Giáo dục GTNN cho sinh viên sư phạm nói chung, SVSPTH nói riêng là một
vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhờ giáo dục GTNN mà người sinh viên tạo
dựng được nền tảng cho sự hình thành và phát triển ở bản thân mình nhân cách của nhà
giáo dục. Vì vậy, giáo dục GTNN chính là con đường cơ bản để nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên, và do đó, nâng cao chất lượng giáo dục của các nhà trường phổ
thông.
Để giáo dục GTNN cho SVSPTH, trước hết phải xác định được một hệ thống
các giá trị phù hợp. Ở đây, một hệ thống GTNN phù hợp có nghĩa là hệ thống đó phải
bao gồm các giá trị quy định mục đích lao động sư phạm của người sinh viên ở nhà
trường tiểu học sau này và các giá trị mà người sinh viên cần có để đạt được mục đích
ấy. Các giá trị này chỉ có thể tìm thấy được trong Mục đích giáo dục và Mục tiêu đào
tạo cử nhân giáo dục tiểu học. Trên cơ sở phân tích Mục đích giáo dục và khái quát hóa
Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học, chúng tôi đã xác định được một hệ thống
các GTNN để giáo dục cho SVSPTH nước ta hiện nay.
9 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2569 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định các giá trị nghề nghiệp cần giáo dục cho sinh viên sư phạm tiểu học hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
87
XÁC ĐỊNH CÁC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP CẦN GIÁO
DỤC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM TIỂU HỌC HIỆN NAY
DEFINING A CAREER’S ESSETIAL VALUES TO TRAIN STUDENTS
OF PRIMARY EDCUATION
NGUYỄN HOÀNG HẢI
Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Giáo dục giá trị nghề nghiệp là con đường cơ bản để nâng cao chất lượng đào tạo của
nhà trường sư phạm, góp phần xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Trong thực tiễn đào tạo giáo viên tiểu học, việc giáo dục giá trị nghề
nghiệp cho sinh viên còn có nhiều hạn chế, đặc biệt là chưa định hình được một cách
cụ thể nội dung giáo dục giá trị nghề nghiệp. Bài báo này thực hiện việc xác định hệ
thống các giá trị nghề nghiệp cần phải giáo dục cho sinh viên sư phạm tiểu học ở nước
ta hiện nay.
ABSTRACT
One of the basic ways to improve training quality at colleges of education is to teach a
career’s essential values to students. Equipped with this knowledge, students are
definitely becoming qualified teachers to meet the high demand of educational
innovation in the period of industrialization, modernization and international integration.
However, our primary education programs are having some limitations because these
necessary values have not been specified properly. This article will then discover and
define them to apply to primary education programs in Vietnam.
1. Đặt vấn đề
Giáo dục giá trị được hiểu là quá trình tổ chức và hướng dẫn hoạt động của
người học để họ chiếm lĩnh được các giá trị xã hội, hình thành nên hệ thống giá trị của
bản thân phù hợp với sự mong đợi và yêu cầu chung của toàn xã hội. Giáo dục giá trị,
với cách hiểu như vậy, là bộ phận cốt yếu của mọi chương trình giáo dục nhằm hình
thành và phát triển nhân cách con người. Bởi lẽ, “nhân cách chính là mối quan hệ - mức
độ phù hợp giữa thang giá trị, thước đo giá trị của chủ thể với thang giá trị và thước đo
giá trị của nhóm, cộng đồng, xã hội, nhân loại. Mức độ và phạm vi phù hợp càng cao
thì nhân cách càng lớn.” [3; tr 130]
Đào tạo giáo viên, về bản chất, là quá trình hình thành ở người sinh viên nhân
cách của nhà giáo dục, có những phẩm chất cao đẹp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng. Đó là một nhân cách thực sự mẫu mực cả về đạo đức, lối sống lẫn tài năng
sư phạm, là tấm gương sáng cho học sinh và cho cả cộng đồng. Nhân cách đó chỉ có thể
hình thành ở người sinh viên khi họ lĩnh hội được nền văn hóa chung của nhân loại, mà
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
88
trước hết là văn hóa sư phạm cùng những giá trị tinh thần cần thiết cho hoạt động nghề
nghiệp của họ. Vì thế, trong quá trình đào tạo giáo viên, giáo dục giá trị nghề nghiệp
(GTNN) chính là con đường cơ bản để bảo đảm cho người sinh viên hình thành được ở
bản thân mình nhân cách của nhà giáo dục.
Để giáo dục GTNN cho sinh viên sư phạm, cần phải có một hệ thống các giá trị
phù hợp. Đây là vấn đề có tính then chốt trong giáo dục GTNN cũng như trong toàn bộ
quá trình đào tạo giáo viên của nhà trường sư phạm. Bởi lẽ, nếu có một hệ thống giá trị
cụ thể và rõ ràng, nhà trường mới có căn cứ để xây dựng kế hoạch, chương trình, lựa
chọn phương pháp, phương tiện và hình thức giáo dục giá trị cho sinh viên. Hơn nữa,
việc lựa chọn GTNN nào để giáo dục lại có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất và chiều
hướng phát triển nhân cách nghề nghiệp của sinh viên trong suốt quá trình công tác ở
trường phổ thông sau này. Thực tiễn đào tạo giáo viên ở nước ta từ trước đến nay cho
thấy, nhà trường sư phạm vẫn luôn chú ý giáo dục cho giáo sinh các giá trị truyền thống
lịch sử - văn hóa cùng các phẩm chất đạo đức nhà giáo. Tuy nhiên, trong chương trình
đào tạo, còn ít thấy đề cập đến các GTNN có tính đặc trưng của người giáo viên hiện
đại. Bên cạnh đó, hệ thống GTNN cần giáo dục cho sinh viên cũng chưa được xác định
một cách cụ thể, rõ ràng. Điều này đã dẫn đến sự thiếu hụt những định hướng GTNN
cần thiết trong nhân cách của người sinh viên khi họ bước vào nghề, và do vậy, làm hạn
chế khả năng của họ trong việc tự hoàn thiện bản thân để có thể theo kịp với sự phát
triển không ngừng của xã hội. Trên thực tế, đội ngũ nhà giáo nước ta cũng đang bộc lộ
nhiều điểm bất cập khi đứng trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục hiện
nay. Đặc biệt, trong đội ngũ giáo viên tiểu học (GVTH), nhiều người còn chưa nhận
thức đúng và đầy đủ về vai trò cũng như trách nhiệm to lớn của mình, chỉ coi dạy học là
dạy chữ chứ chưa phải là dạy người theo nghĩa đầy đủ nhất. Thực trạng đó đặt ra đòi hỏi
bức bách là phải xác định được hệ thống GTNN phù hợp để giáo dục cho sinh viên sư
phạm, trước hết là sinh viên sư phạm tiểu học (SVSPTH).
2. Về khái niệm giá trị nghề nghiệp giáo viên tiểu học
Giá trị là phạm trù cơ bản của triết học, giờ đây được sử dụng rộng rãi trong đời sống
hàng ngày cũng như trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Thông thường, khi nói
đến giá trị là nói đến tính ích lợi, tính có ý nghĩa của các đối tượng trong hiện thực khách
quan đối với cuộc sống của cá nhân, của nhóm và xã hội. Tính ích lợi, tính có ý nghĩa của
đối tượng có thể bao hàm cả mặt tích cực và tiêu cực. Song, quan niệm chung về giá trị
vẫn luôn khẳng định mặt chính diện, tính có ý nghĩa tích cực, đáng quý, có ích của các đối
tượng đối với chủ thể. Nhà xã hội học J. H. Fichter cho rằng: “Tất cả cái gì có ích lợi,
đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị” [5; tr
173-174]. Như vậy, khái niệm giá trị cần được hiểu một cách tường minh bao gồm cả
kinh nghiệm, tri thức, vốn sống, kỹ thuật, kỹ năng và công cụ lao động. Giá trị là cái dùng
để chỉ các phẩm chất và đức tính cao quý của con người, là cái được đa số người trong xã
hội ao ước và cùng nhau chia sẻ. Giá trị gắn liền với cái hay, cái đẹp, cái đúng, cái tốt, cái
có khả năng thôi thúc con người nỗ lực hành động để vươn tới lý tưởng chân, thiện, mỹ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
89
Nguồn gốc của giá trị nằm trong hiện thực khách quan, nó vốn là đặc tính của một đối
tượng nhất định. Đặc tính này trở thành giá trị khi nó được chủ thể phát hiện, đánh giá và
chấp nhận. Nhà giáo dục học Nhật Bản T. Makiguchi đã khẳng định: “Giá trị là sự thể
hiện có tính định lượng của mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng của việc
đánh giá” [6; tr 104]. Giá trị thông qua đánh giá mà có, nhờ đánh giá mà chủ thể tìm ra
được cái có ý nghĩa, cái mà mình quan tâm tới, có ước muốn đạt được để thực hiện một
mục đích nào đấy. Giá trị và mục đích của hoạt động có quan hệ mật thiết với nhau. Bằng
cách tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách, Giáo sư Phạm Minh Hạc cho rằng: “ mục
đích của hoạt động bao giờ cũng là làm sao đạt tới cái mà mình cho là có giá trị đối với
bản thân. Từ đó, có thể đi tới định nghĩa giá trị là cái quy định mục đ ích của hoạt
động”. Theo ông: “Dưới góc độ của giá trị học, đời người là tổng các giá trị do người đó
tạo nên, tiếp thu, chấp nhận, lấy làm chuẩn mực bằng dòng hoạt động của bản thân. Tổng
các giá trị này là văn hóa của người đó” [4; tr 106]. Ở đây, tổng thể các giá trị do con
người tạo ra được coi là văn hóa, vì thế giá trị cũng mang các chức năng của văn hóa,
trong đó có chức năng giáo dục và làm phát triển con người. Khái niệm “giá trị”, qua
những phân tích trên, có các dấu hiệu bản chất sau:
− Giá trị là sự thể hiện mối quan hệ lợi ích, đánh giá của chủ thể với tồn tại xung
quanh. Trong giá trị bao giờ cũng hàm chứa những đặc tính ích lợi, có ý nghĩa
tốt đẹp đối với chủ thể.
− Giá trị là cái quy định mục đích của hoạt động, là cái mà chủ thể cần có để đạt
được mục đích hoạt động của mình.
− Giá trị mang chức năng của văn hóa nên bao giờ cũng có tác dụng giáo dục và
làm phát triển nhân cách của chủ thể.
Trong xã hội loài người, mỗi cộng đồng (nhóm xã hội hoặc giai tầng xã hội) đều
có một hệ thống giá trị đặc thù đóng vai trò là hạt nhân tạo nên tâm thức chung của cộng
đồng và định hướng cho các thành viên trong cộng đồng cùng thống nhất hành động.
Đội ngũ GVTH ở nước ta là một nhóm xã hội nghề nghiệp, do đó cũng có một hệ thống
các giá trị đặc thù. Các giá trị này chính là giá trị nghề nghiệp GVTH.
Giá trị nghề nghiệp GVTH nằm trong khái niệm giá trị và mang đầy đủ các đặc
trưng bản chấ t của khái niệm giá trị. Đó là sự thu hẹp của khái niệm giá trị vào trong
lĩnh vực giáo dục tiểu học. Vì thế, có thể hiểu giá trị nghề nghiệp GVTH là:
− Các phẩm chất, đức tính cao đẹp, các kiến thức, kỹ năng về chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm được đa số GVTH thừa nhận là đáng quý, hữu ích và mong
muốn đạt được.
− Các yếu tố quy định mục đích lao động sư phạm của người GVTH cũng như các
yếu tố mà người GVTH cần có để đạt được mục đích lao động sư phạm của
mình.
− Các yếu tố tạo nên văn hóa sư phạm GVTH, chúng có tác dụng giáo dục ý thức
nghề nghiệp và làm phát triển nhân cách sư phạm của người GVTH.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
90
3. Xác định các GTNN cần giáo dục cho SVSPTH ở nước ta hiện nay
Xác định các giá trị để giáo dục cho học sinh, sinh viên là một công việc phức
tạp, bởi những giá trị cần giáo dục là vô số, trong khi yêu cầu của giáo dục lại đòi hỏi
phải lựa chọn một số giá trị cơ bản, tối thiểu, vừa đáp ứng yêu cầu xã hội, vừa phù hợp
với đối tượng giáo dục. SVSPTH là một đối tượng đặc biệt, họ đang được đào tạo để trở
thành nhà giáo dục. Vì thế, việc xác định các giá trị để giáo dục cho SVSPTH cần phải
dựa vào Mục đích giáo dục và Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học. Bởi lẽ, trong
Mục đích giáo dục có các yếu tố quy định mục đích lao động sư phạm của người
GVTH, còn trong Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học lại hàm chứa các yếu tố
mà người GVTH cần có để đạt được mục đích lao động của mình.
3.1. Xác định các giá trị có trong Mục đích giáo dục
Mục đích giáo dục là sản phẩm dự kiến của quá trình giáo dục, là mẫu hình lý
tưởng về nhân cách con người mà xã hội mong muốn đào tạo nên. Mục đích giáo dục ở
nước ta hiện nay là đào tạo ra lớp người có đủ phẩm chất và năng lực để đáp ứng những
yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Đó là những con người mà trong nhân cách của họ phải bao gồm một hệ thống
các giá trị vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mang tính hiện đại. Hệ thống giá trị này đã
được nêu trong nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước ta. Đặc biệt, trong Văn kiện Hội
nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, hệ thống giá trị này được cụ
thể hóa như sau:
− Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH,
có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân
dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
− Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
− Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải
thiện môi trường sinh thái.
− Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất
cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
− Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
mỹ và thể lực.” [1; 58-59].
Như vậy, có thể nhận rõ các giá trị mà nhà trường nước ta phải giáo dục cho học
sinh, sinh viên bao gồm:
1. Tinh thần yêu nước, yêu CNXH.
2. Độc lập dân tộc (thể hiện ở tinh thần tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu).
3. Hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội (thể hiện ở tinh thần đoàn kết với nhân dân
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
91
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội).
4. Tinh thần tập thể (thể hiện ở ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung).
5. Lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh.
6. Cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa.
7. Tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng.
8. Ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
9. Hiệu quả lao động (thể hiện ở sự lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có
kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội).
10. Ý thức vươn lên hoàn thiện bản thân (thể hiện qua việc thường xuyên học tập,
nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực).
Đây là các giá trị căn bản nhất, đóng vai trò nền tảng và định hướng cho sự hình
thành nhân cách con người Việt Nam trong thời đại tri thức và hội nhập quốc tế hiện
nay. Việc giáo dục các giá trị này cho học sinh, sinh viên là trách nhiệm của đội ngũ
giáo viên trong các nhà trường ở mọi cấp học, bậc học, ngành học. Ở bậc tiểu học,
người giáo viên càng có trách nhiệm to lớn hơn, bởi ở bậc học này, giáo viên là ông
thầy tổng thể, là người giáo dục học sinh một cách toàn diện về mọi mặt. Trách nhiệm
đó đòi hỏi mỗi người GVTH, ngay từ khi còn là sinh viên trong nhà trường sư phạm,
phải lĩnh hội được một cách đầy đủ và sâu sắc các giá trị căn bản làm nền tảng cho nhân
cách con người Việt Nam. Vì thế, các giá trị nêu trên chính là một bộ phận không thể
thiếu trong hệ thống các GTNN mà nhà trường cần phải giáo dục cho SVSPTH.
3.2. Xác định các giá trị có trong Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học
Cùng với Mục đích giáo dục, Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học cũng là
một căn cứ quan trọng để xác định các GTNN cần giáo dục cho SVSPTH. Ở nước ta,
Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học được nêu trong Chương trình khung giáo
dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2006 [2]. Nội dung của Bản Mục
tiêu quy định những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, kiến thức và kỹ năng sư phạm mà
mỗi người SVSPTH cần phải đạt được khi tốt nghiệp ra trường. Những yêu cầu đó
chính là sự cụ thể hóa các giá trị trong nhân cách nghề nghiệp của người GVTH. Vì thế,
nếu khái quát các yêu cầu này sẽ giúp chỉ ra hệ thống GTNN cần giáo dục cho
SVSPTH. Dưới đây là hệ thống giá trị đã xác định được bằng cách khái quát hóa các
yêu cầu nêu trong Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học.
Bảng 1: Xác định các GTNN từ Mục tiêu đào tạo cử nhân tiểu học
TT Nội dung Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học Giá trị tương ứng
1 Yêu cầu (YC) 1.2.1: yêu nước, yêu CNXH Yêu nước, yêu CNXH
2 YC 1.2.1: là công dân tốt, chấp hành các chủ trương chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
Trách nhiệm công dân
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
92
3 YC 1.2.1: Yêu nghề dạy học, thương yêu, tôn trọng, chăm
sóc, đối xử công bằng với mọi học sinh (HS), được HS tin
yêu
Yêu nghề, thương yêu
HS
4 YC 1.2.1: Chấp hành các chủ trương chính sách của ngành;
Có tinh thần trách nhiệm trong công tác, biế t vận động các
lực lượng trong và ngoài nhà trường thực hiện xã hội hóa
giáo dục
Trách nhiệm nghề
nghiệp
5 YC 1.2.1: Có lối sống lành mạnh, trung thực, giản dị, biết
đoàn kết, hợp tác, khiêm tốn học hỏi đồng nghiệp, có quan
hệ tốt với gia đình HS và cộng đồng
Văn hóa nhà giáo
6 YC 1.2.3: Biết giao tiếp v à ứng xử th ích hợp với HS, gia
đình HS, với đồng nghiệp và các tầng lớp nhân dân trong
cộng đồng
Khả năng giao tiếp sư
phạm
7 YC 1.2.1: Có ý thức chủ động tự học, tự bồi dưỡng nâng
cao trình độ chính trị chuyên môn, nghiệp vụ
Tự hoàn thiện nhân
cách nghề nghiệp
8 YC 1.2.1: Thường xuyên rèn luyện sức khoẻ Sức khoẻ tốt
9 YC 1.2.2: Có kiến thức giáo dục đại cương đủ rộng. Nắm
vững các kiến thức chuyên môn, bảo đảm dạy tốt các môn
học và các hoạt động giáo dục trong chương trình tất cả các
lớp cấp tiểu học, được nâng cao về 3 môn Tiếng Việt, Toán,
Tự nhiên-Xã hội, hoặc 1 môn chuyên sâu, tạo điều kiện để
sinh viên tốt nghiệp có thể học tiếp lên các trình độ cao hơn;
Có kiến thức cơ bản về Tâm lý học, Giáo dục học, Phương
pháp dạy học, về đánh giá kết quả học tập ở tiểu học, bước
đầu biết vận dụng các kiến thức này vào thực tiễn dạy học,
giáo dục HS ở trường tiểu học
Trình độ chuyên môn
vững vàng
10 YC 1.2.2: Có kiến thức cơ bản về Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh; Hiểu biết những chính sách, chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã
hội, giáo dục, văn hóa của đất nước. Có hiểu biết về Quản lý
hành chính nhà nước và Quản lý ngành.
YC 1.2.2: Có kiến thức phổ thông về môi trường, dân số, an
ninh - quốc phòng, an toàn giao thông, về quyền trẻ em, y tế
học đường để có thể thực hiện giáo dục tích hợp
Hiểu biết rộng
11 YC 1.2.2: Có hiểu biết về tình hình kinh tế - văn hóa - xã
hội, đời sống, phong tục tập quán của địa phương để có thể
hoà nhập và góp phần phát triển cộng đồng
Gắn bó với cộng đồng
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
93
12 YC 1.2.2: Được trang bị những thông tin cập nhật về đổi
mới giáo dục tiểu học trong nước và khu vực, có khả năng
vận dụng đổi mới phương pháp dạy học các môn học ở tiểu
học;
YC 1.2.3: Biết lập kế hoạch bài học theo định hướng đổi
mới phương pháp dạy học, đổi mới phương pháp kiểm tra,
đánh giá ở tiểu học
Tinh thần đổi mới
13 YC 1.2.3: Biết tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với
điều kiện cụ thể của HS và địa phương nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập. Biết dạy
cho HS phương pháp học tập, đặc biệt biết tự học, phát triển
ở HS năng lực tự đánh giá ; Khi có nhu cầu, có thể dạy lớp
ghép, dạy tiếng Việt cho HS dân tộc, dạy học sinh khuyết
tật, tàn tật theo hướng hoà nhập
Năng động, sáng tạo
14 YC 1.2.3: Biết sử dụng các phương tiện công nghệ dạy học,
đặc biệt là công nghệ thông tin, vào quá trình dạy học ở tiểu
học
Sử dụng tốt phương
tiện công nghệ
15 YC 1.2.3: Biết làm công tác chủ nhiệm lớp, tổ chức các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động Sao nhi đồng,
Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh; Có khả năng giáo
dục HS cá biệt.
Có khả năng tổ chức
các hoạt động sư phạm
16 YC 1.2.3: Có kỹ năng quản lý lớp học, xây dựng lớp thành
tập thể đoàn kết, tự quản. Biết lập sổ sách, xây dựng và lưu
trữ hồ sơ về quá trình học tập rèn luyện đạo đức của HS
Biết cách quản lý học
sinh
3.3. Hệ thống hóa các giá trị nghề nghiệp cần giáo dục cho sinh viên sư phạm tiểu học
Ở trên, việc phân tích Mục đích giáo dục đã chỉ ra được các giá trị cơ bản trong
mẫu hình nhân cách con người Việt Nam và cũng là các giá trị mà người GVTH phải
nhuần nhuyễn để giáo dục cho học sinh của mình. Các giá trị này mang tính chất lý
tưởng và có tác dụng định hướng cho toàn bộ hoạt động giáo dục thế hệ trẻ, chúng quy
định mục đích hoạt động sư phạm của người GVTH nên được gọi là các giá trị mục
đích. Bên cạnh đó, việc khái quát hóa Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học cũng
đã rút ra các giá trị cơ bản mà người SVSPTH cần phải lĩnh hội được để tạo dựng nền
tảng cho nhân cách nghề nghiệp của bản thân. Trong giáo dục, nhân cách người giáo
viên là công cụ lao động của họ nên các giá trị này được gọi là các giá trị công cụ.
Như vậy, có thể xác định một hệ thống giá trị cần giáo dục cho SVSPTH gồm
hai nhóm, đó là: nhóm các giá trị mục đích và nhóm các giá trị công cụ. Hệ thống
GTNN được thể hiện ở bảng 2.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
94
Bảng 2: Hệ thống các GTNN cần giáo dục cho SVSPTH
Các giá trị mục đích Các giá trị công cụ
1. Tinh thần yêu nước, yêu CNXH
2. Độc lập dân tộc
3. Hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội
4. Tinh thần tập thể
5. Lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh
6. Cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa
7. Tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước
của cộng đồng
8. Ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái
9. Hiệu quả lao động
10. Ý thức vươn lên hoàn thiện bản thân
1. Yêu nước, yêu CNXH
2. Trách nhiệm công dân
3. Yêu nghề, thương yêu học sinh
4. Trách nhiệm nghề nghiệp
5. Văn hóa nhà giáo
6. Khả năng giao tiếp sư phạm
7. Tự hoàn thiện nhân cách nghề nghiệp
8. Sức khỏe tốt
9. Trình độ chuyên môn vững vàng
10. Hiểu biết rộng
11. Gắn bó với cộng đồng
12. Tinh thần đổi mới
13. Năng động, sáng tạo
14. Sử dụng tốt phương tiện công nghệ
15. Có khả năng tổ chức các hoạt động sư
phạm
16. Biết cách quản lý học sinh
4. Kết luận
Giáo dục GTNN cho sinh viên sư phạm nói chung, SVSPTH nói riêng là một
vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhờ giáo dục GTNN mà người sinh viên tạo
dựng được nền tảng cho sự hình thành và phát triển ở bản thân mình nhân cách của nhà
giáo dục. Vì vậy, giáo dục GTNN chính là con đường cơ bản để nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên, và do đó, nâng cao chất lượng giáo dục của các nhà trường phổ
thông.
Để giáo dục GTNN cho SVSPTH, trước hết phải xác định được một hệ thống
các giá trị phù hợp. Ở đây, một hệ thống GTNN phù hợp có nghĩa là hệ thống đó phải
bao gồm các giá trị quy định mục đích lao động sư phạm của người sinh viên ở nhà
trường tiểu học sau này và các giá trị mà người sinh viên cần có để đạt được mục đích
ấy. Các giá trị này chỉ có thể tìm thấy được trong Mục đích giáo dục và Mục tiêu đào
tạo cử nhân giáo dục tiểu học. Trên cơ sở phân tích Mục đích giáo dục và khái quát hóa
Mục tiêu đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học, chúng tôi đã xác định được một hệ thống
các GTNN để giáo dục cho SVSPTH nước ta hiện nay. Đây là các giá trị cơ bản nhất
trong nhân cách người GVTH. Việc lĩnh hội được các giá trị này không chỉ giúp
SVSPTH có đủ khả năng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình ngay sau khi
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(28).2008
95
ra trường mà còn có được tiền đề quan trọng để tiếp tục lĩnh hội các GTNN khác, tự
hoàn thiện nhân cách nghề nghiệp của bản thân, không ngừng vươn lên đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển giáo dục trong thời đại mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình khung giáo dục đại học - Ban hành theo
quyết định số 39/ 2006/ QĐ-BGDĐT, ngày 02. 10. 2006, của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục & Đào tạo.
[3] Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
[4] Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO
PI-R cải biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.
[5] Joseph. H. Fichter, Xã hội học nhập môn, Bản dịch của Trần Văn Đĩnh, Sài gòn,
1974.
[6] Tsunesabura Makiguchi, Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo , Trường Đại học Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh và NXB Trẻ, 1994.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13_hai_hoang_pr13_nam_978.pdf