Về nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế

1. Sự hình thành và phát triển 2. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc 3. Quyền tự vệ trong nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế 4. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc 5. Một số khuyến nghị Ngày nay, trong các mối quan hệ quốc tế, với xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, không một quyết định chính trị nào có thể trở thành niềm hy vọng và mang ý nghĩa trong đời sống quốc tế nếu nó không được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất để giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa các quốc gia là nguyên tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc này được áp dụng để giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ, khai thác sử dụng biển, nhân quyền . Do bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ giữa các quốc gia hiện nay đều có thể bị đe dọa bởi việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nên việc tuân thủ nguyên tắc này là điều hết sức cần thiết cho sự ổn định, phát triển trong hòa bình an ninh của thế giới ngày nay. 1. Sự hình thành và phát triển “Không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực” trước khi được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đã được các văn bản pháp lý quốc tế như Công ước Lahay năm 1899 về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế và Công ước năm 1907 về hạn chế sử dụng vũ lực đối với quốc gia vi phạm cam kết quốc tế đề cập tới nhưng mới chỉ thể hiện được ở một số khía cạnh. Như vậy lần đầu tiên các công ước quốc tế đã ghi nhận việc tiến hành chiến tranh không còn là quyền của quốc gia, nhưng cũng chưa đưa ra những quy định ngăn cấm chiến tranh, mà chỉ kêu gọi các quốc gia “với khả năng có thể” thì ngăn ngừa nguy cơ dẫn tới dùng vũ lực. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã xuất hiện Quy chế Hội Quốc Liên. Điều 12 Quy chế Hội Quốc Liên quy định các nước thành viên không được sử dụng chiến tranh khi chưa áp dụng các biện pháp hòa bình. Như vậy, mặc dù đã có bước tiến mới so với Công ước Lahay 1899 và Công ước năm 1907 nói trên nhưng Quy chế Hội Quốc Liên vẫn chưa đưa ra quy định cấm dùng vũ lực, vẫn coi việc áp dụng vũ lực là phương pháp cuối cùng để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Tiếp đến là Hiệp định Paris 1928 về khước từ chiến tranh. Hiệp định này xác định: “Các quốc gia thành viên lên án việc sử dụng chiến tranh để giải quyết các tranh chấp, xung đột quốc tế và cam kết không dùng chiến tranh như một công cụ quốc sách trong quan hệ với nhau”. So với các công ước quốc tế về vấn đề cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế thì Hiệp định Paris 1928 quả là một bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, trước khi vấn đề này được cả thế giới công nhận, loài người đã phải trải qua những thảm họa kinh hoàng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 –1945). Sau sự kiện đó, các quốc gia trên thế giới đã lập ra một tổ chức quốc tế lấy tên là Liên Hiệp Quốc (LHQ). Với mục tiêu cao cả là “phòng ngừa cho thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh”, Hiến chương LHQ không chỉ dừng lại ở mức cấm chiến tranh xâm lược mà nâng lên thành nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Khoản 2 Điều 4 Hiến chương LHQ quy định: “Tất cả các nước thành viên LHQ từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của LHQ”. Như vậy Hiến chương LHQ đã khẳng định nguyên tắc “cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các văn kiện của LHQ sau này đã góp phần bổ sung, làm sáng tỏ hơn những tư tưởng tiến bộ của nguyên tắc nói trên thông qua một số văn kiện như Tuyên ngôn 1970 của LHQ, Nghị quyết LHQ 1974, Công ước Luật biển 1982 .

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4304 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỀ NGUYÊN TẮC CẤM DÙNG VŨ LỰC HOẶC ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC  TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ Ngày nay, trong các mối quan hệ quốc tế, với xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, không một quyết định chính trị nào có thể trở thành niềm hy vọng và mang ý nghĩa trong đời sống quốc tế nếu nó không được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất để giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa các quốc gia là nguyên tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc này được áp dụng để giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ, khai thác sử dụng biển, nhân quyền... Do bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ giữa các quốc gia hiện nay đều có thể bị đe dọa bởi việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nên việc tuân thủ nguyên tắc này là điều hết sức cần thiết cho sự ổn định, phát triển trong hòa bình an ninh của thế giới ngày nay. 1. Sự hình thành và phát triển “Không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực” trước khi được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đã được các văn bản pháp lý quốc tế như Công ước Lahay năm 1899 về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế và Công ước năm 1907 về hạn chế sử dụng vũ lực đối với quốc gia vi phạm cam kết quốc tế đề cập tới nhưng mới chỉ thể hiện được ở một số khía cạnh. Như vậy lần đầu tiên các công ước quốc tế đã ghi nhận việc tiến hành chiến tranh không còn là quyền của quốc gia, nhưng cũng chưa đưa ra những quy định ngăn cấm chiến tranh, mà chỉ kêu gọi các quốc gia “với khả năng có thể” thì ngăn ngừa nguy cơ dẫn tới dùng vũ lực. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã xuất hiện Quy chế Hội Quốc Liên. Điều 12 Quy chế Hội Quốc Liên quy định các nước thành viên không được sử dụng chiến tranh khi chưa áp dụng các biện pháp hòa bình. Như vậy, mặc dù đã có bước tiến mới so với Công ước Lahay 1899 và Công ước năm 1907 nói trên nhưng Quy chế Hội Quốc Liên vẫn chưa đưa ra quy định cấm dùng vũ lực, vẫn coi việc áp dụng vũ lực là phương pháp cuối cùng để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Tiếp đến là Hiệp định Paris 1928 về khước từ chiến tranh. Hiệp định này xác định: “Các quốc gia thành viên lên án việc sử dụng chiến tranh để giải quyết các tranh chấp, xung đột quốc tế và cam kết không dùng chiến tranh như một công cụ quốc sách trong quan hệ với nhau”. So với các công ước quốc tế về vấn đề cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế thì Hiệp định Paris 1928 quả là một bước tiến quan trọng.  Tuy nhiên, trước khi vấn đề này được cả thế giới công nhận, loài người đã phải trải qua những thảm họa kinh hoàng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 –1945). Sau sự kiện đó, các quốc gia trên thế giới đã lập ra một tổ chức quốc tế lấy tên là Liên Hiệp Quốc (LHQ). Với mục tiêu cao cả là “phòng ngừa cho thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh”, Hiến chương LHQ không chỉ dừng lại ở mức cấm chiến tranh xâm lược mà nâng lên thành nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Khoản 2 Điều 4 Hiến chương LHQ quy định: “Tất cả các nước thành viên LHQ từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của LHQ”. Như vậy Hiến chương LHQ đã khẳng định nguyên tắc “cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các văn kiện của LHQ sau này đã góp phần bổ sung, làm sáng tỏ hơn những tư tưởng tiến bộ của nguyên tắc nói trên thông qua một số văn kiện như Tuyên ngôn 1970 của LHQ, Nghị quyết LHQ 1974, Công ước Luật biển 1982...  2. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc  Nội dung của nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế được ghi nhận cụ thể trong Tuyên bố 1970 của Đại hội đồng LHQ: “Mỗi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực để vi phạm biên giới quốc gia của các nước khác hoặc dùng nó làm phương tiện để giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề có liên quan đến biên giới các nước”. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoăc đe dọa dùng vũ lực được khái quát hóa trong Tuyên bố 1970 ở những nội dung sau: Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia hoặc sử dụng lực lượng vũ trang vượt qua biên giới tiến vào lãnh thổ quốc gia khác; Cấm cho quân vượt qua biên giới quốc tế, trong đó có giới tuyến hòa giải; Cấm các hành vi đe dọa trấn áp bằng vũ lực; Không cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để tiến hành xâm lược chống nước thứ ba; Không tổ chức, khuyến khích, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia khác; Không tổ chức, giúp đỡ các băng đảng vũ trang, nhóm vũ trang, lính đánh thuê đột nhập phá hoại lãnh thổ quốc gia khác; Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược. Như vậy nguyên tắc này không chỉ bao gồm việc cấm sử dụng lực lượng vũ trang hoặc khuyến khích sử dụng vũ trang mà còn cấm cả những biện pháp khác nhằm chống lại chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Thuật ngữ “vũ lực” theo Hiến chương LHQ không chỉ đơn thuần là sức mạnh vũ trang. Khái niệm “vũ lực” được sử dụng trong Hiến chương được hiểu là sức mạnh vũ trang hay bao gồm cả các loại sức mạnh phi vũ trang khác như sức mạnh về kinh tế, chính trị, sử dụng lực lượng vũ trang không nhằm tấn công xâm lược quốc gia khác nhưng để gây sức ép, đe dọa đến quốc gia đó. Ví dụ: tập trung quân ở biên giới với số lượng lớn, chuẩn bị một cuộc tấn công tập trận ở biên giới nhằm biểu dương lực lượng đe dọa quốc gia láng giềng, gửi tối hậu thư đe dọa quốc gia khác... Những hoạt động này cũng bị coi là vi phạm nguyên tắc “cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực”.  3. Quyền tự vệ trong nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế  Do việc sử dụng vũ lực đã bị nghiêm cấm, mọi thành viên của LHQ trong quan hệ đối ngoại của mình, đều không được phép sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực. Tuy nhiên cùng với xu thế phát triển của thời đại, các quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp. Nhằm đối phó với tình hình, bảo vệ nền hòa bình và an ninh quốc tế, bên cạnh nguyên tắc “cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực”, tại khoản 4 Điều 2, Hiến chương LHQ còn đưa ra những quy định ngoại lệ đối với việc sử dụng vũ lực, trong trường hợp xảy ra tấn công vũ trang nhằm vào bất kỳ thành viên nào của LHQ mà Hội đồng Bảo an LHQ chưa áp dụng những biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, thì tại Điều 51 đã ghi nhận: “Bất kỳ nội dung nào trong Hiến chương này đều không được hủy hoại quyền tự vệ cá thể hoặc quyền tự vệ tập thể”. Hai điều khoản này có tác dụng bổ trợ nhau, tạo thành nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện nay là “cấm sử dụng vũ lực”; đây là những căn cứ pháp lý cơ bản để cộng đồng quốc tế áp dụng vào những trường hợp cụ thể.  Như vậy, với quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng, các nước thành viên LHQ có thể sử dụng vũ lực một cách hợp pháp chống lại quốc gia xâm lược. Tại Điều 51 Hiến chương LHQ khi đề cập đến quyền tự vệ của quốc gia đã nhấn mạnh rằng quyền này chỉ có được trong trường hợp quốc gia bị tấn công vũ trang, nghĩa là chỉ khi nào bị tấn công bằng lực lượng vũ trang, quốc gia bị tấn công mới có quyền dùng vũ lực để đánh trả sự tấn công đó. Điều 51 cũng cho phép: “Hội đồng Bảo an được áp dụng bất kỳ lúc nào những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế”; và “Hội đồng Bảo an xác định thực tại mọi sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp nào nên áp dụng” (Điều 39). Như vậy, Hiến chương cho phép lực lượng liên quân đội của LHQ được sử dụng vũ lực theo quyết định của Hội đồng Bảo an (HĐBA) LHQ để thủ tiêu mối đe dọa hòa bình và an ninh thế giới. Tuy nhiên, HĐBA sẽ không áp dụng các biện pháp trừng phạt bằng việc sử dụng lực lượng vũ trang, nếu như hành vi của bên vi phạm chưa đến mức đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Trong trường hợp này cộng đồng quốc tế sẽ thông qua LHQ, và chỉ có quyền sử dụng sức mạnh phi vũ trang trong quan hệ với quốc gia vi phạm như cấm vận kinh tế, phong tỏa, cắt đứt một phần hay toàn bộ quan hệ kinh tế, đường giao thông bộ, biển, hàng không, cắt đứt quan hệ ngoại giao...  4. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc  Mặc dù Hiến chương LHQ đã khẳng định nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực” khi xử lý các mối quan hệ quốc tế, nhưng ngày nay vẫn còn nhiều quốc gia vi phạm nguyên tắc này. Mặc dù đã vi phạm luật quốc tế một cách trắng trợn nhưng bao giờ họ cũng cố tìm ra những lý do có vẻ chính đáng để biện hộ cho hành vi sai trái của mình và luôn giải thích rằng điều đó phù hợp với quy định của Hiến chương LHQ. Nguyên nhân dẫn đến những sự vi phạm đó chủ yếu xuất phát từ những lý do sau: - Chế độ xã hội và ý thức hệ khác nhau:  Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, có một số quốc gia vì thấy nước khác lựa chọn chế độ xã hội hoặc ý thức hệ không giống với nước mình nên họ tiến hành can thiệp, thậm chí sẵn sàng sử dụng vũ lực đối với nước đó. Ví dụ, hai siêu cường Mỹ và Liên Xô thường chọn cách làm này. Đây là sản phẩm của chính trị cường quyền. Những kẻ cường quyền không chỉ giành quyền chọn cho mình một chế độ xã hội và ý thức hệ độc lập mà còn có thể đưa ra sự lựa chọn cho nước khác. Ví dụ, Mỹ đã khẳng định rõ quyền sử dụng vũ lực áp đặt, khôi phục nền dân chủ cho Grenada và Nicaragoa... Vì vậy, “dân chủ” thường chỉ là cái cớ để nước lớn thực hiện chính sách nhà nước cường quyền của họ. Trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Chính phủ Mỹ lấy việc “thân Mỹ chống cộng” làm tiêu chuẩn để phân biệt bạn thù, chứ không phải lấy tiêu chí “nhà nước dân chủ” làm thước đo... Ngày nay, cộng đồng quốc tế đã cơ bản đạt được nhận thức chung đối với việc cấm các hành vi, vi phạm trắng trợn nguyên tắc “can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác”. Do vậy, biện pháp dùng vũ lực để truyền bá chế độ xã hội và ý thức hệ đã không còn là mối đe dọa chủ yếu nhất đối với nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”.  - Sự can thiệp về nhân quyền của chủ nghĩa nhân đạo  Trong một tình huống nào đó, sự can thiệp về nhân quyền của chủ nghĩa nhân đạo có thể giải quyết được khủng hoảng về nhân quyền và cứu được rất nhiều sinh mạng vô tội. Nhưng việc dùng vũ lực để can thiệp vào nước khác đương nhiên là mâu thuẫn với nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực của luật quốc tế. Vậy có thể coi đây là một ngoại lệ đặc biệt hay không? Nhìn chung dư luận quốc tế đều cho rằng: trong trường hợp đặc biệt cấp bách, cần phải có sự can thiệp nhưng phải tiến hành trong khuôn khổ LHQ, nếu không sẽ là phi pháp. Điều đó có nghĩa là chỉ có LHQ mới có đủ uy quyền để thực hiện hành động này (trừ trường hợp được nước chủ nhà cho phép, thậm chí yêu cầu). Như vậy Luật quốc tế không cho phép áp dụng chủ nghĩa nhân đạo một cách bừa bãi, bởi nếu thế thì thế giới sẽ trở nên hỗn loạn, chiến tranh sẽ xảy ra khắp nơi. Thế nhưng con bài “nhân quyền” hiện nay vẫn được một số quốc gia dùng để đe dọa các quốc gia khác.  - Chủ nghĩa khủng bố  Hoạt động khủng bố quốc tế là một loại hoạt động phạm tội vô cùng nguy hiểm. Sự nguy hại và tính nghiêm trọng của nó không chỉ biểu hiện ở số lượng các vụ khủng bố ngày càng tăng mà còn biểu hiện ở việc dẫn đến sự biến động xã hội và gây ra cảm giác mất an ninh cho mọi người, hình thành không khí khủng bố trong cộng đồng quốc tế. Nghiêm trọng hơn nó còn dẫn đến những vụ tranh chấp quốc tế, ngày càng khơi sâu những mâu thuẫn giữa các nước, các khu vực, các dân tộc và giữa các tôn giáo, trở thành nhân tố vô cùng nguy hiểm đe dọa hòa bình và an ninh thế giới, đặt thế giới trong tình trạng bất ổn.  Hoạt động của chủ nghĩa khủng bố là một hoạt động tội phạm mang tính chất quốc tế, bởi nó không chỉ vi phạm pháp luật của các quốc gia liên quan mà còn vi phạm pháp luật quốc tế. Vấn đề đặt ra là cần phải tiến hành chống khủng bố như thế nào?  Trong thực tiễn, nhiều quốc gia đã áp dụng hành động đơn phương khi bị chủ nghĩa khủng bố xâm hại. Do tính chất quốc tế của hoạt động khủng bố nên những nước bị khủng bố khi áp dụng hành động đơn phương thường nhắm vào các nước khác chứ không phải chỉ một cá nhân. Bởi vậy, hành động trả đũa đối với chủ nghĩa khủng bố thường được thể hiện ở sự can thiệp nào đó, thậm chí can thiệp bằng vũ trang đối với những nước bị coi là đã dung túng, khuyến khích, thực hiện những hoạt động khủng bố.  Vậy việc sử dụng vũ lực tấn công vào quốc gia khác để tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố có hợp pháp không?Điều 51 Hiến chương LHQ có quy định “quyền tự vệ” của các quốc gia, nhưng quyền này không cho phép tiến hành trả đũa đối với những cuộc tấn công trước đó. Như vậy, luật pháp quốc tế không cho phép các quốc gia sử dụng vũ lực đối với những nước đã tiến hành khủng bố.  Bởi muốn tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố không chỉ đơn thuần dựa vào sự trả thù của một hoặc hai quốc gia, còn phát động chiến tranh để tiến hành trả đũa chủ nghĩa khủng bố là điều vô cùng nguy hiểm. Cho dù là những siêu cường như Mỹ cũng không thể giải quyết được vấn đề này vì những gì mà Mỹ làm được cùng lắm cũng chỉ tiêu diệt về mặt thể xác một số phần tử khủng bố, hơn nữa cái giá phải trả chính là mạng sống của nhiều người dân vô tội. Thực tế đã chứng minh, để trả đũa cho thảm họa khủng bố ngày 11/9, Mỹ đã tiến hành chiến tranh đánh Afghanistan, để ngăn ngừa chủ nghĩa khủng bố Mỹ đã sử dụng vũ trang tấn công Iraq; thế nhưng chủ nghĩa khủng bố mà Mỹ nhằm tiêu diệt vẫn chưa có kết quả. Đúng như lời Tổng thư ký LHQ Kofi Annan đã từng nói: “Tôi không thể nói rằng thế giới trở nên an toàn hơn khi bạo lực vẫn diễn ra xung quanh chúng ta, các vụ tấn công khủng bố vẫn tiếp diễn trên khắp thế giới và nhất là những gì đang diễn ra tại Iraq” (1).  Như vậy, tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố không nên tiến hành bằng cách dùng vũ lực đơn phương của các nước mà nên tiến hành thông qua sự hợp tác quốc tế trong khuôn khổ LHQ, phù hợp với nguyên tắc an ninh tập thể do LHQ đề ra. Nếu làm được điều này thì cuộc chiến chống khủng bố mới có tính hợp lý và hợp pháp, nó sẽ được đông đảo nhân dân trên thế giới ủng hộ, đồng thời sẽ giảm bớt được những cuộc xung đột vũ trang và những mâu thuẫn giữa các khu vực, giữa các quốc gia và giữa các dân tộc trên thế giới và điều cơ bản là thế giới sẽ trở nên hòa bình hơn.  5. Một số khuyến nghị  “Cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế” và “quyền tự vệ” được khẳng định trong Hiến chương LHQ là những nguyên tắc quan trọng nhất, mang tính căn bản nhất về hành vi sử dụng vũ lực. Bộ nguyên tắc này đã đưa ra yêu cầu chung là cấm sử dụng vũ lực. Nhưng thực tế đã chứng minh, sử dụng vũ lực vẫn là một hiện tượng thường thấy hiện nay. Cuộc chiến tranh Iraq gần đây càng thúc đẩy hành vi sử dụng vũ lực tới đỉnh điểm. Điều này khiến chúng ta cần phải xem xét lại vấn đề sử dụng vũ lực và luật quốc tế. Theo chúng tôi, cho dù đã có pháp luật, nhưng chỉ dựa vào bản thân pháp luật thì chưa đủ. Mặc dù đòi hỏi thực hiện pháp luật quốc tế đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 2 Hiến chương LHQ với nguyên tắc “Tận tâm thực hiện cam kết quốc tế” (hay còn gọi là nguyên tắc Pacta sun servanda), nhưng vấn đề quan trọng hơn chính là việc các thành viên của LHQ phải tự giác tuân thủ pháp luật. Lâu nay luật quốc tế vẫn bị coi là “luật mềm” bởi việc chấp hành pháp luật trong nước luôn được bảo đảm bằng quyền lực tối cao của nhà nước là chủ quyền quốc gia, còn cộng đồng quốc tế khó có một quyền lực có đủ sức mạnh tối cao như vậy để bảo đảm việc chấp hành pháp luật quốc tế. Do đó, tự giác tuân thủ là cách bảo đảm có hiệu quả nhất đối với luật quốc tế. Muốn có một môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, có lợi cho sự phát triển lâu dài của nhân loại thì một số quốc gia phải ngừng ngay những hành động quân sự vi phạm pháp luật quốc tế. Bởi những hành động quân sự đó có thể đem lại những lợi ích nhất thời, nhưng chúng không chỉ phá hoại trật tự quốc tế mà còn làm tổn hại đến lợi ích lâu dài của mỗi nước. Do đó, trước tiên là vì bản thân mình và vì những người khác, mỗi thành viên trong cộng đồng quốc tế đều phải tự giác tuân thủ nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực”. Tự giác tuân thủ là một việc làm rất có ý nghĩa trong quan hệ quốc tế, tuy nhiên trong nhiều trường hợp cần phải giám sát sự chấp hành bởi vì đây là một biện pháp quan trọng để bảo đảm cho các cam kết quốc tế được thực hiện. Việc giám sát chấp hành có thể chia làm hai hình thức: Đơn phương: các nước lợi dụng ảnh hưởng quốc tế của mình, dùng ngoại giao làm biện pháp chủ yếu thúc giục các nước khác chấp hành nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực”. Đa phương: đa số các nước cùng nhau vận dụng những ảnh hưởng và sức mạnh tập thể để yêu cầu các thành viên khác trong cộng đồng quốc tế chấp hành nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực”. Trong hai hình thức này thì hình thức đa phương mang lại hiệu quả cao hơn, tránh được sự độc đoán của các nước lớn biểu hiện dưới hình thức đơn phương. Tuy nhiên, biện pháp thích hợp nhất, đem lại hiệu quả lớn nhất vẫn là thực hiện sự giám sát thông qua LHQ. Trong thời gian qua Hội đồng Bảo an LHQ đã có những nỗ lực rất lớn khi thực hiện sự giám sát đối với nguyên tắc này. Nhưng trong tình hình một số siêu cường đang thực thi chủ nghĩa bá quyền với nguyên tắc “các nước lớn nhất trí” thì vai trò của Hội đồng Bảo an trong một số trường hợp đã không phát huy hết hiệu lực của mình khi giám sát việc thực hiện nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực”. Vì vậy, hiện nay, đối với những trường hợp tương tự, theo chúng tôi, cần phải có một tổ chức cao hơn Hội đồng Bảo an, cụ thể là Đại hội đồng của LHQ, đứng ra tổ chức, thực hiện sứ mạng giám sát này./. ================================ CHÚ THÍCH (1) Báo Thanh Niên, số 293 ngày 19/10/2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVề nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.doc
Luận văn liên quan