Vị trí của ngành thủy sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu

Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản. Vai trò của tiếp thị là rất quan trọng nhất là với mội thị trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Mỹ. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiêm cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng Internet.

pdf31 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2561 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vị trí của ngành thủy sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n sang cơ chế kinh tế mới (khoảng 20 năm) của nền kinh tế hướng theo thị trường có sự quản lý của nhà nước, đã tạo được một nguồn nhân lực khá dồi dào trong tất cả mọi lĩnh vực từ khai thác chế biến, nuôi trồng đến thương mại. Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tiễn cũng đã tăng đáng kể. Hàng thuỷ sản liên tục giữ thế gia tăng và ổn định trên thị trường thực phẩm thế giới. Viêt Nam có bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông rạch và 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo vịnh và đầm phá, đảm bảo cho nguồn tài nguyên thuỷ hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt nam có năng lực tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi trường biển còn tương đối sạch do đó hải sản được đánh giá là an toàn cho sức khoẻ – một ưu điểm hàng đầu trên thị trường thuỷ sản thế giới hiện nay. Trong vùng biển độc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2, tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu tấn, trong đó lượng thuỷ sản ở tầng nổi chiếm 62,7% nà tầng đáy chiếm 37,3% đảm bảo cho khả năng khai thác 1.4 đến 1.6 triệu tấn thuỷ sản các loại hàng năm trong đó có nhiều loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao như : tôm hùm, cá ngừ sò huyết…Với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản Việt nam rất dồi dào, khoảng 1,5 triệu tấn mỗi năm . Nhìn chung có thể phát triền thuỷ sản khắp các nơi trên toàn đất nước, ở mỗi vùng có những tiềm năng đặc thù và sản vật đặc sắc riêng. Tuy nhiên , Việt nam có một số vùng sinh thái đất thấp, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long và châu thổ sông Hồng, nơi có thể đưa nước mặn vào rất sâu tạo ra một vùng nuôi nước lợ hoặc nuôi trồng thuỷ hải sản kết hợp với trồng lúa và các hợp đồng canh tác 5 nông nghiệp khác rộng lớn gần 1 triệu ha. Trong hệ sinh thái này có thể tiến hành các hợp đồng nuôi trồng thuỷ hải sản vừa có chất lượng cao vừa có giá thành hạ mà các hệ thống canh tác khác không thể có những lợi thế cạnh tranh đó được. Lợi thế này đặc biệt phát huy thế mạnh trong cạnh tranh với hệ thống nuôi trồng công nghiệp khi giá cả thuỷ sản trên thị trường thế giới ở mức thấp nhất là mặt hàng tôm. Việt nam chưa phát triển nuôi trồng thuỷ sản công nghiệp nên còn nhiều tiềm năng đất đai để phát triển nuôi mà không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho việc phát triển vùng nuôi tôm và các hải sản khác theo phương thức nuôi công nghiệp. Việt nam có nhiều lao động và nguồn nhân lực còn ít được đào tạo, sẽ thích hợp cho những lợi thế khởi điểm mang tính tĩnh khi dùng loại lao động này trong lĩnh vực phát triển nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Chính nhờ những lợi thế trên mà ngành thuỷ sản Việt nam trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và thế mạnh của kinh tế nước ta. Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã đạt được tốc độ phát triển cao, ổn định và mức tăng tổng sản lượng thuỷ sản bình quân hàng năm trên 4% , giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân chiếm 10% đến 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam hàng năm. Năm 1999 tổ chức lưong thực thế giới đã xếp Việt nam vào vị trí thứ 29 trên thế giới và thứ 4 trong các nước ASEAN sau Thái Lan, Inđônêsia, Malaysia về đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Xuất khẩu thuỷ sản không ngừng tăng lên từ năm 1990 đến nay. Mặt khác cơ cấu sản phẩm xuất khẩu rất phong phú: mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam là tôm các loại như: tôm hùm, tôm càng xanh, tôm sú, tôm bạc có giá trị xuất khẩu cao và chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu, mực và cá chiếm 17% và 15,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng thuỷ sản Việt nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim ngạch 856,6 triệu USD. Thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt nam là các nước Châu âu, 13 nước Châu á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trường mục tiêu mà chúng ta hướng vào nhất là sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ được thông qua, cơ 6 hội cho các ngành xuất khẩu của Việt nam đưa hàng vào thị trường Mỹ trong đó có thuỷ sản ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên Việt nam không phải là đối tác duy nhất của Mỹ, xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ có nhiều đối thủ cạnh tranh với ta như: Indonesia, Canada, Trung Quốc…thị phần thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ còn rất khiêm tốn. Đó là một đòi hỏi, thách thức rất lớn đối với nhà hoạch định chiến lược của Việt nam. 1.1.2 Những thách thức của ngành thuỷ sản Việt nam Để phát triển ngành thuỷ sản một cách bền vững và có hiệu quả cao chúng ta cần phải nhận thức rõ những thách thức đang đặt ra, đó là: • Quá dư thừa lao động ở các vùng ven biển, nguồn nhân lực còn ít được đào tạo, cuộc sống vật chất thiếu thốn là sức ép rất lớn cả về kinh tế xã hội và môi trường sinh thái đối với nghề khai thác hải sản . • Cơ sở hạ tầng yếu, chưa đồng bộ với trình độ công nghệ lạc hậu trong khai thác, nuôi trồng, chế biến dẫn đến năng suất và hiệu quả kinh tế thấp . • Công nghệ sản xuất thuỷ sản của Việt nam nhìn chung còn rất lạc hậu so với đối thủ cạnh tranh . • Những đòi hỏi rất cao và ngày càng chặt chẽ về yêu cầu vệ sinh và chất lượng sản phẩm thuỷ sản của các nước nhập khẩu . • Sự hội nhập quốc tế với sự rỡ bỏ hàng rào thuế quan, sự gia tăng dần vị thế của thuỷ sản Việt nam trên trường quốc tế sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt, với nhiều phương thức khác nhau trên thị trường thế giới và ngay cả trên thị trường Việt nam . • Môi trường cho phát triển thuỷ sản là môi trường hết sức linh hoạt và nhạy cảm. Việc phát triển khai thác và nuôi trồng thuỷ sản không theo quy hoạch, không chú ý bảo đảm các điều kiện an toàn sinh thái và an toàn vệ sinh thức phẩm sẽ dẫn đến nhiều hậu quả rất nghiêm trọng có tính chất lâu dài về môi trường, thị trường và xã hội . 1.2 Chủ trương phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu Quán triệt đường lối phát triển kinh tế -xã hội của Đảng trên tinh thần tiếp tục đẩy nhanh công cuộc đổi mới của đất nước, để góp phần thực hiện được các mục 7 tiêu kinh tế –xã hội đề ra, đảm bảo cho ngành thuỷ sản hội nhập được với kinh tế khu vực và thế giới, ý thức được yêu cầu gắn kết giữa phát triển sản xuất đa dạng với bảo vệ chủ quyền vùng biển và an ninh quốc phòng ngành thuỷ sản Việt nam đã lấy xuất khẩu làm động lực phát triển , coi xuất khẩu là hướng phát triển mũi nhọn và ưu tiên số một, lấy các thị trường các nước có nền kinh tế phát triển cao (Bắc Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc và Mỹ ) là các thị trường chính. Chủ trương này được thể hiện cụ thể trong các vấn đề sau: - Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội đất nước bằng việc tằng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. - Đưa ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế được công nghiệp hoá và hiện đại hoá có luận cứ khoa học chắc chắn cho phát triển thuỷ sản và áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại tiên tiến và thích hợp, nhằm không những tạo ra hiệu quả kinh tế cao, phát triển những lợi thế so sánh mà còn góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. - Xây dựng một ngành thuỷ sản được quản lý tốt nhằm đạt được sự phát triển ổn định, bền vững cho hiện nay và trong tương lai. Nguồn lợi hải sản tự nhiên của Việt nam đã bị khai thác quá mức đối với vùng ven biển và gần bờ, phần gia tăng sản lượng khai thác chỉ có thể trông cậy vào việc khai thác xa bờ, nhưng sự khai thác này cũng chỉ có giới hạn do tính hiệu quả không cao. Do vậy phương án được lựa chọn là chỉ giữ sản lượng khai thác của nước ta ổn định ở mức 1.200.000 ÷ 1.400.000 tấn, với việc giảm sản lượng khai thác vùng ven biển và gần bờ đồng thời tăng dần sản lượng khai thác ở các vùng biển xa bờ để bù đắp số sản lượng bị suy giảm do hạn chế dần việc khai thác gần bờ. Nuôi trồng thuỷ sản sẽ trở thành ngành sản xuất nguyên liệu chủ yếu và sản lượng của ngành nuôi trồng phải vươn lên chiếm khoảng 60% tổng sản lượng thuỷ hải sản trong tương lai. Những chỉ tiêu định hướng của ngành thuỷ sản đến năm 2010 được hoạch định như sau: 8 • Không tăng sản lượng khai thác trong các thời kỳ 2003- 2010, giữ mức dao động xung quanh 1.400.000 tấn/ năm( ở đây chỉ tính riêng cho cá mực). Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10%-15%. • Kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng 10%-15%/ năm , trong giai đoạn 2000 – 2005 tăng khoảng 12%-15%, giai đoạn 2005-2010 tăng khoảng 10%-12%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 3,0-3,5 tỷ USD( năm 2005) và 4,5 –5 tỷ USD năm 2010. Thể hiện ở bảng 1: Bảng 1 Năm Đề mục 2003 2005 2010 I.Tổng sản lượng (tấn) Trong đó: 1. Sản lượng nuôi ( tấn) - Thuỷ sản nước ngọt - Tôm - Cá biển - Nhuyễn thể - Thuỷ sản khác 2. sản lượng khai thác( tấn) - Khai thác gần bờ. - Khai thác xa bờ. Bao gồm: - Sản lượng cá. - Sản lượng mực. - Sản lượng tôm II. Kim ngạch xuất khẩu( nghìn USD) 2.490.000 1.090.000 568.720 213.270 53.057 175.355 79.598 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 2.300 2.550.000 1.150.000 600.000 225.000 56.000 185.000 84.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 3.000 3.400.000 2.000.000 870.000 420.000 200.000 380.000 130.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 4.500 Để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm từ thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao cho các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút của nguồn lợi biển tăng khả năg phục hồi tự nhiên của các nguồn lợi biển nhưng vẫn 9 duy trì được tốc độ phát triển cao, phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu cần tiến hành các hoạt động sau: - Đánh bắt thuỷ sản: để phát triển lâu dài và ổn định nguồn nguyên liệu đánh bắt, Việt nam cần tăng cường đầu tư vào điều tra có hệ thống các nguồn lợi thuỷ sản, xây dựng bản đồ phân bố biến động các đàn cá trên các ngư trùng, phát triển các đội tàu công suất lớn, trnag thiết bị và đào tạo kx thuật đánh bắt cá đại dương làm cơ sở cho đánh xa bờ, kỹ thuật bảo quản, mở rộng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho đánh bắt. - Nuôi trồng thuỷ sản:phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản nước lợ với việc ưu tiên chiến lược cho nuôi phục vụ xuất khẩu, nhất là nuôi tôm, cá biển và nhuyễn thể. áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, tăng giá trị xuất khẩu. Cần chú ý xây ựng các trại giống thuỷ sản,nhà máy sản xuất thức ăn, cải tạo và hiện đại hoá các vùng nuôi trồng quảng canh và bán thâm canh, phát triển cacs vùng nuôi trồng công nghiệp, phát triển công nghệ và đa dạng hoá nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước mặn , nước lợ, phòng chống sẽ là những trọng điểm mà ngành thuỷ sản cần quan tâm trong vài năm tới. - Chế biến thuỷ sản xuất khẩu: Đa dạng hoá các mặt hàng chế biến cho xuất khẩu, đồng thời phải đầu tư cho chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn quốc tế (HACCP). Việc xây dựng các nhà máy chế biến hiện đại phải theo kịp tốc độ phát triển sản lượng thuỷ sản nhằm nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu, phải giảm dần tỷ lệ xuất khẩu thuỷ sản thô tránh hiện tượng lãng phí nguồn lợi thuỷ sản do yếu kém trong khâu này. - Mở rộng thị trường xuất khẩu: Việt nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tranh thủ sự hợp tác giup đỡ về vốn, công nghệ, trong các lĩnh vực khai thác, chế biến thuỷ sản,đào tạo và chuyển giao kinh nghiệm quản lý và phát triển thị trường … Công tác Marketing quốc tế cho lĩnh vực thuỷ sản luôn càn có sự tham gia tích cực của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ thương mại …như tổ chức và tham gia các hội chợ thương mại về thuỷ sản tại Việt nam hay tại các thị trường tiềm năng (EU, Mỹ, Nhật bản, Trung Quốc…) nhằm giới thiệu các sản phẩm thuỷ sản Việt nam. 10 - Các chính sách của Chính phủ: Chính phủ cần sớm hoàn thiện các luật và chính sách bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển lĩnh vực thuỷ sản; các chính sách hỗ trợ đầu tư, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm xuất khẩu… Với lợi thế tự nhiên to lớn và sự quan tâm của chính phủ cùng sự năng động chung của toàn bộ nền kinh tế, ngành thuỷ sản Việt nam có đủ khả năng để đứng trong hàng ngũ 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới vào năm 2010. 1.3 Thị trường thuỷ sản quốc tế và những cơ hội cho xuất khẩu thuỷ sản Việt nam 1.3.1 Thị trường thuỷ sản thế giới . Trong những năm gần đây khác với thị trường nhiều loại hàng thực phẩm trì trệ hay chậm phát triển, thị trường thuỷ sản thế giới khá năng động. Điều này một phần liên quan đến đặc điểm về tính chất quốc tế của hàng thuỷ sản, phần khác là do tương quan cung- cầu về thuỷ sản trên thế giới chưa cân đối gây ra. Dù sao thị trường thuỷ sản thế giới vô cùng đa dạng, phong phú với hàng trăm dạng sản phẩm được trao đổi mua bán trên nhiều thị trường trong nước và khu vực khác nhau . Do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino và La Nina sau khi tăng nhẹ 1,8% vào năm 1997, tổng sản lượng thuỷ sản thế giới đã giảm liên tiếp trong hai năm 1998 và 1999 . Năm 1999 sản lượng đánh bắt thuỷ sản đạt 91 triệu tấn và sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 31 triệu tấn. Trong khi sản lượng đánh bắt giảm sút liên tục thì khu vực nuôi trồng có những bước tăng trưởng khá cao, khoảng 75%/năm trong mười năm qua. Những nước đứng đầu về sản lượng đánh bắt thuỷ sản là Trung Quốc, Pê Ru, Nhật Bản, Mỹ, Nga, ChiLê, Indonesia, Thái Lan, Ân Độ , AiLen, Na Uy, Hàn Quốc, chiếm hơn một nửa tổng sản lượng thế giới. Trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản,Trung Quốc chiếm hơn 70% tổng sản lượng nhưng chỉ 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, Nhật bản chỉ chiếm 3,7% tổng sản lượng thế giới nhưng đạt gần 10% tổng kim ngạch trao đổi thuỷ sản nuôi trồng nhờ những sản phẩm có giá trị kinh tế rất cao như : ngọc trai, cá ngừ… 11 Thị trường trao đổi thuỷ sản thế giới rất rộng lớn bao gồm 195 nước xuất khẩu và 180 quốc gia nhập khẩu thuỷ sản trong đó nhiều quốc gia vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu thuỷ sản như Mỹ, Pháp, Anh... Hiện nay Thái Lan là nhà xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu hơn 4 tỷ USD, tương đương 8% tổng kim ngạch thế giới. Sau đó là Mỹ,Nauy ,Trung Quốc, Pêru, Đài Loan… Trong nhập khẩu thuỷ sản thế giới các nước phát triển chiếm tỷ lệ áp đảo (85% -90%) nhập khẩu toàn thế giới trong 10 năm nay. Nhập khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây. Nước truyền thồng nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất trên thế giới là Nhật Bản (chiếm 35,9%), tăng từ 4,7 tỷ USD năm 1985 lên 17,8 tỷ USD năm 1995. Thứ hai là Hoa Kỳ với mức nhập khẩu tăng từ 4 tỷ USD năm1985 lên 7,14 tỷ USD năm 1995 (chiếm khoảng 16% nhập khẩu của thế giới ). Các nước phát triển Tây Âu ( đặc biệt là các nước thuộc liên minh Châu Âu). Chiếm tỷ trọng nhập khẩu là 35,1%, nhập khẩu tăng từ 6,4 tỷ USD năm 1985 lên 18,9 tỷ USD năm 1995. Từ đầu những năm1990, trong số 15nước nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay, người ta thấy có tên của các nước đang phát triển như Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc. Từ năm 1995 đến nay, tiêu thụ thuỷ sản của mỗi gia đình Trung Quốc tăng lên gấp 3,5 lần. Hơn thế nữa Trung Quốc được coi là thị trường dễ tính, thị trường này chấp nhận tiêu thụ cả những sản phẩm xuất khẩu đi EU bị trả lại do bao bì hư. Có thể nói đây là một thuận lợi căn bản cho những doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam . 1.3.2 Mỹ- thị trường thuỷ sản đầy tiềm năng. Mỹ là một cường quốc hàng đầu thế giới về cả kinh tế, khoa học- công nghệ, quân sự. Khả năng xuất nhập khẩu của Mỹ hiện đã lên tới trên 1000 tỷ USD, mỗi năm chiếm khoảng 1/4 kim ngạch xuất nhập khẩu. Mỹ có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường thế giới, đến các tổ chức kinh tế như : AFTA, APEC, WTO…vì vậy mở rộng kinh quan hệ kinh tế – thương mại với Mỹ Việt nam không những có thể tiếp cận nhanh chóng một nền kinh tế lớn nhất hành tinh, có thị trường rộng lớn, đa dạng và có trình độ khao học – công nghệ tiên tiến, mà còn giúp 12 Việt nam tiếp cận được với thị trường khu vực và thế giới, tiếp cận với các tổ chức thưong mại và các tổ chức tài chính thế giới, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu, ổn định nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để xuất khẩu được nhiều hàng hoá sang thị trường Mỹ chính phủ và các doanh nghiệp Việt nam phải tích cực và chủ động khai thác mọi cơ hội đồng thời đấu tranh vượt qua những thách thức, trở ngại để hàng hoá Việt nam đặc biệt là hàng thuỷ sản có chỗ đứng xứng đáng trong thị trường đầy tiềm năng này . Hiện nay, với dân số khoảng hơn 270 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội lên tới 10000 tỷ USD / năm, trong đó 80% được dành cho tiêu dùng. Mỹ là một nước có nền kinh tế mạnh nhất, là thị trường có sức mua lớn nhất, hàng năm Mỹ tiêu thụ hàng triệu tấn thuỷ sản các loại. Theo số liệu của viện nghề cá quốc gia Hoa Kỳ (NFI) mức tiêu thụ thuỷ sản thực phẩm bình quân của người Mỹ năm 2000 đã đạt 7,02 kg. Bởi vậy, mặc dù là nước có tiềm năng về thuỷ sản (Là một trong 10 nước có sản lượng thuỷ sản cao nhất thế giới ), hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng thuỷ sản. Năm 2000 giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ đã đạt con số kỷ lục là 19 tỷ USD. Bên cạnh đó, nước Mỹ có thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Hầu hết người Mỹ có nguồn gốc từ Châu Âu, các dân tộc thiểu số gồm người Mỹ bản xứ, Mỹ la tinh, Châu á và người từ các đảo Thái Bình Dương. Các dân tộc này đã đưa vào nước Mỹ các phong tục tập quán, ngôn ngữ, đức tin riêng của họ. Điều này tạo nên một môi trường văn hóa phong phú và đa dạng, một quốc gia đa sắc tộc. Đặc điểm này đã đem lại cho Mỹ tính đa dạng trong tiêu dùng rất cao. Với những mức thu nhập khác nhau, người tiêu dùng Mỹ có sở thích mua tất cả các loại sản phẩm từ đá tiền đến rẻ tiền từ khắp nơi trên thế giới. Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là số lượng Việt kiều tại Mỹ là rất đông, đây có thể sẽ là một gợi ý rất quan trọng cho các doanh nghiệp Việt nam thâm nhập thị trường Mỹ. Hơn nữa, để bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản, Mỹ chủ trương tăng nhập giảm xuất và xu hướng này vẫn tiếp tục kéo dài trong những năm tới đây. 13 Chính vì lẽ đó Mỹ là một thị trường thuỷ sản rất hấp dẫn đối với các nước xuất khẩu. 1.3.3 Hiệp định thương mại Việt-Mỹ Hiện nay,Việt nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, việc ký kết và thực thi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ đem lại cho Việt nam những cơ hội và thách thức. Điều đó, đòi hỏi chính phủ mà đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt nam phải tính tới và xây dựng cho được lộ trình, bước đi thích hợp để đưa hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay gắt. 1.3.3.1 Những cơ hội chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam Thứ nhất, khi hiệp định thực thi có hiệu lực, Việt nam sẽ được hưởng ưu đãi thương mại, có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng thị trường. Chúng ta đều biết Mỹ là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều quốc gia, thu hút sự qua tâm của nhiều nhà xuất khẩu. Trước thời điểm Hiệp định thương mại chưa được ký kết, doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá Việt nam xâm nhập thị trường Mỹ rất khó khăn, phải cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp của các nước khác cùng có mặt tại thị trường Mỹ, đặc biệt là hàng hoá Việt nam phải chịu mức thuế rất cao. Khi Hiệp định có hiệu lực, các trở ngại trên bị rỡ bỏ,các doanh nghiệp Việt nam được bình đẳng với các doanh nghiệp khác khi tiếp cận thị trường Mỹ bởi lẽ Việt nam có được đối xử Tối huệ quốc (được hưởng điều kiện thương mại bình thường) từ phía Mỹ trong đó quan trọng là các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể . Thứ hai, tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ Mỹ và các nước tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm. Nhiều nước và trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật, Singapo, Thái Lan…sẽ tăng cường đầu tư vào Việt nam vì hàng hóa sản xuất tại Việt nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Bản thân các nhà đầu tư Mỹ cũng sẽ vào Việt nam nhiều hơn để sử dụng những lợi thế ở thị trường này sản xuất ra hàng hoá rồi xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ và các nước khác. Thứ ba, tạo điều kiện tiền đề cho Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế và gia nhập WTO. Việc Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC và đặc biệt là hiệp 14 định thương mại có những điểm khá tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và lộ trình. Đó là sự thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia với nguyên tắc: thương mại không phân biệt đối xử dưới hai hình thức đãi ngộ Tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, thương mại tự do hơn, tăng cường cạnh tranh bình đẳng, công bằng khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế . Thứ tư, thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước đặc biệt là đổi mới cơ chế và hành chính. Chính việc thực hiện các cam kết và mở cửa thị trường Việt nam theo lộ trình của Hiệp định đã ký sẽ là chất xúc tác thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế chính sách, luật pháp và thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước làm cho các hoạt động này trở nên năng động, mềm dẻo hơn thích ứng với thông lệ và tập quán quốc tế, cũng như các nguyên tắc, quy định của Mỹ. 1.3.3.2 Thách thức Bên cạnh những cơ hội mà hiệp định thương mại Việt- Mỹ mở ra, nó còn đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ nhất, việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi đặc biệt đối với các nước chậm phát triển nhưng Việt nam chưa được hưởng chế độ này. Mức thuế trung bình là 5%, nhưng nếu được hưởng ưu đãi thì mức thuế này tiến tới 0%. Thứ hai, tiêu chuẩn chất lượng các mặt hàng Việt nam xuất vào các nước công nghiệp phát triển đều phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO hoặc tiêu chuẩn tương đương của các nước Đức ,Nhật, Hoa Kỳ, đây là một khó khăn lớn đối với các mặt hàng thuỷ sản Việt nam không những thế hàng hoá Việt nam sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa cùng loại của các nước Châu á khác, đặc biệt là Indonesia và Canada, trong khi đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam về cả ba phương diện: chất lượng, giá cả và mẫu mã hầu như còn rất yếu. Thứ ba, khi thực hiện NTR (quan hệ thương mại bình thường), các doanh nghiệp Mỹ sẽ thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt nam, được hưởng các ưu đãi về 15 nhập khẩu những nguyên liệu để sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu. Khi đó các doanh nghiệp Mỹ và hàng hoá do Mỹ sản xuất ra sẽ có ưu thế hơn các doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá do Việt nam sản xuất ra bởi Mỹ có vốn lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến... Thứ tư, để doanh nghiệp và hàng hoá Việt nam vào được thị trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt nam phải làm quen với các tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ, phải tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Mỹ. Đây là một quốc gia có hệ thống pháp luật, chích sách thương mại khá rắc rối và phức tạp . PHẦN 2 : THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 Tình hình sản xuất nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản của Việt nam Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê và Bộ thuỷ sản,sản lượng thuỷ sản đánh bắt của Việt nam không ngừng tăng qua các năm. Sản lượng đánh bắt tăng từ 576.860 tấn ( năm 1985) lên 928.800 tấn ( năm 1995) và đạt 1,2 triệu tấn ( năm 2000). Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng từ 231.200 (năm 1985) lên 310.000 tấn ( năm 1995) và 723.110 tấn (năm 2000). Như vậy, tổng sản lượng thuỷ sản của nước ta tăng từ 808.100 tấn ( năm 1985) lên 1,3 triệu tấn ( năm 1995) và 2 triệu tấn (năm 2000). Xu hướng tăng sản lượng thuỷ hải sản của Việt nam thời gian qua phù hợp vỡi xu hướng tăng 16 chung của các nước phát triển trong khu vực và thế giới . Đặc biệt là tốc độ tăng sản lượng thuỷ sản giữa đánh bắt và nuôi trồng là khá cân đối (5,5% & 6%) . Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản của nước ta đã có bước phát triển nhanh về số lượng nhà máy chế biến cũng như là công suất chế biến thuỷ sản. Nếu như năm 1986 công suất chế biến là 210 tấn thành phẩm / ngày thì 10 năm sau đã tăng lên khoảng 800 tấn thành phẩm/ ngày. Nhưng cũng theo Bộ thuỷ sản, gần 80% nhà máy chế biến xuất khẩu đã hoạt động trên 10 năm trang thiết bị đến nay đã quá lạc hậu, lại thiếu đồng bộ nên chưa đảm bảo được các yêu cầu về số lượng và sản phẩm chế biến . Về đầu tư đánh bắt hải sản và nuôi trồng thuỷ sản: từ năm 1986 đến năm 1999 số lượng tầu thuyền tăng hơn hai lần, nhưng tổng công suất tăng lên ba lần. Thực hiện chương trình khai thác xa bờ, nhà nước đã đầu tư 900 tỷ đồng từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi. Các địa phương đã triển khai 615 dự án, đóng mới 769 tầu, cải hoàn 132 tầu công suất 90 CV. Đến nay số vốn được giải ngân là 614,232 tỷ đồng, đạt 68,24% so với tổng nguồn vốn và 450 tầu đi vào sản xuất và đánh bắt hải sản xa bờ. 2.2 Tình hình xuất khẩu chung của thuỷ sản Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1996-2002 liên tục gia tăng qua các năm. Điều đó được thể hiện ở bảng 2 . Bảng 2: xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam 1996-2002. Năm Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Tốc độ tăng (%) 1996 1997 1998 1999 2000 2001 696,50 782,00 858,00 985,73 1478,60 1800,00 100,00 112,28 109,72 111,74 150,00 122,00 17 2002 2100,00 116,67 ( Nguồn Bộ thuỷ sản ) Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thời kỳ 1996-2001 được thể hiện ở bảng 3 Bảng 3: các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu (1996-2001) Đơn vị tính: 1000 tấn Năm Cá đông lạnh Mực đông lạnh Tôm đông lạnh Mực khô Thuỷ sản khác 1996 1997 1998 1999 2001 29,70 81,00 69,70 89,90 127,85 20,2 40,0 60,8 73,9 89,7 51,1 68,2 431,7 225,6 301,5 5,9 6,4 9,4 11,6 19,8 15,2 41,4 59,8 83,6 117,4 ( Nguồn Bộ thuỷ sản ) Nhìn vào biểu trên ta thấy, sản lượng xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản liên tục tăng qua các năm, trong đó mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam là tôm các loại (như tôm hùm, tôm càng xanh, tôm sú, tôm bạc có giá trị xuất khẩu rất cao và chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu) và cá đông lạnh, tiếp đến là các mặt hàng thuỷ sản khác, mực đông lạnh và thấp nhất là mực khô . Thị trường xuất khẩu thuỷ sản đã có sự mở rộng, các đơn vị xuất khẩu đã có quan hệ với trên 24 nước trên thế giới. Trong những năm gần đây Việt nam đã cố gắng mở rộng thị trường sang Châu Âu, Mỹ, Nhật… Nhật Bản, thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới, là thị trường số một của ngành thuỷ sản Việt nam. Xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang Nhật trong năm 2002 đã tăng hơn 40% so với năm 2001, đưa thị phần xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật bản chiếm 45% tổng kim ngạch. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường Châ á khác như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan cũng tăng nhanh và chiếm 21% thị phần xuất khẩu, trong đó Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ ba trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam với kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này năm 2001 đạt gần 30 triệu USD. Đây là khu vực thị trường rất có tiềm năng cho xuất khẩu thuỷ sản của ta trong thời 18 gian tới một thị trường có mức tiêu thụ thuỷ sản khoảng 24kg/người/năm. Trung Quốc đang nhập khẩu rất nhiều mặt hàng của Việt nam như: mực khô cá muối các loại, mực đông lạnh, cua, lươn, tôm, bạch tuộc. Việt nam chính thức xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU từ năm 1997. Hiện nay, thị trường EU là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn của Việt nam, chiếm khoảng 15% xuất khẩu thuỷ sản của cả nước , kim ngạch đạt 89 triệu USD năm 1999 và tăng lên 91 triệu năm 2001. 2.3 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vào thị trường Mỹ Bắt đầu từ năm 1994, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam, những lô hàng thuỷ sản Việt nam đầu tiên đã có mặt trên thị trường Mỹ. Từ đó trở đi cho đến tháng 7-2000, mặc dù chưa ký được Hiệp định thương mại Việt-Mỹ nhưng giá trị xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt nam vẫn tăng đều đặn và tăng đột biến vào những năm 2000 và 2001, Mỹ đã vượt Nhật và trở thành nước nhập khẩu hàng thuỷ sản lớn nhất của Việt nam ( bảng 4) . Bảng 4: Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vào thị trường Mỹ Đơn vị tính : triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng Kim ngạch xuất khẩu Tỷ lệ (%) 19 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 5,780 19,498 33,988 39,830 80,200 129,500 298,220 523,600 631,200 _ 13,71 14,49 5,85 40,37 49,30 168,72 225,58 107,60 _ 237,2 74,3 17,2 101,3 61,5 130,2 75,6 20,5 ( Nguồn Bộ thuỷ sản ) Trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ, tôm và cá vẫn là mặt hàng chủ lực, trong đó những mặt hàng xuất khẩu lớn trong năm 2001 là: tôm các loại 33200 tấn, cá tra và cá basa 7800 tấn, cá ngừ các loại 1200 tấn. Mặt hàng tôm của Việt nam đang xuất khẩu vào Mỹ vừa có khối lượng lớn vừa có giá trị cao. Tôm của Việt nam xuất khẩu vào Mỹ có ưu thế so với một số nước khác về kích cỡ sản phẩm có uy tín về chất lượng đối với người tiêu dùng. Cá tra và cá basa của Việt nam đã dành được thị phần không nhỏ trong tổng khối lượng nhập khẩu loại cá này vào Mỹ. Giới tiêu dùng Mỹ đã quen dùng cá basa của Việt nam đây là một lợi thế lớn để Việt nam đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào Mỹ. Các sản phẩm khác như cá ngừ , cá philê đông, cua tươi, cá biển đông, cá nước ngọt đông, cua đông…cũng chiếm được thị phần không nhỏ trên thị trường Mỹ…cơ cấu giá trị xuất khẩu bốn loại thuỷ sản trên của Việt nam vào Mỹ tương ứng như sau: tôm 79,8%; cá tra, cá basa 4,5%; cá ngừ 4,1%; và các sản phẩm khác là 11,6%. Theo thống kê của Mỹ, sản phẩm thuỷ sản của Việt nam xuất khẩu sang Mỹ đa dạng về chủng loại, có tới 135 loại sản phẩm khác nhau. Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các sản phẩm thuỷ sản của ta có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan và Indonesia nên thường bán được với giá cao hơn. Năm 2000 mặc dù Việt 20 nam chỉ xuất 15.000 tấn tôm nhưng giá trị rất cao: 224 triệu USD, trong khi đó ấn Độ xuất 26.000 tấn mà chỉ thu được 223 triệu USD tính ra một kg tôm của Việt nam bán được 14,935 USD, của Mexico là 13,961 USD, của Thái Lan là 11,895 USD, và của ấn Độ là 8,076 USD. 2.4. Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua đã có những dấu hiệu khởi sắc đặc biệt là năm 2001. Tuy nhiên thị trường tiềm năng này cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Thứ nhất, các mặt hàng thuỷ sản của ta xuất khẩu vào Mỹ chủ yếu vẫn ở dạng sơ chế, giá trị chưa cao trong khi với hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu Mỹ có nhu cầu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế (tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá philê, hộp thuỷ sản ). Cụ thể, với mặt hàng cá ngừ hiện nay Việt nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ (chiếm 90% giá trị xuất khẩu cá ngừ), trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt hàng được tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị xuất khẩu của Việt nam không đáng kể ( 5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản (thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá ), ngọc trai, cá cảnh…(giá trị nhập khẩu của Mỹ năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng ta chỉ mới chú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói là chưa có sự phù hợp cao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Thứ hai, tuy hàng hoá Việt nam vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường, nhưng hàng thuỷ sản Việt nam vẫn gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức đối với nhiềi địch thủ trên thị trường Mỹ. Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ sản vào Mỹ, trong đó có nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như: Thái Lan (tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản…) Trung Quốc ( tôm đông, cá rô phi…), Canada ( tôm hùm, cua…), Indonesia (cua,cá ngừ, cá rô phi…), Philippin (hộp cá ngừ, cá ngừ tươi đông, tôm đông và rong biển…) nên sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết 21 liệt. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt nam còn rất yếu, theo phòng thông tin và công nghiệp Việt nam thi trong hai ngành mà Việt nam có khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ là dệt may và thuỷ sản thì tỷ lệ doanh nghiệp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ là thấp: chỉ có khoảng 50 trong tổng 3000 thành viên của hiệp hội dệt may và 60 –70 trong tổng số hàng trăm thành viên của ngành thuỷ sản là có được năng lực cạnh tranh này. Không những thế các sản phẩm về cá của thuỷ Việt nam lại gặp phải sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp Mỹ, đặc biệt đó là các loại cá nheo hiện chiếm đến 95% sản lượng cá nước ngọt xuất khẩu của ta. Hơn nữa thị trường Mỹ qúa xa Việt nam nên chi phí vận chuyển và bảo hiểm chuyên trở hàng hoá rất lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh từ Mỹ sang Việt nam tăng lên, không những thế thời gian vận chuyển đã làm cho hàng tươi sống giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng lên, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ so với các nước Châu Mỹ la tinh. Điều đó đã làm cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam bị giảm sút nhiều và không đạt được hiệu quả như mong muốn vì giá thấp. Thứ ba, thị trường Mỹ đòi hỏi sản phẩm nhập khẩu phải có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên họ đã đặt ra những luật lệ rất nghiêm ngặt về vấn đề này: hàng rào phi thuế quan của Mỹ khắt khe hơn so với nhiều thị trường khác, từ sau 18-12-1997 Mỹ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc nhập khẩu hàng thuỷ sản. Theo quy định này hàng nhập vào Mỹ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã ứng dụng HACCP. Nội dung HACCP của Mỹ tập chung vào việc đảm bảo an toàn thực phẩm, các yếu tố chất lượng được gắn với hệ thống quy phạm sản xuất ( GMP ) và các yếu tố vệ sinh (SSOP). Luật quy định về nhãn hiệu lực từ 8-05-1994 áp dụng các quy định về dán nhãn đồ hộp cá, các sản phẩm tôm và các yếu tố thông báo về chất lượng và các tiêu chuẩn khác. Bên cạnh đó, lấy lý do là bảo về nguồn lợi thiên nhiên và môi trường thế giới nói chung nên Mỹ còn đưa ta các rào cản kỹ thuật nhằm gây ra khoa khăn cho các nhà xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Thí dụ, với một số nước như Thái Lan, ấn Độ…muốn xuất khẩu được thuỷ sản vào Mỹ doanh nghiệp phải có giấy 22 chứng nhận công nghệ đánh bắt không mang tính huỷ diệt các hải sản quý hiếm hoặc quy trình nuôi không gây ô nhiễm môi trường xung quanh…Đây chính là những vấn đề mà Việt nam cần phải nghiên cứu vì trước sau Mỹ cũng sẽ áp dụng những quy định này đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam . Thứ tư, sự hiểu biết của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt nam về thị trường Mỹ, về luật lệ làm ăn của Mỹ còn quá ít. Hệ thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Với 50 tiểu bang riêng biệt với hai hệ thống pháp luật cùng song song tồn tại: luật liên bang và luật của từng bang sẽ tạo ra nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp Việt nam. Chính vì vậy, nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì doanh nghiệp Việt nam sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử một số luật sau: luật chống độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh sẽ phạt tiền đền 1 triệu USD hoặc tù 3 năm đối với tư nhân. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế. Các doanh nghiệp Việt nam còn bị động trong việc tìm kiếm khách hàng , xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thuỷ sản …, yếu về công tác Marketing, xúc tiến thương mại. Cho đến nay chỉ có một số doanh nghiệp là tham gia hội chợ thuỷ sản Boston tại Mỹ tổ chức vào tháng 3 hàng năm, mới chỉ có hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt nam có văn phòng đại diện tại Mỹ . Trong khi đó các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn vào Mỹ đều đã thiết lập các văn phòng ở khắp các thành phố khác nhau trên nước Mỹ để kịp thời nắm bắt thông tin và những biến động của thị trường Mỹ nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ năm, hàng hoá của nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ phải trải qua một thủ tục hải quan khá chặt chẽ. Hệ thông thuế của Mỹ (gọi tắt là HTS) hiện không được thi hành ở Mỹ mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp dụng. Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế xuất biến động từ 1%-40% trong đó mức thông thường từ 2%-7% giá trị hàng 23 nhập khẩu. Một số hàng hoá phải chịu thuế gộp tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng… Thứ sáu, mặc dù đã có những cố gắng và đạt kết quả tương đối tốt hiện nay ngành thuỷ sản Việt nam vẫn còn vấn đề cần giải quyết như: khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên ven bờ, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu giống, thiếu trình độ chuyên môn. Trong chế biến vẫn còn 2/3 số doanh nghiệp co quy mô vưa và nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu đối với sản xuất và quản lý theo tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm. Công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nước ngoài vừa cũ vừa lạc hậu do đó không đảm bảo được chất lượng phục vụ cho xuất khẩu . Như vậy chúng ta phải có công nghệ tiên tiến có lượng vốn lớn. Giải quyết vấn đề vốn là bài toán khó đối với mọi quốc gia đặc biệt là những nước nghèo và những nước đang phát triển như Việt nam hiện nay. 24 PHẦN 3 . MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 3.1. Dự báo khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang Mỹ trong thời gian tới. Thị trường thuỷ sản thế giới nếu mở rộng 5%/năm có khả năng đạt trên 83 tỷ USD vào năm2005 và trên 1000 tỷ USD vào năm 2010 nếu khi đó thị phần của Việt nam vẫn duy trì là 1,5% xuất khẩu của thế giới thì chúng ta có khả năng cung cấp cho thị trường thế giới 3 tỷ USD vào năm 2005 và khoảng 5 tỷ USD vào năm 2010. Theo kế hoạch năm 2003 ta phấn đấu đạt 2,3 tỷ USD. Với thị trường Mỹ trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt nam là việc đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn hàng thuỷ sản theo điều kiện HACCP. Được biết trong số 320 cơ sở chế biến thuỷ sản quy mô công nghiệp chỉ có 124 cơ sở (38,75%) đạt an toàn thực phẩm, 68 cơ sở (21,25%) được phép xuất khẩu sang Mỹ, 128 cơ sở(40%) áp dụng trương trình HACCP. Mặt khác ở nhiều cơ sở việc áp dụng HACCP vẫn mang tính hình thức, chính vì vậy vẫn tiếp tục tái diễn tình trạng hàng bị thị trường Mỹ trả về và bị cảnh báo do nhiễm khuẩn, vi sai nhãn, chứa kháng sinh bị cấm… Ba tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 434,5 triệu USD đạt gần 19% kế hoạch. Khó khăn hiện nay mà ngành thuỷ sản gặp phải là sức mua của thị trường Mỹ giảm do la ngại vụ kiện tôm dễ xảy ra, các nhà nhập khẩu Mỹ đã mua một lượng khá lớn vào những tháng cuối năm 2002. Trước cuộc trao đổi vớiVNNet thị trưởng bộ thuỷ sản bà Nguyễn Thị Hồng Minh nhận định, chiến tranh Irac xảy sẽ ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vì người dân Mỹ sẽ mua lương thực dự trữ và tiêu dùng ít thuỷ hải sản đồng thời việc vận chuyển hàng sang thị trường Mỹ cũng có nhiều biến động. 3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ. 3.2.1. Giải pháp mang tầm vĩ mô . 25 Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nề kinh tế tới nay chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được đề ra trong các văn kiện của đảng, mục tiêu của Đảng. Mục tiêu của đảng , chính phủ là mở rộng giao lưu kinh tế với quốc tế trong đó đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu và ngành thuỷ sản được quan tâm với thị trường tiềm năng là Mỹ. Để đạt được mục tiêu mở rộng thị phần, đem lại nguồn thu lớn hơn nữa trong việc xuất khẩu thuỷ sản, chính sách vĩ mô ở đây là: - Bảo vệ và mở rộng nguồn nguyên liệu thuỷ sản: Nhà nước và Bộ thuỷ sản cần có chính sách giải pháp kịp thời, hiệu quả để tăng nguồn lợi thuỷ sản. Trước hết phải ban hành luật bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hỗ trợ vốn và kỹ thuật nuôi trồng cho nhân dân, phát triển lực lượng khai thác xa bờ. Tập chung vốn vào các khoản viện trợ ODA để nâng cấp cơ sở hạ tầng đặc biệt ở những vùng cung cấp nguyên liệu chủ yếu. - Quy hoạch, quản lý thông nhất hệ thống chế biến thuỷ sản : giao việc cấp giấy phép đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhà máy chế biến thuỷ sản cho một đầu mối duy nhất là Bộ thuỷ sản, chuyển việc đầu tư cho lĩnh vực kỹ thuật là chính sang đầu tư theo 4 chương trình mục tiêu đã xây dựng trong chiến lược xuất khẩu thuỷ sản . - Thực hiện chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp thuỷ sản mở rộng quy mô sản xuất mở rộng thị trường kinh doanh. Thực hiện chế độ ưu đãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để khuyến khích tái đầu tư, cho trích một phần thuế xuất khẩu để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm với giá trị ngày càng tăng. Thành lập cơ quan thông tin tiếp thị thuỷ sản, cho phép ngành thuỷ sản trích một phần nào đó trong thuế xuất khẩu để thành lập quỹ xuất khẩu thuỷ sản . - Để ổn định và tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế giới trong đó đặc biệt là thị trường Mỹ, giải pháp chung cho toàn ngành thuỷ sản Việt nam vẫn là tiếp tục thực hiện ba chương trình lớn đã được Chính phủ phê duyệt, đó là chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kì 1999-2010 và chương trình xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005, đưa ngành thuỷ sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành 26 có hiệu quả và phát triển bền vững, xứng đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn . 3.2.2. Giải pháp cấp doanh nghiệp . Khi chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước thực hiện tốt thu hút vốn đầu tư nước ngoài hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất hướng xuất khẩu. Nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần, còn chủ yếu là sự vận động linh hoạt của các tổ chức, các doanh nghiệp trong chiến lược kinh doanh của đơn vị. Thực tế cho thấy tuy Việt nam có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng nhưng trình độ tay nghề kỹ năng kỹ sảo chưa cao. Để các doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường đầy tính cạnh tranh này thì cần thiết phải thực hiện thật tốt chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn ngày, mở các cuộc thảo luận, hội thảo về các chủ đề đang được nhiều người quan tâm. Trong khâu tuyển dụng, tuyển chọn phải đảm bảo tuyển đượch những nhân viên tốt nhất là về kỹ thuật, có tay nghề cao, có tinh thần trách nhiệm cao. Trong chiến lược sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu nó phải được coi là yếu tố đầu tiên quyết định thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp . Đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sâu và gia tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản phi thực phẩm. Muốn vậy một mặt các doanh nghiệp Việt nam phải tìm hiểu kỹ thị trường Mỹ để nắm bắt được các nhu cầu từng loại sản phẩm, đồng thời cần mở rộng các hình thức liên doanh hợp tác với các nhà đầu tư Mỹ và các nhà đầu tư nước ngoài khác để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường Mỹ như thành công mà chúng ta đã làm với các nhà đầu tư Nhật Bản trong những năm qua. Tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ. Trước hết, phải giảm giá thành bằng cách giảm lượng nuôi trồng chết, giảp thất thoát sau thu hoạch, tận dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ để sản xuất các sản phẩm thuỷ sản phi thực phẩm, từng bước xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, phải tìm mọi cách để tiết kiệm chi phí đầu vào như : điện, nước, thông tin vận tải…đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách đầu tư ngay ở khâu đánh bắt, đảm bảo giống tốt và công 27 nghệ nuôi trồng tiên tiến để đạt tiêu chuẩn vệ sinh, đổi mới công nghệ chế biến, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm. Bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải đạt được tiêu chuẩn HACCP, khuyến khích xây dựng tiêu chuẩn ISO9000…đây chính là những giấy thông hành để đưa hàng vào Mỹ. Cần chú ý rằng quan trọng nhất vẫn là an toàn vệ sinh thực phẩm bởi vì nếu chỉ chú tâm đến việc tìm mọi cách để giảm chi phí đầu vào tạo giá cạnh tranh trên thị trường Mỹ có thể lại dẫn đến tác dụng ngược tức bị mang tiếng là bán phá giá như các vụ kiện cá Basa gần đây/ Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản. Vai trò của tiếp thị là rất quan trọng nhất là với mội thị trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Mỹ. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiêm cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng Internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới, xây dựng bộ phận đại diện thương mại của công ty ở thị trường Mỹ, tiếp cận các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm thuỷ sản của Việt nam, từng bước xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới . Làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp. Thông qua các vụ kiện trong thời gian vừa qua như: hiệp hội cá nheo Mỹ kiện không cho doanh nghiệp Việt nam sử dụng tên gọi Catfish đối với cá tra và cá Basa xuất khẩu vào Mỹ, vụ kiện Việt nam bán phá giá mặt hàng này và gần đây nhất là vụ kiện Việt nam bán phá giá cả tôm vào thị trường Mỹ cho thấy một mặt các doanh nghiệp phải thật am hiểu về luật pháp của thị trường Mỹ cũng như luật thương mại quốc tế, mặt khác phải có một đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt được các thông tin để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị trường. Bên cạnh đó, một sự hợp tác, liên kết và học tập kinh nghiệm xử lý của các nước cũng bị kiện như mình là rất quan trọng. 28 KẾT LUẬN Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt nam, đã có những bước tiến vượt bậc trong xuất khẩu thời gian qua. Năm 1999, xuất khẩu thuỷ sản được xếp thứ 19 về tổng sản lượng xuất khẩu, thứ 29 về kim ngạch và thứ nhất về tốc độ tăng trưởng thuỷ sản thế giới. Những năm đầu của thế kỷ XXI còn nhiều trở ngại và thách thức trong việc đưa ngành thuỷ sản Việt nam nhanh chóng hội nhập khu vực và thế giới. Thị trường Mỹ đang mở ra nhiều triển vọng đối với sản phẩm thuỷ sản của Việt nam đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại được ký kết. Tuy vậy, để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt nam cần nỗ lực nghiên cứu thị trường Mỹ, tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ chế biến và áp dụng quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ hàng thuỷ sản xuất khẩu…Chỉ có như vậy, những cơ hội kinh doanh mở ra cho xuất khẩu Việt nam mới được nắm bắt kịp thời. Với bề dày phát triển của ngành thuỷ sản Việt nam trong thời gian qua, cùng với sự quan tâm của Chính phủ Việt nam đã luôn hoàn thiện những chính sách kinh tế nói chung và chính sách thương mại xuất nhập khẩu nói riêng theo hướng mở cửa thị trường, cộng với nỗ lực của Bộ, ngành và các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản mấy năm gần đây, trong tương lai chúng ta có quyền tin tưởng rằng ngành thuỷ sản Việt nam sẽ là mũi nhọn, thực sự vững vàng trong mọi sự 29 cạnh tranh, đồng thời là ngành tiên phong của đất nước trong quá trình hội nhập, giao lưu theo xu hướng “ toàn cầu hoá” nền kinh tế thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế thuỷ sản, Hà Xuân Thông-Viện kinh tế và quy hoạch thuỷ sản Hà Nội. 2.Chương trình xuất khẩu thuỷ sản năm 2005, Bộ thuỷ sản ,Hà Nội 1998. 3.Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến năm2010, Bộ thuỷ sản Hà Nội 1999. 4.Dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ngành thuỷ sản . 5.Xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vào Mỹ- những vấn đề đang được đặt ra và các giải pháp, PGS.TS Hoàng Thị Chỉnh(ĐHKTQD)- Tạp chí kinh tế phát triển số 67/2003. 6.Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vào thị trường Mỹ-cơ hội và thách thức. Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hương (tạp chí thương mại số 8/1999). 7.Thị trường thuỷ sản thế giới và hướng mở rộng xuất khẩu của Việt nam – Hải Yến- tạp chí thương mại số 7/2003. 8.Về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt nam trong thời gian tới. Tiến sĩ Lê Thị Anh Vân (ĐHKTQD)- tạp chí kinh tế và phát triển số 67/2003. 9.Xuất khẩu thuỷ sản Việt nam trong quá trình hội nhập, PGS.TS Đặng Đình Đào (ĐHKTQD) và MBA. Đinh Văn Thắng (ĐH Công Đoàn)- Tạp chí kinh tế và phát triển . 30 10.Hoạt động thương mại Việt-Mỹ và tác động đế hoạt động xuất khẩu của Việt nam, Ngô Tất Thắng-tạp chí thương mại số 02/2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề Tài Vị trí của ngành thủy sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu.pdf
Luận văn liên quan