Vụ kiện bán phá giá hàng da giầy Việt Nam vào thị trường EU

Một mặt, quan hệ công vững mạnh với các nước phát triển sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư, chuyển giao khoa học công nghệ, ma fbên cạnh đó còn là những thuận lợi trong việc ký kết các hợp đồng kinh doanh. Quay trở lại vấn đề Việt Nam Và Trung Quốc bị áp thuế bán phá giá đối với mặt hàng da giày, có nhiều ý kiến cho rằng hành động này của Liên minh Châu Âu mang nhiều tính chính trị xã hội hơn là về kinh tế. Việt Nam chính thức mở cửa nền kinh tế từ 1986, nhưng chỉ khoảng 15 năm trở lại đây, Việt Nam mới tích cực hơn trong việc đặt mối quan hệ ngoại giao với các nước tư bản, và chỉ từ những năm 2000, mối quan hệ của Việt Nam với các nước châu Âu, trong đó đặc biệt phải kể đến Hoa Kỳ mới có những chuyển biến tích cực. Do đó cũng không thể tránh khỏi những yếu kém về mặt thiết lập quan hệ công chúng, hành lang để tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác về mặt kinh tế. Để tăng cường cơ hội và khả năng hợp tác kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực và năng động hơn trong việc giao lưu hợp tác quốc tế. Chúng ta phải đa dạng, phát triển với tất cả các nước trên thế giới, vừa là để quảng bá hình ảnh đất nước, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, vừa tạo tiền đề cho kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, việc mở cửa nền kinh tế vừa có những thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn. Thuận lợi ở chỗ chúng ta có thêm điều kiện về vốn, về khoa học kỹ thuật cũng như những lợi ích từ việc hợp tác đôi bên cùng có lợi. Nhưng bên cạnh đó, mở cửa nền kinh tế sẽ làm cho Việt Nam phải đối mặt với nhiều hơn những biến động kinh tế, cạnh tranh trên trường quốc tế và thậm chí là cạnh tranh để không đánh mất thị trường nội địa

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3445 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vụ kiện bán phá giá hàng da giầy Việt Nam vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ : Theo điều 2.1 của Hiệp định chống bán phá giá WTO : Bán phá giá hàng hóa là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán ở một nước khác, với mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó (hoặc sản phẩm tương tự như sản phẩm đó) khi bán cho người tiêu dùng ở thị trường nội địa nước xuất khẩu. Bán phá giá là tổng hợp những biện pháp bán hạ giá một số mặt hàng xuất khẩu nào đó để cạnh tranh nhưng có hiệu quả với những bạn hàng khác trên thị trường thế giới. Mục tiêu là đánh bại đối thủ cạnh tranh, tăng xuất khẩu,chiếm lĩnh thị trường nhập khẩu, thu lợi nhuận độc quyền kiếm ngoại tệ khẩn cấp, giải quyết hàng tồn kho hoặc có khi cả mục tiêu chính trị. * Điều kiện áp dụng : Nhà xuất khẩu phải có tiềm lực kinh tế mạnh để theo đuổi chiến lược bán phá giá Nhà xuất khẩu phải độc chiếm khống chế thị trường trong nước. Nếu không hàng hóa được bán phá giá ở nước ngoài có thể nhập khẩu trở lại vào thị trường trong nước khi đó kế hoạch bán phá giá sẽ phá sản. Thị trường nước nhập khẩu không áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. * Chống bán phá giá : - Điều kiện áp dụng : Hàng nhập khẩu có bán phá giá Ngành sản xuất sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể (thiệt hại vật chất như giảm giá, suy giảm thực tế, tiềm ẩn về thị phần và sản xuất, doanh thu lợi nhuận, mất việc làm. Có thể chỉ là nguy cơ đe dọa thiệt hại: tốc độ gia tăng hàng nhập khẩu, năng lực sản xuất lớn của nhà sản xuất xuất khẩu sản phẩm, số thực tồn kho…) - Quá trình điều tra về bán phá giá : Quy trình điều tra về việc bán phá giá cơ bản nhất thường có 10 bước: Bắt đầu vụ kiện : Để bắt đầu vụ kiện, những người khởi kiện phải nộp đơn kiện với đầy đủ bằng chứng cần thiết và ước định được mức thiệt hại mà hành động bán phá giá đó gây ra. Đơn kiện cũng cần xác định được chính xác chủng loại hàng hóa và danh tính của các công ty bị kiện là bán phá giá. Sau khi tiếp nhận đơn, cơ quan có thẩm quyền sẽ chỉ bắt đầu vụ kiện khi người nộp đơn là đại diện hợp pháp cho ngành hàng đó. Thông thường các hội, hiệp hội đại diện cho ngành hàng ở tầm quốc gia hay khu vực mới đủ khả năng đại diện. Tại Hoa Kỳ, đại diện có thể là hội, hiệp hội các bang. Cơ quan có thẩm quyền cũng sẽ xem xét xem các bằng chứng ban đầu có đủ mức để bắt đầu vụ kiện không. Điều tra sơ bộ Việc điều tra sơ bộ được tiến hành chủ yếu để xác định hai nhóm vấn đề: Thứ nhất: Có thực người bị kiện bán phá giá hay không và mức độ phá giá là bao nhiêu. Thứ hai: Có thiệt hại với ngành sản xuất nội địa hay không (nơi phát đơn kiện) và thiệt hịa đó có hoàn toàn, có thực sự do việc bán phá giá trên hay không. Thông tin liên quan được xác định thông qua bảng câu hỏi được gửi và thu thập trực tiếp từ cả phía nguyên đơn và bị đơn. Các bên trong vụ kiện chỉ có cách hợp tác chặt chẽ, cung cấp thông tin đầy đủ, đúng yêu cầu và hiệu quả với cơ quan điều tra. Việc thu thập thêm thông tin từ các nguồn, tìm và xác minh các bằng chứng liên quan cũng đồng thời được tiến hành nhằm làm cho quá trình đánh giá thêm khách quan. Kết luận vụ kiện Trên cơ sở các dữ kiện thu thập được, cơ quan điều tra sẽ họp để nhận định và đưa ra kết luận về vụ việc bán phá giá. Kết luận này phải đánh giá được nhiều vấn đề liên quan chủ yếu trên cơ sở định lượng. Áp dụng biện pháp tạm thời Nếu kết luận của cơ quan điều tra là có việc bán phá giá thì các biện pháp tạm thời sẽ lập tức được đưa ra nhằm hạn chế hậu quả của việc bán phá giá này. Các biện pháp được biết đến có thể là (1) Đặt cọc, ký quỹ một số tiền nhất định và (2) Áp thuế (bổ sung) tạm thời đối với các mặt hàng bị kiện là bán phá giá. Biện pháp tạm thời có thể được sửa đổi trong thời gian sau đó. Cam kết về giá Ngay sau khi đã có kết luận sơ bộ về việc bán phá giá là có thật và gây thiệt hại cho các nhà sản xuất nội địa. Bên xuất khẩu (thường là từ nước bị kiện) và bên nhập khẩu (thường là từ nước đi kiện) cần phải họp với nhau để đạt được một cam kết về giá. Các loại thỏa thuận về giá có thể đạt được là Bên xuất khẩu cam kết tăng giá bán đến mức xấp xỉ giá của nhà sản xuất nội địa (song vẫn đảm bảo cạnh tranh. Ngừng xuất khẩu với giá bị cho là phá giá. Chấp nhận bị áp dụng quota với mặt hàng đó. Chấp nhận bị áp thuế bổ sung. Biện pháp cam kết này không áp hàng loạt mà áp tùy theo từng nhà xuất khẩu. Việc áp chế chỉ chấm dứt khi được xem là đã thích hợp và không có kiện cáo nào từ các nhà sản xuất nội địa nữa. Tiếp tục điều tra Biện pháp này được thực hiện nhằm thu thập thêm thông tin, chứng cứ để kết luận chính xác hơn. Quá trình này cũng nhằm thu thập các phản hồi và tác động với các bên liên quan sau khi áp dụng biện pháp. Các phiên điều trần có thể được tổ chức trong giai đoạn này cho các bên trình bày về vấn đề của mình nhằm đạt được sự công bằng hơn. Kết luận cuối cùng Phải được đưa ra đúng với lộ trình điều tra nhằm làm cơ sở cho các phán quyết chính xác. Áp dụng biện pháp chống phá giá cuối cùng Cơ quan điều tra chống bán phá giá phải đưa ra kết luận cuối cùng. Thông thường sẽ có loại 2 kết luận: Nếu mức độ phá giá là đáng kể, gây thiệt hại thực thụ với các nhà sản xuất nội địa thì nhà xuất khẩu phải chịu mức thuế chống bán phá giá. Mức thuê này không đồng đều với tất cả các nhà sản xuất mà áp tùy theo từng nhà sản xuất, tùy theo mức phá giá bị kết luận. Tuy nhiên, mức thuế bổ sung không bao giờ cao hơn mức biên độ giá chênh lệch đã xác định; nếu biên độ chênh lệch chỉ bằng và nhỏ hơn 2% thì cũng không bị áp thuế bổ sung; nếu việc áp thuế làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng thì cũng không bị áp thuế. Nếu kết luận là mức phá giá không đáng kể, không ảnh hưởng thì biện pháp tạm thời được dỡ bỏ, thuế chống bán phá giá không bị áp nữa. Rà soát hàng năm Được tiến hành hàng năm theo yêu cầu các bên nhằm điều chỉnh mức thuế bổ sung hoặc phá bỏ các biện pháp chống phá giá nếu thấy không cần thiết nữa. Quá trình này các bên liên quan cũng phải hợp tác như lần điều tra đầu tiên. Rà soát hoàng hôn Được tiến hành sau một định kỳ 5 năm kể từ khi áp thuế hay rà soát. Kết luận của cuộc Rà soát hoàng hôn này sẽ là có áp thuế chống bán phá giá thêm một thời gian nữa hay không. DIỄN BIẾN SƠ LƯỢC VỀ VỤ KIỆN BÁN PHÁ GIÁ HÀNG DA GIẦY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU : Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD. Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà sản xuất da giày. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao động là chính. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực. Tại thị trường EU : Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam. Tuy nhiên trong những năm gần đây, ngành da giầy Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn và thách thức khi đối mặt với những vụ kiện chống bán phá giá của các thị trường lớn như EU, Canada… Diễn biến xung quanh vụ kiện : Giữa năm 2005, Ủy ban châu Âu (EC) đã chính thức đăng thông báo về việc khởi kiện Việt Nam và Trung Quốc đã bán phá giá các sản phẩm giày dép được làm bằng da tự nhiên vào thị trường EU. Việc khởi kiện được thực hiện bởi Hiệp hội các nhà sản xuất giày dép châu Âu (CEC), nơi đại diện cho các nhà sản xuất đang chiếm 40% sản phẩm giày da có nguồn gốc tự nhiên sản xuất tại EU. Theo CEC, lý do để khởi kiện là các sản phẩm giày dép nói trên có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc đã tăng đột biến về số lượng nhưng lại giảm đáng kể về mặt giá trị từ đầu năm 2005 đến nay. Liên minh Sản xuất Giày da châu Âu cũng đưa ra danh sách 60 doanh nghiệp bị kiện phá giá. Trong danh sách này, có những doanh nghiệp chỉ nhận gia công, có doanh nghiệp chỉ làm nguyên phụ liệu bán trong nước... không liên quan đến việc định giá và xuất khẩu vào châu Âu. Vì vậy, danh sách 60 doanh nghiệp bị kiện do Liên minh Sản xuất Giày da châu Âu cung cấp có thể chưa chính xác. Nhiều doanh nghiệp da giày muốn rút lui khỏi vụ kiện bán phá giá của EU vì lo ngại những rắc rối về thủ tục pháp lý và tốn kém. Sáng 24/2/2006, phái đoàn Ủy ban châu Âu (EC) tại Việt Nam đã họp báo công bố chính thức về đề xuất áp thuế chống bán phá đối với giày da Việt Nam. Mức thuế này do chính Cao Uỷ thương mại EC ông Peter Manderson đề nghị. Theo đó, việc áp dụng thuế đối với Việt Nam bắt đầu từ 7/4 và qua bốn giai đoạn, mức khởi điểm ban đầu là 4% sau đó tăng dần lên tới mức 16,8%. Mặc dù đây mới là mức đề xuất nhưng việc thảo luận thêm với các nước thành viên EU chỉ còn mang tính hình thức và EC khẳng định không có sự thay đổi nào đối với mức thuế sơ bộ này.  Tuy nhiên, đây chỉ là mức thuế áp dụng tạm thời. Sau 6 tháng, các nước thành viên và EU sẽ xem xét lại mức thuế này. Đối thủ chính của Việt Nam cũng là nước bị kiện bán phá giá lần này là Trung Quốc chịu mức thuế lên đến 19,4%. Lịch trình áp thuế chống bán phá giá dự kiến của EU đối với da giầy Việt Nam và Trung Quốc: Việt Nam Trung Quốc Thời gian Mức thuế Thời gian Mức thuế 07/04/2006 4,2% 07/04/2006 4,8% 02/06/2006 8,4% 02/06/2006 9,7% 14/07/2006 12,6% 14/07/2006 14,5% 15/09/2006 16,8% 15/09/2006 19,4% (hoặc 19,64%) Khuyến khích đầu tư không phải bóp méo thị trường Trong bản báo cáo của mình, ông Peter Manderson đã khẳng định với EC rằng, qua quá trình điều tra đã tìm thấy những bằng chứng hiển nhiên vể sự can thiệp nghiêm trọng của nhà nước dẫn đến việc bán phá giá. Theo ông Peter Manderson những yếu tố đó là: tài chính rẻ, giảm hoặc miễn thuế, thuê đất không theo giá thị trường, định giá tài sản không thích hợp... Và những sự can thiệp này là không thể chấp nhận được theo luật lệ WTO. Dẫn chứng về sự tổn hại được EC đưa ra là trong năm 2005, mức tăng xuất khẩu về giày da của Việt Nam sang thị trường EU so với năm 2001 tăng  95% và giá bán giày da của Việt Nam trong thời gian này đã giảm 20%. Điều này là nguyên nhân khiến sản xuất giày da trong khối này bị giảm 30%. Khoảng 40.000 việc làm trong ngành đã bị mất. Vụ kiện bán phá giá giày: Da giày VN đối mặt với nhiều khó khăn .Thông tin Uỷ ban châu Âu (EC) không công nhận 8 công ty trong danh sách điều tra vụ kiện bán phá giá da giày hoạt động theo cơ chế nền kinh tế thị trường khiến doanh nghiệp lao đao. Tham tán Thương mại châu Âu (EU) tại VN Felipe Palacios Sureda cho rằng, 8 doanh nghiệp VN đã không chứng minh được mình đáp ứng đầy đủ cả 5 tiêu chí hoạt động theo nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên ở từng giai đoạn điều tra tất cả các bên liên quan đều có quyền đưa ra bình luận hay cung cấp thêm những thông tin. Nếu có thể cung cấp thông tin đầy đủ và tin tưởng rằng nó có thể thay đổi được tình hình thì VN vẫn nên tiếp tục cung cấp. Theo Bộ Thương mại cho biết, 80% các doanh nghiệp xuất khẩu giày của VN là gia công cho nước ngoài chứ không phải sản xuất, xuất khẩu trực tiếp sang EU. Các đơn vị này không tham gia vào công đoạn chủ yếu trong quá trình sản xuất cũng như quyết định giá thành sản phẩm nên không thể coi là nguyên nhân và là yếu tố căn bản tạo ra việc bán phá giá. Điều này cho thấy, da giày VN không thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất giày da của các doanh nghiệp ở EU. Tuy nhiên, về phía Việt Nam, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh khẳng định, các doanh nghiệp sản xuất giày da của VN không bán phá giá vào thị trường EU. Việc EC áp dụng mức thuế chống bán phá giá sơ bộ đối với giày có mũ da của VN là không phản ánh đúng thực tế. Giày dép Việt Nam có giá bán rẻ là nhờ những lợi thế kinh doanh về giá nhân công rẻ và công nghệ sản xuất hiện đại. Bình luận về những yếu tố mà EC cho rằng có sự can thiệp của nhà nuớc, bà Loan cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc kinh tế thị trường và họ được tự do kinh doanh và cạnh tranh công bằng. Chính phủ Việt Nam không can thiệp và không trợ giá cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Theo bà Loan, EC cần hiểu rằng, Việt Nam là nước có nền kinh tế đang chuyển đổi, thu hút đầu tư nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Những cáo buộc của EU như: miễn giảm tiền thuê đất, ưu đãi thuế... cũng chỉ là một công cụ khuyến khích đầu tư. Đây cũng là một công cụ chung của các chính sách kinh tế được các nền kinh tế thị trường, trong đó có cả châu Âu. Vì vậy, bà Loan khẳng định, không nên xem các hình thức khuyến khích đầu tư là sự bóp méo về chi phí sản xuất và trở thành những yếu tố bán phá giá. Gặp gỡ báo chí chiều 23-12-2006, Thứ trưởng Bộ Công thương Lê Danh Vĩnh cho hay vì đa số doanh nghiệp của VN có quy mô vừa và nhỏ, thị phần của hàng hóa VN trong tổng mức nhập khẩu của EU chỉ ở mức trên dưới 10% nên không có khả năng bán phá giá để cạnh tranh hay đe dọa việc sản xuất, kinh doanh của các nhà sản xuất trong EU thông qua bán phá giá. Phương pháp tính toán biên độ bán phá giá của Ủy ban châu Âu cũng có vấn đề khi sử dụng Brazil làm nước so sánh trong quá trình điều tra, trong khi Brazil có điều kiện hoàn toàn khác biệt so với VN. Ủy ban châu Âu từng thừa nhận những yếu tố khác biệt này nhưng vẫn sử dụng Brazil làm nước thay thế trong việc tính toán biên độ phá giá cho VN mặc dù hoàn toàn có thể lựa chọn Indonesia, Thái Lan... có các điều kiện tương đồng với VN. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN Nguyễn Phương Nga lên tiếng: “VN rất bất bình trước quyết định này.” Cả bà Nga và ông Vĩnh đều khẳng định quyết định này không công bằng, không hợp lý, không phản ánh đúng thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng này tại VN. Còn Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng cho biết quyết định này ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập, việc làm của lao động VN, phần lớn là phụ nữ. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD. Vì vậy, ngành da giầy Việt Nam gặp phải trở ngại và khó khăn rất lớn sau quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với các sản phầm da giầy của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU của Ủy ban Châu Âu ( EC ). Trên thực tế, theo quyết định EC ban hành tháng 10/2006, mức thuế chống bán phá giá 10% đối với giày mũ da Việt Nam sang EU sẽ hết hạn vào ngày 7/10/2008. Nhưng ngày 2/10/2008, EC đã thông báo sẽ tiến hành rà soát trong vòng 12-15 tháng và duy trì mức thuế này cho đến khi có kết quả rà soát. Ngày 17-12 - 2009 , tại cuộc họp Ðại sứ các nước thành viên, Liên hiệp châu Âu (EU) đã quyết định kéo dài thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng giày mũ da nhập khẩu từ Việt Nam thêm 15 tháng. Theo kế hoạch, quyết định trên sẽ được các Bộ trưởng EU bỏ phiếu thông qua vào ngày 22-12 tới, nhằm đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề này. Ðiều đáng nói là, quyết định ngày 17-12 của EU được đưa ra bất chấp ý kiến phản đối của nhiều nước thành viên, trong đó gay gắt nhất là Anh, trong việc Ủy ban châu Âu (EC) áp thuế chống bán phá giá đối với giày da của Việt Nam suốt ba năm qua. 15 trong số 27 quốc gia thành viên EU và Ủy ban tư vấn chống bán phá giá của EU đã bỏ phiếu phản đối gia hạn áp thuế. Tuy nhiên, EC đã chính thức đề xuất kéo dài việc áp thuế, bất chấp Anh và sáu quốc gia EU khác muốn bãi bỏ các mức thuế nói trên. Việt Nam rất bất bình trước quyết định này. Đây là một quyết định không công bằng, không hợp lý, không phản ánh đúng thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng này tại Việt Nam, đi ngược lại tinh thần tự do hóa thương mại mà EU vẫn thúc đẩy. 2, Những ảnh hưởng tiêu cực Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Thứ trưởng Bộ Công Thương - Nguyễn Thành Biên khẳng định : Trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa phục hồi hoàn toàn, việc Liên minh châu Âu kéo dài áp thuế sẽ làm trầm trọng hơn những khó khăn của doanh nghiệp và cuộc sống người lao động Việt Nam và quyết định này không chỉ tác động tiêu cực ở Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp sản xuất giầy Châu Âu đang kinh doanh tại Việt Nam và đặc biệt là quyền lợi của một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng châu Âu. 2.1, Ảnh hưởng tiêu cực tới ngành da giầy Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung : Theo ông Nguyễn Gia Thảo, Chủ tịch Hiệp hội da giầy Việt Nam (Lefaso), việc EC công bố chính thức áp dụng mức thuế sơ bộ từ 7/4/2006 đối với mặt hàng giầy có mũ da của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU sẽ gây những tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như ngành da giầy - một trong những ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam - nói riêng. Từ đầu năm 2006 đến nay, ngành da giày xuất khẩu Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng. Đó là tình trạng thiếu việc làm diễn ra trên diện rộng và nhiều doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn vì chưa có hợp đồng xuất khẩu. Hiện ngành da giầy thu hút hơn 500.000 lao động, trong đó trên 85% là lao động nữ. Việc áp thuế chống bán phá giá như công bố của EC sẽ đẩy ngành da giầy Việt Nam vào tình trạng khó khăn, sẽ làm cho khoảng 80.000 - 90.000 người lao động trong ngành và các ngành liên quan mất việc làm. Nguyên nhân của việc này là do cuối năm 2005, sự kiện Liên minh châu Âu (EU) kiện Trung Quốc và Việt Nam bán phá giá mặt hàng giày có mũ da đã khiến nhiều khách hàng lo ngại, chỉ đặt hàng cầm chừng cho năm 2006 vì chưa biết diễn biến vụ việc tới đâu, chưa biết giá cả thế nào. Trên thực tế, kể từ khi EC rục rịch áp thuế bán phá giá với da giầy Việt Nam, thị phần xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã bị giảm mạnh. Thống kê mới nhất của Hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết, xuất khẩu vào EU chỉ chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép so với tỷ lệ 70% trước đây. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu của chúng ta đã bị ảnh hưởng mạnh, số đơn hàng có mũ từ da giảm tới hơn 30% so với cùng kỳ năm 2004. Trong quý 4/2005, các đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh, nhiều doanh nghiệp phải cho công nhân nghỉ chờ việc hoặc thu hẹp sản xuất. Tại nhiều công ty, số lượng người mất việc làm lên tới 30-50%: chẳng hạn như Công ty giầy An Giang phải thu hẹp sản xuất, giảm số lao động từ 700 xuống chỉ còn 400 lao động; nhà máy giầy Phú Hà thuộc công ty giầy Phú Lâm cũng phải cho nghỉ việc 750 trên tổng số 1.950; 800 công nhân xí nghiệp giầy Phú Hải mất việc làm...Trong khi đó, Công ty da giầy Hà Nội hiện đang thiếu đơn hàng trầm trọng, gần 900 lao động phải nghỉ chờ việc, nhiều doanh nghiệp khác cũng rơi vào tình trạng tương tự. Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu ngành da giày khó có điều kiện tăng trưởng, thu nhập người lao động giảm sút (do thiếu việc làm, thu nhập bình quân của công nhân hiện chỉ còn 400 ngàn đồng/tháng và ở những doanh nghiệp khá hơn cũng chỉ bình quân 800 ngàn -1 triệu đồng/tháng). Nhìn chung, không khí ảm đạm đang bao trùm lên ngành da giày xuất khẩu, nhất là khi những thông tin về việc có khoảng 20% đơn hàng của Trung Quốc và Việt Nam đang được chuyển sang thị trường Indonesia. Nhiều đối tác của Việt Nam tại EU sẽ tìm kiếm cơ hội hợp tác mới tại các nước khác trong khu vực như Indonesia, Thái Lan, Ấn Độ... để đặt hàng Thứ trưởng Nguyễn Thành Biên cũng cho rằng quyết định sẽ gây ra những quan ngại và tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh, đầu tư giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác châu Âu. Dự báo về hoạt động xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới, Thứ trưởng cho rằng, việc tiếp tục áp thuế và quyết định rà soát này, cộng với việc loại giày dép Việt Nam ra khỏi diện được hưởng thuế ưu đãi thuế quan phổ cập từ 1/1/2009 sẽ  là “tác động kép” khiến ngành da giày Việt Nam gặp “khó khăn chồng chất”. Đó là chưa kể tác động từ những khó khăn của kinh tế toàn cầu khiến sức mua tại EU có thể giảm. Nếu EU không dỡ bỏ thuế bán phá giá, thì các doanh nghiệp thuộc Hội Da giày TP.HCM khó có thể phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh vì người lao động sẽ bỏ sang các ngành khác trong khi lao động hiện rất hiếm. Doanh nghiệp nhỏ và vừa với sức đề kháng yếu sẽ là người lãnh hậu quả nặng nhất, còn các doanh nghiệp lớn có thị trường lớn, đối tác lớn hy vọng sẽ cầm cự và vượt qua thời điểm khó khăn này. Kim ngạch xuất khẩu ngành da giày năm nay nếu không đạt kế hoạch sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng tưởng kinh tế chung của cả nước. Để giữ được chỉ tiêu tăng trưởng GDP 8%/năm, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường châu Âu cần phải có mức tăng trưởng 19%/năm và phải chiếm tỷ trọng khoảng 20%-22% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Trong các mặt hàng chủ yếu xuất sang châu Âu như dệt may, giày dép, hàng điện tử, sản phẩm gỗ, nhựa, xe đạp và phụ tùng, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng da giày chiếm trên 60% trong tổng kim ngạch toàn ngành dự kiến 3,35-3,5 tỷ USD. Trong khi đó, với tình hình hiện nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ rất khó khăn để đạt được những chỉ tiêu đã đề ra. 2.2. Ảnh hưởng của thuế chống bán phá giá da giầy xuất khẩu của Việt Nam tới EU. Đại sứ Anh Mark Kent cho biết Anh đã cố gắng đạt đủ số phiếu để chống lại quyết định đó nhưng không thành công và Anh rất thất vọng trước quyết định trên. “Chúng tôi tin rằng cách thoát khỏi suy thoái toàn cầu hiện nay là thông qua thương mại tự do chứ không phải bảo hộ. Tương tự VN, Anh là nước phụ thuộc vào dòng chảy thương mại tự do để tiếp tục phát triển đất nước. Chúng tôi tin rằng thương mại tự do và công bằng là phần quan trọng nhằm đảm bảo thành công phát triển của VN, thậm chí về dài hạn còn quan trọng hơn ODA” - ông phân tích. Đại sứ cho rằng hiện nay khi lợi thế tương đối của VN là lao động giá rẻ và sản xuất chi phí thấp nên nếu VN có thể sản xuất giày rẻ hơn và hiệu quả hơn châu Âu thì châu Âu nên mua giày VN. Ông nói: “Trên thực tế, các công ty giày dép châu Âu, kể cả của Anh, đã xây dựng cơ sở sản xuất của họ ở VN chính vì lý do ấy. Giờ họ sẽ bị tác động tiêu cực. Châu Âu không nên bảo vệ các ngành công nghiệp thiếu hiệu quả và thất bại khi họ không còn lợi thế tương đối. Thay vì vậy, họ nên chuyển công nhân từ những ngành ấy sang các lĩnh vực có lợi thế tương đối hơn”. Trong suốt ba năm qua, việc áp mức thuế 10% đối với mặt hàng giày da của Việt Nam, cùng với quyết định loại bỏ ngành giày da Việt Nam khỏi diện hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009 - 2011, được EC đưa ra tháng 6-2008, không chỉ gây thiệt hại lớn cho ngành công nghiệp giày da của Việt Nam, mà ảnh hưởng trực tiếp quyền lợi của người tiêu dùng châu Âu. Những loại thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng giày dép nhập khẩu từ Việt Nam vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của các hiệp hội, tổ chức và doanh nghiệp (trong đó có cả doanh nghiệp sản xuất giày dép), các nhà nhập khẩu và bán lẻ ở châu Âu. Ý kiến chung cho rằng, chính sách bất bình đẳng nói trên đã tước đi cơ hội của chính người tiêu dùng châu Âu lựa chọn những sản phẩm phù hợp, trong khi không giúp cải thiện được năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất giày dép của châu Âu. Tổng Thư ký Eurocommerce, một tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp châu Âu, ông X.Ðuy-ri-ơ cho rằng, việc EC tiếp tục áp các loại thuế chống bán phá giá đối với giày da nhập khẩu từ  Việt Nam và Trung Quốc không chỉ gây thiệt hại cho các nhà nhập khẩu, bán lẻ và sản xuất ở châu Âu,  mà còn làm giảm sức mua của người tiêu dùng và vì thế làm chậm quá trình phục hồi kinh tế của châu lục này. Ông Ðuy-ri-ơ khẳng định, các hạn chế thương mại cũng không giúp giải quyết bài toán nâng cao tính cạnh tranh của các nhà sản xuất châu Âu... Cũng theo ông Nguyễn Gia Thảo – Chủ tịch Hiệp hội da giầy Việt Nam (Lefaso) việc áp dụng mức thuế dự kiến còn làm tổn hại đến lợi ích của những người tham gia trực tiếp trong kênh phân phối, trong chuối giá trị gia tăng sản phẩm như các nhà thiết kế, các thương nhân, các nhà cung ứng...và đặc biệt là lợi ích của người tiêu dùng tại 25 nước EU. Với mức thuế phá giá dự kiến cao như công bố của EC, mỗi đôi giầy da của Việt Nam xuất khẩu vào EU sẽ tăng lên từ 1,5-2 Euro/đôi... Các quyết định của EC áp thuế chống bán phá giá đối với giày da của Việt Nam cũng tạo ra sự chia rẽ giữa các quốc gia thành viên EU. Nhóm các nước phản đối, đứng đầu là Anh, mô tả việc áp thuế trên là một biện pháp bảo hộ mậu dịch, ảnh hưởng nghiêm trọng quan hệ thương mại dài hạn giữa châu Âu với Việt Nam. Bộ trưởng Thương mại Anh P.Man-đen-xơn đã khẳng định rằng hiện không còn cơ sở pháp lý để áp dụng loại thuế trên, ngược lại tiếp tục áp thuế sẽ gây thiệt hại lớn cho người tiêu dùng và các nhà sản xuất châu Âu. Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) A.Ca-ni cảnh báo, việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá sẽ đặc biệt ảnh hưởng tiêu cực lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất giày Châu Âu và các doanh nghiệp có liên quan của Châu Âu đang hoạt động tại Việt Nam.  Nhìn chung, việc áp thuế chống bán phá giá đối với ngành da giầy – ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là không công bằng với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của người dân Việt Nam và ảnh hưởng xấu tới người tiêu dùng Châu Âu. 3, Giải pháp cho rào cản chống bán phá sản phẩm da giày từ phía EU: 3.1, Giải pháp tình thế : a/ Hoàn thiện sổ sách và đưa ra những thông tin phủ nhận quyết định sai lầm từ phía EU: Khác với Trung Quốc, Việt Nam không có đủ tiềm lực để có thể đưa ra những đòn trả đũa đối với cộng đồng chung châu Âu, mà biên pháp trước tiên của Việt Nam chỉ là những hành động ít nhiều mang tính chất bị động. Trong quá trinh liên minh Châu Âu tiến hành điều tra hành vi bán phá giá cũng như khi EU tuyên bố chính thức áp ụng thuế chống bán phá giá mặt hàng da giày với Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam hầu như rơi vào trạng thái bị động. Chúng ta cũng tiến hành minh bạch, hoàn thiện sổ sách, tài liệu liên quan nhằm chứng minh sự sai lầm trong quyết định của EU nhưng những hành động ấy thực sự không mang lại hiệu quả cao. Kết quả là chũng ta vẫn bị phía Châu Âu áp dụng mưac thuế chống bán phá giá với mặt hàng giày, mũ da. Thuế chống bán phá giá này lần đ̀ầu được áp dụng từ năm 2006, với 16,5% cho giày nhập từ Trung Quốc và 10% cho giày Việt Nam. Một số quốc gia châu Âu đã phản đối việc gia hạn này, trong đó có Anh quốc. Đại diện Anh, Lord Mandelson nói: "Tôi thất vọng về việc EU quyết định gia hạn thuế chống phá giá. Đáng ra họ phải để cho các loại thuế này hết hiệu lực như hạn định". Ông Mandelson cho rằng gia hạn thuế chống phá giá "phương hại tới thương mại, ảnh hưởng uy tín của châu Âu và buộc khách hàng phải trả giá cao đúng lúc kinh tế gặp khó khăn". Ông cũng kêu gọi EU "từ bỏ chủ nghĩa bảo hộ". Việt Nam chưa có phản ứng tức thời về việc này, nhưng hôm 17/12/2009, khi Đại sứ các thành viên Liên minh Châu Âu (COREPER) bỏ phiếu (với 10 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 4 phiếu trắng) ủng hộ việc gia hạn thêm 15 tháng đối với thuế chống bán phá giá, Việt Nam đã lên tiếng phản đối. Đây là quyết định bất công, thiếu công bằng, không khách quan, không phản ánh đúng thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng giầy dép tại Việt Nam. Việt Nam gọi việc gia hạn là "quyết định bất công, thiếu công bằng, không khách quan, không phản ánh đúng thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng giầy dép tại Việt Nam, hoàn toàn đi ngược lại quan hệ hữu nghị hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu, và gây thất vọng sâu sắc đối với Chính phủ, doanh nghiệp và người lao động Việt Nam". Thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định "các doanh nghiệp giầy da Việt Nam không bán phá giá, không có ý định và cũng không đủ khả năng theo đuổi chính sách này trong một thời gian dài như vậy vì họ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu gia công cho các đối tác nước ngoài, trong đó có nhiều doanh nghiệp thuộc Liên minh Châu Âu". Việt Nam cũng đề nghị các nước thành viên Liên minh Châu Âu và Uỷ ban Châu Âu xem xét vụ việc này một cách khách quan và công bằng, sớm bãi bỏ hoàn toàn thuế chống bán phá giá. Thứ trưởng Bộ Công thương Lê Danh Vĩnh cho biết vì đa số doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, thị phần của hàng hóa Việt Nam trong tổng mức nhập khẩu của EU chỉ ở mức trên dưới 10% nên không có khả năng bán phá giá để cạnh tranh hay đe dọa việc sản xuất, kinh doanh của các nhà sản xuất trong EU thông qua bán phá giá. Phương pháp tính toán biên độ bán phá giá của Ủy ban châu Âu cũng có vấn đề khi sử dụng Brazil làm nước so sánh trong quá trình điều tra, trong khi Brazil có điều kiện hoàn toàn khác biệt so với Việt Nam. Ủy ban châu Âu từng thừa nhận những yếu tố khác biệt này nhưng vẫn sử dụng Brazil làm nước thay thế trong việc tính toán biên độ phá giá cho Việt Nam mặc dù hoàn toàn có thể lựa chọn Indonesia, Thái Lan... có các điều kiện tương đồng với Việt Nam. Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết quyết định trên được thúc đẩy bởi lợi ích cục bộ và một vài nhóm nhà sản xuất trong EU. “Nó đi ngược lại các cam kết quốc tế trong việc mở rộng và tạo điều kiện thương mại quốc tế phát triển thuận lợi” - bộ trưởng nói bên lề hội nghị tổng kết công tác hội nhập kinh tế quốc tế ngày 23/12/2009. Trong buổi họp báo chiều cùng ngày về vụ việc bán phá giá này, ông Bạch Văn Mừng - cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) - phân tích: “Đây là quyết định mang tính chính trị, không gắn với bản chất kỹ thuật của vụ việc có hay không có bán phá giá”. b/ Quan sát tình hình Trung Quốc – WTO để đưa ra quyết định: Nếu như Trung Quốc sẵn sàng kiện EU lên WTO về việc áp thuế chống bán phá giá mặt hàng da giày một cách phi lý thì một lần nữa Việt Nam lại thể hiện sự thụ động khi chưa có quyết định chính thức về việc có đồng hành cũng Trung Quốc trong việc tham vấn và đưa đơn kiện lên WTO hay không. Theo BBC, đầu tháng 2, Trung Quốc vừa khởi kiện Liên minh châu Âu (EU) ra Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về việc áp thuế chống bán phá giá giày da xuất khẩu. Bà Nguyễn Phương Nga, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng, việc các nước thành viên sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO để xử lý các vướng mắc trong quan hệ thương mại là bình thường trong quan hệ kinh tế quốc tế. "Việt Nam sẽ theo dõi sát động thái Trung Quốc khởi kiện EU ra WTO và sẽ có hành động phù hợp", bà Nga khẳng định. Bà Nga cho rằng, việc Ủy ban châu Âu quyết định gia hạn áp thuế chống bán phá giá thêm 15 tháng đối với giày da xuất khẩu của Việt Nam là không công bằng, không khách quan, không phản ánh đúng thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng giày dép tại Việt Nam cũng như đi ngược lại tinh thần tự do hóa thương mại mà EU vẫn thúc đẩy. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Luật học, Luật sư Phạm Liêm Chính, một chuyên gia về pháp luật thương mại quốc tế thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội, thì việc tuyên bố, bày tỏ phản ứng của Việt Nam là rất cần thiết, song mới chỉ ở mức độ giãi bày: “Nhưng giãi bày thì chưa đủ. Nó chỉ giúp cho những người bạn của Việt Nam họ hiểu chúng ta. Phải dùng công cụ pháp lý quốc tế cho phép để bảo vệ hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Chúng ta cần có chiến lược bảo vệ hàng hoá xuất khẩu. WTO có một cơ quan chuyên về xét xử tranh chấp về thương mại giữa các quốc gia. Việt Nam từ 3 năm trở lại đây là thành viên của WTO, có nghĩa vụ và có quyền khi tham gia vào tổ chức này. Quyền của chúng ta là, khi gặp một vụ kiện mà chúng ta thấy bị thiệt hại, thì có quyền đệ đơn để yêu cầu WTO xem xét”. Tiến sĩ Phạm Liêm Chính phân tích, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO được hình thành trên cơ sở chính sách tự do thương mại. Tự do thương mại là lý tưởng mà tổ chức này theo đuổi và các thành viên tham gia cũng cam kết. Việt Nam đã mở cửa thị trường và thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO. Do vậy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cũng phải được đối xử một cách công bằng khi vào thị trường các nước: “Chúng ta đã là thành viên của WTO từ 3 năm nay. Chúng ta hoàn toàn có quyền đệ đơn kiện ra trước cơ quan xử lý tranh chấp của WTO. Cơ quan này sẽ xem xét chúng ta có bán phá giá hay không và ra phán quyết. Phán quyết đó có giá trị thi hành trên bình diện quốc tế và buộc Hội đồng Châu Âu phải tuân thủ … Quyết định của EC về áp thuế chống bán phá giá mặt hàng giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam vào Liên minh châu Âu “gây ảnh hưởng bất lợi tới những người lao động nghèo tại một quốc gia đang phát triển còn nghèo như Việt Nam, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối, bán lẻ và người tiêu dùng châu Âu. Quyết định này cũng làmgiảm hiệu quả các nỗ lực của châu Âu trong hợp tác với Việt Nam xoá đói giảm nghèo”.Chính vì vậy, EC cần xem xét việc áp thuế này theo pháp luật thương mại quốc tế đối với Việt Nam với tư cách là thành viên của WTO. 3.2, Giải pháp đồng bộ và lâu dài: Chuyển hướng sản phẩm và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu: Đối với bất kỳ quốc gia nào có mục tiêu tăng cường xuất khẩu thì đa dạng hoá sản phẩm cũng như thị trường xuất khẩu là một phương thức hữu hiệu, đặc biệt là trong giai đoạn tình hình kinh tế trở nên khó khăn như hiện nay. Giải pháp này chỉ có thể thực hiện trong dài hạn, khi mà nền kinh tế thay thế dần được các thói quen sản xuất, thay đổi một số yếu tố đầu vào, tuy nhiên đây là một giải pháp thiết thực và là mục tiêu của tất cả các nước xuất khẩu. Chuyển hướng sản phẩm, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu dễ thấy có thể tránh được những ảnh hưởng tiêu cực của tình trạng thuế chống bán phá giá. Đặt vấn đề nếu EU không phải là thị trường xuất khẩu sản phẩm da giày lớn nhất của Việt Nam hay Trung Quốc thì dù EU có áp thuế chống bán phá giá cũng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh như trong trường hợp này. Sản phẩm da giày của Việt Nam về chất lượng được đánh giá khá cao trên thị trường thế giới, điều đó có nghĩa là chúng ta hoàn toàn có khả năng phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu để không quá phụ thuộc vào thị trường Châu Âu. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có những chính sách thúc đẩy, phát triển quá trình sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, toàn dụng nhân công cũng như cải tiến về công nghệ, trang thiết bị. Riêng đối với mặt hàng giày, mũ da mang đậm tính thời trang, chúng ta cũng cần nắm bắt xu hướng trên toàn thế giới để đáp ứng nhu cầu không chỉ về chất lượng mà còn cả về mẫu mã, kiểu dáng. Bản thân chất lượng sản phẩm của chúng ta tốt thì uy tín trên trường quốc tế của ta sẽ được nâng cao. Một biện pháp khác chính là chuyển hướng sản phẩm. Mặc dù da giày là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam nhưng không có nghĩa là chúng ta chỉ có thể tập trung phát triển mặt hàng da giày. Cần hướng tới xây dựng nền kinh tế trong nước đồng bộ để có thể tậ dụng được hết những lợi thế của đất nước. Tuy nhiên cũng cần chú ý phát triển nền kinh tế đồng bộ, đa dạng nhưng không dàn trải, tránh lãng phí các nguồn lực kinh tế. Thực tế hiện nay, Việt Nam tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất chế biến như da giày, dệt may, chế biến thuỷ hải sản … đã và đang đạt được những thành tựu hết sức lớn lao, song vẫn còn tốn tại không ít khó khăn. Chúng ta vẫn còn yếu trong các khâu đòi hỏi kỹ thuật cao cũng như vấn đề quan hệ kinh tế quốc tế, dẫn đến gặo nhiều rào cản kinh tế trên thế giới. Thực hiện tốt quan hệ công chúng, xây dựng phát triển các mối quan hệ tiềm năng Trong giai đoạn xã hội phát triển như ngày nay, các mỗi quan hệ kinh tế quốc tế được đặt lên hàng đầu. Có thể chất lượng sản phẩm của nước A không cao bằng nước B, nhưng bù lại mối quan hệ của nước A đối với nước C tốt hơn nước B thì ít nhiều quyền lợi trong việc xuất khẩu sẽ thuộc về nước A. Đây là một thực tế của nền kinh tế thế giới. Không kể đến những nền kinh tế lớn mạnh như Hoa kỳ, Nhật Bản, … những nước đang phát triển như Việt Nam đòi hỏi phải có những mối quan hệ kinh tế tốt với các nước phát triển trên thế giới. Một mặt, quan hệ công vững mạnh với các nước phát triển sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư, chuyển giao khoa học công nghệ, ma fbên cạnh đó còn là những thuận lợi trong việc ký kết các hợp đồng kinh doanh. Quay trở lại vấn đề Việt Nam Và Trung Quốc bị áp thuế bán phá giá đối với mặt hàng da giày, có nhiều ý kiến cho rằng hành động này của Liên minh Châu Âu mang nhiều tính chính trị xã hội hơn là về kinh tế. Việt Nam chính thức mở cửa nền kinh tế từ 1986, nhưng chỉ khoảng 15 năm trở lại đây, Việt Nam mới tích cực hơn trong việc đặt mối quan hệ ngoại giao với các nước tư bản, và chỉ từ những năm 2000, mối quan hệ của Việt Nam với các nước châu Âu, trong đó đặc biệt phải kể đến Hoa Kỳ mới có những chuyển biến tích cực. Do đó cũng không thể tránh khỏi những yếu kém về mặt thiết lập quan hệ công chúng, hành lang để tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác về mặt kinh tế. Để tăng cường cơ hội và khả năng hợp tác kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực và năng động hơn trong việc giao lưu hợp tác quốc tế. Chúng ta phải đa dạng, phát triển với tất cả các nước trên thế giới, vừa là để quảng bá hình ảnh đất nước, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, vừa tạo tiền đề cho kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, việc mở cửa nền kinh tế vừa có những thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn. Thuận lợi ở chỗ chúng ta có thêm điều kiện về vốn, về khoa học kỹ thuật cũng như những lợi ích từ việc hợp tác đôi bên cùng có lợi. Nhưng bên cạnh đó, mở cửa nền kinh tế sẽ làm cho Việt Nam phải đối mặt với nhiều hơn những biến động kinh tế, cạnh tranh trên trường quốc tế và thậm chí là cạnh tranh để không đánh mất thị trường nội địa… Nâng cao vai trò, khả năng của Hiệp hội ngành nghề: Một loạt các vụ kiện bán phá giá của Việt Nam như trong ngành thuỷ hải sản, da giày đã chỉ rõ điểm yếu của các Hiệp hội ngành nghề - tổ chức liên kết, đại diện cho các doanh nghiệp cùng ngành. Các hiệp hội ngành nghề hầu như chưa giải quyết được các vấn đề khó khăn về kinh tế, đặc biệt là khi có các vấn đề mâu thuẫn phát sinh trong ngành. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động của Hiệp hội ngành nghề như tăng cường nghiên cứu tìm hiểu về luật kinh doanh quốc tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, định hướng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ … để có khả năng ứng phó với các rủi ro trong kinh doanh như trường hợp bị áp thuế chống bán phá giá thì Hiệp hội ngành nghề cũng cần phải “sẵn sàng với các vụ kiện và chủ động để thắng kiện”. Theo LS Trần Hữu Huỳnh – Phó Tổng Thư ký, kiêm Trưởng Ban Pháp chế VCCI: Các vụ kiện có thể sẽ không chỉ diễn ra ở các mặt hàng truyền thống, thị trường truyền thống mà diễn ra ở nhiều mặt hàng và trên nhiều thị trường khác. Chính vì vậy, các hiệp hội doanh nghiệp và các doanh nghiệp cần phối hợp và có tiếng nói chung trong chiến lược xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp, không nên chú trọng sản xuất và xuất khẩu hàng giá rẻ. Nếu thấy có nguy cơ bị kiện chống bán phá giá, hay chống trợ cấp phải chuẩn bị sẵn các điều kiện như hồ sơ sổ sách kế toán, cơ sở pháp lý cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề để chuẩn bị theo kiện. Các hiệp hội doanh nghiệp cũng cần phải chủ động hướng dẫn doanh nghiệp về các điều kiện pháp lý, cũng như tập hợp các doanh nghiệp để đưa ra các biện pháp phòng vệ tích cực. Vai trò của hiệp hội doanh nghiệp hơn lúc nào hết cần được thể hiện rõ trong trường hợp có khiếu kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp. Về phía Chính phủ cũng cần rà soát lại toàn bộ những chính sách có thể bị đối tác quy thành trợ cấp như giá thuê đất, lãi suất ngân hàng... Bên cạnh đó, Chính phủ có thể xem xét, nghiên cứu để khởi kiện lại các đối tác căn cứ từ các quy định của WTO, nếu các quy định áp thuế cho hàng xuất khẩu Việt Nam quá cao. Việt Nam, Trung Quốc và một số nền kinh tế khác vẫn bị Bộ Thương mại Mỹ coi là nền kinh tế phi thị trường. Do đó, việc khởi kiện các hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ và áp dụng thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp luôn luôn có thể xảy ra. Khi bị khởi kiện, Bộ Thương mại Mỹ thường căn cứ tham chiếu từ các thị trường tương tự như Việt Nam về giá thuê đất, lãi suất ngân hàng, các yếu tố cấu thành giá trị sản phẩm... để đưa ra phán quyết hàng hóa Việt Nam có phá giá trị trường không, có được trợ cấp không? Ngoài ra, khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần lưu ý đối với các mặt hàng giá rẻ hoặc gây ảnh hưởng, thiệt hại tới sản xuất của các doanh nghiệp Mỹ. Đây là những mặt hàng có nguy cơ bị khởi kiện cao. Nếu được chuẩn bị kỹ Việt Nam vẫn có thể là người thắng kiện. Vụ kiện túi bán phá giá túi PE là một ví dụ. Thông qua các số liệu giải trình, Bộ Thương mại Mỹ đã phải bác bỏ 31 trên 34 lý do chống bán phá giá của doanh nghiệp Mỹ đưa ra đối với doanh nghiệp Việt Nam. Theo bà Chi Mai – Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, sản phẩm túi PE của VN có thể bị áp dụng mức thuế trung bình khoảng 2,7% (đây mà mức thuế khá thấp – nhận xét của một chuyên gia pháp luật Mỹ). Nhiều quốc gia khác như các nước EU, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan.... cũng đã từng khởi kiện đối với Hoa Kỳ xoay quanh việc áp dụng phương pháp qui về 0, theo quy định biên độ phá giá của WTO. Không ít quốc gia đã thắng kiện. Tuy nhiên, Bộ Thương mại Mỹ chỉ áp dụng phương pháp quy về 0 này đối với quốc gia nào khởi kiện mình. VN hoàn toàn có thể thắng kiện nếu chuẩn bị đầy đủ các điều kiện pháp lý cần thiết. Đồng thời, đây cũng là việc các bên đều phải làm tốt vai trò của mình từ doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và cả Chính phủ. KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docquan h7879 kinh t7871 qu7889c t7871 ki7879n bn ph gi.doc
  • doct432 t4327903ng HCM v7873 ch7911 ngh297 x h7897i.doc