Vàng và kim loại quý

Lịch sử khai thác và dự đoán trữ lượng vàng Lịch sử phát triển vàng từ một kim loại đơn thuần trở thành thước đo giá trị trải qua một bề dày với những sự kiện đáng nhớ và có ý nghĩa đối với lịch sử phát triển loài người nói chung và hệ thống tiền tệ nói riêng. Vì vậy, trước khi đi vào nội dung phân tích sâu về các yếu tố tác động lên giá vàng và tác động của vàng lên thị trường tài chính chúng tôi tiến hành phân tích về lịch sử phát triển và quy trình khai thác vàng. Lịch sử phát triển Năm 3600 trước công nguyên khối vàng đầu tiên được nung chảy do những người thợ vàng ở Hy Lạp. Họ nung quặng vàng để lấy được vàng từ bên trong. Năm 2600 trước công nguyên đồ trang sức bằng vàng đầu tiên được ra đời (là một chiếc vòng cổ làm từ đá carnelian xanh da trời có gắn những miếng vàng hình chiếc lá) do thợ vàng người Iraq làm ra. Năm 564 trước công nguyên đồng tiền vàng đầu tiên xuất hiện mang tên Croesids, nó trở thành đơn vị tiền tệ được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Năm 1300 Hệ thống tiêu chuẩn về vàng đầu tiên trên thế giới nhằm nghiên cứu và đảm bảo chất lượng các kim loại quý được thành lập ở London. Năm 1717 Anh đề ra chế độ bản vị vàng, chính phủ định giá 1 ounce vàng = 77 shilling và 10,5 xu. Năm 1933 Roosevelt ra lệnh cấm đổi USD ra vàng. Việc xuất khẩu và nắm giữ vàng tư nhân bị cấm hoàn toàn. Năm 1939 chiến tranh thế giới lần 2 làm thị trường vàng phải đóng cửa. Sau đó, cả thế giới quay về hệ thống tỉ giá hối đoái cố định, lần này là cố định các đơn vị tiền tệ theo đồng USD và giá vàng cũng được tính theo USD.

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2863 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vàng và kim loại quý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyển tự do giữa các quốc gia để tìm kiếm lợi nhuận cao nhất. Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán vận hành trơn tru. Với cơ chế dòng vàng – giá cả như đã nêu trên, những bất cân đối trong cán cân thanh toán của các quốc gia sẽ tự động được điều chỉnh về trạng thái cân bằng. Trong trường hợp các quốc gia tuân thủ những quy tắc của hệ thống, cơ chế dòng vàng - giá cả trên sẽ vận hành 1 các trơn tru và hiệu quả. Mâu thuẫn quyền lợi giữa các quốc gia ít khi xảy ra. Vì có sự tác động của cơ chế dòng vàng - giá cả nên những thâm hụt hay thặng dư trong cán cân thanh toán của 1 quốc gia được điều chỉnh 1 cách tự động theo quan hệ cung cầu phổ biến, do đó, trong thời kì này ít khi xảy ra những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các quốc gia. Tuy nhiên, chế độ bản vị vàng cũng tồn tại 1 số hạn chế: Nền kinh tế thường xuyên phải trải qua sự bất ổn định vì cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán thông qua sự thay đổi mức giá cả, lãi suất, thu nhập và thất nghiệp. Quốc gia có thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế phải trải qua thời kì kinh tế đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp cao; trong khi đó quốc gia có thặng dư cán cân thanh toán thì phải trải qua thời kì lạm phát. Những mỏ vàng có thể được phát hiện bất cứ lúc nào, do đó làm tăng lượng cung ứng tiền và có thể dẫn đến tình trạng lạm phát. Ngược lại, ở những quốc gia khan hiếm vàng thì sẽ bị hạn chế lượng cung ứng tiền, và trở thành nguyên nhân gây kìm hãm nền kinh tế. Mặt khác, trong chế độ bản vị vàng không có những cơ chế ràng buộc các quốc gia phải tuân thủ các quy tắc của hệ thống nên trên thực tế, quy tắc về đảm bảo số tiền phát hành trên cơ sở lượng vàng dự trữ thường bị bỏ qua. Với cơ chế điều chỉnh thông qua dòng vàng lưu chuyển tự do giữa các quốc gia và việc phát hành tiền dựa trên lượng vàng dự trữ khiến cho việc điều hành của NHTW kém linh động, vai trò của NHTW trong nền kinh tế cũng không rõ nét. 1.3 Hệ thống Bretton Woods: Sau chiến tranh thế giới thứ 2, các nước Châu Âu bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên, vào thời điểm này, tiềm lực kinh tế của nước Mỹ lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, trong vòng 2 thập kỉ đầu sau chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ là trung tâm kinh tế tài chính duy nhất của thế giới. Đặc biệt, Mỹ nắm đến gần 75% trữ lượng vàng thế giới. Nhằm khôi phục nền kinh tế thế giới, cải tổ hệ thống tiền tệ quốc tế tránh được những sai lầm trước đây, cũng như tạo ra 1 trật tự tiền tệ quốc tế mới để tránh sự tan rã các mối quan hệ tiền tệ trên phạm vi quốc tế vào những năm 1930, một hội nghị đã được tổ chức tại Bretton Woods, New Hampshire, Mỹ với sự tham gia của 730 đại biểu tới từ 44 quốc gia trên thế giới trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Đức…Tại hội nghị này, hệ thống Bretton Woods đã được phê chuẩn cùng với sự ra đời của 2 tổ chức tài chính quốc tế: Quỹ tiền tệ (IMF) có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế. Ngân hàng thế giới (WB) có nhiệm vụ hỗ trợ cho các nước Châu Âu phục hồi nền kinh tế để cho vay lại với lãi suất thấp ở những nước nghèo, kém phát triển nhằm giúp họ phát triển nền kinh tế. Tại hội nghị Bretton Woods, các quốc gia đã đồng ý những quy định của hệ thống tiền tệ quốc tế: Thứ nhất, hệ thống tỉ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh. Hệ thống Bretton Woods quy định các quốc gia ấn định tỉ giá trung tâm của đồng nội tệ với USD và tỉ giá này chỉ được phép dao động trong khoảng +/- 1%. Bên cạnh đó, các quốc gia phải đồng ý chuyển đổi không hạn chế đồng nội tệ ra USD và ngược lại tại các mức tỉ giá đã được ấn định cho các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Thứ 2, các quốc gia thành viên sẽ đóng góp vốn vào quỹ của IMF với tỉ lệ ¼ là bằng vàng và ¾ là bằng bản tệ để hình thành nên quỹ tiền tệ IMF. Căn cứ vào tỉ lệ vốn góp của mỗi quốc gia, IMF cung cấp mỗi quốc gia 1 hạn mức tín dụng. Khi 1 quốc gia thành viên gặp khó khăn về thâm hụt cán cân thanh tóan, họ sẽ được rút lần đầu là 25% hạ mức tín dụng, sau đó, những quốc gia nào chấp nhận những chính sách kinh tế do IMF đưa ra sẽ được rút vốn 4 lần tiếp theo, mỗi lần là 5% hạn mức tín dụng. Thứ 3, khi gặp những bất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thanh toán các quốc gia có thể thay đổi tỉ giá trung tâm. Tuy nhiên, nếu mức thay đổi vượt quá 10% thì phải được sự đồng ý của IMF. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ, giống như chế độ bản vị vàng trước đó, bởi vì các nước thành viên đã không tuân theo các thỏa thuận nữa. Về phần mình, Mỹ bắt đầu từ những năm 1960 làm suy yếu độ tin cậy các cam kết của nước này đối với giá vàng cố định. Còn phía Đức cũng đã vô hiệu hóa việc tích lũy tài sản dự trữ bằng cách triệt tiêu các hoạt động thị trường mở. Trong khi đó Mỹ từ chối thay đổi các chính sách của mình theo đòi hỏi của Đức và giữ quan điểm là nếu Đức không muốn tích lũy USD thì Đức phải thả nổi tỷ giá hối đoái và chấp thuận đồng tiền lên giá. Cuối cùng điều này đã xảy ra vào năm 1971. 1.4 Khai thác, vận chuyển vàng Hiện nay trên thế giới không còn phân biệt giữa vàng miếng và vàng nguyên liệu nữa, nhưng trong biểu thuế nhập khẩu của VN còn phân biệt: thuế nhập khẩu vàng miếng là 1% và vàng nguyên liệu (vàng hạt) là 0.5%. Các doanh nghiệp Việt Nam đã phải thực hiện việc nhập khẩu vàng nguyên liệu hạt để tránh mức thuế suất 1%. Thực tế đó dẫn đến một nghịch lý là khi doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu vàng nguyên liệu, người bán nước ngoài phải gia công vàng miếng thành vàng nguyên liệu dưới dạng hạt. Do phải cộng thêm chi phí gia công từ vàng miếng sang vàng hạt, mức giá nhập khẩu vàng hạt vì thế cũng cao hơn so với giá vàng miếng Hiện nay, nước ta chủ yếu nhập vàng nguyên liệu (vàng hạt), sau đó các doanh nghiệp kinh doanh vàng như SJC, SBJ…mới đúc thành vàng miếng theo mẫu và tiêu chuẩn. Ngoài nguồn vàng từ nhập khẩu vàng nguyên liệu, VN còn có những Công ty khai thác vàng. Quy trình khai thác vàng Những vỉa đá nằm sâu trong lòng núi Công ty khai thác vàng mở cửa hầm, nổ mìn phá đá tìm quặng đưa vào nhà máy xay nghiền và dùng hóa chất cyanua để đưa ra sàn đãi lọc vàng ra khỏi đất đá. Những hạt vàng mịn được thu gom sau rồi cho vào lò luyện vàng. Những hạt vàng được đưa vào lò luyện với nhiệt độ cao hơn 2.000 độ sẽ chảy ra nước. Sau đó, những “chảo” vàng nóng đỏ được công nhân 'rót' ra khuôn hình chữ nhật thành những thỏi vàng nguyên chất và thêm một công đoạn chế biến thành phẩm. Việc xay quặng, tách vàng, luyện vàng thành khối và xuất khẩu là cả một qui trình công nghiệp khép kín, được bảo vệ nghiêm ngặt bởi hệ thống an ninh vòng trong, vòng ngoài. Công đoạn cuối cùng không được thực hiện ở nhà máy khai thác vàng, mà được thực hiện ở một nơi “bí mật” nào đó ít người được biết đến. Hiện sản lượng vàng khai thác tại mỏ vàng đang là “ẩn số” và là tài liệu “mật” không được công bố chính thức. Mỗi năm, lượng vàng khai thác được bao nhiêu, xuất khẩu như thế nào chẳng mấy ai biết. 1.5 Việc kiểm soát xuất khẩu, nhập khẩu vàng ở Việt Nam. Các văn bản sử dụng: Dự thảo “Quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng” Nghị định 95/2011/NĐ-CP Thông tư 111/2011/TT-BTC Quyết định 39/2006/QĐ-BTC 1.5.1 Trang sức, mỹ nghệ Việc xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ có hàm lượng vàng từ 20K (tương đương hàm lượng 83,3%) trở lên phải được Ngân hàng Nhà nước cấp phép. Việc xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ có hàm lượng vàng dưới 20K không phải xin phép Ngân hàng Nhà nước. Việc nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ thực hiện theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ để tham gia triển lãm, hội chợ quốc tế thực hiện theo quy định của Chính phủ về hội chợ, triển lãm quốc tế. 1.5.2 Vàng miếng, vàng nguyên liệu Ngân hàng Nhà nước tổ chức hoặc cấp phép hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu. Hoạt động xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu của Ngân hàng Nhà nước được áp dụng mức thuế suất thuế xuất, nhập khẩu là 0%. Doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu. Doanh nghiệp kinh doanh vàng có hợp đồng gia công vàng trang sức, mỹ nghệ với nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép tạm nhập vàng nguyên liệu để tái xuất sản phẩm. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu trong năm kế hoạch cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài căn cứ vào năng lực sản xuất và báo cáo tình hình xuất khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ của năm trước. Doanh nghiệp có Giấy phép khai thác vàng được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép xuất khẩu vàng nguyên liệu do doanh nghiệp khai thác được. Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khai thác vàng có nhu cầu nhập khẩu vàng khai thác ở nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu vàng. Việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng bột, dung dịch, vẩy hàn, muối vàng và các loại vàng trang sức dưới dạng bán thành phẩm thực hiện theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước quy định điều kiện, trình tự, thủ tục và hồ sơ cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu. 1.5.3 Mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân Đối với việc nhập khẩu vàng phi mậu dịch: người xuất cảnh, nhập cảnh mang từ dưới 300 gram vàng trang sức, mỹ nghệ, vàng miếng, thỏi, khối, vàng nguyên liệu không phải khai báo; mang từ 300 gram đến dưới 1 kg phải khai báo trên tờ khai hành lý; mang trên 1 kg phải khai hải quan, đồng thời phải có giấy phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (đối với người xuất cảnh) hoặc gửi phần vượt tại kho hải quan (đối với người nhập cảnh). Áp thuế Các loại vàng, kể cả vàng mạ bạch kim, loại chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm, dạng bột có hàm lượng dưới 99,9% áp dụng thuế suất 10% như hiện nay. (Thông tư 111/2011/TT-BTC) Riêng đối với các sản phẩm bằng vàng, đồ kỹ nghệ vàng, vàng trang sức, hoặc kim loại dát phủ vàng, bạc kim loại quý, có hàm lượng từ 80% trở lên, đồng loạt áp dụng thuế suất 10%, thay cho mức 0% hiện nay. (Thông tư 111/2011/TT-BTC). Việc cá nhân mang vàng miếng về nước làm quà (không có mục đích buôn bán) thuộc trường hợp nhập khẩu vàng phi mậu dịch. Thuế suất thuế nhập khẩu vàng (các loại vàng không phải dạng tiền tệ, dưới dạng bột; dạng chưa gia công khác như dạng khối, thỏi và thanh đúc..; dạng bán thành phẩm khác (dạng que, thanh, hình, lá và dải..); dạng tiền tệ cùng chung mức thuế suất thuế nhập khẩu 0,5%. (Quyết định 39/2006/QĐ-BTC ngày 15/8/2006 của Bộ Tài chính) Xử phạt (Nghị định 95/2011/NĐ-CP) Hành vi “Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu ngoại tệ, vàng mà không có giấy phép của Ngân hàng Nhà nước” thì bị phạt từ 300-500 triệu đồng. Ngoài bị phạt tiền, các tổ chức kinh doanh vàng có hành vi kinh doanh, mua bán vàng không đúng quy định của pháp luật còn có thể bị tước Giấy phép hoạt động kinh doanh vàng thời hạn 12 tháng khi vi phạm lần đầu và tước không thời hạn khi tái phạm… 1.6 Hiện trạng khai thác vàng ở Việt Nam Trước tình hình giá vàng biến động mạnh với xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, việc khai thác vàng ngày càng được chú ý và trở nên “rầm rộ”. Với trữ lượng hơn 20 tấn vàng tại hai mỏ vàng lớn nhất ở hai huyện Phú Ninh và Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đang được liên doanh với nước ngoài tổ chức khai thác và chế biến sâu để phát triển kinh tế. Đó là chủ trương của tỉnh Quảng Nam xác định trong vòng 5 năm đến. Chỉ tính riêng tại hai khu mỏ đã được liên doanh với nước ngoài xây dựng nhà máy chế biến vàng tại mỏ vàng Bồng Miêu huyện Phú Ninh và mỏ vàng Đắk Sa tại huyện Phước Sơn đã xác định trữ lượng gần 20 tấn vàng thành phẩm. Trong đó mỏ Bồng Miêu khoảng 12,388 tấnvà Đăk Sa khoảng 7,21 tấn. Đó là chưa kể hàng chục điểm mỏ khác đã được cấp phép khai thác tại Phước Sơn, Tiên Phước...với trữ lượng khảo sát hàng trăm tấn vàng. Theo thống kê của UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, hiện có 100 giấy phép do Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Công thương và UBND tỉnh Quảng Nam cấp thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản còn hiệu lực, riêng khai thác vàng chiếm đến 36 giấy phép. Điều đáng quan tâm hiện nay là tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, chủ yếu là khai thác vàng vẫn còn diễn ra tràn lan tại địa bàn các tỉnh như: Bắc Cạn, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắc Lắc – Kon Tum…vẫn chưa được kiểm soát. Ban đầu, những người dân bản địa với vật dụng thô sơ đào đãi bằng thủ công. Do việc khai thác mang lại lợi nhuận cao, nhiều cá nhân, doanh nghiệp đóng những con tàu lớn, dùng máy móc hiện đại vào khai thác. Đa số đều không đăng ký với cấp có thẩm quyền. Chẳng hạn như việc khai thác vàng sa khoáng trái phép ở Đắk Glei khác với mọi năm, đào đãi vàng đã được “hiện đại hóa” gần như tất cả các khâu và “nhân dân địa phương kết hợp với một số người vùng khác đến lén khai thác trái phép”, đa phần người trực tiếp khai thác là dân địa phương nhưng chỉ là làm thuê cho người vùng khác. Bên cạnh việc đầu tư máy móc hoặc ứng vốn, họ còn tổ chức thu mua vàng cho dân nên rất khó phát hiện, và tình trạng ngày càng phức tạp. Đối với tỉnh Nghệ An, người dân còn sử dụng tàu tự đóng (gọi là tàu Cuốc) đưa vào khai thác trái phép trên các tuyến trên sông Hiếu. Ban đầu, những người dân bản địa với vật dụng thô sơ đào đãi bằng thủ công. Do việc khai thác mang lại lợi nhuận cao, nhiều cá nhân, doanh nghiệp đóng những con tàu lớn, dùng máy móc hiện đại vào khai thác. Đa số đều không đăng ký với cấp có thẩm quyền. Thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính trong vòng hơn 20 năm qua, tình trạng khai thác vàng trái phép đã làm thất thoát khoảng hàng trăm tấn vàng. Đó là chưa tính đến việc tàn phá rừng đầu nguồn, ô nhiễm nguồn nước do chất độc hại từ khai thác vàng thải ra. 1.7 Dự trữ trữ lượng vàng: Theo ước tính của Gold Field Mineral Services , tổng lượng vàng khai thác trên thế giới từ xưa đến nay ( 31/12/2010) là 166.000 tấn (đến năm 2000 là 140.000 tấn và từ đó đến nay mỗi năm tăng khoảng 2.600 tấn). Theo hãng tin CNBC, các ngân hàng trung ương, định chế tài chính quốc tế và chính phủ các nước được cho là đang nắm 16,5% tổng lượng vàng của thế giới, vào khoảng 30.160 tấn. Dưới đây là 10 quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính nắm giữ lượng vàng nhiều nhất thế giới, theo công bố của hãng tin CNBC trên cơ sở báo cáo tháng 7/2011 của Hội đồng Vàng Thế giới. Mỹ Giá trị: 459,04 tỷ USD Tổng dự trữ: 8.965,6 tấn Đức Giá trị: 191,89 tỷ USD Tổng dự trữ: 3.747,9 tấn Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Giá trị: 158,77 tỷ USD Tổng dự trữ: 3.101,3 tấn Italy Giá trị: 138,33 tỷ USD Tổng dự trữ: 2.701,9 tấn Pháp Giá trị: 137,4 tỷ USD Tổng dự trữ: 2.683,8 tấn Trung Quốc Giá trị: 59,47 tỷ USD Tổng dự trữ: 1.161,6 tấn Thụy Sỹ Giá trị: 58,68 tỷ USD Tổng dự trữ: 1.146,2 tấn Nga Giá trị: 46,85 tỷ USD Tổng dự trữ: 915,2 tấn Nhật Bản Giá trị: 43,17 tỷ USD Tổng dự trữ: 843,3 tấn Hà Lan Giá trị: 34,56 tỷ USD Tổng dự trữ: 674,9 tấn Ước tính chỉ còn khoảng 50.000 tấn vàng vẫn nằm trong các mỏ. Hình 1: Tỷ trọng vàng thế giới 1.8 Cung và cầu vàng Theo giới kinh doanh vàng, giá vàng gần đây còn khá nhạy cảm với tương quan cung cầu ở từng thời điểm. Cung yếu: Trong khi cầu vàng thế giới tăng nhanh thì cung lại rất hạn chế. Bất chấp giá vàng đang ở mức cao kỷ lục, các Công ty khai thác vàng không thể đáp ứng đủ mức cầu. Theo giavang.net dưới góc độ kinh tế, mỗi khi cầu tăng thì cung sẽ tăng theo, qua đó giữ giá ổn định. Tuy nhiên điều này không xảy ra với vàng, trong năm qua sản lượng vàng thế giới chỉ tăng được 3%, trong khi giá vàng tăng hơn 20%. Thêm vào đó lượng cung vàng trên thế giới còn hạn chế. Theo thống kê thì trữ lượng vàng thực tế trong Trái đất nhiều nhưng lượng vàng lưu hành thanh khoản trên thị trường với số lượng khá ít, chỉ chiếm 23%. Cầu bùng nổ: Báo cáo của WGC còn cho thấy lạm phát ở các nước VIST châu Á là Việt Nam, Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan cũng sẽ đẩy tăng nhu cầu vàng. Đồng thời Hiệp hội Vàng cho rằng với tác động của khủng hoảng nợ Châu Âu và Mỹ, áp lực lạm phát cộng với sức mua từ các ngân hàng trung ương sẽ thúc đẩy nhu cầu đầu tư vàng tăng cao. Ấn Độ vẫn là nước tiêu thụ vàng lớn nhất, chiếm 1/3 trong tổng nhu cầu của thế giới. Trong nửa đầu năm, Ấn Độ đã mua 540 tấn vàng, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhu cầu vàng của nước này quý 2 tăng 38%, còn của Trung Quốc tăng 25%. Điều này cho thấy nhu cầu vàng tăng mạnh trong thời gian qua. Hệ quả là cung-cầu về vàng nhiều thời điểm mất cân đối. Nhận xét: Việc giá vàng tăng hay giảm cũng sẽ phụ thuộc nhiều vào tác động bởi lực cung cầu trên thị trường. Quan hệ cung cầu mất cân đối dẫn đến diễn biến phức tạp trên thị trường vàng và tạo nên “cơn sốt vàng”. Với hiện trạng cung yếu-cầu bùng nổ như hiện nay rõ ràng đã tạo nên cơn sốt và gây nhiều tác động tiêu cực đến vĩ mô và ổn định kinh tế. Nếu trong tương lai… Mục đích sử dụng vàng trong những năm gần đây ít nhiều đã có sự thay đổi. Nếu như trước đây vàng chủ yếu dùng làm đồ trang sức, bảo tồn tài sản và phương tiện thanh toán trong dân thì hiện nay vàng đã dần trở thành một kênh đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên với tình hình biến động của giá vàng thế giới vàng đã không còn giữ được vị thế là kênh đầu tư an toàn - là nơi trú ẩn của các nhà đầu tư. Hình 1: Tỷ trọng vàng thế giới Theo biểu đồ trên số lượng vàng chưa khai thác chiếm đến 77% trong tổng lượng vàng thực tế có trên Trái Đất. Một vấn đề được đặt ra là nếu trong tương lai việc khai thác mạnh vàng , số lượng vàng tăng lên thì có ảnh hưởng vị thế vàng hiện tại không? Giả định trong tương lai vàng được khai thác nhiều hơn, số lượng vàng trong lưu thông tăng lên - điều này có nghĩa là lượng cung vàng tăng lên, như vậy cung một phần nào đó sẽ bù đắp được lượng thiếu hụt trong cầu, và một kết quả tất yếu là giá vàng sẽ hạ nhiệt. Vị thế vàng lúc này ít nhiều sẽ có phần thay đổi, cung cầu ít biến động , giá vàng dần đi vào ổn định và vàng tiếp tục là lựa chọn khá an toàn của các nhà đầu tư. Theo như phân tích của các chuyên gia vàng sẽ đang dần dần “trở lại chỗ đứng” của mình như trước đây. Những yếu tố ảnh hưởng tới giá vàng thế giới và trong nước Những yếu tố ảnh hưởng tới giá vàng thế giới Nguồn cung và cầu vàng vật chất Trước hết, vàng là một loại hàng hóa, do đó dao động giá của vàng phải được xem xét dựa trên các yếu tố tác động của cung và cầu. Nguồn cung vàng trên thế giới đến từ các quốc gia có trữ lượng vàng lớn và sản lượng xuất khẩu có tầm ảnh hưởng đến thị trường như Nam Phi, Mỹ, Canada, Nga, Úc... Xét về nhu cầu vàng thì phải thấy rằng, toàn thế giới đều muốn có thứ kim loại này và tùy vào mục đích sử dụng mà có những nhu cầu khác nhau: phục vụ cho hoạt động chế tác trang sức, tích lũy, đầu tư, thanh toán… Tùy vào từng thời điểm mà nhu cầu tăng cao trong những thời kỳ khác nhau và đôi khi xảy ra cùng lúc, do đó tác động mạnh đến cầu vàng trong cùng thời điểm. Nhu cầu vàng chủ yếu bị lèo lái từ các nhân tố như lạm phát, đồng tiền mất giá, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng…buộc các ngân hàng trung ương, các quỹ đầu tư và các nhà đầu tư phải tăng mức nắm giữ vàng nhiều hơn bình thường để bảo toàn giá trị tài sản, làm cho nhu cầu vàng tăng nhanh. Ngược lại, nền kinh tế ổn định với lạm phát vừa phải sẽ hạn chế nhu cầu vàng. Nhu cầu vàng toàn cầu hàng năm thường chỉ đạt mức trung bình 4000 tấn, trong đó Ấn Độ - quốc gia có sức tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới đạt nhập khẩu trung bình 700 tấn đến 800 tấn vàng mỗi năm, tương đương gần 30% nhu cầu toàn thế giới. Nhu cầu vàng của Ấn Độ thường tăng cao trong các dịp lễ hội, mùa cưới,… đặc biệt là trong hai mùa lễ hội lớn của người Hindu là lễ hội Akshaya Tritiya vào ngày 27/04 và lễ hội Dhanteras thường diễn ra vào tháng 10 hằng năm. Tuy nhiên yếu tố cung cầu không có vai trò lớn điều khiển giá vàng bởi kim loại quý được sử dụng khác so với cách người ta tiêu thụ các loại hàng hóa như dầu mỏ hay nông sản. 2.1.2 Sự biến động của giá đô la Mỹ: Vì là một loại hàng hoá nên giá vàng cũng bị ảnh hưởng, tác động bởi các đồng tiền nội tệ và ngoại tệ mua nó mà ở đây chủ yếu là đồng USD. Chính vì thế, việc dao động đồng USD cũng ảnh hưởng không nhỏ tới giá vàng. Khi xem xét giá trị đồng USD, người ta thường đánh giá thông qua nền kinh tế Mỹ và những yếu tố chính được xem là “chỉ báo” phản ánh sức mạnh hay suy yếu của nền kinh tế Mỹ, đó là tình trạng thị trường nhà ở, thị trường lao động, thị trường tín dụng và thị trường vốn…. Ngoài ra, một chỉ báo không thể không kể đến khi đánh giá giá trị đồng USD, đó là quyết định về lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Bất kỳ quyết định nào ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm, giữ nguyên lãi suất của Mỹ do FED công bố qua các kỳ họp của Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) đều tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến giá trị đồng USD.  Dù quyết định tăng hay giảm lãi suất của FED với mục đích kích thích hay kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế hay nhằm giải quyết các vấn đề khác thì trong ngắn hạn hay tức thời, quyết định tăng hay giảm lãi suất của Mỹ cũng sẽ làm tăng hay giảm giá trị của đồng USD do trong ngắn hạn hay tức thời, giá trị của đồng USD được nâng lên hay hạ xuống so với các ngoại tệ khác trong mối tương quan so sánh. Khi giá trị của đồng USD dao động, giá trị các loại hàng hóa được định giá bằng USD cũng dao động tức thời theo quyết định của FED. Ví dụ, trước khi FED cắt giảm lãi suất cơ bản, 1 ounce vàng có giá là 800 USD nhưng khi FED cắt giảm lãi suất thì vàng “vô tình” bị định giá thấp do USD mất giá nên thị trường sẽ tự động điều chỉnh bằng cách nâng giá vàng lên, trong trường hợp này 1 ounce vàng sẽ có giá là 810 USD. 2.1.3 Sự biến động của giá dầu Sự tương quan trong biến động giá cả giữa các loại hàng hóa trên thị trường là điều không tránh khỏi, nhất là các loại hàng hóa cùng được định giá bằng một loại tiền tệ, trong đó vàng và dầu là 2 loại hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ về giá. Hai yếu tố địa chính trị và giá dầu là hai yếu tố có ảnh hưởng lẫn nhau, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp tới biến động của giá vàng. Mỗi khi bất ổn địa chính trị nổ ra tại các điểm nóng của thế giới, đặc biệt là tại các nước thuộc khu vực Trung Đông như Iran, Iraq, Afghanistan, Pakistan…thì giá dầu không ngừng tăng, do nhu cầu sử dụng xăng dầu trong chiến tranh tăng cao, kéo theo giá cả các loại hàng hóa khác tăng theo, làm dấy lên mối quan ngại lạm phát bùng phát, đồng thời làm gia tăng tính hấp dẫn của vàng với vai trò là công cụ chống lạm phát. 2.1.4 Sự biến động lạm phát của nền kinh tế Khi nền kinh tế tăng trưởng quá mạnh dễ dẫn đến lạm phát gia tăng, đồng tiền mất giá, ngược lại khi nền kinh tế tăng trưởng chậm và trì trệ trong thời gian dài sẽ gây ra tình trạng giảm phát, khi giá cả hàng hóa giảm nhiều hơn so với mức giá chung của nền kinh tế. Trong bối cảnh lạm phát, nhà đầu tư thường có xu hướng tìm đến các kim loại quý, đặc biệt là kim loại vàng như một lựa chọn tối ưu nhất cho danh mục đầu tư của mình, nhằm bảo vệ tài sản của mình trước nguy cơ mất giá khi thị trường có biến động giá lớn. Mặt khác, khi nền kinh tế chuyển sang giảm phát, kim loại vàng cũng khó tránh khỏi số phận giảm giá tương tự như các hàng hóa khác, khi nhu cầu thanh khoản tăng cao. Vấn đề đặt ra là nguyên do tại sao vàng luôn là sự lựa chọn tối ưu của không chỉ riêng nhà đầu tư, mà còn cả của các ngân hàng, của chính phủ khi nền kinh tế lạm phát? Đối với chính phủ hay ngân hàng trung ương: vàng là một loại hàng hóa có giá trị cao và là một trong những kênh đầu tư chống lạm phát hiệu quả, góp phần ổn định nội tệ và chống phá giá một số ngoại tệ mạnh. Trong thời kỳ kinh tế lạm phát hoặc có dấu hiệu lạm phát cao, chính phủ hay ngân hàng trung ương thường bán vàng cho doanh nghiệp kinh doanh vàng; doanh nghiệp kinh doanh vàng sẽ bán vàng cho nhân dân, thu một phần tiền mặt trong lưu thông về ngân hàng trung ương. Đối với ngân hàng: lãi suất tín dụng của ngân hàng sẽ hạ nhiệt khi các doanh nghiệp kinh doanh vàng tăng cường huy động vốn bằng vàng với mức lãi suất thấp hơn rất nhiều so với huy động vốn bằng tiền mặt. Doanh nghiệp dùng vàng huy động bán cho nhân dân, thu về tiền mặt, hỗ trợ thanh khoản và trung hòa lượng VNĐ đã mua ngoại tệ USD. Đối với người dân: người dân gửi vốn bằng vàng vừa bảo toàn vốn mà vẫn có lãi, mặc dù lãi suất gửi vốn bằng vàng không cao như gửi bằng tiền mặt, nhưng trong bối cảnh lạm phát thì gửi tiết kiệm bằng vàng vẫn có lãi. Nguyên nhân làm cho giá vàng trong nước có sự chênh lệch so với vàng thế giới Thứ nhất là tâm lý của người dân bị tác động quá mức, môi trường kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tỷ lệ lạm phát còn cao Thứ hai, rằng dễ nhận thấy nhất của sự chênh lệch giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới đó là do chính sách hạn ngạch nhập khẩu vàng của ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã làm cắt đứt sự liên thông của thị trường vàng trong nước và thị trường vàng thế giới. Trong mỗi lần sốt vàng ở thị trường trong nước, nhu cầu vàng tăng lên đột biến trong khi nguồn cung không theo kịp do sự chậm chạp của chính sách hạn ngạch nhập khẩu khiến chênh lệch cung cầu tăng cao, kết quả là giá vàng trong nước tăng cao hơn nhiều so với giá vàng quốc tế. Thứ ba rất quan trọng nhưng ít khi được đề cập đến đó là tình trạng độc quyền nhóm của các đại gia kinh doanh vàng trên thị trường trong nước. Thông thường các đại gia này nắm giữ hầu hết các hạn ngạch nhập khẩu vàng, sau đó nhập khẩu, sản xuất và bán lại. Việc nắm giữ hạn ngạch lớn làm cho họ có động cơ đẩy giá vàng trong nước lên cao hơn nhiều so với giá nhập khẩu để kiếm được lợi nhuận độc quyền. Thứ tư là “Quyền lực thị trường”, đặc điểm thị trường vàng Việt Nam cho thấy người mua vàng và người bán vàng (đặc biệt là những người kinh doanh nhỏ lẻ) thường không trực tiếp mua bán với nhau mà đều thông qua các đại gia này. Nghịch lý ở đây là các đại gia không đóng vai trò môi giới trong các hoạt động mua bán này mà họ là người trực tiếp mua từ những người có nhu cầu bán và bán lại cho những người có nhu cầu mua. Quyền lực kinh tế và quyền lực thị trường to lớn mà các đại gia này đang nắm giữ cho phép họ thu được khoản chênh lệch mua và bán lớn hơn rất nhiều lần khoản hoa hồng của bất kỳ tổ chức trung gian mua bán nào. Như vậy, người dân mua bán vàng ở thị trường trong nước chịu thiệt thòi hai lần trong hoạt động đầu tư của mình. Thứ năm, giá vàng trong nước được chính các DN kinh doanh vàng đẩy cao lên nhiều so với giá thế giới để DN nhập khẩu vàng đảm bảo lợi nhuận. Do độ chênh lệch giữa giá mua và bán vàng trong nước quá hẹp, chỉ từ 5.000-10.000 đồng/chỉ, nếu trừ đi các chi phí khác thì DN kinh doanh vàng chẳng được lời bao nhiêu. Do đó, giá vàng trong nước được chính các DN kinh doanh vàng đẩy cao lên nhiều so với giá thế giới để DN nhập khẩu vàng đảm bảo lợi nhuận. Còn giá mua vào và bán ra tại thị trường trong nước chỉ được tính đến sau khi DN kinh doanh vàng đã cắt lời từ việc hưởng chênh lệch cao giữa giá trong nước và thế giới. Thứ sáu, giới đầu cơ trong nước làm giá. Là nguyên nhân thuyết phục nhất được đưa ra là do giới đầu cơ trong nước làm giá. Đến nay, 5 tấn vàng được NHNN cho nhập khẩu thêm đã về Việt Nam nhưng giá vẫn tăng cao và mức chênh lệch không thay đổi. Như vậy “đòn” nhập khẩu vàng chỉ là liều thuốc “hạ sốt” tạm thời cho thị trường mà không khỏi “bệnh” hoàn toàn. Việt Nam chưa kiểm soát được lượng vàng nhập lậu về qua biên giới nhưng so sánh lượng nhập khẩu với lượng cung trên thị trường hiện nay cho thấy điều đó hoàn toàn có căn cứ. Việc đẩy giá chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới lên cao, dù chỉ 100.000 đồng/lượng là vàng nhập lậu đã sinh lời lớn. Giá vàng tác động đến yếu tố kinh tế vĩ mô và hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Khả năng huy động nguồn vốn của ngân hàng: Khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng làm giảm khả năng huy động vốn của các NHTM, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và nền kinh tế. Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Khi giá vàng tăng làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD tăng, khó kiểm soát. Nguy cơ lạm phát: Khủng hoảng kinh tế dẫn đến hiện tượng dùng vàng để định giá các tài sản lớn, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa khác tăng theo, gây nguy cơ lạm phát. Thâm hụt cán cân thương mại: Giá vàng tăng kết hợp với hiện tượng kinh doanh chênh lệch giá thì nhập khẩu vàng tăng và nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu lớn, cán cân thương mại bị thâm hụt Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Tỉ trọng vàng trên GDP ở Việt Nam rất lớn ( Lượng vàng dự trữ (chủ yếu trong dân cư) của Việt Nam đạt mức 1.000 tấn vào cuối năm 2009 với tổng trị giá lên tới 45 tỉ USD, bằng 50% GDP). Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ. 4. Tình hình vàng trên thị trường quốc tế từ 2008 đến nay và liên hê với Việt Nam: 4.1 Tình hình giá vàng trên thị trường quốc tế: Năm 2008 là một năm đầy biến động với những thăng trầm của kinh tế thế giới và giá vàng cũng nằm trong vòng xoáy của những biến động đó. Đầu năm 2008 – giai đoạn bùng nổ lạm phát, các nguồn đầu tư gần như trở nên rủi ro và không đảm bảo. Lúc này vàng và USD giữ vai trò nơi trú ẩn khởi cơn bão tài chính. Giá vàng thế giới đã khởi động đà tăng mạnh mẽ trong năm 2008 từ mức 833 USD/oz lên tới mức cao kỷ lục chạm đến móc 1900 USD/oz. Cả thế giới “nóng” lên vì kim loại quý này. Sự biến động của giá vàng càng nổi bật tình hình khủng hoảng, sự u ám của thị trường tài chính toàn cầu. Giá vàng liên tục biến động dưới tác động của diễn biến tình hình chính trị và những bất ổn trong kinh tế của những quốc gia lớn như Mỹ, Anh, Trung Quốc… Xu hướng chung giá vàng liên tục tăng mạnh dưới sự suy yếu của “đồng bạc xanh”. Các nguyên nhân chính tác động đến giá vàng: Đầu tháng 10/2009, thế giới xôn xao trước tin đồn một số nước vùng Vịnh đang âm thầm bàn thảo một kế hoạch nhằm loại đồng USD ra khỏi giao dịch dầu lửa. Thông tin này sau đó đã bị các nước liên quan phủ nhận, nhưng cũng đủ đẩy tỷ giá USD thế giới tụt sâu, giúp giá vàng có những bước tăng tốc mạnh. Sau đó, đến cuối tháng 11, thị trường một lần nữa bất ngờ trước việc tập đoàn Dubai World của Dubai có nguy cơ vỡ nợ. Rủi ro về một cuộc khủng hoảng nợ ở thế giới Arab đã thúc đẩy giới đầu tư quay trở lại với trái phiếu kho bạc Mỹ và USD để tìm kiếm sự an toàn, kéo tỷ giá USD tăng và giá vàng quay đầu đi xuống. Nỗi lo về khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp và các nước trong khối EU gia tăng sau khi ba hãng định mức tín nhiệm Fitch, S&P và Moody’s đánh tụt hạng mức tín nhiệm nợ của các nước này, cũng gây bất lợi cho giá vàng trong tháng cuối năm. Các ngân hàng trung ương tăng cường dự trữ vàng: Trung Quốc có kế hoạch nâng dự trữ vàng của nước này lên 10 nghìn tấn trong 10 năm tới. Hội đồng vàng thế giới (WGC) cho biết Trung Quốc đã trở thành nước mua nhiều vàng nhất thế giới trong năm 2009 với 454 tấn, đưa tổng số vàng dự trữ của ngân hàng trung ương nước này lên 1.054 tấn. Đến tháng 4/2009, Trung Quốc chính thức thông báo lượng dự trữ đã tăng lên 1054 tấn. Với con số này, Trung Quốc đã vượt qua Thụy Sĩ - nơi có dự trữ 1.040 tấn và trở thành nước có kho vàng lớn thứ 5 trên thế giới sau Mỹ, Đức, Pháp và Italy. Tháng 11/2008, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho biết nước này dự định nâng lượng vàng dự trữ từ 600 tấn lên 4.000 tấn. Trong khi, lượng vàng tiêu thụ hàng năm của toàn thế giới cùng chỉ đạt 4.000 tấn, sản lượng khai thác mỗi năm là 2.500 tấn. Các nước mua nhiều vàng nhất trên thế giới là các nền kinh tế đang nổi lên gồm Trung Quốc, Nga và Ấn Độ, nhưng các nước nhỏ hơn như Philippines, Kazakhstan, Sri Lanka và Mexico cũng chuyển một phần dự trữ ngoại tệ của họ sang vàng. Giá trị của đồng USD đã giảm khi các nhà đầu tư thận trọng hơn với gánh nặng nợ nần khổng lồ của Mỹ và chiều hướng lạm phát có thể xảy ra. Trong khi đó một số nước phát triển đã tận dụng cơ hội giá vàng tăng lên mức kỷ lục để giảm lượng dự trữ. Đồng USD suy yếu do số liệu công bố dự kiến cho thấy kinh tế Mỹ liên tục mất đi việc làm và tỷ lệ thất nghiệp lên cao. Đồng thời công bố những thông tin không khả quan khiến cả thế giới lo ngại lạm phát đang gia tăng. Các nước mải mê chạy đua theo giảm giá trị đồng tiền của mình để tạo lợi thế. Triều Tiên nã pháo vào Hàn Quốc và thề buộc Hàn Quốc trả giá vì Triều Tiên không chấp nhận đường biên giới do Liên Hợp Quốc đưa ra vào cuối Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953). Chiến tranh tai các nước xuất khẩu dầu mỏ: Lybia, Ai Cập,.., mục đích vì lợi ích kinh tế. Hiện tại tình hình tài chính thế giới vẫn đang diễn biến phức tạp. Nguy cơ chiến tranh, khủng hoảng nợ công… khiến vàng ngày càng nóng hơn bao giờ hết. Vậy điều này kéo theo các nguồn đầu tư khác bị đóng băng, khó khăn trong việc vực dậy khôi phục sau lạm phát. Tình hình giá vàng từ 2008 -2010 và các chính sách lớn tác động đến thị trường vàng, ngoại tệ  Năm 2008 Tình hình : - Diễn biến giá vàng trong nước đã trải qua 2 đợt sóng lớn vào tháng 3 và tháng 7. Giá vàng SJC trong nước đạt mức cao kỷ lục là 19,35 triệu đồng/lượng , mức thấp nhất là 16,10 triệu đồng/lượng. Tính bình quân là mức 17,64 triệu đồng/lượng. - Năm đánh dấu sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các sàn giao dịch vàng, (10 sàn) Việc ra đời các sàn vàng, cùng với cơn sốt giá đợt đầu năm đã khiến một lượng tiền lớn chảy từ chứng khoán sang. - Việt Nam trở thành nước đứng đầu về nhập khẩu vàng trên thế giới (90,5 tấn) (2007 :70 tấn). Điều này làm cho Quý 1/2008, thâm hụt thương mại của Việt Nam lên mức kỷ lục 11,1 tỷ USD và lạm phát hàng năm lên tới 21%. (Theo Reuters/Cafef và Quang Sơn (Đầu tư chứng khoán)). Chính sách: - Để đối phó với tình hình trên, tháng 5/2008, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Tuy nhiên việc ngừng cấp phép chỉ là giải pháp tình thế vì đã có những tác động ngược chiều đến lạm phát và tỷ giá, đẩy giá vàng trong nước ra xa giá vàng thế giới.  Năm 2009 Tình hình : Có giá vàng biến động với biên độ lớn, vượt xa dự báo của giới phân tích và nhà đầu tư. Kênh đầu tư vàng chứng tỏ được sức hấp dẫn của nó. Với tỷ lệ ký quỹ 5 - 7%, thì nhà đầu tư chỉ cần có 10 triệu đồng là có thể trở thành nhà đầu cơ vàng, thu hút nhiều người tham gia, sàn vàng tăng mạnh, lên đến 20 sàn có phép cũng như không phép, hoạt động mỗi nơi một giá thể hiện sự yếu kém và rủi ro. Ngày 11/11/2009, giá vàng tạo mức kỷ lục 29 triệu đồng/lượng Chính sách: Để giảm bớt sức nóng của thị trường, Ngân hàng Nhà nước công bố cho phép nhập vàng (khoảng 6,8 tấn vàng) giá vàng hạ sâu xuống dưới 25 triệu đồng/lượng. Động thái mua vào của ngân hàng trung ương. Năm 2010 Tình hình : Giá vàng tăng 9,51 triệu đồng/lượng, tương đương 35,7%, mạnh nhất là vào quý 4 nguyên nhân là do giá vàng thế giới, chính sách của nhà nước, tâm lý người dân, ảnh hưởng đồng USD... Chốt phiên giao dịch ngày 30/12/2010, giá vàng SJC ở mức 36,04 – 36,12 triệu đồng/lượng ( cuối năm 2009 là 26,51 – 26,61). Chính sách: Đóng cửa sàn giao dịch vàng bãi bỏ việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM ( Ngày 6/1/2010) , Thời hạn này sau đó đã được lùi đến ngày 30/3 và 31/7.Quyết định này khiến cho thị vàng trầm lắng trong một thời gian. Tuy nhiên, trước nhu cầu của giới đầu tư, những sàn vàng “chui” vẫn tồn tại, gây ra nhiều rủi ro với các nhà đầu tư. Cấp phép nhập khẩu vàng. Để bình ổn thị trường vàng và đưa giá vàng trong nước gần với giá thế giới, ngân hàng Nhà nước đã 3 lần cấp quota nhập vàng (Tháng 2, cấp quota nhập khẩu vàng không hạn chế cho SJC. Ngày7/10 NHNN cấp khoảng 3 tấn, tương đương 10% so với kiến nghị của các doanh nghiệp. Ngày 9/11 cấp phép nhập khẩu khi giá vàng trong nước bị đẩy lên trên 38 triệu đồng/lượng). NHNN bơm ngoại tệ nhằm bình ổn tỷ giá, 10 ngày đầu tháng 11/2010, NHNN bán can thiệp ngoại tệ để bình ổn tỷ giá USD trên thị trường tự do từ đó giảm giá vàng. - Ngày 28/10, NHNN ban hành Thông tư 22 quy định chặt chẽ hoạt động huy động và sử dụng vốn bằng vàng của các ngân hàng: Tổ chức tín dụng sẽ chỉ được phép huy động vốn bằng vàng thông qua phát hành giấy tờ có giá, cho vay vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức (không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng), TCTD không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác. - Bỏ thuế nhập khẩu, áp thuế xuất khẩu vàng, thông qua Thông tư số 182/2010/TT-BTC quy định về thuế nhập khẩu vàng giảm từ 1% xuống còn 0% (12/11) sau đó tăng thuế xuất khẩu từ 0% lên 10%, kể từ ngày 1/1/2011 (Thông tư số 184/2010/TT-BTC). Năm 2011 Xét từ quan hệ ảnh hưởng từ trực tiếp đến gián tiếp có thể thấy tác động của giá vàng tăng như sau: Ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Trên thực tế cơn sốt vàng giai đoạn tháng 9/2011, khi giá vàng đạt đỉnh gần 50 triệu đồng một lượng, không hiếm trường hợp người dân vét tiền, kể cả rút tiền gửi tiết kiệm ngân hàng đi mua vàng. Trong bối cảnh bức tranh lãi suất ngân hàng đang còn quá nhiều vướng mắc, không thống nhất ngay từ cách điều hành từ Trung ương ( trần 14% chặt và không chặt), việc gửi 100 triệu đồng vào ngân hang để mỗi tháng lãi 1,1 triệu không bằng quy ra tiền mua vàng, lãi cả triệu đồng mỗi lượng chỉ trong vài giờ. Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam không chỉ biểu hiện bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD tăng, khó kiểm soát. Động thái cấp 2 lần phép nhập khẩu vàng của Ngân hàng nhà nước đồng thời mở đầu cho một cơn sóng tăng tỉ giá VND/USD, kéo dài cho tới tận bây giờ. Có những thời điểm, USD = 21900 VND. Kể từ đầu năm 2011 cho đến nay, tổng cộng 14 lần tăng liên tục tỉ giá liên ngân hàng, quỹ dự kiến cho việc tăng tỉ giá chỉ còn 0.15%, đặt ra mối lo lắng liệu có thể thực hiện được “cam kết” nếu điều chỉnh (tính từ ngày 7/9/2011) đến cuối năm không quá 1% của cựu thống đốc ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu chỉ cách đây không lâu. Nguy cơ lạm phát: Tuy chưa thống kê được quy luật cụ thể cho mối liên quan chặt chẽ giữa vàng và lạm phát. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế dẫn đến hiện tượng dùng vàng để  định giá các tài sản lớn, điển hình là giá bất động sản. Khi vàng trở thành thước đo giá trị, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa khác tăng theo, gây nguy cơ lạm phát. Thâm hụt cán cân thương mại: Khi giá vàng tăng thì nhập khẩu vàng tăng và nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu càng lớn. Với khối lượng vàng cất trữ rất lớn và gia tăng nhanh chóng những năm gần đây giải thích vì sao thâm hụt cán cân thương mại. Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Với số liệu trên cho thấy tỉ trọng vàng trên GDP ở Việt Nam rất lớn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ. Đơn cử, với tổng phương tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì hệ số nhân tiền theo tính toán của các chuyên gia khoảng 4,8. Nhưng nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này chỉ còn 2,0. Rõ ràng rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ thống tiền tệ đang bị chi phối bởi khối lượng vàng và TTV đang bành trướng hiện nay. Như vậy, vàng không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Động thái can thiệp của chính phủ nhằm bình ổn thị trường vàng Xây dựng Nghị định mới về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, hai lần can thiệp vào thị trường vàng Ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về các nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội - Về sản xuất vàng miếng: NHNN là cơ quan tổ chức hoặc cấp phép sản xuất vàng miếng. Về nguyên tắc, đây là hoạt động hạn chế kinh doanh và cần được quản lý chặt chẽ. Do đó, tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế trong từng thời kỳ, NHNN sẽ tổ chức sản xuất hoặc cấp phép cho doanh nghiệp sản xuất vàng miếng nhưng sẽ rất hạn chế. - Về lưu thông vàng miếng: NHNN chỉ cho phép một số doanh nghiệp và TCTD có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh vàng được thực hiện mua bán vàng miếng với tổ chức, cá nhân nhằm thu hẹp đầu mối, tạo điều kiện thuận lợi đối với việc quản lý hoạt động mua bán này. - Về xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu: NHNN là cơ quan tổ chức hoặc cấp phép hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. - Về sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ: NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ. Riêng hoạt động gia công nhỏ lẻ của cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã không cần xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện mà được thực hiện theo Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Về mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ: Tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ phải thành lập doanh nghiệp và đáp ứng đủ một số điều kiện theo quy định tại Nghị định nhưng không cần xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. - Xây dựng cơ chế phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ngành chủ yếu về việc quản lý chất lượng và kiểm tra, kiểm soát thị trường vàng. Như vậy với định hướng quản lý nêu trên, Ngân hàng nhà nước đã tham gia trực tiếp quản lý về quá trình sản xuất và lưu thông vàng miếng; xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. Đây là các yếu tố đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước can thiệp hiệu quả trên thị trường vàng, chống hoạt động đầu cơ lũng đoạn giá vàng, đảm bảo được các mục tiêu của Nghị quyết 11/NĐ-CP. - NHNN đã có công văn số 539/NHNN-QLNH ngày 08/8/2011 và số 565/NHNN-QLNH ngày 26/7/2011 gửi Bộ Tài chính đề nghị quy định giảm hàm lượng vàng thành phẩm chịu thuế suất thuế xuất khẩu 10% nhằm ngăn chặn tình trạng xuất khẩu vàng nguyên liệu biến tướng dưới dạng vàng trang sức, mỹ nghệ. Ngày 02/8/2011, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 111/2011/TT-BTC, trong đó quy định sửa đổi thuế suất thuế xuất khẩu một số mặt hàng vàng theo đề nghị của NHNN là áp thuế 10% đối với các loại vàng thành phẩm có hàm lượng vàng từ 80% trở lên. - Theo dõi sát diễn biến thị trường vàng thế giới và trong nước để chủ động triển khai các biện pháp ổn định thị trường vàng. Ngày 08/8/2011, NHNN đã đăng tải thông điệp: NHNN sẵn sàng cho phép nhập khẩu vàng khi cần thiết để bình ổn thị trường vàng, hạn chế tình trạng đầu cơ, làm giá và nhập lậu. - Ngày 09/8/2011, để ổn định tâm lý người dân và bình ổn thị trường vàng trong nước, NHNN đã cấp phép nhập khẩu vàng cho một số doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, đồng thời, yêu cầu các đơn vị này phải khẩn trương bán vàng ra thị trường để tăng nguồn cung, giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới. Bắt đầu đi lên từ ngày 15/8, Liên tục phá những mốc kỷ lục 46, 47, 48 và 49 triệu đồng/lượng chỉ trong vòng hơn 1 tuần lễ từ 15/8 - 23/8, giá vàng trong nước lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay ở 49,2 triệu đồng/lượng vào trưa ngày 23/8. Chiều ngày 22/8, trong buổi làm việc với lãnh đạo Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) để thảo luận các giải pháp nhằm xóa bỏ cách biệt giữa giá vàng trong nước - thế giới, NHNN cho biết tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, trong đó Công ty SJC làm chủ lực, tham gia can thiệp thị trường vàng nhằm kéo giá vàng trong nước từ mức cao hơn 1 triệu đồng/lượng như hiện nay về ngang với giá thế giới. Trong ngày hôm sau (23/8), thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình khẳng định: "Quan điểm chỉ đạo điều hành của Ngân hàng Nhà nước trong những tháng cuối năm 2011 là ổn định tỷ giá, đảm bảo giá vàng trong nước diễn biến sát với giá vàng thế giới, chống đầu cơ làm giá trên thị trường". Quá sốt ruột vì thị trường vàng vẫn diễn biến phức tạp sau khi Ngân hàng Nhà nước cho 5 ngân hàng thương mại được kinh doanh vàng tài khoản và bán một lượng vàng huy động để bình ổn thị trường. Bắt đầu từ 6/10/2011, 5 ngân hàng thương mại gồm: ACB, Eximbank, Sacombank, Techcombank, DongA Bank và Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) được phép thực hiện bán vàng từ số vàng tồn quỹ theo giá hợp lý để kéo giá vàng trong nước xuống, giảm chênh lệch với giá vàng thế giới theo Thông tư 32/TT-Ngân hàng Nhà nước, sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 11/TT-NHN v/v chấm dứt huy động vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng. Xây dựng nên gói 7 giải pháp tăng cường quản lí thị trường vàng Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất vàng miếng. Do hoạt động sản xuất vàng miếng có tác động rất lớn tới nguồn cung vàng miếng trong nước, nên để bình ổn thị trường vàng, hoạt động sản xuất vàng miếng cần được quản lý, kiểm soát chặt chẽ. Dự kiến với các điều kiện đưa ra trong nghị định, khi ban hành số lượng doanh nghiệp được phép sản xuất vàng miếng sẽ giảm xuống đáng kể từ con số 8 tổ chức tín dụng và doanh nghiệp hiện nay. Đồng thời, dự thảo nghị định cũng quy định rõ việc sản xuất vàng miếng được thực hiện theo hạn mức do Ngân hàng Nhà nước cấp từng lần.  Thứ hai, dự thảo nghị định thu hẹp đối tượng được phép kinh doanh mua bán vàng miếng, không khuyến khích hoạt động mua bán vàng miếng. Khắc phục bất cập trong quản lý hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng hiện nay (hoạt động mua bán vàng miếng được thực hiện khá tự do tại hầu hết 12.000 doanh nghiệp kinh doanh vàng, gây khó khăn cho công tác quản lý và tăng nguy cơ vàng hóa”), dự thảo bổ sung quy định coi hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, có cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. “Với các điều kiện chặt chẽ, dự kiến số lượng doanh nghiệp được phép kinh doanh mua bán vàng miếng sẽ thu hẹp đáng kể từ trên 10 ngàn doanh nghiệp như hiện nay xuống chỉ còn một số doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có khả năng tài chính, kinh nghiệm, uy tín trong lĩnh vực kinh doanh vàng được phép tiếp tục thực hiện mua bán vàng miếng”, Ngân hàng Nhà nước cho biết. Như vậy, việc kinh doanh vàng miếng không có giấy phép của Ngân hàng Nhà nước và hoạt động mua bán vàng miếng trên thị trường tự do là hoạt động bất hợp pháp và sẽ bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của Nghị định 95/2011/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành. Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước quản lý chặt chẽ hoạt động xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu, là cơ quan tổ chức và/hoặc cấp phép hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. Quy định này cũng nhằm tạo điều kiện để quản lý, kiểm soát lượng vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu cũng như điều tiết cung - cầu trên thị trường, hạn chế tình trạng xuất nhập lậu vàng, đầu cơ, lũng đoạn thị trường. Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý chặt chẽ hơn hoạt động sản xuất, mua bán vàng trang sức, mỹ nghệ. Theo quy định tại dự thảo, hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải được cơ quan này cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Thứ năm, quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh vàng khác. Dự thảo nghị định quy định các hoạt động kinh doanh vàng khác, ngoài hoạt động được quy định trong dự thảo sẽ chỉ được phép thực hiện sau khi Thủ tướng Chính phủ cho phép và được NHNN cấp phép. Với hoạt động kinh vàng trên tài khoản, hoạt động phái sinh về vàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ, gây bất ổn thị trường vàng, ngoại hối, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và quyền lợi của người dân, nên việc cho phép thực hiện các hoạt động này phải tùy thuộc vào điều kiện thực tế trong từng thời kỳ. Thứ sáu, dự thảo có những quy định tạo cơ chế cho phép Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp can thiệp bình ổn thị trường vàng khi có diễn biến bất thường qua các hoạt động: cấp phép sản xuất vàng miếng; tổ chức mua bán vàng miếng trên thị trường trong nước; tổ chức xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu, tổ chức huy động vàng. Thứ bảy, nhà nước thực hiện điều tiết thị trường vàng thông qua chính sách thuế. Dự thảo nghị định quy định Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu vàng, thuế trị giá gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập đối với hoạt động kinh doanh vàng phù hợp trong từng thời kỳ. 4.3 Đề xuất quản lí thị trường vàng tại VN: Trên cơ sở xem xét vấn đề vàng trong mối quan hệ biện chứng với tỷ giá và lạm phát; coi vàng là phương tiện cất trữ, lưu thông tiền tệ chứ không chỉ là hàng hóa thông thường, từ đó có giải pháp tiếp cận và xử lý vấn đề trên cơ sở dài hơi, tôn trọng quy luật khách quan của kinh tế thị trường, tập quán giữ vàng của người dân, kể cả việc xem xét thực tiễn khó khăn trong việc ngăn chặn vàng nhập lậu từ biên giới, dưới góc độ nghiên cứu, người viết có một số đề xuất sau: Thứ nhất, căn nguyên cơ bản của cơn sốt vàng là lạm phát, do đó muốn giải quyết vấn đề của vàng thì phải có biện pháp giảm lạm phát để tăng niềm tin vào đồng nội tệ, bớt đổ xô vào gom giữ vàng, ngoại tệ. Thứ hai, không nên thực hiện các biện pháp có tính chất hành chính, cắt giảm đột ngột, ngăn cấm mua bán  vàng… Bởi như vậy sẽ càng làm vàng ra khỏi kênh chính thức. Thay vào đó, cần có bước trung gian để chu chuyển vàng (hút vàng vào ngân hàng). Thứ ba, cần có cơ chế để chu chuyển vàng thành VND, cần có giải pháp để huy động số vàng hiện có trong dân để không lãng phí nguồn tài chính quan trọng. NHNN nên cho phép các NHTM tái chiết khấu vàng để lấy VND. Khi đó, nhà nước sẽ thu hút được vàng trong dân, đưa lượng vàng lớn trong dân vào lưu thông, giúp chu chuyển nguồn vốn bằng vàng. Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách quản lý TTV theo hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh, trên tinh thần tôn trọng quy luật thị trường. Sau khi hoàn thiện các cơ chế, biện pháp phòng ngừa rủi ro thì nên tiếp tục cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài để khơi thông dòng vốn kinh doanh trong và ngoài nước và cân bằng được rủi ro của việc huy động vàng trong nước. Thứ năm, cần thành lập mô hình quản lý TTV tập trung do Nhà nước quản lý. Khi đó, Nhà nước có thể quản lý TTV hiệu quả, tránh những tác động tiêu cực, còn người dân và nhà đầu tư có thêm những kênh lựa chọn để đầu tư hay trao đổi loại hàng hóa đặc biệt này, tạo lập một thị trường giao dịch vàng tập trung giống thị trường chứng khoán hiện nay, tăng cường tính minh bạch, thông suốt của TTV; giảm tình trạng lũng đoạn và thao túng, góp phần tạo trật tự khách quan cho TTV; giảm nhu cầu nhập vàng và hạn chế xuất nhập lậu vàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVàng và kim loại quý.doc
Luận văn liên quan