Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam

MỤC LỤC 1. Lý do chọn đề tài. Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động nhất, hào hung nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện những bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và đến nay chúng ta cũng khẳng địng công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang giành được những thắng lợi lớn, "có ý nghĩa lịch sử sâu sắc" Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày nay, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả của cách mạng, từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ thấy được vai trò và sự cống hiến to lớn của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa to lớn từ sự xuất hiện, sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (3- 2- 1930) là vô cùng quan trọng. Năm 2010 cũng là năm kỉ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng. Do vậy, em lựa chọn đề tài: "Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam" làm đề tài tiểu luận của mình. 2. Mục đích, yêu cầu: Là công dân của một đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa ,chịu sự dìu dắt của Đảng Cộng Sản, chúng ta phải nắm vững phải quán triệt được tư tưởng đúng đắn của Đảng, không ngừng nâng cao hiểu biết về Đảng và vai trò củaĐảng. Tư tưởng của Đảng là một tư tưởng đúng, tư tưởng mang tính khoa học biện chứng và điều đó đã được lịch sử chứng minh. Đựơc chứng minh ngay việc ra đời của Đảng Cộng Sản, sự ra đời của Đảng Cộng Sản hoàn toàn hợp quy luật .Vai trò của Đảng Cộng Sản vô cùng to lớn, vai trò đó có ảnh hưởng quan trọng và không thể thiếu đối với lịch sử và tương lai của nhân loại. 3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về ý nghĩa của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đối với lịch sử dân tộc Việt Nam không còn là vấn đề mới, mà đây là vấn đề có lịch sử nghiên cứu từ rất lâu và cũng được sự quan tâm của nhiều tác giả, nhóm tác giả, nhiều cơ quan, tổ chức và đến nay vấn đề này cũng được công bố rộng rãi, là một trong những nội dung giảng dạy ở không chỉ các trường cao đẳng, đại học, mà còn ở các cấp học phổ thông. Như vậy, đây là vấn đề đã mang tính phổ biến và không còn là mới. Song, tác giả lựa chọn cách tiếp cận là đặt trực tiếp sự ra đời của Đảng trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thế giới để qua đó làm nổi bật lên ý nghĩa sự ra đời của Đảng.

doc20 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 21717 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TOÁN – TIN __œv__ GVHD:TRẦN NHƯ CƯƠNG SVTH: ĐẶNG MINH NHỰT MSSV: K33101080 LỚP: TOÁN 3B ____________ Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2010 1. Lý do chọn đề tài. Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động nhất, hào hung nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện những bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và đến nay chúng ta cũng khẳng địng công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang giành được những thắng lợi lớn, "có ý nghĩa lịch sử sâu sắc"… Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày nay, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả của cách mạng, từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ thấy được vai trò và sự cống hiến to lớn của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa to lớn từ sự xuất hiện, sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (3- 2- 1930) là vô cùng quan trọng. Năm 2010 cũng là năm kỉ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng. Do vậy, em lựa chọn đề tài: "Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam" làm đề tài tiểu luận của mình. 2. Mục đích, yêu cầu: Là công dân của một đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa ,chịu sự dìu dắt của Đảng Cộng Sản, chúng ta phải nắm vững phải quán triệt được tư tưởng đúng đắn của Đảng, không ngừng nâng cao hiểu biết về Đảng và vai trò củaĐảng. Tư tưởng của Đảng là một tư tưởng đúng, tư tưởng mang tính khoa học biện chứng và điều đó đã được lịch sử chứng minh. Đựơc chứng minh ngay việc ra đời của Đảng Cộng Sản, sự ra đời của Đảng Cộng Sản hoàn toàn hợp quy luật .Vai trò của Đảng Cộng Sản vô cùng to lớn, vai trò đó có ảnh hưởng quan trọng và không thể thiếu đối với lịch sử và tương lai của nhân loại. 3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về ý nghĩa của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đối với lịch sử dân tộc Việt Nam không còn là vấn đề mới, mà đây là vấn đề có lịch sử nghiên cứu từ rất lâu và cũng được sự quan tâm của nhiều tác giả, nhóm tác giả, nhiều cơ quan, tổ chức… và đến nay vấn đề này cũng được công bố rộng rãi, là một trong những nội dung giảng dạy ở không chỉ các trường cao đẳng, đại học, mà còn ở các cấp học phổ thông. Như vậy, đây là vấn đề đã mang tính phổ biến và không còn là mới. Song, tác giả lựa chọn cách tiếp cận là đặt trực tiếp sự ra đời của Đảng trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thế giới để qua đó làm nổi bật lên ý nghĩa sự ra đời của Đảng. -------------------------------------------- TÊN MỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài. 1 2. Mục đích, yêu cầu 1 3. phạm vi, phương pháp nghiên cứu. 1 NỘI DUNG 4 Chương 1. Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 4 1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam. 4 2. Sự chuyển biến về kinh tế- xã hội ở Việt Nam. 6 3. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 8 4. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. 9 Chương 2. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. 11 1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử; là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. 11 2. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng những năm đầu thế kỷ XX. 13 3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. 14 4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam. 15 5. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta. 16 KẾT LUẬN 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 vœ 1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên bình diện thế giới xuất hiện những biến cố lịch sử mang tính chất là bước ngoặt của xã hội loại người. Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt: Mâu thuẫn vốn có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã phát triển đến mức cần phải giải quyết. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách mạng XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914- 1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị trí và được xem là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, đó là lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin. Không những thế, lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênnin cũng chỉ ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng mình. Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác- Lênin đã xây dựng nên học thuyết lý luận cách mạng không ngừng, với nội dung cơ bản: Giai cấp công nhân, sau khi đã trưởng thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân (gọi tắt là chuyên chính công nông). Một cuộc cách mạng như vậy được gọi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Sự hoàn thành triệt để cuộc cách mạng đó có nghĩa là tạo lập chiếc cầu trực tiếp để chuyển sang cách mạng XHCN và giữa chúng không có ''bức tường thành ngăn cách''. Lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và đặc biệt là Lý luận cách mạng không ngừng đã chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa như Việt Nam, đó là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con đường cách mạng vô sản. Đồng thời Lênin cũng chỉ ra việc cần thiết phải xây dựng một Đảng cộng sản kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917. Cờ_Huy hiệu Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Vị trí của Liên bang Cộng Hòa Xã Hội chủ nghĩa Xô Viết Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản trên thế giới: Đản cộng sản Đức, Đảng cộng sản Hunggari (1918), Đảng cộng sản Mỹ (1919), Đảng cộng sản Anh, Đảng cộng sản Pháp (1920)… Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò tiên phong kể từ sau khi Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân". Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam: "Xem trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng, chuyên nghiên cứu và giúp đỡ cho cách mệnh bên Á- Đông… Xem khẩu hiệu Đệ tam quốc tế, chẳng những rằng "vô sản giai cấp" mà lại thêm câu "… và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hiệp lại"… Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn làm cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế". Như vậy, tình hình thế giới và những đặc điểm trên đây của thời đại có ảnh hưởng to lớn tới cách mạng Việt Nam đặc biệt là quá trình hình thành Đảng cộng sản Việt Nam. 2. Sự chuyển biến về kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Việt Nam. mặc dù nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, song các phong trào đấu tranh đều lần lượt thất bại. Đến 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở nước ta và bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách phản động và hà khắc. Về chính trị, Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp: Toàn quyền Đông Dương, Thống đốc Nam Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ, Công sứ các tỉnh. Biến vua quan Nam Triều thành bù nhìn tay sai. Biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng dùng chính sách chia để trị. Chia nước ta thành 3 kỳ sát nhập với Lào, Campuchia lập liên bang Đông Dương, nhằm xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Mỗi kỳ có chính sách khác nhau hòng chia rẽ và gây thù hận giữa các sứ làm cho dân tộc ta không đoàn kết thống nhất, không tạo sức mạnh tổng hợp chống lại chúng. Về kinh tế, 1897 Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần 1, sau chiến tranh thế giới I (1914- 1918), chúng khai thác lần 2 - để bù vào những tổn thất trong chiến tranh (vốn đầu tư với tốc độ nhanh, giai đoạn 1924 - 1928 hơn 6 lần 1847 - 1918), tập trung vào hai khu vực chủ yếu là đồn điền cao su và mỏ than. Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp Tăng cường ngân hàng để cho vay nặng lãi và thâu tóm để kiểm soát các hoạt động kinh tế ở Đông Dương. Chúng tăng thuế lên 2 - 3 lần so với trước, độc quyền thuốc phiện, rượu, muối. Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực kỳ man rợ và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân làm 50% nông dân ta mất ruộng đất. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Chúng du nhập phương thức sản xuất TBCN làm cho quan hệ kinh tế ở nông thôn bị phá vỡ và hình thành nên những đô thị, khu dân cư và trung tâm kinh tế mới. Chúng duy trì phương thức sản xuất phong kiến, kết hợp hai phương thức sản xuất để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chúng không du nhập phương thức sản xuất TBCN một cách hoàn chỉnh, chính vì thế mà Việt Nam không thể tiến lên TBCN bình thường được. Vì vậy nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu - vừa mang tính chất tư bản thực dân - vừa mang tính chất phong kiến. Về văn hóa, Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa nô dịch, ngu dân, gây tâm lý tự ti, vong bản để chúng dễ bề thống trị... đồng thời chúng còn tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn không cho ảnh hưởng đến văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đó nói rõ về chính sách này: "Chủ nghĩa tư bản Pháp đó vào Đông Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dựng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Tụi xin nhấn mạnh từ "đầu độc" bằng thuốc phiện, bằng rượu... Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm và chúng tôi không có quyền tự do học tập". Sự thống trị của thực dân Pháp đã để lại nhiều hậu quả trong nền kinh tế- xã hội Việt Nam. Về Kinh tế, nền kinh tế Việt Nam không thể tiến lên TBCN bình thường được, trái lại nó phát triển chậm chạp, què quặt, mất dần tính độc lập, ngày càng lệ thuộc vào kinh tế Pháp; nó bị kìm hãm trong vòng lạc hậu - vừa mang tính chất TB thực dân - vừa mang tính chất phong kiến. Về xã hội, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn trong xã hội cũng bị chi phối bởi đặc điểm này; xã hội Việt Nam hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen lẫn nhau, song mâu thuẫn chủ yếu nhất nổi lên lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Về giai cấp cũng bị phân hóa triệt để do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, ngoài những giai cấp vốn có (địa chủ phong kiến và nông dân), xã hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản, vô sản. Thái độ chính trị của các giai cấp cũng có sự phân hoá sâu sắc, theo đó trong các giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản đều có những bộ phận có thể lôi kéo, lợi dụng trong lực lượng cách mạng ; các giai cấp tiểu tư sản và nông dân đều có tinh thần hăng hái cách mạng, là lực lượng quan trọng của cách mạng. Đặc biệt là công nhân, tuy chiếm khoảng 1% dân số nhưng là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng nếu được trang bị Chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau đã diễn ra: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi nghĩa của nông dân Yên Thế (1885 – 1913), Phong trào Đông Du (1906 – 1908), Phong trào Duy Tân (1906- 1908), Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925 - 1926), Phong trào cách mạng quốc gia tư sản, gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng (1927 - 1930)... Nhưng tất cả các phong trào đều lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng. 3. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước yêu cầu bức bách phải tìm con đường cứu nước mới, tháng 6 năm 1911, Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây, nơi có nền khoa học - kỹ thuật phát triển, có tư tưởng dân chủ, tự do xem họ làm thế nào rồi về giúp đồng bào mình thoát khỏi gông cùm nô lệ. Tháng 7 – 1920, Nguyễn ái Quốc được đọc bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Bản luận cương đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Người là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào. Từ đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ III. Tháng 12 - 1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua đã diễn ra cuộc tranh luận gay gắt là gia nhập quốc tế III hay ở lại quốc tế II. Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản. Từ chiến sĩ yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản. Sau khi đã lựa chọn chắc chắn cho mình con đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Từ 1921 đến 1923, Nguyễn ái Quốc hoạt động tại Pháp, thành lập "Hội liên hiệp thuộc địa", viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và được xuất bản lần đầu tiên ở Pari vào 1925. Từ tháng 6 - 1923 đến 1924, Nguyễn ái Quốc đi Liên Xô tham dự nhiều Hội nghị và Đại hội quốc tế. Từ 11-11-1924 đến 1927, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc, thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông. Tháng 6 - 1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây là bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ 1925 - 1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Đầu năm 1927, những bài giảng của Người được tập hợp thành sách với tên gọi “Đường cách mệnh”, với những nội dung cơ bản vạch ra phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng ở Việt Nam Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương “Vô sản hóa”, Đến 1929 phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển rất mạnh mẽ. Các yếu tố thành lập Đảng đã xuất hiện, Hội Việt Nam cách mạng Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930). Ảnh chụp tranh của PHAN KẾ AN. thanh niên bị phân liệt, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời. Yêu cầu của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản. Nguyễn ái Quốc với tư cách là biệt phái viên của Quốc tế cộng sản, triệu tập các tổ chức cộng sản và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ 6- 1 đến 7-2-1930 tại Cửu Long- Hương Cảng- Trung Quốc. 4. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời: Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước thì những đồng chí hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long Hà Nội vào đầu 3-1929 để tiến hành thành lập ra chi bộ cộng sản (CS) đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã ra nghị quyết: phải thành lập ra Đảng Cộng Sản. Cuối 3-1929 đại hội kì bộ Bắc Kỳ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng được tiến hành và đại hội này đã thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi bộ cộng sản đầu tiên đồng thời đại hội cũng cử đại biểu đi dự ĐẠI HỘI thanh niên toàn quốc và giao nhiệm vụ cho các đồng chí đại biểu: phải đấu tranh để chủ trương thành lập Đảng được chấp thuận tại đại hội thanh niên toàn quốc. Ngày 1-5-1929: đại hội lần thứ I của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội được tiến hành tại Hương Cảng Trung Quốc. Tại đại hội này, đoàn Đại biểu Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng lại không được đại hội chấp thuận. Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập ra tổ chức cộng sản đầu tiên là Đông Dương Cộng Sản Đảng (6-1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư. 7-1929: Thành lập An Nam Cộng Sản Đảng. 9-1929: Thành lập Đông Dương Cộng Sản liên đoàn. Cờ Đảng Cộng Sản Việt Nam Trước sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản ở trong nước thì Quốc tế CS đã viết thư kêu gọi những người CS ở Việt Nam là phải nhanh chóng hợp nhất 3 tổ chức CS, thành lập Đảng CS đồng thời giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Ai Quốc là thay mặt quốc tế CS hợp nhất 3 tổ chức CS thành lập ra Đảng CS. Sau chỉ thị của quốc tế CS đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay ngay vào việc chuẩn bị các văn kiện cho hội nghị hợp nhất và khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất thì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức CS tiến hành 3 đến 7-2-1930 tại Hương cảng Trung Quốc: Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, quyết định thành lập Đảng CS và lấy tên là Đảng CS Việt Nam, thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng, bầu Ban chấp hành trung ương lâm thời. Hội nghị được coi như là hội nghị thành lập Đảng và các văn kiện do Hội nghị thông qua chính là cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước ngoặc vĩ đại trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp Công nhân Việt Nam đã trưởng thành. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lenin và phong trào Công nhân. Đây là quy luật thành lập Đảng của giai cấp Công nhân Việt Nam. --------------------------------------------- “Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam”. Hồ Chí Minh “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Hồ Chí Minh vœ 1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử; là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác- Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử. Trước ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, hàng loạt các phong trào đấu tranh nổ ra của nhiều giai - tầng trong xã hội, với nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau: tiêu biểu cho khuynh hướng phong kiến là Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết khởi xướng. Do lực lượng của phong trào quá mỏng nên phong trào sớm bị thất bại. Điều đó cho thấy giai cấp địa chủ phong kiến không còn đủ vai trò và uy tín để kêu gọi và triệu tập lực lượng trong quần chúng nhân dân. Cùng thời gian với phong trào Cần Vương còn có phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân lớp dưới mà tiêu biểu là cuộc đấu tranh gần 30 năm của nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Nhưng còn "nặng cốt cách phong kiến" nên phong trào cũng đi vào kết cục là thất bại. Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng (1927 - 1930). Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất theo khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản , địa chủ, cả học sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp. Về chủ trương Đảng mô phỏng chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Đảng chủ trương đánh Pháp, xóa bỏ chế độ vua quan, lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có đường lối chính trị rõ ràng, cụ thể. Về tổ chức Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ TW đến cơ sở nhưng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất. Về phương pháp đấu tranh, nặng ám sát cá nhân, lấy bạo động làm lối thoát. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái vào 9- 2- 1930 với phương châm “không thành công cũng thành nhân” đã bị thực dân Pháp dìm phong trào trong biển máu. Vai trò của Việt Nam quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Lược đồ cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 Trong khi các giai cấp, tầng lớp đều lần lượt bước lên vũ đài chính trị nhưng đều không được lịch sử chấp nhận thì với nỗ lực của Ngu‎yễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá rộng rãi vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam và đang khẳng định được sức mạnh của mình. Nếu như những năm 1919- 1925, phong trào công nhân được đánh giá là đã có bước phát triển hơn với "những cuộc bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên qui mô lớn hơn và thời gian dài hơn" thì từ 1925, phong trào công nhân Việt Nam được đánh giá là có sự chuyển hoá "từng bước từ tự phát sang tự giác". Trong những năm 1926- 1929, phong trào công nhân Việt Nam đấu tranh dưới sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các nhóm cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc bãi công liên tiếp nổ ra. Tiêu biểu là cuộc bãi công của 1.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiến... Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn quốc. Theo số liệu thống kê, năm 1927 có 7 cuộc đấu tranh lớn, thì năm 1929 là 24 cuộc, năm 1930 lên tới 98 cuộc (với số người tham gia từ 350 người lên tới 31.680 người). Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam thời kỳ này mang tính chất chính trị rõ rệt và diễn ra trong phạm vi cả nước. Trong mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân đã đạt đến trình độ "tự giác", được đánh giá là thuần thục về chính trị. Bản thân phong trào công nhân có sức lôi cuốn đối với phong trào yêu nước và có thể nói, nó quyết định phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Như vậy, trong khi các phong trào đấu tranh theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, đồng thời cũng là sự xuất hiện của nhiều giai - tầng trong xã hội trên vũ đài chính trị...nhưng tất cả đều không được lịch sử chấp nhận. Với sự nỗ lực của Nguyễn ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác- Lênin được thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước làm cho các phong trào này có khuynh hướng phát triển từ tự phát sang tự giác. Chính xu hướng đó đã làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi hỏi phải thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam, làm cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đã bị phân liệt dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản và cuối cùng là sự tất yếu phải hợp nhất để thành lập một đảng cộng sản duy nhất. Điều đó khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, là sản phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố Chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. 2. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng những năm đầu thế kỷ XX. Trước ách áp bức của thực dân Pháp xâm lược, các phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam diễn ra mạnh mẽ theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, qua đó cũng chứng kiến nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau lần lượt bước lên vũ đài chính trị với nhiều đường lối, phương pháp tiến hành đấu tranh khác nhau nhưng cuối cùng đều rơi vào cùng một kết cục là thất bại. Phong trào Cần Vương với sự lãnh đạo của giai cấp địa chủ lớp trên, giai cấp đã không còn đủ năng lực và uy tín lôi kéo, vận động lực lượng nhân dân. Khởi nghĩa Yên thế "nặng cốt cách phong kiến" vì hoạt động đấu tranh của nghĩa quân chỉ dựa vào tài thao lược của một lãnh tụ, khi lãnh tụ mất, phong trào cũng vì thế mà tan rã. Đông Du có phương pháp đấu tranh đúng đắn là dùng bạo động nhưng lại không biết xác định bạn thù, đồng thời lại không có biện pháp cụ thể phù hợp để thực hiện bạo động. Duy Tân thì phương pháp đấu tranh cải lương, không tưởng. Việt Nam quốc dân đảng biểu thị tính bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản... nhìn chung tất cả các phong trào thất bại vì không có đường lối đấu tranh phù hợp với xu thế của thời đại; không có giai cấp lãnh đạo giữ vị trí là giai cấp trung tâm của thời đại. Với những biến cố lịch sử đã xuất hiện trên thế giới cho thấy phạm trù của cách mạng thế giới đã chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, tất cả các cuộc cách mạng trên thế giới, kể cả cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải đi theo đường lối của cách mạng vô sản và theo đó, giai cấp cách mạng nhất, giữ vai trò tiên phong, có sứ mệnh lịch sử là giai cấp trung tâm của thời đại lúc này tất yếu phải là giai cấp vô sản. Vì vậy, khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn, khẳng định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: chủ trương làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", khẳng định rõ ràng giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản: "Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng"... Với những quan điểm này, Cương lĩnh đã đặt cách mạng mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam. Trong khi các phong trào của các giai cấp, các tầng lớp khau nhau trong xã hội Việt Nam đều lần lượt thất bại thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân lại từng bước khẳng định sự lớn mạnh của mình không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng; không chỉ về qui mô ngày càng lớn mà cả về tính tự giác, tính chính trị của các phong trào ngày càng được thể hiện rõ nét hơn... Đúng như Hồ Chí Minh nhận xét: "Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng". Và kể từ đây, ngọn cờ dân tộc được lịch sử trao cho giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã tự mình trở thành dân tộc, trở thành giai cấp dân tộc, nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc. 3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Do CNTB đã phát triển đến giai đoạn cao, giai đoạn ĐQCN, mâu thuẫn nội tại của CNTB đã và đang tạo ra tính tất yếu của các cuộc cách mạng vô sản và trên bình diện thế giới, cuộc cách mạng vô sản đầu tiến đã giành thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy, thời đại mới đã mở, đó là thời đại của cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thế giới đã chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cho nên tất cả các cuộc cách mạng trên thế giới, kể cả cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải đi theo đường lối của cách mạng vô sản. Song, ở Việt Nam trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, các phong trào đấu tranh lại chủ yếu diễn ra theo hai khuynh hướng chính trị cơ bản là phong kiến và tư sản. Đây đều là những khuynh hướng cách mạng không còn phù hợp với thời đại mới nếu như không muốn khẳng định là "quay ngược bánh xe lịch sử". Từ chỗ không có đường lối cách mạng phù hợp với xu thế vận động và phát triển của lịch sử nhân loại; không có giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại, cho nên các phong trào đấu tranh theo các khuynh hướng phong kiến và tư sản đã không tìm thấy cho mình không chỉ lực lượng trong nước mà quan trọng hơn là sự đoàn kết liên minh chặt chẽ với lực lượng cách mạng thế giới để chống lại một kẻ thù đã trở thành hệ thống thế giới. Do vậy, đây cũng được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết cục thất bại của các phong trào. Với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá rộng rãi vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho các phong trào này, đặc biệt là phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, từ tự phát sang tự giác và thành quả là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đi theo cách mạng vô sản đã đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thời đại, là cơ sở tiên quyết để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Từ đây, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới; từ đây sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam cũng góp phần củng cố sức mạnh của phong trào đấu tranh cách mạng thế giới và sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới cũng củng cố sức mạnh cho cách mạng Việt Nam. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ta giành chính quyền từ tay Nhật, ngoài sức mạnh "đem sức ta tự giải phóng cho ta", chúng ta không thể phủ nhân vai trò của lực lượng dân chủ- đứng đầu là Liên Xô và lực lượng đồng minh trong việc chống phát xít; trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, ngoài sức mạnh của toàn thể dân tộc với tinh thần "dựa vào sức mình là chính", chúng ta cũng thấy rõ sức mạnh đoàn kết của không chỉ 3 nước Đông Dương, mà còn là sự đoàn kết, ủng hộ của nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới, thậm chí cả nhân dân Pháp, Mỹ; và ngày nay, những thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, chúng ta luôn tích cực, chủ động, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại. 4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của dân tộc Việt Nam. Do đó, giai cấp công nhân Việt Nam, thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tập hợp được giai cấp mình mà còn vận động, lôi kéo được đông đảo các giai- tầng khác trong xã hội trên một "mẫu số chung" đó là tinh thần yêu nước. Không những thế, việc giai cấp công nhân nắm bá quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam là điều kiện tiên quyết để cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phân của cách mạng thế giới, cho phép cách mạng Việt Nam không chỉ phát huy được sức mạnh toàn dân tộc mà còn kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thông qua đó tạo nên sức mạnh tổng hợp để cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng củng cố, xây dựng mình vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức để ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử được giao phó. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bắt nguồn từ sự chuyển hướng đúng đắn, kịp thời của Đảng trong HNTW6 (11- 1939) và HNTW8 (5- 1941) trước tình hình mới; bắt nguồn từ sự sáng suốt của Đảng trong việc dự đoán thời cơ và chớp thời cơ thể hiện tập trung trong chỉ thị "Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (12- 3- 1945); từ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng qua các cao trào 1930- 1931, 1936- 1939... để lịch sử dân tộc Việt Nam ghi vào dòng chảy của mình một cuộc "cách mạng thần thánh" giành chính quyền, lập lên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; đưa nhân dân ta từ thân phận là người nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc; đưa Đảng ta từ một Đảng bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền... Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đảng cộng sản Việt Nam với đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn, sáng tạo cũng thể hiện rõ vai trò và năng lực lãnh đạo cách mạng, là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh để Việt Nam lần lượt đánh bại các tên đế quốc hùng mạnh, sừng sỏ và hiếu chiến bậc nhất thế giới. Với đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính", Đảng đã phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", tất cả các lực lượng, không phân biệt già trẻ, gái trai, không phân chia đảng phái, tôn giáo... đều đóng góp sức mình cho cuộc kháng chiến, làm nên một trận địa chống thực dân Pháp xâm lược; với đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng tiếp tục tạo được thế trận "toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc" trog cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cùng với việc phát huy sức mạnh của toàn dân, Đảng cũng đưa ra đường lối ngoại đúng đắn, sáng suốt tạo nên sức mạnh tổng hợp của không chỉ 3 nước Đông Dương, sức mạnh của hệ thống XHCN, mà còn tập hợp được sức mạnh của cả lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ... tạo thành một một sức mạnh tổng hợp để làm nên những thắng lợi oanh liệt của dân tộc, quét sạch ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân cả cũ và mới; đưa dân tộc Việt Nam vào hàng ngũ những dân tộc tiên phong đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Sau khi đất nước giành được độc lập, thống nhất, Đảng tiếp tục phát huy tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, đặc biệt trong công cuộc đổi mới. Đảng đã đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới trong khi công cuộc Cải cách, Cải tổ của các nước trong hệ thống XHCN lại đi vào bế tắc, thậm chí là thất bại. Với bản chất cách mạng và khoa học, Đảng đã không ngừng bổ sung và hoàn thiện đường lối cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, mạng lại "những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử" sau 20 năm đổi mới, không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 5. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta. Sống trong bối cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã sớm nuôi trí đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng cho dân tộc. Khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã không tán thành đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản, nhưng ngay từ đầu Nguyễn Ái Quốc chưa có được một quan niệm cần có một tổ chức chính trị lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc gặp và tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở đấy con đường giải phóng cho dân tộc, đưa đất nước đi lên độc lập - tự do - hạnh phúc, đó là đường lối cỏch mạng theo con đường cỏch mạng vụ sản. Với quan điểm "cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi".Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành một quá trình chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự nỗ lực của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ra đời vào ngày 3- 2- 1930 là sự vận dụng sáng tạo học thuyết của Chủ nghĩa Mác- Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa. Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam không chỉ ở sự nố lực của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, mà còn ở hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó nổi bật là những quan điểm tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam. Những quan điểm tư tưởng đó luôn có tác dụng định hướng, soi đường chỉ lối cho Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững và phát huy được vai trò là một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. ----------------------------------------------- “Không có gì quý hơn độc lập, tự do !”. Hồ Chí Minh “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Hồ Chí Minh Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử phát triển của nhân loại đang có những chuyển biến vô cùng quan trọng, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH đã mở, tình hình đó đòi hỏi những chiến sỹ cách mạng trên thế giới phải nhìn nhận được xu thế phát triển của thời đại mà đề ra được đường lối và tìm ra được giai cấp lãnh đạo cách mạng phù hợp. Việt Nam chịu ách thống trị của thực dân Pháp, trước ách áp bức bóc lột nặng nề, mâu thuẫn dân tộc đang diễn ra hết sức gay gắt, nhiều phong trào đấu tranh của nhiều lực lượng và theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau đều lần lượt thất bại. Phong trào cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ thiên tài của mình đã sớm nắm bắt được xu thế của thời đại và nhu cầu của cách mạng Việt Nam, đã tìm thấy ở Chủ nghĩa Mác- Lênin con đường cách mạng giải phóng cho dân tộc, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đó là đường lối cách mạng theo con đường cách mạng vô sản. Với quan điểm "cách mệnh trước hết cần có đảng cách mệnh", Người đã nỗ lực chuẩn bị mọi điều kiện cho sự ra đời của Đảng. Và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3- 2- 1930, đã mang những ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tìm hiểu sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh trong nước và quốc tế như trên mới thấy hết được những ý nghĩa to lớn của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng thấy được sự vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng. Sự vĩ đại ấy là ở chỗ Người đã sớm đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản; ở chõ Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một hệ thống quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, giúp chúng ta củng cố niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo- Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam- Nxb CTQG- Hà Nội. 2006. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo- Một số chuyên đề Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I, II - Nxb CTQG- HN. 2007. 3. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X- NXB CTQG- HN. 2006. 4. Đảng cộng sản Việt Nam- Ban chấp hành trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết lý luận- Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986- 2006)- NXB CTQG- HN. 2005. 5. Lê Mậu Hãn- Các Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam- Nxb CTQG- HN. 2000. 6. TS. Đinh Xuân Lý- Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam- Nxb CTQG- HN. 2007. 7. TS Đinh Xuân Lý (chủ biên)- Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh- Nxb CTQG- HN. 2003. 8. TS Doãn Hùng, TS Ngọc Hà, TS Đoàn Minh Huấn- Đảng cộng sản Việt Nam những tìm tòi và đổi mới trên con đường lên chủ nghĩa xã hội (1986- 2005)- Nxb Lý luận chính trị- HN. 2006. 9. Trang web của tạp chí cộng sản và các tài liệu thu thập từ internet.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÝ nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.doc
Luận văn liên quan