Ẩn dụ tri nhận về con người trong văn chương dân gian Nam Bộ

Cùng nằm trong cái nôi văn hóa của quê hương, đất nước, các thể loại văn vần dân gian Nam bộ đã mang đến cho kho tàng văn học dân gian những vần ca dao, hò vè, ngọt ngào, tình tứ. Văn vần dân gian Nam bộ là sản phẩm của sự suy tư, cảm xúc, sự trải nghiệm của con người, là tiếng nói của người Việt Nam, đặc biệt là của nguời dân vùng đồng bằng Nam bộ, góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc.

pdf83 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3206 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ẩn dụ tri nhận về con người trong văn chương dân gian Nam Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à con cá dại, Vác cần câu về nghĩ lại con cá khôn.” [12; 200] - “Cá lên khỏi nước cá khô, Làm thân con gái lõa lồ ai khen.” [12; 200] - “Chài phơi lưới rách cũng phơi, Em là con cá liệt ở khơi, Anh là lưới bén bủa nơi dọc gành.” [12; 212] - “Sông Tiền cá lội huyên thiên, Lòng anh muốn bắt con cá lội riêng một mình.” [12; 369] - “Tiếc công lao đào ao thả cá, Bao tháng chầy người lạ đến câu.” [12; 391] - “Tiếc công anh xe sợi nhợ uốn cây cần, Xe xong sợi nhợ, con cá lần ra khơi.” [12; 390] - “Tiếc công chẻ nứa đan lờ, Để cho con cá vượt lờ nó đi.” [12; 390] Nam Bộ là một vùng đát mới màu mỡ, phong phú các loại sản vật thiên nhiên mà đặc biệt là cá nước, chim trời. Vì vậy, cá chim là những hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân nơi đây. Quen thuộc đến mức đã đi vào tâm thức của họ và được thể hiện qua lời ăn tiếng nói hằng ngày, và trở thành những hình ản biểu trưng về con người. Ngoài ra, các loài động vật khác như ong bướm, gà vịt, rắn mối, chuột chù, tằm, nhện,… cũng là hình ảnh biểu trưng về con người trong ca dao dân ca Nam bộ. - “Hoa thơm ong bướm đang mê, Thương chưa phỉ dạ mình về bỏ tôi.” [12; 296] - “Ngày xuân ong bướm nhộn nhàng, Vườn huê rào kỹ nhụy vàng còn xinh.” [12; 329] - “Bông còn thơm con bướm còn đậu còn đeo, Bông tàn nhụy rữa, con bướm đậu cheo leo một mình.” [12; 192] - “Bướm già thì bướm có râu, Thấy bông vừa nở cắm đầu bướm châm, Bướm châm mà bướm lại lầm, Bông kia nở sớm, ong châm mất rồi.” [12; 198] - “Bướm giỡn bông bướm chưa phỉ dạ, Trách ai làm cây ngã bướm bay.” [12; 198] - “Bướm ong bay lượn rộn ràng, Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.” [12; 199] - “Bướm xa hoa, bướm lại dật dờ, Anh xa em bậu đêm ngày chờ trông.” [12; 199] - “Tằm vương tơ, nhện cũng vương tơ, Mấy đời tơ nhện được như tơ tằm.” [12; 500] - “Vịt chê lúa lép không ăn, Chuột chê nhà trống ra nằm bụi tre.” [12; 505] - “Mẹ gà con vịt chít chiu, Quạ nuôi tu hú, con diều ai nuôi?” [12; 467] - “Hãy nên bền chí câu cua, Dầu ai câu trạnh câu rùa mặc ai.” [12; 294] - “Hươu kia trót đã mắc chà, Khi vào thì dễ, khi ra hiểm nghèo.” [12; 492] - “Gà đòi ấp vịt lấy công, Xiêm la từ chối vì lòng thương con.” [12; 490] - “Gà lôi đội lốt con công, Tưởng mình là ngộ đi dông đi dài.” [12; 490] CON NGƯỜI LÀ THỰC VẬT Để diễn đạt một cách bóng bẩy, tránh lối nói trực tiếp, con người mượn hình ảnh của thiên nhiên để nói về con người trong đó, các loài thực vật được sử dụng khá phổ biến. Các loại thực vật được sử dụng làm hình ảnh biểu trưng trong văn vần dân gian Nam bộ là những cây cối gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân nơi đây như cây bần, khế, chanh, quế, gừng, ớt, trầu, đu đủ, dền dền, khoai lang, mãng cầu, bưởi bòng, … - “Ai có muốn lau chen với đậu, Qua không đánh bùn lộn với sen” [12; 154] - “Anh đừng tham bông quế, bỏ phế bông lài, Mai sau quế rụng bông lài thơm lâu.” [12; 162] - “Anh đừng vạch vách phá rào, Vườn quê mới lập, lựu đào còn non.” [12; 163] - “Bước qua vườn ớt, hái trầu, Hỏi thăm lê lựu, mãng cầu chín chưa?” [12; 196] - “Bướm già thì bướm có râu, Thấy bông vừa nở cắm đầu bướm châm, Bướm châm mà bướm lại lầm, Bông kia nở sớm, ong châm mất rồi.” [12; 198] - “Cam sành chê đắng chê hôi Hồng rim chê lạt, cháo bồi khen ngon.” [12; 476] - “Cam sành rã rượi bờ ao, Tưởng không, anh hái, có rào thì thôi.” [12; 203] - “Cây bần ơi hỡi cây bần, Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.” [12; 206] - “Chanh chua thì khế cũng chua, Chanh bán có mùa, khế bán tứ niên.” [12; 478] - “Chợ chiều nhiều khế ế chanh, Nhiều cô gái lạ nên anh chàng ràng.” [12; 226] - “Chuối khoe mình chuối lòng trinh, Chuối ở một mình sao chuối có con?” [12; 227] - “Công anh đắp lũy xây thành, Trồng cây nên trái để dành ai ăn?” [12; 240] - “Đôi ta như quế với gừng, Dẫu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi.” [12; 428] - “Đu đủ tía dền dền cũng tía, Khoai lang giâm, ngọn mía cũng giâm Củi tre chen lộn với trầm, Giữ sao cho khỏi kẻo lầm em ơi.” [12; 268] - “Hai bên bên liễu bên đào, Mặc tình ý bạn thương bên nào thì thương.” [12; 292] - “Hoa thơm ong bướm đang mê, Thương chưa phỉ dạ mình về bỏ tôi.” [12; 296] - “Khế rụng bờ ao thanh tao anh lượm, Ngọt như cam sành, héo cuống anh chê.” [12; 302] - “Khế với chanh một lòng chua xót Mật với gừng một ngọt một cay.” [12; 492] - “Khó giúp nhau mới thảo, Giàu tương trợ ai màng, Cây kiểng đang xanh soa anh tưới, cây kiểng tàn anh bỏ khô.” [12; 302] - “Kiểng hoang chẳng thấy ai nhìn, Kiểng vô trong chậu, kẻ rình người bừn.” [12; 305] - “Làm giàn cho bí leo chơi, Chẳng may bí dột, mùng tơi leo cùng.” [12; 493] - “Lan huệ sầu ai lan huệ héo, Lan huệ sầu tình trong héo ngoài tươi.” [12; 307] - “Lọng vàng che nải chuối xanh, Tiếc chim loan phụng đậu nhành cây khô.” [12; 311] - “May không chút nữa thì lầm, Cau nhà không bẻ, bẻ nhầm cau ranh.” [12; 316] - “Mấy năm nay cách lựu xa đào, Ngày nay gặp mặt biết chào làm sao.” [12; 318] - “Qua tỷ như chùm gửi đáp nhờ, Gá vô nhành bưởi đặng nhờ hưởng hơi.” [12; 359] - “Qua tỷ như hột sương tưới hoa hường cho tươi thắm, Bởi tiếc cánh hoa lành bị nắng héo khô.” [12; 359] - “Quýt rụng bờ ao ngọt ngào anh chuộng, Trái cam hồng đào rụng cuống anh chê.” [12; 360] - “Rủ nhau đi bẻ dành dành, Dành dành không bẻ, bẻ nhầm mẫu đơn.” [12; 499] - “Thiếu chi củi quế rừng ta Kiếm chi củi mục rừng xa đem về.” [12; 383] - “Tiếc bông sen nở chen bông súng, Con chim phụng hoàng đậu trúng nhành tùng khô.” [12; 390] - “Tiếc đám phù dung mọc chung cỏ dại, Cũng tỷ như hoa lài cặm phải chỗ dơ.” [12; 391] - “Trách người quân tử bia danh, Chơi hoa rồi lại bẻ nhành bán rao.” [12; 400] - “Trầu vàng ăn với cau sâu Lấy chồng thua bạn mảng sầu mà hư.” [12; 454] - Thiếu chi cam rim, hồng rim, Bắt anh đi tìm khế rụng bờ ao.” [12; 383] CON NGƯỜI LÀ ĐỒ VẬT Các vật dụng quen thuộc trong đời sống hàng ngày như: đó, đăng, nơm, lờ, kèn, trống, mõ, chuông, đèn, đũa, nồi, vung, mâm, lụa, ngọc, giếng, gầu, khóa chìa,…được dùng làm biểu trưng cho con người trong văn vần dân gian Nam bộ như: - “Trước chưa quen sau cũng là quen, Qua chẳng hề tham nguyệt bỏ đèn như ai.” [12; 154] - “Anh đừng ham trống bỏ kèn, Ham chuông bỏ mõ, ham đèn bỏ trăng.” [12; 162] - “Anh đừng thấy đăng mà phụ đó, Đừng chê em khó mà vội phụ phàng.” [12; 423] - “Anh than với em thân phận anh nghèo, Đũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun.” [12; 250] - “Có trăng nên mới phụ đèn, Có nơi sang trọng, phụ phàng nghĩa xưa.” [12; 231] - “Đũa mun bịt bạc anh chê, Đũa tre lau cạch anh mê nỗi gì.” [12; 268] - “Đũa vàng dọng xuống mâm son, So qua với bậu nghĩa hơn Kim Kiều.” [12; 269] - “Đũa vàng dộng xuống mâm sơn, Tôi với nàng tình nặng là cơn hội này.” [43; 130] - “Em đâu dám gá vợ chồng, Nồi đất mà đậy vung đồng ai coi, Nàng nói mà không nghĩ lại coi, bình sành người ta còn dùng nắp thiếc, sao nàng không xét soi cho tôi nhờ.” [12; 339] - “Gá duyên đừng sợ nơi nghèo, Sao cho xứng cột vừa kèo thì thôi.” [12; 281] - “Gió đưa trăng thời trăng đưa gió, Quạt nọ đưa đèn, đèn có đưa ai?” [12; 288] - “Gươm linh sứt cán còn trành, Bình hương dầu bể miếng sành còn thơm.” [12; 491] - “Hai đứa mình như nút với khuy, Không gài để nó mất đi sao đành.” [12; 293] - “Lụa lành mười lăm anh chê rằng lụa vụn Mắc phải lụa hồ, đành bụng anh chưa?” [12; 312] - “Ngọc lành còn đợi giá cao, Kim vàng cũng đợi lụa đào mới may.” [12; 335] - “Ngồi bên giếng cụt, nối sợi dây cụt, Hay đâu giếng dài nó hụt sợi dây.” [12; 336] - “Nhợ xa cần, nhợ lại nằm khoanh, Chim kêu rủ rỉ, nhớ tới anh tôi khóc mùi.” [12; 343] - “Nồi đồng sôi nồi đất cũng sôi Bậu với qua duyên nợ rã rời.” [43; 108] - “Phải duyên quán rách cũng ngồi, Trái duyên nhà ngói dầu mời cũng không.” [12; 355] - “Rượu nằm trong nhạo chờ men, Anh nằm phòng vắn chờ em một mình.” [12; 364] - “Thuyền dời bến cũ không dời, Khăng khăng một lời quân tử nhứt ngôn.” [12; 386] - “Trách ai đem khóa khóa rương, Khóa rồi lại mở cang thường của tôi.” [12; 179] - “Trách ai làm khóa rẽ chìa, Vu oan giá họa, mình lìa tôi ra.” [12; 399] - “Tưởng giếng sâu nối sợi dây dài, Nào hay giếng cạn tiếc hoài sợi dây.” [12; 502] 2. Ý niệm về cảm xúc, trí tuệ, ý chí TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH Ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH cho phép chúng ta hiểu rằng ý niệm nguồn CUỘC HÀNH TRÌNH với các nét đặc trưng như con đường (dài, gập ghềnh), quãng đường (gần, xa), ngã rẽ (ngã ba, ngã tư), các phương tiện đi lại (tàu, thuyền, xe cộ,…), đích đến,…, được đem gán cho ý niệm đích TÌNH YÊU. Do đó, TÌNH YÊU lúc này cũng có những nét đặc trưng đó. - “Ai làm lỡ chuyến đò ngang Cho sông cạn nước đôi đàng biệt ly.” [12; 197] - “Anh ơi, đường chẳng bao xa, Anh không bước tiếp, để chốn phòng hoa em chờ.” [12; 167] - “Bây giờ phân rẽ đôi đàng, Chồng Nam vợ Bắc lòng chàng sao khuây.” [43; 149] - “Bấy lâu nay sum hiệp một nhà, Nay đành phân ngả đôi ta thế này.” [12; 343] - “Chớ đừng nguyệt nguyệt hoa hoa, Nữa chừng gãy gánh mẹ cha em rầy.” [43; 137] - “Giữa đường đứt gánh tương tư, Tại dạ em từ chẳng phải tại anh.” [43; 57] - “Khi đầu em nói em thương, Bây giờ gánh nặng giữa đường dứt dây.” - “Liệu bề thương được thì thương Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em.” [23; 341] - “Ngày nay Nguyệt Lão dẫn đem, Anh đừng phụ nghĩa bỏ em giữa đàng.” [43; 133] - “Sống làm chi hai ngả cách phân, Thác mà trọn tiết trọn ân cùng chàng.” [43; 135] - “Uổng tình hai ngả nổi trôi, Uổng công lên xuống đứng ngồi bấy lâu.” [43; 138] - “Đẩy xe loan xuống viếng bạn hiền Sa cơ xe gãy nỗi niềm tóc tơ.” [12; 251] - “Lên xe, xe gãy ngựa bươn, Trách long quan tử cầm cương không đều.” [12; 309] TÌNH YÊU LÀ CHUYẾN ĐI CÂU Câu cá là một hình thức lao động sản xuất của cư dân sông nước. Việc câu cá không dành riêng cho bất cứ ai, ai cũng có thể câu được vì việc này tương đối dễ dàng. Tuy nhiên trong văn chương dân gian Nam bộ, câu cá không còn là một công việc bình thường mà đó là phương tiện nghệ thuật, trong quá trình biểu trưng hóa (quá trình chuyển nghĩa để những hình ảnh trở thành những ẩn dụ, những biểu trưng nghệ thuật) hình ảnh cá, câu-cá với những nét nghĩa biểu trưng của nó, đã để lại dấu ấn văn hóa của cư dân nông nghiệp vùng sông nước. Với cặp biểu trưng câu - cá thì cá luôn luôn đại diện cho cô gái, còn câu đại diện chàng trai - hoặc là thái độ tình cảm của chàng trai. Ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ CHUYẾN ĐI CÂU cho phép chúng ta hiểu rằng ý niệm nguồn CHUYẾN ĐI CÂU với các nét đặc trưng như dụng cụ (cần câu, nơm, đó, đăng, lưới, lưỡi câu,…) mồi câu, địa điểm (ao, đìa, hồ, bực, biển,…), đối tượng được câu (cá, cua, trạch, rùa,…), kẻ đi câu,… được đem gán cho ý niệm đích TÌNH YÊU. - “Anh nghĩ cái công anh, anh đi lên rừng xanh lựa trúc, Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài, Lấy thém ra mài, uốn câu nồi gọ, Đêm hôm lọ mọ, Xe sợ nhợ săn, Buộc chặt vào cần, Móc mồi thơm phức, Vội ra ngoài bực, Lựa chỗ anh ngồi, Thả câu xuống rồi, Miệng anh thầm vái, Cần câu nhơn, Cần câu ngãi, Cần câu phải, Cần câu khôn, Ân ai các đấng cô hồn, Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu.” [12; 165] - “Anh với em chút nữa thì gần, Tại ba với má bẻ cần tháo dây.” [12; 182] - “Bấy lâu đến ngọn sông chờ, Muốn tìm cá lớn phải chờ trời mưa. Tiếc công đắp đập be bờ, Để ai quảy đó mang lờ đến đơm.” [12; 187] - “Cá không ăn câu chê rằng con cá dại, Cá mắc câu rồi nói tại cá tham ăn.” [12; 200] - “Cần câu trúc, sợi chỉ bạc, cái lưỡi câu đồng, Anh móc mồi con chim phụng câu rồng trên mây.” [12; 205] - “Câu vàng lưỡi bạc nhợ tơ, Câu thời câu vậy, cá chờ có nơi.” [12; 205] - “Mặt nhìn trăng, trăng lại còn khuya, Muốn quăng câu sợ cá mê đìa không ăn.’ [12; 317] - “Tiếc công anh xe sợi nhợ uốn cây cần, Xe xong sợi nhợ, con cá lần ra khơi.” [12; 390] - “Tiếc công lao đào ao thả cá, Bao tháng chầy người lạ đến câu.” [12; 391] TÌNH YÊU LÀ TRỒNG CÂY - “Công anh đắp lũy xây thành, Trồng cây nên trái để dành ai ăn?” [12; 240] - “Tiếc công anh gánh gạch xây thành, Trồng cây nên trái để dành ai ăn?” [12; 390] - “Tiếc công anh vun vén cây tùng, Sửa sang trên ngọn, gốc sùng nó ăn.” [12; 390] - “Tiếc công vun vén cội tùng, Xăm soi trên ngọn, gốc sùng không hay.” [12; 391] TÌNH YÊU LÀ NGỌN LỬA - “Mình ôi! Tôi thương mình quá đi mình, Nếu chẳng gần nhau một phút lửa tình thiêu gan.” [43; 137] TÌNH CẢM LÀ THỨC ĂN - “Bậu với qua tình mặn nghĩa nồng, Siêu nước sôi chớ quạt, ngọn lửa nồng phải che.” [12; 186] - “Bấy lâu tình mặn duyên ưa, Hôm nay sao lại phụ xưa lời thề.” [43; 131] - “Bình Lương là chỗ náu nương An Bình là chỗ tình thương đậm đà.” [23; 317] - “Bữa nay mát dạ mát lòng Mặn tình duyên nợ, mặn nồng lứa đôi.” [12; 195] - “Cởi cái thương trả phắt, Cắt cái nhớ cho rồi. Bao nhiêu lời nói những hồi, Bỏ vô nồi nấu, sôi rồi đổ đi.” [12; 241] - “Đêm khuya vẳng nghe con chim kêu, con gà gáy, Anh để em mang khối tình ngậm đắng nuốt cay.” [12; 257] NGHĨA TÌNH LÀ HẠT GIỐNG - “Anh ơi hột giống nghĩa tình, dễ gieo, khó nhổ, Gieo vào lòng để khổ cho nhau.” [12; 168] NGHĨA TÌNH LÀ THỰC THỂ - “Ai chèo ghe bí qua sông, Đạo nghĩa vợ chồng nặng lắm anh ơi.” [12; 422] - “Ai ơi, lỡ hội chồng con, Về đây gá nghĩa vuông tròn được không?” [12; 155] - “Bành tô xấu mặt dễ nhìn, Anh bận cho có túi để bỏ cục tình của em.” [12; 180] - “Bất tham sanh hề vô húy tử, Anh có hoang đàng em giữ hiếu trung.” [43; 110] - “Đã mang nhơn ngãi vào mình, Bỏ đi thì tiếc công trình xưa nay.” [43; 45] - “Đã nguyền hai chữ đồng tâm, Càng dày nghĩa trước, càng thâm ân tình.” [43; 45] - “Da trời vừa lộ trăng non, Đôi ta chớ khuyết đừng mòn nghĩa nhân.” [43; 137] - “Đêm khuya vẳng nghe con chim kêu, con gà gáy, Anh để em mang khối tình ngậm đắng nuốt cay.” [12; 257] - “Đôi ta chẳng kíp thì chầy, Qua sông lên núi nghĩa này chẳng phai.” [43; 137] - “Đôi ta thẳng rẳng tợ đàn, Dẫu xa cũng chẳng phụ phàng tình sâu.” [43; 130] - “Gừng già, gừng rụi, gừng cay, Anh hùng cơ cực càng dày nghĩa nhơn.” [23; 480] - “Hai vừng nhựt nguyệt rành rành, Sao bây giờ anh đứt đoạn chung tình bỏ em.” [23; 468] - “Kể từ bạn với trúc mai, Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.” [43; 116] - “Khối tình mang đã oằn vai, Anh ôi! Anh lo cho gấp ngày mai bỏ trầu.” [43; 126] - “Thương em rồi anh dẹp lấy ưu phiền Nợ tao khang nặng nhất, đâu phải vì bạc tiền em ơi.” [12; 212] - “Thương thay cho phận quần hồng Vì duyên vì nợ nặng lòng tương tư.” [23; 443] THƯƠNG NHỚ LÀ THỰC THỂ - “Anh đừng nhỏ lụy thâm bâu, Thương nhau quá nặng đâu đâu cũng tìm.” [43; 138] - “Anh thương em phải thương cho trót, Anh không bỏ sót cái nghĩa chung tình” [12; 170] - “Cởi cái thương trả phắt, Cắt cái nhớ cho rồi. Bao nhiêu lời nói những hồi, Bỏ vô nồi nấu, sôi rồi đổ đi.” [12; 241] - “Đi đâu bỏ quạt loan châu, Bỏ thương, bỏ nhớ, bỏ sầu cho em.” [43; 41] - “Ra về lụy ứa thâm bâu, Nỗi thương chưa dứt, nỗi sầu lại vương.” [43; 39] - “Ra về lụy ứa thâm bầu, Nỗi thương chưa xiết nỗi sầu lại vương.” [43; 102] TÌNH THƯƠNG LÀ NGUỒN TÀI NGUYÊN HỮU HẠN - “Anh buồn cưỡi ngựa buông cương, Thấy con bạn cũ tình thương cạn rồi.” [43; 104] - “Chừng nào thủy nọ xa gương, Đừng chào anh nữa, tình thương cạn rồi.” [43; 108] - “Tay bưng chén quế, tay chế nước đường, Vãng lai lai vãng tình thương cạn rồi.” [43; 71] NỖI SẦU LÀ THỰC THỂ - “Gió thổi hiu hiu, Bạc Liêu kia hỡi, Đoạn sầu này biết gởi cho ai.” [12; 290] - “Hát một đôi câu giải sầu muôn sự, Người mặc người ta giữ ý ta.” [43; 74] - “Hay là lòng đã phụ phàng, Đa tình ta khéo đa mang mối sầu.” [43; 128] - “Hồi nào anh đưa cho em cái lược chải đầu, Bây giờ anh ở bạc, bỏ sầu cho em.” [12; 235] - “Hồi nào một gối đôi đầu, Bây giờ bỏ thảm bỏ sầu cho em.” [12; 299] - “Ngồi buồng giả chước đi câu, Cá ăn không giựt, mang sầu căn duyên.” [12; 337] - “Như vầy ta chẳng kết bầu, Kết bầu một thuở đoạn sầu trăm năm.” [43; 84] - “Ôm sầu chất thảm ngày đêm, Năm canh nệm thúy ngăn riêng một mình.” [12; 159] - “Phải chi ngoài biển có cầu Để anh ra đó trả đoạn sầu cho em.” [23; 346] - “Phòng không lụy nhỏ hai hàng, Cớ sao em lại riêng mang tình sầu.” [43; 142] - “Sụt sùi gió Nữ mưa Ngâu, Nỗi thương chưa xiết, nỗi sầu lại vương.” [43; 98] - “Vượn bồng con lên non hái trái, Đoạn sầu này để lại cho ai?” [23; 475] NỖI SẦU LÀ NƯỚC - “Bởi thương nên chuốc lấy sầu, Không dưng ai dám gá đầu nắm tay.” [43; 33] - “Nửa đêm vào chốn phòng loan, Vắng em anh phải chứa chan giọt sầu.” [43; 123] - “Sông Tương ai gọi sông sâu, Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta.” [23; 452] TƯƠNG TƯ LÀ THỨC ĂN - “Cơm ăn chẳng đặng Ăn ròng tương tư.” [12; 201] NỖI NHỤC LÀ THỰC THỂ - “Một miếng nhục em còn chịu được, Hai miếng nhục em bước ra đi.” [23; 431] CƠN GIẬN LÀ NNHIỆT ĐỘ - “Đang khi chồng giận mình đi, Hết khi nóng giận đến khi vui vầy.” [12; 435] Ý CHÍ LÀ THỰC THỂ - “Ai ơi giữ chí cho bền, Mặc ai xoay hướng đổi nền mặc ai.” [12; 473] - “Đường dài mới biết sức ngựa hay, Bây giờ mới biết con bạn dày trí khôn.” [43; 109] - “Hát một đôi câu giải sầu muôn sự, Người mặc người ta giữ ý ta.” [43; 74] Ý NGHĨ LÀ DÒNG SÔNG - “Anh thương em thì mua cho em một chiếc đò Để em lên xuống thăm dò ý anh.” [12; 203] - “Tiếng anh nho sĩ học trò, Sao anh cạn dạ không dò ý em.” [23; 465] - “Tới đây dầu đói giả no, Dầu khôn giả dại, đặng dò ý em.” [12; 261] - “Tới đây thủ phận đưa đò, Trước đưa quan khách, sau dò ý em.” [12; 399] TẤM LÒNG LÀ VÀNG ĐÁ - “Biển kia còn có vơi đầy, Em đây một dạ chẳng khuây lòng vàng.” [43; 142] - “Bồn hư nên kiểng vội tàn, Qua vì sầu bậu lòng vàng thắt teo.” [43; 139] - “Bướm ong bay lượn rộn ràng, Em nguyền giữ tấm lòng vàng đợi anh.” [12; 199] - “Em mê chi những hột thủy xoàn, Miễn anh giữ đặng tấm lòng vàng đừng phai.” [23; 434] - “Một ngày mà kết nên đôi, Trăm năm thề chẳng đổi dời lòng son.” [43; 137] - “Rèn lòng vàng đá tri tri, Dầu ai thay bạc, đổi chì mặc ai.” [43; 40] - “Rèn lòng vàng đá tri tri, Một ngày cũng gọi tương tri với chàng.” [43; 97] - “Thấy người nhiều của đừng thèm, Lòng son em ráng đợi, đừng đem dạ màng.” [43; 146] - “Thương nhau đêm vắn tình dài, Ghét nhau đừng có lợt phai tấc lòng.” [43; 128] - “Vái trời cho đặng vuông tròn, Trăm năm giữ vẹn lòng son cùng chàng.” [12; 423] LÒNG LÀ THỰC THỂ - “Bấy lâu nay lâu nay duyên nợ cheo cư, Tôi ôm lòng tư đợi người quân tử.” [12; 211] - “Chuông già đồng điếu chuông kêu, Anh già lời nói, em xiêu tấm lòng.” [12; 227] - “Dầu ai ỷ thế cậy tài, Em giữ lòng thục nữ, dồi mài gương trong.” [12; 250] - “Đem lòng ngơ ngẩn sao đành, Chẳng duyên tơ tóc cũng tình nghĩa xưa.” [12; 202] - “Đêm nằm trách bóng đèn tây, Trông cho mau sáng giải khuây tấm lòng.’ [23; 323] - “Gái như em chắc dạ bền lòng, Lỡ duyên thì em chịu, đóng của loan phòng đợi anh.” [23; 453] - “Ngỡi nhân nay giận mai hờn, Lòng em ở thẳng như đờn lên dây.” [23; 442] - “Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng, Đêm xuân ai dễ cầm lòng cho đang.” [43; 51] - “Sẵn đây chừng có vầng hồng, Xin coi dạ thiếp tấc lòng thẳng ngay.” [12; 351] - “Thương thay cho phận quần hồng Vì duyên vì nợ nặng lòng tương tư.” [23; 443] - “Trước sau giữ trọn một lòng, Vào lòn ra cúi anh đành lòng theo em.” [12; 385] LÒNG LÀ DÒNG SÔNG - “Giả tỉnh say dò lòng thục nữ, Giả khát qua đường, thử dạ người thương.” [12; 285] - “Lòng sông, lòng biển còn đo, Nào ai bẻ thước mà đo lòng người.” [43; 50] - “Miễn sao em xuôi dạ, yên lòng, Đừng cho hai chữ bá tòng lìa xa.” [23; 368] LÒNG LÀ MÙI VỊ - “Nhà vách nát, mưa luồn gió tạt, Nhớ đến mình chua chát lòng qua.” [12; 340] 3. Ý niệm về duyên nợ, số phận, cuộc đời DUYÊN NỢ LÀ SỢI TƠ/ SỢI DÂY - “Bần gie bần ngã, bất khả viễn vông, Anh với em như sợi chỉ lộn vòng, Kiếm sao đặng mối bá tòng mới vui.” [12; 182] - “Bao giờ cầu nọ hết quây Thì qua với bậu đứt dây cang thường.” [23; 341] - “Căn duyên này phá cho rồi Ông tơ biểu buộc, ông trời biểu không.” [23; 356] - “Chỉ điều ai khéo xe săn, Đố em thoát khỏi lưới giăng giữa trời.” [12; 215] - “Nhớ khi chung chạ chiếu giường, Bây giờ đành đoạn đứt đường tơ duyên.” [23; 341] - “Nợ duyên này ai bứt cho rời, Ông tơ biểu buộc chặt ông Trời biểu thương.” [43; 133] - “Nước ròng tôm nước lội xuôi, Chỉ tơ thòng xuống cột tui với mình.” [23; 444] - “Ôi thôi, tôi muốn bứt rời duyên nợ, Cho anh kiếm vợ, tôi lại lấy chồng.” [12; 447] - “Tơ duyên đã buộc sờ sờ, Qua đây bậu đó còn chờ đâu xa.” [12; 347] - “Tơ hồng nay đã về tây, Bà nguyệt ở lại xe dây hai đứa mình.” [23; 436] - “Đêm nằm phiền trách ông tơ, Xe săn không được, xe sơ tôi nhờ.” [12; 260] DUYÊN NỢ LÀ HÀNG HÓA - “Anh có thương em đem bạc với tiền Chuộc duyên em lại kết nguyền với anh.” [23; 333] - “Anh với em duyên nợ hết rồi Đi tìm chỗ khác, đừng ngồi với em.” [23; 342] - “Bậu về dọn dẹp loan phòng Mười ba nhóm họ, mười rằm giao duyên.” [23; 343] - “Còn duyên bán mắc hơn dù, Hết duyên tiền chục, tiền bù không ham.” [23; 376] - “Gió đưa tàu chuối tanh bành, Bậu ôm duyên bậu bán, tứ diện thành đều hay.” [43; 109] - “Nước ròng bỏ bãi, bày gành, Bậu đem duyên đi bán, đất Châu Thành đều hay.” [12; 349] - “Tới đây vai gánh miệng rao, Ai mua duyên ngọc, má đào bán cho.” [12; 399] DUYÊN NỢ LÀ NGỌN LỬA - “Bậu với qua duyên đà thậm bén, Biết cha mẹ nàng chọn kén nơi nao.” [43; 43] - “Muốn lên mà hỏi chị Hằng, Căn duyên đã bén dùng dằng tại đâu.” [43; 92] - “Ngày nay duyên đã bén duyên, Má kề tay gối còn phiền nỗi chi.” [43; 149] - “Nhạn cắn thơ bay về bãi biển, Anh với nàng đã bén căn duyên.” [12; 340] - “Tới đây duyên đã bén duyên, Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai.” [43; 57] DUYÊN NỢ LÀ THỰC THỂ - “Ai xui rã chút duyên kim cải, Ai khiến rời chút ngãi tao khang.” [12; 157] - “Anh liều cau rụng ném chà, Cầm duyên em lại cho già em chơi.” [23; 333] - “Anh về em nắm áo la làng Duyên đây không kết, bỏ giữa đàng cho ai? - “Anh với em duyên nợ rã rời, Để cho người khác đứng ngồi với anh.” [23; 404] - “Áo đen ai nhuộm cho mình, Cho duyên mình đậm, cho tình anh say.” [12; 424] - “Bắt ông tơ đánh sơ vài chục Duyên nợ sờ sờ , ông ngủ gục chẳng se.” [23; 342] - “Căn duyên này phá cho rồi Ông tơ biểu buộc, ông trời biểu không.” [23; 356] - “Duyên kia trách để trong thành Lời của em với anh lần trước, sao dạ anh đành bỏ em.” [23; 464] - “Em biết đâu cao nấm ấm mồ, Ôm duyên chờ đợi cho liễu khô mai tàn.” [12; 418] - “Buổi xuân xanh em còn đương đẹp Bởi anh đè mới bẹp duyên em.” [23; 246] - “Hò ít câu có chi đâu mà sợ Chiều lên bờ, trả duyên nợ cho em.” [23; 408] - “Ngựa hay mới biết đường dài, Em đừng có vội lợt phai duyên tình.” [43; 137] - “Qua tiếc em khôn khéo vẹn mười, Nỡ không soi xét, để rời duyên nhau.” [12; 328] - “Ruộng ai thì nấy đắp bờ, Duyên ai nấy gặp chớ rờ lấm tay.” [43; 63] - “Đồng hồ vội trở sang canh, Sá chi một chút duyên lành.” [43; 112] DUYÊN NỢ LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG - “Bắt từ dưới đất lên trời Hỏi thăm duyên nợ đổi dời về đâu.” [23; 327] - “Đó em chưa chồng, đây anh chưa vợ, Chẳng qua duyên nợ vần xoay.” [23; 406] - “Đó than đó thở, sao không mắc cỡ còn lại phân trần? Đó chê đây duyên nợ không gần Đó kiếm nơi chốn khác, sao còn lần tới đây?” [23; 387] - “Giục ngựa buông cương lên đàng thượng lộ, Trời hỡi trời duyên nợ về đâu?” [43; 82] - “Hồi nào ngọc vô tay áo không cầm, Gặp duyên không kết, giờ tầm sao ra.” [12; 299] - “Làm người ở tại thế gian, Ai ai cũng phải lo đàng nợ duyên.” [43; 125] - “Ngọn đèn treo trước gió, ngọn đèn lay, Đố anh có biết duyên này về đâu.” [43; 51] - “Nhạn nam, cá bắc, Con bay tắt, con bay vòng, Duyên gặp duyên không kết nghĩa, đóng cửa phòng đợi nơi đâu.” [23; 442] - “Phải chi cao đất thấp trời, Hỏi thăm duyên nợ đổi dời phương nao.” [43; 77] - “Ruộng ai thì nấy đắp bờ, Duyên ai nấy gặp chớ rờ lấm tay.” [43; 63] - “Trách hồng nhan vô duyên, bạc phận, Duyên nợ ở gần chẳng đặng xứng đôi.” [23; 347] - “Xin đừng tham ván bán thuyền, Như vợ Chu Mãi Thần thuở nọ thay duyên đổi lời.” [43; 136] DUYÊN NỢ LÀ SINH THỂ - “Chiều chiều lo bảy lo ba, Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.” [12; 218] - “Anh liều cau rụng ném chà, Cầm duyên em lại cho già em chơi.” [23; 333] - “Một mình lo bảy lo ba, Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.” [43; 31] 4. Ý niệm về hành động, lời nói HƠI THỞ LÀ THỰC THỂ - “Anh biểu em đừng thở ngắn than dài, Cửa sài em sớm mở, tối gài dùm cho.” [12; 157] - “Anh đừng thở vắn than dài, Trước thì thương vội lâu ngày dứt xa.” [43; 124] - “Đêm thanh anh thở vắn than dài, Vái cùng Tơ lão: trúc mai một nhà.” [43; 123] LỜI NÓI LÀ THỰC THỂ - “Ai về Đồng Tháp xa xôi, Dừng chân tôi gửi đôi lời nhớ nhung. - “Anh muốn về Long An, Vàm Cỏ, Mấy lời em to nhỏ, anh bỏ sao đành.” [23; 334] - “Bây con bóng đương trưa, Buông lời hỏi bạn kén lừa nữa thôi.” [43; 104] - “Bấy lâu em mang tiếng chịu lời, Bây giờ anh hỏi thiệt: em đổi dời về đâu?” [23; 358] - “Bờ sông khúc lở khúc bồi, Kiếm nơi quạnh vắng trao lời với anh.” [12; 193] - “Chim khôn chưa bắt đã bay, Người khôn chưa nói dang tay đỡ lời.” [23; 477] - “Chồng giận thì vợ bớt lời Cơm sôi bớt lửa bao đời nào khuê.” [23; 367] - “Chuông già đồng điếu chuông kêu, - Anh già lời nói, em xiêu tấm lòng.” [12; 227] - “Gặp anh dưới nước trên trời, Gởi thơ sợ lạc, gởi lời sợ quên.” [12; 282] - “Giơ tay em hứng sương trời, Rửa làm sao sạch những lời thị phi.” [23; 405] - “Hoa khôn ai nỡ bỏ rơi, Người khôn ai nỡ nặng lời làm chi.” [23; 481] - “Kim vàng ai nỡ uốn câu Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời” [23; 195] - “Một quan mua đặng một người Mười quan mua nết, mua lời khôn ngoan.” [23; 199] - “Nét mực thẳng hay đau lòng gỗ, Lời nói ngay trái lỗ tai người” [23; 437] - “Ngày nào anh đứng trước miễu đình, Đem lời thề thốt nay sinh đổi dời.” [43; 131] - “Thôi thôi đừng bỏ giọng cầm, Đừng gieo tiếng ngọt mà cầm duyên em.” [23; 460] 5. Ý niệm về danh tiếng, danh tiết, danh lợi DANH TIẾNG LÀ THỰC THỂ 1. “Anh muốn vãn lai, sợ nàng mang tai tiếng Giả làm khách qua đường, sớm viếng tối thăm.” [23; 328] 2. “Chọc tức em nên em phải kêu trời, Gá duyên rồi lại bỏ tiếng đời cho em.” [12; 225] 3. “Chữ rằng hổ tử lưu bì, Làm người phải để danh gì hậu lai.” [23; 478] 4. “Dầu mà lao khổ anh mang, Tiếng nhơ anh chịu để nàng danh thơm.” [43;127] 5. “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng.” [23; 200] 6. “Người ta hữu tử hữu sanh Sống lo xứng phận, thác đành tiếng thơm.” [23; 202] 7. “Trai nào nổi tiếng anh hào,Anh mà đáp đặng má đào em trao. … Trai Việt Nam nổi tiếng anh hào Anh đà đáp đặng, vậy má đào em trao đây.” [12; 150] DANH TIẾT LÀ THỰC THỂ 1. “Cách mấy thu tưởng đà li biệt, Ai hay em còn trực tiết chờ anh.” [43; 54] 2. “Chị Hạnh Ngươn thủ tiết, Ai có biết chăng là, Sống nhơ không chịu chẳng thà thác thơm.” [12; 478] 3. “Dầu ai gieo tiếng ngọc, Dầu ai đọc lời vàng Bông sen hết nhụy bỗng tàn Em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga.” [23; 378] 4. “Đó đây duyên nợ sờ sờ, Bậu còn trực tiết mà chờ trông ai?” [12; 288] 5. “Đó thương đây đừng cho ai biết, Rủi mai xa rồi, danh tiết còn thơm.” [23; 387] DANH LỢI LÀ CÁI VÒNG - “Cái vòng danh lợi cong cong, Kẻ mong ra khỏi, người trông chui vào.” [12; 476] GIAN NAN LÀ CÁI VÒNG - “Anh ơi, nước lớn có khi ròng, Làm người sao lại khỏi mắc vòng gian nan.” [23; 334] Ca dao dân ca, câu đố, hò vè phản ánh trung thực bản chất, nguồn gốc của một loại hình văn học dân gian hình thành và phát triển từ hoạt động vật chất và tinh thần của tầng lớp nhân dân lao động. Một đặc điểm dễ nhận biết đó là sự giản dị, mộc mạc của ca dao, dân ca trữ tình Việt Nam, gắn liền với những phong tục, tập quán và đặc trưng tâm lý của lớp người bình dân. cái “tôi” trữ tình thường là những cảm xúc chủ đạo, được thể hiện tinh tế, đa dạng. Tuy nhiên hình tượng người con trai, con gái phần lớn là những người áo vải, chân trần “tát nước đầu đình”, “cấy ruộng đồng sâu”. Vì thế những hình ảnh biểu trưng cho con người trong văn vần dân gian Nam bộ vô cùng gần gũi, quen thuộc. Các cặp biểu trưng chàng trai – cô gái trong văn vần dân gian Nam bộ Đôi nam nữ xứng hợp: - Bồn – kiểng - Bồn – bông - Bông – bướm, bướm – hoa - Bông cúc – bướm vàng - Cá – nước, cá - biển - Chim – cá - Chim đủ cặp - Chim – kiểng - Chim – nhành - Cò – cá - Đào – lựu - Đào lý – trúc mai - Đũa bếp đủ đôi, đũa bếp có đôi - Đũa trong kho - Đũa vàng – mâm son - Hoa chanh – bướm trắng - Hoa – nhành - Hoa – ong bướm - Khóa – chìa - Kim – chỉ - Loan – phụng - Nồi đồng – vung đồng - Nút – khuy - Phụng – rồng - Quế - gừng - Sóng – gành - Đôi tằm - Sông – cầu - Tằm – dâu - Tằm – tơ - Thuyền - bến - Trúc – mai - Vàng – ngọc - Kim Trọng – Thúy Kiều - Vân Tiên – Nguyệt Nga Ý nghĩa của những cặp biểu trưng trên là chỉ sự gắn bó của đôi nam nữ trong tình yêu, hoặc là sự sự xứng hợp của hai người trong cuộc. · Các cặp biểu trưng đôi nam nữ không xứng hợp hoặc xa cách: - Đũa so le - Đũa tre – đũa mun - Kiểng – bìm - Loan phụng – cây khô - Nồi đất – vung đồng - Phụng hoàng – diều - Phụng hoàng – nhánh khô - Sao Hôm – sao Mai Các cặp biểu trưng này chỉ sự không tương hợp, không xứng đôi vừa lứa của đôi nam nữ. 3.2.2. Ẩn dụ bản thể CON NGƯỜI LÀ ĐỐI TƯỢNG - VẬT CHỨA Bằng cách khảo sát cách nói, các thành ngữ và liên hệ giữa cảm xúc và thân xác, Lakoff cho rằng có một cấu trúc ý niệm, cả ẩn dụ lẫn hoán dụ, nằm bên dưới những diễn đạt đó. Một trong những ẩn dụ đó là: CƠ THỂ LÀ MỘT VẬT CHỨA CẢM XÚC (Body Is A Container For The Emotions): - “Anh đau tương tư nằm trên bộ vạt, Hồn anh thất lạc, thác xuống Diêm đình.” [23; 335] - “Tốt phô ra, xấu xa đậy điệm.” [23; 207] - “Đũa so le đôi chiếc khó cầm, Liệu sao em liệu, thương thầm khó thương.” [12; 165] - “Đũa tre một chiếc khó cầm, Nằm đêm nghĩ lại thương thầm bạn xưa.” [12; 269] LÒNG DẠ LÀ ĐỐI TƯỢNG - VẬT CHỨA - “Ăn cơm ba chén lưng lưng Uống nước cầm chừng để dạ thương em.” [23; 339] - “Anh đi lục tỉnh giáp vòng, Tới đây trời định đem lòng thương em.” [23; 359] - “Anh dốc lòng trồng cúc ngay hàng Không dè trúc mọc mỗi đàng một cây.” [12; 159] - “Anh đừng đem dạ gạt lường, Anh đà có sẵn tào khương ở nhà.” [43; 124] - “Anh đừng náo động lầu chuông, Nay còn mai mất thêm buồn dạ em.” [23; 463] - “Anh ở ngoài vàm, anh có lòng mong đợi Em ở trong ngọn, em có dạ đợi trông. Dương gian, âm phủ cũng cộng đồng Sống sao thác vậy, anh vẫn giữ một lòng với em.” [23; 334] - “Anh ơi hột giống nghĩa tình, dễ gieo, khó nhổ, Gieo vào lòng để khổ cho nhau.” [12; 168] - “Anh thấy em chắc chắn, Cặp chân mày ngay ngắn, anh cũng vừa lòng.” [23; 335] - “Anh về lòng vẫn vấn vương Nhớ cô hái thuốc bên đường Hòa An.” [23; 316] - “Bậu đừng lên xuống đèo bồng Chồng con hay được, đem lòng nghi qua.” [23; 344] - “Bấy lâu buồn bực trong lòng, Hôm nay loan phụng một phòng mới vui.” [43; 148] - “Biển cạn sông cạn, lòng qua không cạn, Núi lở non mòn ngỡi bạn không quên.” [12; 189] - “Bồn hư nên kiểng vội tàn, Qua vì sầu bậu lòng vàng thắt teo.” [43; 139] - “Cách xa chẳng dám nói ra, Thấy mình than thở xót xa trong lòng.” [23; 338] - “Chớ ham nơi quyền quý cao sang, Để cho anh trong dạ bàng hoàng đêm thu.” [43; 147] - “Chuột kêu rúc rích trong vò, Lòng em có muốn thì bò qua đây.” [23; 370] - “Có mặt mình ăn muối cũng ngon, Không mặt mình, ăn cá cũng héo hon trong lòng.” [23; 372] - “Đêm khuya anh gảy cái tam huyền, Huyền kêu mấy bực, dạ phiền bấy nhiêu.” [43; 35] - “Đêm năm canh sầu tủi loan phòng, Xốn xang trong dạ chạnh lòng nhớ anh.” [43; 145] - “Đến nhà em trong dạ phập phồng, Anh sợ em đã có chồng khó toan.” [43; 138] - “Em nhớ thương anh, lòng dạ chứa chan, Thà rằng anh ở lại, cơ hàn có nhau.” [23; 365] - “Gái chưa chồng trong lòng hớn hở, Trai chưa vợ ruột thắt tợ trái chanh.” [23; 380] - “Khách về nhớ mãi trong lòng Cù lao nho nhỏ bên dòng Tiền Giang.” [23; 316] - “Khuyên anh đừng đem dạ bi ai, Chết thì em chịu chẳng phai dạ này.” [43; 142] - Mấy lời năn nỉ tri tri, Dầu rằng sống chết cũng ghi vào lòng.” [43; 74] - “Ơn ai một chút chưa quên Oán ai một chút để trong dạ này.” [23; 205] - “Vắng mặt nàng buồn bực xốn xang Nay gặp gỡ hân hoan trong dạ.” [23; 286] - “Vẳng nghe ai hát, lòng đây bát ngát thêm phiền, Cô phòng giữ dạ thuyền quyên, Chờ người nhơn nghĩa, em nguyền trao thân.” [12; 282] - “Ví dầu áo tả quần tơi Một sương hai nắng mà thảnh thơi trong lòng.” [23; 325] BỤNG LÀ ĐỐI TƯỢNG – VẬT CHỨA - “Anh thấy em ít nói, làm thinh, Anh mừng thầm trong bụng, muốn chung tình với em.” [12; 347] - “Ba bốn bữa rày anh có bụng trông Kẻ lên người xuống mà không thấy nàng.” [23; 339] - “Bấy lâu đắp lũy bồi thành, Thương em để bụng, học hành phải lo.” [12; 187] - “Bữa nay có đám giỗ gần, Trong bụng bần thần không muốn đi xa.” [12; 476] - “Dầu ai đem bụng chẳng ngay, Anh nguyền một dạ như ngày tơ giao.” [12; 249] - “Gặp mặt em đây anh muốn vầy duyên hai họ, Sợ bụng em còn so đọ thấp cao.” [12; 283] - “Trong bụng héo hon Sao bây bạc nghĩa.” [23; 265] RUỘT GAN LÀ ĐỐI TƯỢNG - VẬT CHỨA - “Anh thương em ruột thắt gan bào Biết em có thương lại chút nào hay không?” [12; 169] - “Bước lên xe mặt ủ gan sầu, Xa nhau biết có ngày nào gần nhau.” [43; 125] - “Đêm khuya chong ngọn đèn ngôi, Bâng khuâng nhớ bạn bồi hồi lá gan.” [43; 101] - “Đêm khuya trăng dọi lầu son, Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng.” [12; 257] - “Em hỏi anh gan ruột bào nhào, Thương em để bụng, chốn phòng đào còn lẻ đôi.” [12; 399] TIM LÀ ĐỐI TƯỢNG VẬT CHỨA - “Từ khi anh xa cách bạn vàng, Tâm can rũ rượi như phượng hoàng bị tên.” [23; 362] - “Tôi thương mình, tôi giấu kín trong tâm, Giả như trái lựu chín thâm trên cành.” [12; 396] ÓC LÀ ĐỐI TƯƠNG – VẬT CHỨA - “Họ nuôi trong óc Thế giới đại đồng Độc lập tự do Cho dân ta hưởng. [23; 312] - “Anh thương em đầy đủ óc gan, Đứng ngồi mơ tưởng hồng nhan của nàng.” [43; 137] ĐẠO NGHĨA LÀ ĐỐI TƯỢNG VẬT CHỨA - “Đứng làm người trong đạo tao khương, Thủy chung như nhứt giữa đường ngãi nhơn.” [12; 221] 3.2.3. Ẩn dụ truyền tin/ kênh liên lạc Ẩn dụ truyền tin/ kênh liên lạc cho rằng biểu thức ngôn ngữ là những khách thể, người nói đưa những tư tưởng (những khách thể) vào từ (những vật chứa) và truyền chúng đi (trong một thông điệp) cho người nghe, người này lấy ra những tư tưởng/ khách thể từ trong từ/ vật chứa. ví dụ câu: “Ý nghĩa được chứa đựng trong ngay trong những từ này.” Trong tư liệu văn vần dân gian Nam bộ, chúng tôi không khảo sát được 13 ẩn dụ truyền tin. Lời nói là khách thể mà người nói gởi vào đó những “nhớ nhung”, “ân tình” để gởi đến người nghe. - “Ai về Đồng Tháp xa xôi, Dừng chân tôi gửi đôi lời nhớ nhung.” [12; 127] - “Người nào là người nghĩa tôi đâu, Nói cho tôi biết, để gởi câu ân tình.” [23; 363] - “Gặp anh dưới nước trên trời, Gởi thơ sợ lạc, gởi lời sợ quên.” [12; 282] - “Gặp mặt anh đây không dám trao lời, Thuận buồm xuôi gió nhờ trời chớ sao.” [12; 283] 3.2.4. Ẩn dụ định hướng QUYỀN LỰC HAY SỨC MẠNH THÌ ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN, PHỤC TÙNG QUYỀN LỰC HAY SỨC MẠNH THÌ ĐÌNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI - “Biết rằng cha mẹ trên đầu, Song anh ráng nhớ giữa cầu thệ đoan.” [43; 144] - “Em có chồng rồi, anh sợ lỗi đạo bề trên, Em vào phong trong an giấc, anh nằm một bên kêu chừng.” [12; 271] - “Em rình bên tấm vách phên, Lóng tai nghe rõ lịnh trên rầy chàng.” [43; 144] - “Em than với anh em còn nhỏ quá, Về mần dâu ba má, chắc không thấu dạ bề trên.” [12; 277] - “Hai đứa mình đứng lại một bên, Dắt về hỏi lại bề trên thế nào.” [12; 434] - “Muốn cho trên thuận dưới hòa, Chồng kêu vợ dạ, mới là gái ngoan.” [43; 74] - “Nhỏ nhỏ như ai chớ nhỏ nhỏ như em ít kẻ dám bì, Lên quan xuống huyện việc gì cũng xong.” [12; 342] - “Như vầy mới gọi là trai, Trên lo nghĩa chúa, dưới mài thảo thân.” [43; 80] Cơ sở vật lý: Kích thước vật lý tương quan với lực vật lý. Còn sức mạnh thì người chiến thắng thường nằm trên kẻ thất bại trong đấu vật. CÁI TỐT ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN, CÁI XẤU ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI - “Anh đừng chê em nghèo không nơi nương dựa, Mà kiếm nơi nghèo lên ngựa xuống xe.” [12; 162] - “Anh thờ em dĩa mắn dĩa rau, Anh nghèo, em khó, có đâu mâm cao cỗ đầy.” [12; 169] - “Gặp mặt em đây anh muốn vầy duyên hai họ, Sợ bụng em còn so đọ thấp cao.” [12; 283] - “Giã hiền thê ở lại lấy chồng, Thuyền anh ra cửa như rồng lên mây.” [12; 148] - “Gối rơm theo phận gối rơm, Ai cho dưới thấp mà chờm lên cao.” [43; 98] - “Nào ai lên võng xuống dù Kêu dân dân dạ, bây giờ dạ dân.” [12; 496] Sự hưng thịnh cá nhân, giàu có, đạo đức, những gì tốt đẹp đối với con người thì định hướng phát triển lên trên còn những điều xấu xa, nghèo hèn, phi đạo đức bị hạ thấp. SỰ SỐNG ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN, BỆNH TẬT VÀ CÁI CHẾT ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI (Người chết thì phải chôn xuống lòng đất) - “Anh đau tương tư nằm trên bộ vạt, Hồn anh thất lạc, thác xuống Diêm đình.” [23; 335] - “Bận này bậu dứt nghĩa qua, Cũng liều thác xuống Diêm La cho rồi.” [43; 129] - “Mai sau anh có thác xuống vàng, Hồn khôn anh dật dựa bên nàng anh chơi.” [43; 110] - “Sống chi vầy kẻ Hớn người Hồ, Một mai chết xuống chôn một mồ mới vui.” [12; 369] - “Sống làm chi cho kẻ Hớn người Hồ, Nghiêng mình nằm xuống một mồ với anh.” [12; 213] - “Sống ở dương gian không bắt được tay chàng, Thác xuống âm phủ em giở nắp hàng cho anh vô.” [12; 370] - “Tôi theo anh lập lấy cơ đồ, Để sau thác xuống, mả mồ ấm cao.” [12; 395] - “Tôi trách anh bạn đảo điên, Gạt em xuống chốn huỳnh tuyền bỏ em.” [12; 239] LỚN TUỔI ĐỊNH HƯỚNG LÊN TRÊN, NHỎ TUỔI ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI Tuổi càng lớn, con người càng phát triển về chiều cao, cân nặng và cả những kinh nghiệm, kiến thức,… so với người trẻ tuổi. - “Chẳng lo thân bậu với qua, Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao.” [12; 213] - “Chẳng qua thân bậu với qua Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao.” [12; 213] TỨC GIẬN HƯỚNG LÊN, HẾT TỨC GIẬN HƯỚNG XUỐNG Khảo sát những diễn đạt về cơn giận (anger), Lakoff nhận thấy có một liên hệ sinh lý giữa cơn giận và cơ thể: giận ai thì nhiệt độ cơ thể tăng lên, áp lực bên trong tăng lên, sắc diện bên ngoài thay đổi như đỏ mặt, người run rẩy. Điều này tạo thành một ẩn dụ định hướng về cơn giận: - “Bậu giận anh lại cười mơn, Vuốt gan bậu xuống giận hờn làm chi.” [43; 74] - “Gái đâu có gái lạ lùng Chồng chẳng nằm cùng, nổi giận đùng, ném chó xuống ao Đến đêm chồng lại lần vào Vội vàng vác sọt đi chao chó về.” 3.3. Nhận xét chung Qua khảo sát 6350 bài văn vần dân gian Nam bộ, chúng tôi thu thập được 860 ẩn dụ tri nhận về con người, trong đó, ẩn dụ cấu trúc chiếm số lượng lớn nhất. Các ý niệm về con người được cấu trúc hóa thông qua cấu trúc nghĩa của một miền nguồn nhất định, trong đó phạm trù nguồn là “THỰC THỂ” phổ biến nhất. Các ý niệm trừu tượng về con người được cấu trúc hóa như một thực thể hữu hình nên có thể kết hợp với các động từ: “dằn”, “nén”, “nhận”, “lấy”, … mới có thể biết được nặng, nhẹ, cạn, sâu, tràn trề, ngay thẳng,… Có thể thấy con người đã “cụ thể hóa” hay “vật thể hóa” những hiện tượng không thể “tai nghe mắt thấy” – những phạm trù siêu hình (không nhìn thấy) bằng những ngôn từ liên quan trực tiếp đến kinh nghiệm thực tiễn của họ. Các phạm trù nguồn như “NGỌN LỬA”, “THỨC ĂN”, “DÒNG SÔNG”,… cũng được ánh xạ qua các phạm trù đích về con người. Ẩn dụ cấu trúc được thể hiện qua sơ đồ ánh xạ các ý niệm về con người từ miền nguồn tới miền đích trong văn xuôi dân gian Nam bộ được thể hiện như sau: Bảng 3.2: Sơ đồ ánh xạ ý niệm con người trong văn vần dân gian Nam bộ STT PHẠM TRÙ NGUỒN (SOURCE) PHẠM TRÙ ĐÍCH (TARGET) SỐ LƯỢNG 1. Động vật Con người 104 2. Thực vật Con người 109 3. Đồ vật Con người 53 4. Hành trình Tình yêu 16 5. Đi câu Tình yêu 12 6. Trồng cây Tình yêu 4 7. Ngọn lửa Tình yêu 1 8. Thức ăn Tình cảm 6 9. Hạt giống Nghĩa tình 1 10. Thực thể Nghĩa tình 40 11. Thực thể Thương nhớ 11 12. Nguồn tài nguyên hữu hạn Tình thương 3 13. Thực thể Nỗi sầu 13 14. Nước Nỗi sầu 3 15. Thức ăn Tương tư 1 16. Ngọn lửa Tức giận 1 17. Thực thể Nỗi nhục 1 18. Thực thể Ý chí 3 19. Dòng sông Ý nghĩ 4 20. Vàng đá Tấm lòng 14 21. Thực thể Tấm lòng 21 22. Dòng sông Tấm lòng 3 23. Mùi vị Tấm lòng 1 24. Sợi tơ/sợi dây Duyên nợ 12 25. Hàng hóa Duyên nợ 7 26. Ngọn lửa Duyên nợ 5 27. Chuyển động Duyên nợ 12 28. Sinh thể Duyên nợ 3 29. Thực thể Duyên nợ 23 30. Thực thể Hơi thở 3 31. Thực thể Lời nói 37 32. Thực thể Danh tiếng 16 33. Thực thể Danh tiết 5 34. Cái vòng Danh lợi 1 35. Cái vòng Gian nan 1 TỔNG 550 Nếu trong thơ hiện đại, trái tim là biểu tượng tình yêu, là vật chứa đựng cảm xúc tình yêu thì trong ca dao, bụng dạ là vật chứa đựng cho cảm xúc tình yêu. Những tình cảm hỷ nộ ái ố với rất nhiều cung bậc tình cảm của con người, người Nam bộ cũng thường thể hiện tâm trạng nơi bụng dạ của họ: “tức lộn ruột lộn gan”; “giận bầm gan tím ruột”; đểu biểu đạt sự hài lòng, thỏa mãn, “mát ruột mát gan”, “mát lòng mát dạ”. Trong tình yêu, thay vì sự rung động và thổn thức của trái tim yêu đương, người Nam bộ lại thể hiện tình yêu thông qua cái bụng “vừa lòng”, “thương thầm trong bụng”, “thương để dạ”… Người Nam bộ đặc biệt biết cách chuyển giao chức năng bộ óc cho cái bụng để tư duy và suy xét hầu hết mọi công việc. Với phương thức tư duy này, người Nam bộ nhận thức thế giới xung quan chủ yếu bằng trực giác và cảm nhận chủ quan của mình. Cái bụng là vật chứa tiêu biểu, nó chứa đựng và thể hiện những gì thuộc phạm trù tinh thần, là những cái thuộc về bên trong. Trong tiếng Việt, bụng và những bộ phận của bụng như lòng, dạ, gan, ruột,… trở thành biểu tượng cho phạm trù tinh thần. Chúng là một công cụ để biểu hiện tư duy, tâm lý, tình cảm, ý chí, những trạng thái cảm xúc,.. của con người. Bụng là một hình ảnh ẩn dụ tri nhận của người bình dân về các cảm xúc tình yêu. Người Việt tri nhận rằng, bụng có không gian rộng rãi, cho phép nó có thể co dãn một cách năng động nên chứa được nhiều tình cảm hơn. Các bộ phận trong bụng có dạng mền khiến cho bụng có cách xử lý vấn đề không cứng rắn như đầu, nơi ngự trị của lý trí. Hơn nữa, bụng, dạ, lòng là những bộ phận thuộc phần dưới cơ thể người, là nơi sâu kín, có thể là nơi lưu giữ kín đáo những tâm tư tình cảm của con người. Bảng 3.3: Ẩn dụ bản thể trong văn vần dân gian Nam bộ STT ĐỐI TƯỢNG VẬT CHẤT LIỆU – VẬT CHỨA SỐ LƯỢNG CHỨA 1. Con người Linh hồn, thương, tính cách, 5 2. Bụng Niềm tin, thương, nói, ý lo sợ, nghi ngờ, suy nghĩ, căm tức, tức giận, vui mừng, 11 3. Lòng, dạ Buồn phiền, Lo lắng, tiếng (nói), hãm hại, oán hận, thương yêu, cảm mến, niềm tin, mong đợi, gạt lừa, nghĩa tình, sầu bi, xót xa, ước muốn, bàng hoàng, nhớ thương, tương tư, hân hoan. 95 4. Ruột, gan Tức giận 6 5. Tim Buồn, thương 2 6. Óc Ý chí, thương 2 7. Đạo nghĩa Con người 1 8. TỔNG 122 3.4. Nhận xét ẩn dụ tri nhận về con người trong văn chương dân gian Nam bộ Khảo sát ẩn dụ tri nhận về con người trong văn chương dân gian Nam bộ cả hai thể loại văn xuôi và văn vần, chúng tôi rút ra được một số nhận xét sau: Về số lượng: Bảng 3.4: Số lượng ẩn dụ tri nhận trong văn chương dân gian Nam bộ Tiêu chí Văn xuôi Văn vần Số bài khảo sát 270 6350 Số trang khảo sát 1237 1132 Số ẩn dụ tri nhận về con người 404 721 Ẩn dụ cấu trúc 199 550 Ẩn dụ bản thể 100 122 Ẩn dụ truyền tin 17 13 Ẩn dụ định hướng 88 36 Số miền nguồn 10 20 Văn xuôi khảo sát được 404/270 truyện, tỷ lệ 1,5; văn vần 721/6350 bài, tỷ lệ 0,33. Do văn vần là những bài ca dao, tục ngữ, hò, vè, câu đố… ngắn, thường là 2 câu/bài nên số lượng bài lớn. Tuy nhiên về số trang, tỷ lệ văn xuôi là 0,33 ẩn dụ/trang; văn vần là 0,64 ẩn dụ/trang. Số lượng ẩn dụ tri nhận về con người khảo sát trên cứ liệu văn vần nhiều hơn trên văn xuôi, 721/404, gấp1,78 lần. Trong đó, ẩn dụ cấu trúc là 550/199, gấp 2,76 lần; ẩn dụ bản thể là 122/100, gấp 1,22 lần; ẩn dụ truyền tin/ kênh liên lạc là 13/17, kém 0,76 lần. Như vậy, ẩn dụ cấu trúc trong văn chương dân gian Nam bộ là lớn nhất. Trong văn vần, ẩn dụ cấu trúc chiếm phần lớn số lượng ẩn dụ khảo sát được. Chủ yếu là các cấu trúc nghĩa biểu trưng “CON NGƯỜI LÀ ĐỘNG VẬT” (104 ẩn dụ), “CON NGƯỜI LÀ THỰC VẬT” (109 ẩn dụ), “CON NGƯỜI LÀ ĐỒ VẬT” (53 ẩn dụ),… Trong đó, các cặp biểu trưng chàng trai và cô gái chiếm số lượng lớn và các biểu trưng này vô cùng gần gũi, quen thuộc trong đời sống người dân Nam bộ. Trong văn xuôi dân gian, cấu trúc ánh xạ miền nguồn “THỰC THỂ” (153 ẩn dụ) chiếm tỷ lệ cao nhất. Về cấu trúc miền nguồn của ẩn dụ tri nhận về con người trong văn vần đa dạng và phong phú hơn so với miền nguồn của ẩn dụ cấu trúc văn xuôi. Các miền nguồn của ẩn dụ cấu trúc trong văn xuôi và văn vần dân gian Nam bộ được thể hiện trong Bảng 3.5: Bảng 3.5: Miền nguồn tri nhận trong văn chương dân gian Nam bộ STT Văn xuôi Văn vần 1. Dòng chảy Động vật Nguồn tài nguyên hữu hạn 2. Ngọn lửa Thực vật Nước 3. Sợi dây Đồ vật Dòng sông 4. Thức ăn Hành trình Vàng đá 5. Thực thể Đi câu Mùi vị 6. Sức lực Trồng cây Sợi tơ/ Sợi dây 7. Hạt mầm Ngọn lửa Hàng hóa 8. Sinh thể Thức ăn Chuyển động 9. Con người Hạt giống Sinh thể 10. Nơi chốn Thực thể Cái vòng Tổng 10 20 Số lượng ẩn dụ tri nhận trong văn vần nhiều hơn văn xuôi gấp 1,78 lần. Văn vần là thể loại biểu đạt ý nghĩa, tư tưởng, tình cảm một cách cô đọng và súc tích nhất. Những câu hát dân gian để dễ đi vào lòng người, lưu truyền qua bao thế hệ thì càng cần phải cô đọng, dễ hiểu và dễ thuộc vì thông điệp càng ngắn, gọn, súc tích bao nhiêu, càng dễ nhớ, càng đánh mạnh vào tâm lý người nghe hoặc người đọc bấy nhiêu. Theo Jakobson: thi ca là một phát ngôn nhắm vào thể cách phát biểu (un énoncé visant l'expression). Do đó, chúng ta có thể coi văn vần như một sự kết tinh trong cách biểu đạt tư tưởng bằng ngôn từ. Nói cách khác, văn xuôi là cách diễn đạt tư tưởng bình thường (đôi khi dài dòng), văn vần là sự gạn lọc, đúc kết, là phần cô đọng nhất trong cách diễn đạt tư tưởng và tình cảm cảm bằng ngôn ngữ. Do đó, chúng ta có thể chọn cho văn vần một hình ảnh giàu tính biểu trưng như “cánh nhạn kêu sương” hay “chùm gửi đáp nhờ”,… để khơi gợi những liên tưởng trong tư duy người tiếp nhận. Chức năng ngữ học của văn xuôi là định danh và biểu đạt, và chức năng ngữ học của văn vần là khơi gợi trí tưởng tượng. Về mặt cấu trúc, văn xuôi lấy ý nghĩa làm biểu tượng còn văn vần gợi trí tưởng tượng bằng hình ảnh. Thi nhân tạo linh hồn cho vạn vật có nghĩa là trên phương diện ngữ học và trong kỹ thuật thi ca, nhà thơ đã làm một phép tu từ để tạo hình: đó là ẩn dụ (métaphore), và ẩn dụ là cấu trúc cơ bản trong ngôn ngữ thơ. Vì vậy ngôn ngữ văn vần thường giàu hình ảnh, giàu tính tượng trưng hơn văn xuôi nên số lượng ẩn dụ trong văn vần nhiều hơn văn xuôi, đồng thời miền ánh xạ của ẩn dụ tri nhận trong văn vần cũng đa dạng, phong phú hơn so với văn xuôi. TIỂU KẾT Cùng nằm trong cái nôi văn hóa của quê hương, đất nước, các thể loại văn vần dân gian Nam bộ đã mang đến cho kho tàng văn học dân gian những vần ca dao, hò vè,… ngọt ngào, tình tứ. Văn vần dân gian Nam bộ là sản phẩm của sự suy tư, cảm xúc, sự trải nghiệm của con người, là tiếng nói của người Việt Nam, đặc biệt là của nguời dân vùng đồng bằng Nam bộ, góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc. Trên tổng thể, văn vần dân gian Nam bộ thể hiện tất cả những đặc điểm chung của văn vần dân gian Việt Nam, nhưng đồng thời văn vần dân gian Nam bộ còn là tiếng nói tâm tình của người dân miền sông nước nơi đây. Thể hiên một niềm tự hào của người dân miền sông nước, đồng thời thể hiện nét văn hóa rất đặc trưng mang đậm chất Nam bộ. Tìm hiểu những ẩn dụ tri nhận về con người trong văn vần dân gian Nam bộ là một mặt giới thiệu những hình ảnh ẩn dụ quen thuộc, giản dị, mặt khác hiểu được đời sống tư duy, tình cảm của người dân Nam bộ mộc mạc, chất phác. Vì những hình ảnh ẩn dụ là những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hàng ngày của con người nơi đây, góp phần hình thành bản sắc văn hóa của một vùng đất mới, nơi hội tụ rất nhiều luồng văn hóa khác nhau của thế giới. Hình thành bản sắc độc đáo của văn học Nam Bộ. Các hình ảnh ẩn dụ tri nhận về con người đa dạng và phong phú hơn so với văn xuôi dân gian Nam bộ, vì tính biểu trưng và hình ảnh là đặc điểm tiêu biểu của thể loại văn vần. Tính biểu trưng bao giờ cũng gắn với văn hóa tộc người và vùng đất bởi quá trình biểu trưng hóa (quá trình liên tưởng so sánh giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt) bị sự chi phối của môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Sự hình thành những nét nghĩa biểu trưng nghệ thuật trong các hình ảnh ẩn dụ về con người trong văn vần dân gian Nam Bộ với những hình ảnh về thực tại, gắn với lối cảm, lối nghĩ của con người ở đây là một nét riêng của văn chương dân gian Nam bộ. Qua việc tìm hiểu những hình ảnh ẩn dụ tri nhận về con người được người dân Nam bộ hát lên bằng những lời ca, câu hò, điệu lý cho chúng ta thấy được nét đẹp văn hóa trong suy nghĩ và ứng xử của những con người ở vùng quê sông nước nơi đây. Đó là nét đẹp rất đời thường nhưng cũng chính là cái hồn của dân tộc, của quê hương.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_ngon_ngu_hoc_2__1634.pdf
Luận văn liên quan