MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN I- TỔNG QUAN VỀ LIÊN MINH TIỀN TỆ CHÂU ÂU VÀ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH ĐỒNG EURO. 3
1. Khái quát về Lịch sử của Liên minh châu Âu EU 3
2. Liên minh tiền tệ châu Âu 4
3. Quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu – Đồng Euro 5
PHẦN II - VỊ THẾ ĐỒNG EURO 8
1. Vai trò của đồng Euro 8
1.1. Đối với các quốc gia thành viên 8
1.2. Đối với nền kinh tế thế giới 10
2. Diễn biến và vị thế đồng Euro từ khi ra đời (1/1/1999) đến nay 14
3.Những kịch bản cho tương lai của đồng Euro 16
PHẦN III - ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG ĐỒNG EURO TỚI VIỆT NAM VÀ N HỮNG BIỆN PHÁP TRONG NHẰM TRÁNH NHỮNG TÁC ĐỘNG XẤU TỚI KINH TẾ VIỆT NAM 18
Nhận xét chung 18
Tỷ giá EUR/USD ở Việt Nam 19
2. Một số giải pháp nhằm xử lý tác động của đồng EURO đối với Việt Nam. 22
2.1. Về lĩnh vực xuất nhập khẩu. 22
2.2. Về lĩnh vực đầu tư. 22
2.3. Về lĩnh vực vay nợ nước ngoài: 23
2.4. Về dự trữ ngoại tệ: 23
2.5. Về tỷ giá hối đoái. 23
2.6. Về chính sách lãi suất. 24
BÀI THAM KHẢO 25
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Sự tham gia vào xu hướng chung đó gần như là lực chọn bắt buộc đối với mỗi quốc gia nếu như muốn tồn tại và phát triển kinh tế theo kịp trình độ phát triển của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của từng quốc gia, khu vực mà mỗi nước tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế ở các mức độ khác nhau, khu vực mậu dịch tự do cho tới liên minh tiền tệ, đỉnh cao của liên kết kinh tế quốc tế.
Liên minh Châu Âu ra đời là kết quả của hoạt động liên kết kinh tế quốc tế, là kết quả của quá trình hợp tác và đấu tranh giữa tranh chấp và thỏa hiệp của các nước thành viên nhằm đi đến thống nhất và tạo ra sức mạnh tổng hợp từ sự liên kết. Năm 1999, đồng Euro chính thức ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của liên minh Châu Âu nói riêng và của hoạt động kinh tế quốc tế nói chung. Đồng Euro có ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống kinh tế, xã hội của các nước thành viên và các nước có liên quan trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu về vị thế đồng Euro và ảnh hưởng của nó đối với các nước là hết sức cần thiết và đang trở thành đề tài đáng quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế hiện nay.
Được sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Thị Thu Thảo, nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Vị thế của đồng Euro qua các giai đoạn” làm đề tài thảo luận nhóm. Rất mong cô và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2497 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vị thế đồng Euro qua các giai đoạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào năm 1992-1993 đã làm cho hệ thống tiền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu đã làm cho các nước thành viên EU bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng việc này sẽ tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không còn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá.
Tuy nhiên, việc ra đời Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) và duy trì đồng tiền chung ổn định và mạnh không chỉ có những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho những nước tham gia EMU;
Trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ; Việc ngân hàng Trung ương châu Âu đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng.
Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các nước tham gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau, mỗi nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một cuộc đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để đảm bảo cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm bảo các chỉ tiêu EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế... phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu cho phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn ra ở nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho các chính phủ đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
Đối với nền kinh tế thế giới
Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng EURO chi phối. Vào thời điểm hình thành năm 1999, với một nền kinh tế phát triển của 11 nước châu Âu có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm tới 19,6% của thế giới và 18,6% thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ USD, chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với GDP là 8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Nếu đồng EURO giữ được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày càng bị suy giảm mạnh.
Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh vực dự trữ ngoại tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán.
Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu về dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng EURO trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để mua thêm đồng EURO (mức độ ít nhiều còn tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng EURO). Đây có thể là một nhân tố gây tác động làm giảm giá đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà chúng ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương, trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất khẩu) dùng nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn chặt với đồng mác Đức cũng có xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là bằng mác Đức) nay chuyển sang thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân tích kinh tế, sau khi ra đời, đồng EURO có thể chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch và buôn bán quốc tế. Trong buôn bán với Mỹ, các nước EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng đồng EURO, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với thương mại thế giới khi đồng EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có xu hướng các nước cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch ngoại thương với nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới.
Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau... Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Theo dự đoán của một số chuyên gia tài chính, có khả năng sau năm 2002 có khoảng 3000 tỷ đô la vốn đầu tư quốc tế sẽ chuyển sang đồng EURO, trong đó có từ 700 đến 1000 tỷ là từ đồng đô la Mỹ. Do đó, khi EURO xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới thì trong các giao dịch tại thị trường chứng khoán và trong việc phát hành công trái, các nước trước hết là các nước EU sẽ dùng EURO, do vậy nhu cầu về USD trên thị trường tài chính sẽ giảm một cách đáng kể.
Tóm lại, sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới sẽ bị thay đổi cơ bản. Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự trữ ngoại tệ ở các quốc gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây, trên thị trường sẽ xuất hiện thêm EURO, do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời của EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia.
Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân tích, đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO ổn định và vững mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ cần phải có những chính sách bảo vệ và khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn.
- Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra đời. Trong mấy năm qua, các công ty lớn của Mỹ và Nhật đã có những biện pháp và chuẩn bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập được chỗ đứng của mình thông qua các đối tác nội địa để tận dụng được lợi thế của việc sản xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tránh được thuế nhập khẩu khi liên minh hình thành.
- Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư... bằng đồng tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO./.
2. Diễn biến và vị thế đồng Euro từ khi ra đời (1/1/1999) đến nay
Từ 1-1-1999 bắt đầu đưa đồng EURO vào lưu hành. Giai đoạn đầu từ 1-1-1999 đến 1-1-2002 đồng EURO không lưu hành bằng tiền mặt. Từ 1-1-2002 đến tháng 7-2002 bắt đầu lưu hành đồng EURO bằng tiền giấy và tiền kim loại song song với các đồng tiền bản địa, và từ tháng 7-2002 các đồng tiền bản địa không còn tồn tại.
Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của đồng Euro trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng trong cùng thời gian này tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ giảm từ 68,3% (2001) xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn 64,5%. Nói chung người ta tin rằng tầm quan trọng của đồng Đô la Mỹ như là tiền tệ dự trữ thế giới sẽ tiếp tục giảm và đồng Euro sẽ ngày càng quan trọng hơn trong chức năng này. Tầm quan trọng ngày càng tăng của đồng Euro cũng thể hiện qua một khía cạnh khác: Trong năm 1999 21,7% tất cả các giấy nợ quốc tế được tính bằng Euro, trong năm 2001 là 27,4% và trong năm 2003 đã là 33%. Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã chấm dứt vai trò là tiền tệ quan trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với lãi suất cố định và lãi suất thả nổi (tiếng Anh: Floating Rate Notes): Trong cuối tháng 9 năm 2004 có trên 12.000 tỉ đô la trái phiếu và công trái quốc tế lưu hành trên toàn thế giới. Trong đó có 5.400 tỉ là đồng Euro, 4.800 tỉ là đồng Đô la Mỹ, 880 tỉ đồng Bảng Anh, 500 tỉ tiền Yen và 200 tỉ là đồng Franc Thụy Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ trong tổng số tiền gửi tại các tài khoản của các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè 2001 xuống còn 61,5% trong mùa hè 2004. Tỷ lệ tiền Euro tăng trong cùng khoảng thời gian từ 12% lên 20%. Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán Euro trên các thị trường ngoại tệ là 25% so với 50% của đồng Đô la Mỹ và 10% cho hai loại tiền Bảng Anh và Yen Nhật. Đồng Euro vì vậy là tiền tệ quan trọng đứng thứ nhì hiện thời.
Tỷ giá hối đoái EUR/USD
Đô la Mỹ trên 1 Euro
(1999–2010)
Năm
Thấp nhất ↓
Cao nhất ↑
Ngày
Tỷ giá
Ngày
Tỷ giá
1999
03/12
$1.0015
05/01
$1.1790
2000
26/10
$0.8252
06/01
$1.0388
2001
06/07
$0.8384
05/01
$0.9545
2002
28/01
$0.8578
31/12
$1.0487
2003
08/01
$1.0377
31/12
$1.2630
2004
14/05
$1.1802
28/12
$1.3633
2005
15/11
$1.1667
03/01
$1.3507
2006
02/01
$1.1826
05/12
$1.3331
2007
12/01
$1.2893
27/11
$1.4874
2008
27/10
$1.2460
15/07
$1.5990
2009
04/03
$1.2555
03/12
$1.5120
2010
05/05
$1.2924
13/01
$1.4563
Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB
Có nhiều ý kiến khác nhau về tầm quan trọng kinh tế của một đồng Euro mạnh. Một mặt các nguyên liệu đa phần vẫn tiếp tục được mua bán bằng đồng Đô la Mỹ, vì thế mà một đồng Euro mạnh có tác dụng làm giảm giá các nguyên liệu. Mặt khác, giá đồng Euro cao sẽ làm cho xuất khẩu từ vùng Euro trở nên đắt và vì thế một đồng Euro có giá cao sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế yếu đi trong một chừng mực nhất định. Vì vùng Euro rộng lớn nên tỷ giá hối đoái và các rủi ro về tỷ giá hối đoái do các tiền tệ dao động gây nên không còn có tầm quan trọng như trong thời kỳ còn các tiền tệ quốc gia nữa.
Việc đồng Euro liên tục bị xuống giá cho đến năm 2002 có thể là do đồng Euro không tồn tại trên thực tế như là tiền mặt, vì thế mà trong thời gian đầu đồng Euro đã bị đánh giá thấp hơn giá trị thực dựa trên những số liệu cơ bản. Các vấn đề về kinh tế trong Cộng đồng châu Âu đã đẩy mạnh thêm xu hướng này và làm cho việc đầu tư trong châu Âu không còn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nữa. Thật ra thì các triển vọng về kinh tế của châu Âu đã không tốt đẹp hơn từ thời điểm đó nhưng ngay sau khi tiền mặt được đưa vào lưu hành thì đồng Euro mà cho tới lúc đó là bị đánh giá dưới trị giá thật bắt đầu được đánh giá cao hơn. Có 3 nguyên nhân có thể giải thích cho điều này:
Thâm hụt cán cân thương mại và ngân sách quốc gia và kèm theo đó là tăng nợ của Mỹ.
Chuyển đổi trong dự trữ ngoại tệ của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga và các quốc gia khác.
Các nước xuất khẩu dầu mà trước tiên là Nga ngày càng sẵn sàng chấp nhận đồng Euro như là phương tiện thanh toán cho dầu mỏ.
3.Những kịch bản cho tương lai của đồng Euro
Kinh tế khu vực đồng Euro tăng trưởng yếu trong quý một 2010. Trong đó, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đã buộc phải can thiệp vào thị trường trái phiếu chính phủ - một việc làm chưa từng xảy ra trước đây. Vậy, tương lai của đồng EUro sẽ ra sao? Dưới đây là nhận định của các nhà kinh tề về đồng tiền này.
Thứ nhất: Đồng Euro sẽ hồi phục: Cuộc khủng hoảng kinh tế trong thời gian qua, buộc chính phủ các nước Châu Âu phải củng cố lại nguồn tài chính, cải thiện nền kinh tế của nước mình và đồng Euro lại trở thành động lực để phát triển kinh tế toàn cầu. Thêm vào đó, các chương trình cứu trợ kinh tế của EU và IMF dành cho Hy Lạp sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước này. Các nước khác có thể rút kinh nghiệm, đề phòng từ cuộc khủng hoảng kinh tế của Hy lạp. Điều này có thể giúp cho nền kinh tế phát triển ở nhiều nước. Trong tương lai, "những mất cân bằng kinh tế" sẽ sớm được giải quyết. Các thể chế cũng sẽ được thành lập để giải quyết cuộc khủng hoảng một cách có trật tự và nhanh chóng. Do vậy, đồng euro sẽ lại trở thành một thách thức đối với đồng đô la Mỹ trong vài trò là một dự trữ ngoại tệ mạnh
Thứ hai: Đồng euro sẽ ổn định trở lại. Các kế hoạch cứu trợ của các nước Eurozone và ECB có thể sẽ giúp nền kinh tế thị trường tạm thời ổn định, lòng tin của những nhà đầu tư tạm thời phục hồi. Khu vực đồng tiền chung Châu Âu Eurozone sẽ ổn định trở lại. Tuy nhiên điều này vẫn không giải quyết được các vấn đề cơ bản trong nội tại, đã được phơi bày trong cuộc khủng hoảng. Những thay đổi đó không đủ để eurozone tăng trưởng.
Thứ ba: Đồng euro yếu. Khu vực đồng tiền chung Châu Âu yếu đi vĩnh viễn. Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ tại nước này. Một loạt các nước bước theo chân Hy lạp như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Các nước này buộc phải đưa ra chính sách thắt lưng buộc bụng. Kéo theo đó là bất ổn xã hội tăng lên. Một loạt ngân hàng tại các nước Châu Âu bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng. Điều này sẽ đe dọa toàn bộ khu vực Châu Âu rơi vào suy thoái. Đồng euro mất giá, lạm phát tăng cao.
Thứ tư: Đồng Euro tan vỡ. Một số nước quyết định rút ra khỏi eurozone và khu vực eurozone đổ vỡ do căng thẳng quá mức, không thể kiểm soát nổi. Nếu kinh tế Hy Lạp sụp đổ, suy thoái kinh tế và thất nghiệp tăng lên, sự oán giận của công chúng đối với đồng euro tăng lên, cơn ác mộng này có thể trở thành hiện thực. Không ai muốn điều này và cũng chưa ai nghĩ đến việc chuẩn bị cho kế hoạch eurozone tan vỡ, nhưng điều này không phải không thể xảy ra.
PHẦN III - ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG ĐỒNG EURO TỚI VIỆT NAM VÀ N HỮNG BIỆN PHÁP TRONG NHẰM TRÁNH NHỮNG TÁC ĐỘNG XẤU TỚI KINH TẾ VIỆT NAM
Nhận xét chung
Gần đây người dân VN đã dần chấp nhận đồng euro như một phương tiện để thanh toán, đầu tư và dự trữ. Việc trao đổi, mua bán đồng euro tại các ngân hàng và các thị trường không chính thức cũng đã phổ biến hơn. Khách du lịch có thể đổi euro tại các quầy đổi tiền một cách khá dễ dàng.
Tuy nhiên, tỷ trọng các giao dịch thanh toán thương mại bằng euro mới chỉ chiếm khoảng 10-13% tổng giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ. Nếu tính tỷ trọng tiết kiệm bằng đồng euro trong tổng tiết kiệm thì tỷ lệ này chỉ vỏn vẹn 2,7%. Trong khi đó, chỉ 10-15% các thanh toán giữa doanh nghiệp VN và doanh nghiệp EU được sử dụng euro. Những con số này cho thấy, tỷ lệ sử dụng euro ở VN vẫn chưa đáng kể và chưa tương xứng với tiềm năng của đồng tiền này.
Nguyên nhân của thực trạng trên được lý giải là xuất phát từ thực tế chính sách tiền tệ quá phụ thuộc vào USD hiện nay của VN. Từ trước đến nay, chính sách tỷ giá của VN neo chủ yếu vào đồng USD, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng USD như là một công cụ thanh toán quốc tế chủ đạo.
Thêm vào đó, nhu cầu vay USD và nguồn tiền gửi bằng USD hiện cũng rất lớn, trong khi nhu cầu vay euro rất thấp, chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ của VN. Chính vì vậy, lãi suất ngoại tệ trên thị trường VN được thống kê, theo dõi chủ yếu là lãi suất của USD. Sự biến động lãi suất vẫn phụ thuộc chủ yếu vào biến động lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ và cung cầu ngoại tệ trên thị trường VN, ít chịu ảnh hưởng của lãi suất đồng euro.
Tuy nhiên, với mối quan hệ kinh tế, thương mại đã có từ lâu, tương lai của đồng euro ở VN được các chuyên gia kinh tế đánh giá là rất khả quan. Hiện EU đứng ở Top 5 thị trường xuất khẩu lớn của VN và là thị trường tiềm năng của các ngành công nghiệp dệt may, thực phẩm, thuỷ sản, vật liệu xây dựng...
Tỷ giá EUR/USD ở Việt Nam
Tính từ tháng 5 năm 2000 đến tháng 12 năm 2008 tỷ giá giữa USD so với VND đã tăng từ 13.900VND lên mức 17.050VND tức là USD tăng 22,7% so với VND. Còn tỷ giá giữa EUR so với VND đã tăng 66% từ 14.000VND lên mức 23.241VND
Tỷ giá giữa VND với Euro chủ yếu vẫn được tính chéo với tỷ giá của VND với USD và Euro với USD. Do vậy, tỷ giá của VND với Euro biến động hoàn toàn gắn với sự biến động của tỷ giá giữa Euro và USD.
Mức tăng tỉ giá VND so với một số đồng tiền
USD
EUR
Ðôla Úc (AUD)
Ðôla Canada (CAD)
Bảng Anh (GBP)
Franc Thụy Sĩ (CHF)
Ðầu năm 2009
17.484
24.596
12.374
14.379
25.911
16.514
Tháng 11/09
17.861
27.497
16.809
17.269
30.692
18.201
Mức tăng
2,1%
11,7%
35%
20%
18,5%
10,2%
(Nguồn: Vietcombank)
Có một điểm khác rất lớn trong việc ấn định giá USD và giá các đồng tiền khác. Đó là Ngân hàng Nhà nước kiểm soát tỉ giá VND/USD thông qua biên độ tỉ giá hiện là +/-5% và tỉ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày. Còn các đồng tiền khác ngân hàng được định giá tùy vào biến động của giá quốc tế. Cho dù giá USD trên thế giới có tăng giảm bao nhiêu nhưng ở trong nước, các ngân hàng cũng chỉ được ấn định giá mua/bán trong quy định của Ngân hàng Nhà nước. Với các đồng tiền khác do theo giá thế giới, mà giá thế giới thì biến động liên tục.
Tỷ giá của VND so với các đồng tiền chủ chốt khác biến động mạnh được giải thích bởi quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Nhưng nhìn chung, có hai yếu tố chính tác động đến tỷ giá VND với các ngoại tệ khác đó là cung cầu ngoại tệ và lạm phát.
Cung cầu ngoại tệ
Hiện nay nguồn cung ngoại tệ chủ yếu của Việt Nam là FDI, ODA và lượng kiều hối do đồng bào việt kiều ở nước ngoài gửi về. Nhưng nước ta lại là nước nhập siêu, nên cung ngoại tệ của Việt Nam luôn luôn thiếu so với cầu. Điều này cũng là một yếu tố khiến tỷ giá của VND so với các đồng ngoại tệ như USD, EUR luôn luôn giảm. Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguồn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao. Thêm vào đó là thói quen dự trữ ngoại tệ của người dân hay còn gọi là đô la hóa. Đây là hiện tượng thường gặp phải ở các nền kinh tế chuyển đổi. Tại Việt Nam, đô la hóa vẫn khá phổ biến với thói quen dự trữ tài sản, giao dịch, mua bán, niêm yết giá bằng ngoại tệ. Hiện tượng đô la hoá gây ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn định ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách.
Lạm phát:
Mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do, khi đó tỷ giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền. Nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại.
Dự đoán biến động tỷ giá ngoại tệ trong thời gian tới được đánh giá là khó khăn cho thị trường tài chính thế giới nói chung, và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Yếu tố lạm phát của Việt Nam là yếu tố chính quyết định đến tỷ giá hối đoái tại Việt Nam, và yếu tố này sẽ làm cho VND ngày càng mất giá so với các đồng tiền mạnh khác. Thêm vào đó, việc VND đang được đảm bảo bằng USD, trong khi USD lại đang gặp rất nhiều vấn đề nghiêm trọng. Nên không loại trừ khả năng đồng tiền Euro sẽ tăng giá rất mạnh so với VND.
Ảnh hưởng bởi đồng USD mất giá so với đồng EUR:
Một trong những vấn đề được quan tâm lớn nhất thời gian qua trên thị trường tiền tệ thế giới là sự lên giá không ngừng của đồng Euro so với USD.
Các DN đã nhập khẩu hàng hóa từ EU chưa thanh toán hết bằng Euro đang lâm vào hoàn cảnh mất cả lãi và thâm hụt vốn bởi giá Euro hiện tăng quá cao so với thời điểm 1 tháng trở về trước, khi đồng tiền này được các DN lựa chọn làm đồng tiền thanh toán hàng hóa với đối tác. Các DN xuất khẩu còn bị nợ tiền bằng USD cũng thiệt hại không nhỏ. Đồng USD giảm giá khiến tỷ giá VND/USD lên cao nhất trong năm nay và câu hỏi đặt ra với nhiều DN là liệu Chính phủ Việt Nam có tác động gì vào đồng bản tệ để có một ''đồng Việt Nam yếu'', giành lợi thế cho xuất khẩu?
Trạng thái ngoại hối của các NH trong nước hiện phần lớn vẫn bằng USD. Mặc dù NH Nhà nước cho phép các NH được duy trì một tỷ lệ nhất định các ngoại tệ mạnh khác trong trạng thái ngoại hối, rất ít NH lựa chọn EUR. Việc duy trì trạng thái ngoại hối bằng các ngoại tệ khác lại càng hiếm hoi. Lý do là đồng tiền Việt Nam đang bám chặt và chỉ bám vào USD. Vì thế ở thời điểm hiện tại, USD có thể mất giá trên thị trường quốc tế, nhưng ở Việt Nam từ đầu năm đến nay USD vẫn tăng so với tiền đồng. Ngân hàng Nhà nước lập luận, tình hình này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm sự ổn định của đồng nội tệ. Ở góc độ DN, đúng là việc bán hàng ra nước ngoài, thu USD, không ảnh hưởng đến công việc sản xuất kinh doanh của họ. Tuy nhiên, trên bình diện quốc gia, tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam được tính bằng USD đang giảm (với cùng một số lượng) nếu so với các ngoại tệ mạnh khác.
Ảnh hưởng bởi đồng EUR mất giá so với đồng USD:
Việc EUR giảm giá so với USD không ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam. Chỉ các doanh nghiệp có các khoản nợ, hợp đồng nhập khẩu phải thanh toán bằng EUR thì được lợi, đó là các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị xi măng, dầu khí, chế biến hoa quả, hoá chất... từ thị trường một số quốc gia ở châu Âu sử dụng EUR. Còn các doanh nghiệp xuất khẩu nào có nguồn thu bằng EUR khi tính đổi ra VND thì bị thiệt. Tuy vậy, do khi xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều đề nghị thanh toán bằng USD, còn khi nhập khẩu và trả nợ thì một số doanh nghiệp đã tìm đến nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá Option của các Ngân hàng thương mại nên ảnh hưởng cũng không nhiều.
2. Một số giải pháp nhằm xử lý tác động của đồng EURO đối với Việt Nam.
2.1. Về lĩnh vực xuất nhập khẩu.
- Hầu hết các nhà xuất khẩu của Việt Nam đang trong tình trạng thiếu vốn do vậy Việt Nam có thể đàm phán cấp Nhà nước với các nước EU để ký kết các hợp đồng vềviệc các ngân hàng thương mại của các nước EU cho Việt Nam vay các khoản tiền bằng đồng EURO để hỗ trợ các doanh nghiệp cũng như các cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu sang EU. Các khoản vay này có thể là trung hạn hoặc dài hạn với lãi suất ưu đãi từ 3 - 5 năm đầu.
- Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK trên thị trường EU.
2.2. Về lĩnh vực đầu tư.
- Tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư EU sử dụng đồng EURO trên thị trường tiền tệ Việt Nam
- Đối với các dự án đầu tư đang thực hiện cần phải có những cuộc trao đổi bàn bạc để đưa ra những quyết định chính xác về việc có nên chuyển đổi đồng tiền tính toán của dự án sang đồng EURO hay không?
- Đối với những dự án mới, thực hiện trước thời điểm 1 - 1 - 2002 thì việc tính toán cũng cần phải được cân nhắc có nên tính toán giá trị của dự án theo đồng EURO không khi mà đồng tiền này đang còn nhiều rủi ro hay tính bằng đồng USD
- Các nhà đầu tư của Việt Nam cần phải chớp thời cơ, nhanh chóng xâm nhập vào EU, so sánh và tính toán các dự án đầu tư của mình bằng đồng EURO để lựa chọn nơi đầu tư hiệu quả nhất..
2.3. Về lĩnh vực vay nợ nước ngoài:
Thời kỳ "Không bắt buộc, không cấm đoán" này nhất là hiện tại đồng
EURO đang giảm giá thì Việt Nam đang có điều kiện thuận lợi để thực hiện
trả các khoản nợ.
Thời điểm hiện tại đồng EURO giảm giá rất có lợi cho Việt Nam vì vậy với những khoản nợ lớn giữa các Chính phủ, cần phải thoả hiệp để có thể chuyển đổi một số khoản nợ sang đồng EURO ngay trong thời điểm này. Đặc biệt là là những khoản tiền vay nợ bằng những đồng tiền mạnh như DM, FF, chúng ta nên có những thoả thuận để chuyển đổi ngay trong thời kỳ này để Việt Nam có thể giảm được cả phần nợ gốc lẫn lợi nhuận phải trả.
2.4. Về dự trữ ngoại tệ:
- Ngân hàng Nhà nước cần đánh giá cơ cấu dự trữ ngoại tệ, trên cơ sở đó có những điều chỉnh tương ứng.
- Không chỉ là Nhà nước mà ngay cả các doanh nghiệp có quan hệ với EU cũng cần phải làm quen và có dự trữ bằng đồng tiền này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mình khi thực hiện trao đổi thương mại.
2.5. Về tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái giữa VND và đồng EURO là một yếu tố quan trọng quyết định việc thực hiện các quan hệ kinh tế Việt Nam - EU, vì thế cần có những việc làm như sau:
Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu, đề xuất với chính phủ về quyết định cho phép chấp nhận đồng EURO trong giao dịch quốc tế cũng như công bố tỷ giá EURO/ VND cùng với các loại ngoại tệ mạnh khác.
Các ngân hàng thương mại cần xem xét, tính toán đối với việc tập trung các tài khoản bằng các loại ngoại tệ của các nước thuộc EMU và quy định mở tài khoản bằng đồng EURO tại một hoặc một số ngân hàng do mình lựa chọn.
Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát linh hoạt, gắn với một tập hợp các đồng tiền mạnh bao gồm cả đồng EURO, đồng USD, đồng JPY, giảm được rủi ro và tăng tính ổn định cho tỷ giá hối đoái khi Việt Nam không còn chỉ theo một tỷ giá duy nhất là đồng USD.
2.6. Về chính sách lãi suất.
Mặc dù hiện nay đồng EURO chưa tác động tới chính sách lãi suất của Việt Nam, nhưng trong thời gian không xa nữa mà quan hệ kinh tế Việt Nam - Eu phát triển thì Chính phủ Việt Nam nên có những chính sách lãi suất thích họp với đồng EURO.
BÀI THAM KHẢO
BÀI 1: “Khủng hoảng Hy Lạp - thách thức cho đồng euro”
Khủng hoảng Hy Lạp - thách thức cho đồng euro
TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo (Đại học Ngân hàng TPHCM)
- Thế giới chưa thật sự vượt qua khó khăn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008) lại phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp, một quốc gia thành viên của Liên hiệp châu Âu (EU).
Sau nhiều tranh cãi, cuối cùng, ngày 1-5-2010, EU và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) vừa thông qua khoản trợ cấp trị giá 120 tỉ euro (tương đương 160 tỉ đô la Mỹ) trong ba năm tới nhằm giúp Hy Lạp vượt qua khủng hoảng nợ. Đến đầu tuần này, khi vấn đề không còn là của riêng Hy Lạp mà để bảo vệ đồng euro trước các làn sóng tấn công của giới đầu cơ, khoản tiền này được cấp tốc nâng lên gần 1.000 tỉ đô la Mỹ, gồm các khoản vay và cam kết mua trái phiếu.
Những khoản tiền khổng lồ này có thật sự ngăn chặn được nguy cơ về một cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu không? Và tại sao một trong những thành viên lâu đời của EU lại rơi vào tình thế bất ổn như hiện nay? Để hiểu rõ vấn đề, thiết nghĩ cần có cái nhìn toàn diện và thấu đáo về Hy Lạp và EU trong những năm qua.
Điểm qua nền kinh tế Hy Lạp
Nguồn: Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), Ngân hàng Trung ương Hy Lạp.
Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu là thành viên của khu vực đồng tiền chung (eurozone hay EU-16). Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2% EU, đóng góp 2,8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu người khoảng 17.440 đô la Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 10,2% (trong khi tỷ lệ này của EU là 10%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước trong EU-16.
Trong những năm qua, tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày càng gia tăng. Năm 2009, mức thâm hụt ngân sách là 12,7% GDP (xem bảng 1) vượt ngưỡng an toàn là 5% GDP và vượt mức cho phép của khu vực đồng tiền chung là 3%/GDP. Để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ Hy Lạp đã vay nợ dưới nhiều hình thức.
Tình hình nợ công của Hy Lạp nói riêng và khu vực đồng euro nói chung từ năm 1999-2009 liên tục gia tăng. Hiện nay, tổng số nợ công trong khu vực euro vào khoảng 7.062 tỉ euro, trong đó khoản nợ của Hy Lạp là 273 tỉ euro, chiếm khoảng 4% tổng nợ của khu vực đồng tiền chung. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp là 108,1%.
Với mức vay nợ như trên, Hy Lạp đang phải đối mặt với khoản nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính phủ vào ngày 19-5-2010. Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ.
Khủng hoảng Hy Lạp làm đồng euro liên tục giảm giá, đang tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán châu Âu và thị trường tài chính toàn cầu. Những bất ổn của Hy Lạp đang đe dọa các nền kinh tế khác; trước hết là các tổ chức đang sở hữu tài sản Hy Lạp và kế tiếp là các quốc gia có mức thâm hụt ngân sách lớn, tỷ lệ nợ công cao như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland... và có nguy cơ khởi tạo một cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu.
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
STT
Quốc gia
Nợ nước ngoài
Nợ công
Thâm hụt ngân sách
GDP/ người
1
Áo
233,7
66,
4,3
26.730
2
Bỉ
348,7
99
5,9
25.520
3
Bồ Đào Nha
188,6
75,2
8
18,150
4
Đức
185,2
77,2
3,4
25.350
5
Hà Lan
62,3
62,2
4,7
27.190
6
Hy Lạp
153
108,1
12,7
177.440
7
Ireland
960,9
63,7
12,5
32.410
8
Luxembourg
4.973,7
14,5
2,2
53.780
9
Pháp
227,4
79,7
8,3
23.990
10
Phần Lan
144
46,6
2,8
24.430
11
Tây Ban Nha
150,7
50
11,2
20.150
12
Ý
58,2
115,2
5,3
24.670
13
Slovennia
71,9
31,4
6,3
-
14
Maita
2
-
4,5
-
15
Cyprus
126
52,4
3,5
-
16
Slovakia
33,2
34,6
6,3
11.960
Bảng 1: Số liệu về thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách năm 2009 của EU.
Đơn vị tính: tỷ lệ % GDP
Nguyên nhân đầu tiên và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, các chính phủ đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công một cách đáng kể. Tuy nhiên, thực trạng này diễn ra tại hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ có Hy Lạp và EU. Do vậy, bên cạnh các tác nhân bên ngoài, Hy Lạp còn có những nguy cơ tiềm ẩn - đó là các yếu tố nội sinh của khu vực đồng tiền chung.
Trước hết, đó là việc không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ
Thật vậy, theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức thâm hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3% nhưng mang tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ chính phủ nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh.
Theo quy định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng.
Thứ hai, tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức.
Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao.
Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm.
Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách.
Thứ ba, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính
Đồng tiền chung hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát.
Quy định này tạo nền tảng cho việc hình thành và ổn định đồng euro. Nhưng nó cũng mang lại nhiều thách thức cho các chính phủ do họ không thể sử dụng chính sách tiền tệ làm công cụ hữu hiệu để hỗ trợ kinh tế phát triển.
Các quốc gia thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung.
Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối với khu vực đồng tiền chung bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau.
Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định.
Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Thật vậy, Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và 18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%.
Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP.
Trong khi đó, tỷ lệ này tại Mỹ, Nhật, Canada lần lượt là 28,2%; 27,4%; 33,4%. Để có nguồn thu lớn, EU đã xây dựng một biểu thuế suất cao hơn. Thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ và Hàn Quốc khoảng 10%; tại Nhật và Canada là 5%. Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên đường của hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Lợi thế trong thu hút nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị tác động
Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công.
Những thách thức cho khu vực đồng euro
Ngày 1-1-1999, ý tưởng về một đồng tiền chung euro đã trở thành hiện thực. Hơn 10 năm sau, euro đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Nguyên nhân sâu xa là một liên minh tiền tệ được xây dựng dựa trên một nền tảng còn khiếm khuyết về pháp lý và chính trị.
Tham vọng biến EU thành một nhà nước liên bang là khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, nền tảng pháp lý là Hiến pháp châu Âu lại chưa được thông qua, Hiệp ước Lisbon chưa thể thay thế một bản Hiến pháp mà EU kỳ vọng. Hạ tầng kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc. Tuy nhiên, yếu tố chính trị sẽ tạo kỷ cương trong việc tuân thủ các chuẩn mực được thỏa thuận trong Hiệp ước Maastricht. EU đã đặt ra các mục tiêu và thời hạn hoàn thành mục tiêu trong quá trình hình thành đồng tiền chung nhưng thiếu hệ thống giám sát nghiêm ngặt các chuẩn mực của đồng tiền chung.
Về mặt kỹ thuật, quá trình hình thành đồng tiền chung đã có những thiếu sót. Một đồng tiền hoàn thiện phải có sự kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; giữa ngân hàng trung ương và bộ tài chính. Khi đối mặt với những bất ổn của nền kinh tế, ECB giải quyết vấn đề thanh khoản và bộ tài chính các nước phải giải quyết các vấn đề ngân sách theo một chuẩn mực chung nhằm bảo vệ sự ổn định tài chính cho khu vực đồng tiền chung.
Khủng hoảng nợ Hy Lạp là giọt nước làm tràn ly. Nguy cơ tiếp theo là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland... Sự thành bại của khu vực đồng euro phụ thuộc vào sự đồng lòng giải quyết khủng hoảng của các thành viên EU.
BÀI 2: NHỮNG NHẬN ĐỊNH VỀ TƯƠNG LAI ĐỒNG EURO
1. Chuyên gia Anh: Đồng euro có thể sẽ "chết yểu"
Đồng euro có thể sẽ "chết" trước khi kết thúc nhiệm kỳ Nghị viện châu Âu - đó là nhận định của đa số chuyên gia kinh tế Khu Tài chính London trong cuộc khảo sát do tờ Điện tín (Anh) thực hiện và được công bố ngày 7/6/2010
Trong tổng số 25 chuyên gia kinh tế hàng đầu của Khu Tài chính London tham gia cuộc khảo sát, có tới 12 chuyên gia cho rằng đồng euro đang "giãy chết" và khó có thể tồn tại hết nhiệm kỳ Nghị viện châu Âu trong năm năm tới.
Thậm chí có những ý kiến cho rằng đồng euro sẽ không tồn tại dưới mô hình thành viên hiện nay trong một tuần tới, chứ chưa nói tới nhiệm kỳ nghị viện năm năm. Trong khi đó, chỉ có tám chuyên gia cho rằng đồng euro có thể vẫn sẽ tồn tại và năm chuyên gia còn lưỡng lự chưa đưa ra nhận định.
Đồng euro. Nguồn: Internet
Cách đây chưa đầy một năm, ít chuyên gia trong Khu Tài chính London có thể tự tin đưa ra dự đoán về sự kết thúc của đồng euro. Tuy nhiên, những biến động như khủng hoảng nợ công của Hy Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong thời gian gần đây và sự thừa nhận của Thủ tướng Đức Angela Merkel rằng đồng euro đang đối mặt với "cuộc khủng hoảng về sự tồn tại" đã làm thay đổi mạnh mẽ quan điểm của giới chuyên gia kinh tế.
Hai trong số tám chuyên gia có nhận định rằng đồng euro sẽ tồn tại, nói rằng "đồng tiền chung này sẽ chỉ tồn tại với cái giá phải trả là chứng kiến ít nhất một thành viên của khu vực đồng euro vỡ nợ."
Chuyên gia Andrew Lilico, Kinh tế trưởng của Viện Policy Exchange, cho rằng "cơ hội gần như là số 0" đối với sự tồn tại của đồng euro trong khối thành viên hiện nay. Trong khi đó, giáo sư David Blanchflower của trường Đại học Dartmouth, từng là nhà hoạch định chính sách của Ngân hàng Trung ương Anh, cho rằng "tác động chính trị của sự đổ vỡ của đồng euro có thể sẽ rất sâu rộng. Đức hiện đang phản đối việc phải chi tiền cho các nước khác và có thể sẽ sớm rút khỏi khu vực đồng euro."
Có bốn nhà kinh tế nhận định rằng mặc dù nhiều người nghi ngờ rằng Hy Lạp hoặc một số nền kinh tế yếu hơn khác có thể sẽ bị buộc phải rời khỏi Khu vực đồng tiền chung, nhưng theo họ, nước có khả năng lớn nhất rút khỏi khu vực này lại chính là Đức.
Chuyên gia Warburton thuộc Công ty Tư vấn Triển vọng Kinh tế (Economic Perspectives) nhận định: "Nhiều khả năng Đức sẽ rút lui và có thể một số nước Tây và Trung Âu khác - cộng thêm Đan Mạch, sẽ tham gia khu vực đồng euro. Có thể, sẽ có một mô hình thành viên đa cấp của EU và một cơ chế của việc tham gia và rút lui khỏi khu vực này. Đồng euro có thể sẽ vẫn tồn tại, nhưng dưới một hình thức khác."
Những quan ngại gần đây về số phận của đồng euro nổi lên sau quyết định cứu trợ khẩn cấp 1.000 tỷ USD hồi tháng trước nhằm ngăn ngừa những đổ vỡ trong tương lai. Mặc dù khoản cứu trợ này cũng đã thúc đẩy niềm tin ban đầu, song các nhà đầu tư vẫn rời xa đồng euro sau khi các chính trị gia thể hiện sự miễn cưỡng phải ủng hộ quyết định cứu trợ này.
“Tỷ giá đồng USD/euro có thể về mức 1,40USD/euro. Nếu đồng USD tiếp tục tăng giá so với đồng euro, vàng có thể trượt giá”
2. Morgan Stanley nhận định đồng euro sẽ tiếp tục giảm giá sâu
Morgan Stanley dự báo đồng euro sẽ suy yếu so với đồng USD bởi những thông tin xấu liên quan đến thâm hụt ngân sách tại Hy Lạp.
Nhà đầu tư đặt vấn đề về độ tin cậy của đồng euro và khả năng những nước thuộc khu vực đồng tiền châu Âu giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách.
Đồng tiền của 16 nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu giảm giá đến ngày thứ 6 liên tiếp so với đồng USD và như vậy có chuỗi thời gian giảm giá dai nhất từ tháng 10/2008 do lo ngại Hy Lạp sẽ không thể giải quyết được vấn đề thâm hụt ngân sách.
Bộ trưởng Tài chính châu Âu ngày 19/01 nhận xét khủng hoảng tại Hy Lạp đang ảnh hưởng đến nhiều nước khác. Cùng ngày Moody cho rằng kế hoạch ngân sách tiếp theo của chính phủ không thể được hiển nhiên chấp nhận.
Ông Emma Lawson, chuyên gia chiến lược ngoại hối thuộc Morgan Stanley tại London, nhận xét: “Đồng euro hiện đang chịu nhiều áp lực từ những gì diễn ra tại Hy Lạp. Độ tin cậy của đồng euro hiện đang người ta xem xét. Việc chính phủ Hy Lạp có giải quyết được các vấn đề của mình đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định niềm tin vào châu Âu nói chung và đồng euro nói riêng.”
Tại thị trường New York phiên ngày hôm qua, đồng euro giảm giá 0,2% xuống mức 1,4084USD/euro và giảm giá so với đồng yên xuống mức 127,37 yên/euro.
Morgan Stanley cho biết việc bán đồng euro là một trong những ưu tiên của tổ chức này trong năm 2010.
Theo dự báo khác từ UniCredit SpA, đồng euro có thể rơi xuống dưới mức 1,40USD/euro lần đầu tiên từ tháng 7/2009 bởi lo lắng Hy Lạp không thể giải quyết được các vấn đề của nước này.
Ngày hôm qua, đồng euro rơi xuống mức thấp nhất trong 5 tháng so với đồng USD, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp phủ nhận thông tin cho thấy khu vực đồng tiền chung châu Âu đang chuẩn bị cho nước này vay tiền.
3. Đồng euro - Gót chân Achilles của châu Âu
Từ nhiều tuần qua, một số nhà kinh tế bi quan dự báo khu vực đồng euro đến ngày tận thế, tức là phải trục xuất một số thành viên không đủ khả năng thực hiện quy định ràng buộc của Hiệp ước Maastricht bảo đảm sự ổn định của đồng euro.
Hy lạp đang lâm vào cảnh hỗn loạn.
Theo hiệp ước này, các thành viên trong khối này không được để cho thâm thủng ngân sách vượt quá 3% GDP. Chính vì quy định này mà các nước dùng đồng euro bị hạn chế khả năng hành động để đối phó với khủng hoảng tài chính: Họ không được phép phá giá đồng tiền để nâng cao khả năng cạnh tranh và giảm bớt gánh nặng nợ công. Trong lịch sử quan hệ kinh tế quốc tế, sự tồn tại và lưu hành một đồng tiền luôn gắn liền với việc quản lý một ngân sách. Khu vực đồng euro là trường hợp độc nhất vô nhị: 16 nước dùng một đồng tiền và những việc quản lý ngân sách thuộc thẩm quyền quốc gia. Nói một cách khác, chưa có được một cơ chế điều tiết chung cho toàn khối đồng euro. Hậu quả của việc trục xuất sẽ rất lớn, không chỉ đối với những nước bị trục xuất mà còn đối với cả toàn khu vực dùng đồng tiền này. Đó là chưa nói đến tác động chính trị. Do vậy, giới lãnh đạo châu Âu không muốn nhắc tới kịch bản này.
Sau khi quyết định tài trợ 110 tỷ euro cho Hy Lạp trong vòng 3 năm, lãnh đạo khối đồng euro nghĩ rằng mọi việc sẽ từng bước ổn thỏa. Thế nhưng, thị trường tài chính không yên tâm chút nào, thậm chí, hiện nay còn có tin đồn là ngoài Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, thì có thể cả Italy và Pháp cũng gặp khó khăn. Dựa theo tính toán của ngân hàng Natixis, báo Le Monde nêu ra những con số chóng mặt : từ nay đến 2012, Bồ Đào Nha sẽ cần 65 tỷ euro, Tây Ban Nha 410 tỷ. Vậy, nước nào có thể giúp và chấp nhận rủi ro. Kịch bản phá sản dây chuyền là nỗi ám ảnh các ngân hàng hiện đang cầm giữ một khối lượng khổng lồ công trái của Hy Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Các ngân hàng Pháp nắm giữ tới 170 tỷ euro công trái của Tây Ban Nha. Các ngân hàng Đức còn nhiều hơn thế.
Nếu thị trường tấn công vào đồng euro, thì đó chính là do châu Âu đã không có khả năng tổ chức. Tạo dựng lại lòng tin vào châu Âu đang là yêu cầu khẩn thiết. Cuối cùng đúng vào lúc châu Âu chịu bắt tay vào cứu Hy Lạp thì những sự cố đáng tiếc đã xảy ra. Sự chậm chạp của các nước và các định chế châu Âu chỉ khuyến khích nạn đầu cơ, làm tăng nguy cơ lây lan khủng hoảng, và hậu quả là cái giá phải trả tăng lên. Nhật báo công giáo La Croix cho rằng đồng euro đã trở thành gót chân Achilles của châu Âu và cần thiết có một châu Âu vững mạnh, để ứng phó với quyền năng và sự biến hóa của các thị trường.
Ông Mike Jones, chuyên gia tiền tệ tại ngân hàng Bank of New Zealand ở Wellington, nhận xét: "Tâm lý bi quan đang tràn ngập thị trường. Những mối lo mới về khả năng khủng hoảng tài khóa Hy Lạp đang khiến tâm lý tránh rủi ro tăng cao. Nhà đầu tư bán tháo đồng euro để tìm đến các loại tiền tệ cao hơn như đồng yên và đồng USD."
Theo giới phân tích, bi kịch ngày nay của Hy Lạp, ngoài việc bắt nguồn từ thói quen tiêu "hoang" của chính phủ nước này, còn có một phần là do tham vọng nhất thể hóa bằng mọi giá của các nhà lãnh đạo châu Âu - những người bị cho là đặt vấn đề chính trị lên trên thực lực kinh tế. Theo New York Times, về cơ bản, sự ra đời của đồng euro mang nhiều màu sắc chính trị - điều này đồng nghĩa với việc các quy định có thể được "uốn cong" khi quyết định nước nào được gia nhập. Ngay ở thời điểm năm 2000, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã bày tỏ sự quan ngại về tình hình nợ của Hy Lạp và nhấn mạnh rằng, mức nợ này đã vượt xa trần quy định của Eurozone. Tuy nhiên, Hy Lạp vẫn cố gây áp lực và đã được chấp nhận vào khối Eurozone vào tháng 1/2001, sớm hơn một năm so với mục tiêu của Athens. Khi đó, trên giấy tờ, Hy Lạp cho thấy họ đã cắt giảm được thâm hụt ngân sách. Và dù chưa giảm được nợ tới mức chuẩn, Athens đã nhấn mạnh vào tiền lệ là một số quốc gia khác như Italy và Bỉ vẫn được gia nhập Eurozone khi chưa đáp ứng được đỏi hỏi về mức nợ chính phủ. Đòi hỏi chính trị về việc giữ yên đồng euro đã dìm sâu mọi lời chỉ trích về những hành vi "phá trần" này
NHỮNG KÝ TỰ VIẾT TẮT TRONG BÀI VIẾT.
ADB : Ngân hàng phát triển châu Á.
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
DM : Đồng Mác - Đức.
ECB : Ngân hàng trung ương châu Âu.
EMI : Viện tiền tệ châu Âu.
EMS : Hệ thống tiền tệ châu Âu.
EMU : Liên minh tiền tệ châu Âu.
ERM : Cơ chế tỷ giá châu Âu.
EU : Liên minh châu Âu.
EU-11 : Liên Minh Châu Âu gồm 11 nước.
EU-15 : Liên Minh Châu Âu gồm 15 nước.
EU-28 : Liên Minh Châu Âu gồm 28 nước.
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
FR : Đồng Fance Pháp.
GBP : Đồng bảng Anh.
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội.
GSB : Ưu đã thuế quan phổ cập.
HK$ : Đồng đôla Hồng Kông.
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vị thế đồng Euro qua các giai đoạn.doc