ta suy ngẫm. 1 - Chất lượng nguồn nhân lực - thách thức của quá trỡnh phỏt triển. Cựng với sự tăng trưởng nhanh của dũng vốn đầu tư nước ngoài và xu thế phát triển của các doanh nghiệp trong nước, đội ngũ công nhân nước ta đang bộc lộ dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Tỡnh trạng thiếu hụt lao động có tay nghề cao và các chức danh quản lý cú trỡnh độ đang là hiện thực. Số liệu khảo sát tại tỉnh Đồng Nai cho thấy, 72,55% công nhân lao động trong các doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 - 35. Tuyệt đại bộ phận đều là học sinh phổ thông và xuất thân từ nông thôn, trong đó lao động phổ thông chiếm đến 43%; 27% có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của công việc đang đảm nhận nhưng đại đa số chưa qua đào tạo và không có bằng cấp. Số đó qua đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 30%, trong số đó được đào tạo, tỷ lệ có tay nghề cao cũng rất ít.Bậc 1- 3 chiếm tỷ lệ 66,51%, bậc 4 - 5 chiếm tỷ lệ 25,01%, bậc 6 và 7 chiếm chỉ có 6,88%. Không cần phải cảnh báo, với tốc độ thu hút FDI và xu thế phát triển như 2 năm gần đây (2006 - 2007), vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề sẽ càng trở nên trầm trọng. Giai cấp công nhân nước ta không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát triển của bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. 2 - Vấn đề ý thức giai cấp và phẩm chất chính trị của đội ngũ công nhân. Chúng ta không phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xó hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế, nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của tỡnh hỡnh thế giới, nhiều cụng nhõn lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, một bộ phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như định hướng xó hội chủ nghĩa, vai trũ vị trớ của giai cấp cụng nhõn... Khảo sát tại Đồng Nai cho thấy: 95% công nhân trả lời chỉ quan tâm đến việc làm và thu nhập, có 40% công nhân được hỏi có quan tâm tới vấn đề định hướng xó hội chủ nghĩa, 3,5% cụng nhõn khụng trả lời. Tỷ lệ cụng nhõn là đảng viên rất thấp, năm 2003 là 7,69%, năm 2004 là 8,18%, năm 2005 là 6,87%. Tổ chức đảng được đánh giá là hoạt động tốt chỉ chiếm 35,7%, Công đoàn 45,5%, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chỉ có 24,6%, Hội Cựu chiến binh 5,9%. Cũng theo số liệu khảo sát tại 13 doanh nghiệp khác nhau với 5.400 công nhân, cho thấy chỉ có 38,2% công nhân thường xuyên được học tập các nghị quyết của Đảng. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ 51,9%, doanh nghiệp liên doanh 40%, công ty cổ phần 37,5%, công ty tư nhân 32,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 24,9%. Bản thân công nhân cũng không thường xuyên cập nhật thông tin. Khảo sát 100 công nhân Công ty Giầy Thái Bỡnh về WTO chỉ có 10% trả lời có nghe nói về WTO nhưng không hiểu WTO là gỡ. Rừ ràng, nếu bản thõn người công nhân chưa giác ngộ về mục tiêu lý tưởng, non yếu về bản lĩnh chính trị cộng với trách nhiệm của các cấp và công tác đào tạo chăm lo như hiện nay, thỡ sẽ rất khú vượt qua được áp lực của toàn cầu hóa và hội nhập. 3 - Cường độ lao động, việc làm, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần đang xuất hiện nhiều vấn đề nghịch lý. Nước ta hiện đang thuộc nhóm quốc gia có số lượng lao động thất nghiệp cao, nhiều công nhân thiếu việc làm. Tuy thiếu việc làm nhưng nhỡn chung cường độ làm việc của công nhân tại các doanh nghiệp lại rất căng. Hầu hết các doanh nghiệp đều tăng ca để bảo đảm kế hoạch và tăng doanh thu. Điều đáng nói là Luật Lao động quy định công nhân làm việc không quá 200h/người/năm, nhưng trong nhiều doanh nghiệp công nhân đó phải làm việc bỡnh quõn tới 500 - 600h/người/năm. Ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có công trỡnh và những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa tối thiểu cho công nhân. Theo một kết quả điều tra xó hội học tại Bỡnh Dương có đến 71,8% công nhân không hề đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7% không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ, 91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa tinh thần, 89% giải trí bằng ti-vi, 82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng In-tơ-nét. Nguyên nhân của tỡnh hỡnh trờn đều do công nhân không có đủ thời gian và bản thân các khu công nghiệp cũng không có đủ cơ sở vật chất để đáp ứng. Thực trạng trên đây đó dồn nộn làm bựng nổ cỏc cuộc đỡnh cụng lan rộng và rất khú kiểm soỏt như hiện nay. Nếu từ 1995 đến 2005 tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh có 437 vụ đỡnh cụng (bỡnh quõn 40 vụ/năm), riêng 6 tháng đầu năm 2006 đó cú 303 vụ. Cú những vụ số lượng tham gia đến hàng nghỡn người, nhiều vụ kéo dài từ 1 - 2 ngày. Xu hướng cho thấy các cuộc đỡnh cụng tự phỏt ngày càng gia tăng và lan rộng, tính chất gay gắt, phức tạp khó lường. Đỡnh cụng trở thành hiện tượng phổ biến ở tất cả các thành phần kinh tế, trong đó doanh nghiệp nhà nước là 6,9%, doanh nghiệp tư nhân 30%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao nhất 66,5%. Nguyên nhân của các cuộc đỡnh cụng phần lớn đều xuất phát từ phía người sử dụng lao động không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật: Không trả lương đúng bảng lương đó đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải công nhân vô cớ, hà khắc trong quản lý điều hành, điều kiện lao động không bảo đảm vệ sinh tối thiểu, tiền phụ cấp độc hại thấp, không đóng bảo hiểm xó hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân... Đáng nói hơn cả là tỷ lệ ký kết các hợp đồng lao động với công nhân rất thấp. Nếu có ký chủ yếu cũng chỉ là các hợp đồng ngắn hạn. Hiện nay mới chỉ có 21% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xó hội cho cụng nhõn, 69% cũn lại chưa được bảo đảm về những quyền lợi tối thiểu. 4 - Vai trũ của cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội trong phong trào cụng nhõn. Cùng với sự nghiệp đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đó cú sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, chưa bao giờ chúng ta có lực lượng công nhân đông đảo như hiện nay. Tính đến cuối năm 2005, tổng số công nhân lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đó lờn đến 11,3 triệu người. Trong đó doanh nghiệp nhà nước là 1,84 triệu, công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước 2,95 triệu, tăng 6,86 lần; 1,3 triệu công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3 lần; doanh nghiệp cá thể 5,29 triệu, tăng 1,63 lần so với 1995. Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 66,67%; 33,33% cũn lại làm việc trong lĩnh vực cụng nghiệp và tiểu thủ cụng nghiệp. Các số liệu trên đây cho thấy, đội ngũ và cơ cấu giai cấp công nhân tăng nhanh, nhưng công tác phát triển đảng và vai trũ của Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong công nhân chưa tương xứng, thậm chí rất mờ nhạt. Núi giai cấp cụng nhõn là giai cấp lónh đạo cách mạng, nhưng nhiều công nhân chưa muốn vào Đảng. Công tác phát triển đảng trong công nhân rất chậm, không có mục tiêu, kế hoạch và định hướng chiến lược cụ thể. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng các tổ chức đảng. Những nơi có tổ chức đảng thỡ lỳng tỳng trong cụng tác tổ chức và phương thức hoạt động, chất lượng đảng viên, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp loại hỡnh này đa phần là yếu kém. Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong phong trào công nhân cũng đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc. Đoàn, hội là lực lượng xung kích và là trường học giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên công nhân, nhưng nhiều năm qua, tổ chức đoàn, hội cũng chưa có bước chuyển thích hợp. Hỡnh thức tổ chức và tập hợp thanh niờn cụng nhõn của đoàn, hội chưa thực sự hấp dẫn, chưa phù hợp với cuộc sống và nhu cầu của tuổi trẻ trước những đổi thay phong phú, đa dạng của đời sống thực tiễn. Nhiều cuộc đỡnh cụng, bói cụng tự phỏt liờn tiếp diễn ra trong cỏc doanh nghiệp thời gian qua chưa thấy rừ vai trũ của tổ chức Đoàn và Hội Liên hiệp thanh niên công nhân. Nếu đoàn và hội không là người đi tiên phong bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên, không là chỗ dựa vững chắc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, là nơi gửi gắm tỡnh cảm, niềm tin, đoàn và hội sẽ không tập hợp và tổ chức được thanh niên. Từ thực tiễn và các vấn đề nêu trên, xin có một số kiến nghị đề xuất. Một là: Cần định hướng lại mục tiêu của giáo dục cho sát với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với mục tiêu phát triển cụ thể của từng giai đoạn. Thực hiện nhất quán chủ trương xó hội húa giỏo dục, trong đó Nhà nước và các tổ chức xó hội cú nhiệm vụ đào tạo cơ bản ban đầu, các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng công nhân phải có trách nhiệm đào tạo nâng cao tay nghề, cập nhật kiến thức chuyên môn, tiêu chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp trong mỗi doanh nghiệp. Quan tâm đến đội ngũ giai cấp công nhân hiện nay là phải quan tâm đến trỡnh độ văn hóa, năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và ý thức chớnh trị của họ. Xõy dựng giai cấp cụng nhõn phải thể hiện trước hết ở việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao tay nghề và trỡnh độ chuyên môn. Cần xem việc đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trỡnh độ chuyên môn là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh như mọi chỉ tiêu phát triển kinh tế - xó hội khỏc. Một thế hệ cụng nhõn mới giỏi về chuyờn mụn, vững vàng về ý thức chớnh trị, tự họ sẽ vươn lên làm chủ và đủ sức đối đầu với mọi thách thức. Nâng tầm trí tuệ, năng lực chuyên môn và ý thức chớnh trị cho đội ngũ giai cấp công nhân, chính là nhân tố góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, củng cố vững chắc cơ sở chính trị - xó hội của Đảng trong thời kỳ mới. Hai là: Phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống cũn đối với phong trào công nhân hiện nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn. Vỡ sao Đảng của giai cấp công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng vào Đoàn, chưa hoàn toàn xem công đoàn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng Đảng và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân các tổ chức đảng, công đoàn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng không có những chấn chỉnh kịp thời. Đó đến lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị nghị quyết mà nên có những văn bản pháp luật thể chế rừ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể. Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải được hỡnh thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc. Tóm lại, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là sự nghiệp cách mạng lâu dài khó khăn và đầy thách thức. Chúng ta không thể nói giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân một khi giai cấp không hoàn thành được những trọng trách và những nhiệm vụ kinh tế - xó hội cụ thể do sự nghiệp đổi mới đang đặt ra. Vỡ thế phải bằng sự nhạy cảm và bản lĩnh chớnh trị kiờn định, Đảng ra sức phấn đấu làm cho giai cấp công nhân, bằng lao động sáng tạo của mỡnh, tạo ra sự giàu cú và phỏt triển ổn định cho đất nước. Chuẩn bị cho họ những điều kiện để thông qua những đóng góp cống hiến của mỡnh, giai cấp cụng nhõn được xó hội trõn trọng, tụn vinh. Nhờ đó mà phát triển đội ngũ về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trỡnh độ học vấn và nghề nghiệp, vươn lên trở thành giai cấp công nhân trí thức, lực lượng trụ cột của Đảng và của toàn xó hội. XÂY DỰNG,PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN GIAI CẤP CÔNG NHÂN V IỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI. Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về giai cấp công nhân ngày càng phát triển và hoàn thiện. Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định: "Đối với giai cấp cụng nhõn, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trỡnh độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "trí thức hóa công nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trũ lónh đạo cách mạng trong thời kỳ mới..."(5). Như vậy, có thể khẳng định: Sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vị trí, vai trũ của giai cấp cụng nhõn từng bước được bổ sung trong suốt quá trỡnh lónh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho việc hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng và phát huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn, đó và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng có những đóng góp to lớn, có tính chất quyết định đến sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta tuy chỉ chiếm 17,5% tổng lực lượng lao động xó hội, nhưng hằng năm tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, và đang nắm giữ những cơ sở vật chất quan trọng nhất và có tính quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế - xó hội, thực sự là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, là lực lượng nũng cốt trong khối liờn minh cụng nhõn - nụng dõn - trớ thức, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang phát triển nhanh chóng và có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xó hội, cuộc đua giành thắng lợi trong sản xuất, kinh doanh hiện nay chủ yếu là đua tranh về trí tuệ, về hàm lượng chất xám, chất lượng nguồn nhân lực, giai cấp công nhân nước ta hiện đang cũn bộc lộ khụng ớt mặt hạn chế: Trỡnh độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đa phần chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc, nhiều công nhân chưa qua đào tạo; thiếu kỹ sư giỏi và công nhân lành nghề trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và công nghệ; có sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân; ý thức phấn đấu rốn luyện, học tập nõng cao trỡnh độ, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của không ít công nhân chưa cao; một bộ phận bị tha hóa, có lối sống thực dụng, phai nhạt lý tưởng... Trước yêu cầu của tỡnh hỡnh mới, việc xõy dựng, phỏt triển giai cấp cụng nhõn là yờu cầu khỏch quan và cấp bỏch, đũi hỏi Đảng, Nhà nước cũng như cả hệ thống chính trị cần hoạch định và thực hiện tốt chiến lược xây dựng, phát triển, phát huy triệt để vai trũ tiờn phong và gương mẫu của giai cấp công nhân, coi đây là nhiệm vụ chiến lược tất yếu, liên tục, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xó hội của đất nước. Trước mắt cũng như lâu dài, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu tư toàn diện nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam phát triển vững về số lượng, mạnh về chất lượng, tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc về việc xây dựng, phỏt huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn. Từ cỏch nhỡn đó, Đảng ta tiếp tục đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của tỡnh hỡnh thực tế và lónh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật để giải quyết thỏa đáng các vấn đề sau: 1 - Đẩy mạnh cuộc vận động sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về việc nâng cao hơn nữa nhận thức và ý thức phỏt triển trỡnh độ chuyên môn, nghiệp vụ trong tầng lớp công nhân, lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước, từ đó góp phần nâng cao địa vị của người lao động, phát triển các giá trị văn hóa lao động, hỡnh thành phong cỏch lao động công nghiệp, tiên tiến, văn minh, góp phần cải thiện đời sống, phát triển kinh tế - xó hội đất nước. 2 - Nhà nước cần tập trung nghiên cứu, hoàn thiện chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân, xác định rừ tiờu chuẩn cụng nhõn phải qua đào tạo, đặc biệt trong các ngành trọng điểm, các lĩnh vực đũi hỏi trỡnh độ kỹ thuật và công nghệ cao. Cần xây dựng, hoàn thiện chính sách hướng nghiệp ở cấp học phổ thông nhằm giúp học sinh định hướng đúng đắn việc chọn nghề; có cơ chế khuyến khích, tuyển chọn một bộ phận thanh niên ưu tú, nhất là con em các gia đỡnh cú truyền thống làm cụng nhõn, những thanh niờn hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quân sự... được đào tạo trong các trường dạy nghề. Tạo điều kiện thuận lợi về cả vật chất và tinh thần cho công nhân học tập nâng cao trỡnh độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học; nghiên cứu ban hành chính sách ưu đói trong tuyển chọn, sử dụng đối với những công nhân giỏi nghề, học tập có kết quả cao, để đưa đi thực tập hoặc đào tạo thêm ở các nước có nền công nghiệp phát triển. Đồng thời, cần có quy định về việc tôn vinh những công nhân hội tụ đủ đức và tài, có nhiều sáng kiến, thành tích nổi bật trong lao động, sản xuất nhằm khuyến khích và thúc đẩy không khí thi đua phấn đấu trong đội ngũ công nhân. Nhà nước cần tiến hành kế hoạch hóa công tác dạy nghề một cách đồng bộ, bảo đảm sự cân đối ngay trong hệ thống giáo dục, cũng như sự cân bằng giữa giáo dục - đào tạo, dạy nghề, hướng nghiệp với nhu cầu và yêu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế - xó hội. Chỳ trọng đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, ưu tiên xây dựng trường dạy nghề chuẩn với chương trỡnh chuẩn trong cả nước để đào tạo những ngành nghề mũi nhọn; có chính sách phù hợp phát triển đa dạng và chuyên sâu nhiều loại hỡnh đào tạo tại các trường, trung tâm và tại chính các doanh nghiệp, thu hút người lao động học tập nâng cao trỡnh độ, tay nghề. 3 - Thụng qua cỏc chớnh sỏch xó hội và bằng chớnh sỏch xó hội, Nhà nước cần đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu và điều kiện thiết yếu cho công nhân, lao động, quan tâm hơn đến việc thực hiện chính sách xó hội đối với công nhân, như: tiền lương, nhà ở, bảo hiểm xó hội, bảo hiểm y tế..., bởi nguyện vọng chính đáng của công nhân là khi tham gia lao động được trả công tương xứng với sức lao động bỏ ra, có và được hưởng lợi ích vật chất, tinh thần, cũng như các quyền lợi chính trị - xó hội một cỏch cụng bằng. Sớm hoàn thiện chính sách nhà ở và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, lao động (đặc biệt ở các khu công nghiệp tập trung) theo hướng Nhà nước và doanh nghiệp cùng góp vốn, hoặc huy động thêm vốn của người lao động để xây các khu tập thể, hoặc nhà bán trả góp cho họ, hoặc cho thuê, hỗ trợ về nhà ở cho những gia đỡnh cụng nhõn, lao động nghèo... nhằm giúp họ ổn định về chỗ ở, yên tâm cống hiến cho công việc. Xét ở góc độ quản lý, việc đáp ứng các điều kiện cho người lao động thực chất là đầu tư chiều sâu, là bồi dưỡng nguồn nhân lực. Trước mắt, cần xây dựng, hoàn thiện hơn nữa môi trường xó hội và thị trường lao động lành mạnh, tạo mọi điều kiện để công nhân, lao động được phát huy hết khả năng của mỡnh. Đồng thời, cần chú trọng khuyến khích các lĩnh vực, ngành nghề, khuyến khích người có vốn, kỹ thuật, công nghệ, có trỡnh độ quản lý... đầu tư vào sản xuất, kinh doanh để tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lực lượng lao động. 4 - Hoàn thiện chớnh sỏch về bảo hiểm xó hội, thành lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp trên cơ sở huy động sự đóng góp của Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân để trợ cấp một phần tài chính cho người lao động khi bị thất nghiệp; cải cách chính sách tiền lương và công tác tổ chức tiền lương trong các loại hỡnh doanh nghiệp nhằm bảo đảm đời sống cho công nhân. Đồng thời, cần quan tâm hơn nữa đến các chính sách khuyến khích xó hội, như: chính sách thi đua - khen thưởng, tôn vinh các cá nhân, tập thể xuất sắc, có nhiều sáng kiến, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, công nghệ,... góp phần rút ngắn thời gian lao động, nâng cao hiệu suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc; có quy định ưu đói những cụng nhõn cú thành tớch lao động, sản xuất tốt, nổi bật, nhằm khuyến khích họ cống hiến năng lực, trí tuệ và sức lao động một cách hiệu quả nhất. 5 - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến người lao động: có quy định xử lý nghiờm những vi phạm đến quyền lợi người lao động, chú trọng cải thiện điều kiện lao động, phũng chống cú hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe cho họ, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh định kỳ, đặc biệt đối với nữ giới. 6 - Chỳ trọng cụng tác phát triển đảng trong công nhân, xây dựng đội ngũ công nhân là đảng viên làm nũng cốt cho mọi hoạt động, phong trào của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp... Các cấp ủy cần triển khai tổ chức thực hiện tốt các quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển tổ chức đảng, các đoàn thể (đặc biệt là tổ chức công đoàn) trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân, để bênh vực, bảo vệ các lợi ích chính đáng của người lao động, giúp họ hiểu và được biết, thực hiện và được hưởng các quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỡnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1;GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC 2;BÁO ĐIỆN TỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 3;MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC MỤC LỤC: Trang SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP NHÂN VIỆT NAM SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG CÁCH MẠNG VIÊT NAM. GIAI CẤP CÔNG NHÂN LUÔN LÀ LỰC LƯ ỢNG ĐI ĐẦU Ở VIỆT NAM,GIAI CẤP CÔNG NHÂN LÀ DŨNG CẢM NHẤT; CÁCH MẠNG NHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIÊT NAM –THỰC TRẠNG VÀ SUY NGẪM XÂY DỰNG,PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan