Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 I. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG 3 1. Định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng 3 2. Đặc điểm của nhãn hiệu nổi tiếng 5 II. BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM 6 1. Các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng 6 2. Về căn cứ xác lập quyền 8 3. Về thời hạn bảo hộ 9 4. Các trường hợp được xem là vi phạm nhãn hiệu nổi tiếng 10 III. BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO QUI ĐỊNH CÁC NƯỚC KHÁC 11 1. Theo quy định của Cộng đồng châu Âu 12 2. Theo quy định pháp luật Hoa Kỳ 13 3. Sự khác biệt so với quy định của pháp luật Việt Nam 15 IV. THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG 16 1. Mất bò mới lo làm chuồng 16 2. Những giải pháp kiến nghị 22 LỜI KẾT 25 DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT 26 PHỤ LỤC 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7781 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại hàng hóa và dịch vụ cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay, vai trò của nhãn hiệu – một trong những đối tượng truyền thống và chủ yếu của sở hữu công nghiệp – ngày càng trở nên quan trọng. Với chức năng ban đầu là giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau, qua quá trình sử dụng và phát triển, nhãn hiệu đã trở thành một công cụ hữu hiệu cho một doanh nghiệp (dù lớn hay nhỏ) tiếp cận, phát triển và bảo vệ thị phần hàng hóa và dịch vụ của mình. Vì vậy, từ hàng trăm năm về trước luật bảo hộ nhãn hiệu đã ra đời tại một số quốc gia phát triển. Những nguyên tắc cơ bản của các luật nhãn hiệu ban đầu tỏ ra hợp lý và có sức sống đến tận ngày nay. Đó là việc nhãn hiệu được ưu tiên đăng ký bảo hộ cho người đăng ký trước (hoặc sử dụng trước), đó là việc nhãn hiệu được bảo hộ chống lại các hành vi của người khác sử dụng một nhãn hiệu trùng hoặc tương tự cho các sản phẩm hàng hóa trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu và sản phẩm của chủ nhãn hiệu… Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường đã xuất hiện những nhãn hiệu hàng hóa nổi trội hơn nhờ được sử dụng lâu dài trên thị trường, với chất lượng, tính chất đặc trưng, cũng như uy tín mà hàng hóa mang lại. Những nhãn hiệu như vậy là sự kết tinh nỗ lực kinh doanh của một doanh nghiệp cả về vật chất lẫn trí tuệ, thường có giá trị tài sản rất lớn. Tất nhiên, những nhãn hiệu như vậy cũng luôn trở thành mục tiêu cho sự làm giả, sao chép, lợi dụng uy tín của các đối thủ cạnh tranh cũng như những kẻ làm ăn bất chính. Từ đây xuất hiện nhu cầu đòi hỏi phải tạo lập một chế độ bảo hộ đặc biệt hơn cho loại nhãn hiệu này – các nhãn hiệu nổi tiếng Và trong phạm vi bài tiểu luận này, nhóm chúng em sẽ đi sâu và làm sáng tỏ hơn các quy định pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam cũng như các quy định của các nước trên thế giới. I. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG 1. Định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng Theo khoản 16, điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (Luật SHTT) thì nhãn hiệu là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, các nhãn hiệu ngày càng đóng một vai trò quan trọng. Bên cạnh vai trò chính là phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các nhà sản xuất trên thị trường, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản phẩm, dịch vụ thì nhãn hiệu còn có các vai trò khác như thu hút thị hiếu người tiêu dùng, là một biểu tượng cho hình ảnh, danh tiếng và uy tín của doanh nghiệp, là yếu tố quyết định tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, và là một tài sản kinh doanh có giá trị đặc biệt. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã làm xuất hiện những nhãn hiệu nổi trội hơn so với những nhãn hiệu thông thường. Ngày nay, khi nhắc đến những cái tên như Cocacola, Intel, Toyota, Monster,... thì chắc chắn người tiêu dùng sẽ biết ngay rằng những nhãn hiệu này được dùng cho sản phẩm nào. Những nhãn hiệu này nổi trội hơn hẳn có thể là do thời gian sử dụng lâu dài, phạm vi sử dụng rộng rãi hay có thể là do chất lượng sản phẩm tốt…Mục đích chính của nhãn hiệu là để phân biệt sản phẩm của các nhà sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, khi nhãn hiệu được người tiêu dùng nhận biết rộng rãi và tín nhiệm thì đã đem lại những lợi thế kinh doanh rất lớn cho chủ sở hữu nhãn hiệu. Những nhãn hiệu như vậy được gọi là nhãn hiệu nổi tiếng (Famous marks). Nhãn hiệu nổi tiếng chính là biểu tượng cho danh tiếng nhà sản xuất, giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình kinh doanh của thương nhân. Những nhãn hiệu nổi tiếng là kết tinh của trí tuệ và vật chất của doanh nghiệp trong một quá trình lâu dài. Vì vậy, nhãn hiệu nổi tiếng là tài sản có giá trị rất lớn. Những nhãn hiệu như Cocacola được định giá lên đến cả trăm triệu USD. Chính vì vậy, sự điều chỉnh của pháp luật về vấn đề là tất yếu. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ngày càng cấp thiết và thu hút được sự quan tâm của nhiều Quốc gia trên thế giới. Điều 6BIS của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp có quy định: “... các nước thành viên Liên hiệp có trách nhiệm, theo chức năng quản lý nếu luật quốc gia cho phép điều đó, hoặc theo đề nghị của bên có liên quan, từ chối hoặc huỷ bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự sao chép, bắt chước, chuyển đổi, và có khả năng gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu đã được cơ quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc nước sử dụng coi là nhãn hiệu nổi tiếng tại nước đó như là nhãn hiệu thuộc về người được hưởng lợi thế của Công ước và sử dụng trên các loại hàng hoá giống hoặc tương tự. Những quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của bất kỳ nhãn hiệu nổi tiếng nào hoặc sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu trước đó...” Theo quy định trên thì Công ước Paris không đưa ra bất kỳ một định nghĩa nào về nhãn hiệu nổi tiếng mà chỉ quy định nghĩa vụ của các nước thành viên phải có cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng chống lại việc vi phạm (sao chép, bắt chước, chuyển đổi, và có khả năng gây nhầm lẫn) của người thứ ba. Việt Nam là thành viên của Công ước Paris từ năm 1994. Vì vậy, cũng như các thành viên khác Việt Nam cũng cần phải xây dựng một cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên, phải đến tận năm 2001, tại Nghị định số 06/2001/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/NĐ-CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp thì vấn đề nhãn hiệu nổi tiếng mới được quy định. Theo quy định tại điểm b, khoản 8, Điều 2 của Nghị định này thì nhãn hiệu nổi tiếng được quy định như sau: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín  khiến cho nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi”. Đây có thể được coi là quá trình nội luật hoá các quy định của điều ước quốc tế vào các văn bản pháp luật Việt Nam đồng thời cũng đánh dấu một bước tiến trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Tuy nhiên, định nghĩa này có một số vấn đề bất cập như sau: Thứ nhất, nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi nhưng rộng rãi đến mức nào, hay nói cách khác, luật đã không xác định phạm vi nổi tiếng. Thứ hai, luật đề ra định nghĩa nhưng lại không xác định các tiêu chí để phân định nhãn hiệu là nổi tiếng hay không. Chính vì vậy, nghị định này có hiệu lực từ năm 2001 nhưng hầu như không có giá trị áp dụng. Để khắc phục những nhược điểm của nghị định 06, Luật SHTT đã có quy định mới về nhãn hiệu nổi tiếng. Theo khoản 20, điều 4, Luật SHTT thì “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến một cách rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Quy định này đã giới hạn phạm vi nổi tiếng là trên lãnh thổ Việt Nam. Có nghĩa rằng một nhãn hiệu dù nổi tiếng như thế nào trên thế giới đi nữa mà người tiêu dùng tại Việt Nam không biết đến thì đó cũng không phải là nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, Luật SHTT cũng lần đầu tiên đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác định nhãn hiệu nổi tiếng (Điều 75, Luật SHTT). Những tiêu chí này sẽ được phân tích tại phần cơ chế bảo bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng của bài viết này. Đây có thể xem là một bước tiến dài trong việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng của pháp luật nước nhà. 2. Đặc điểm của nhãn hiệu nổi tiếng Qua định nghĩa đã nêu ở trên thì nhãn hiệu nổi tiếng có điểm khác so với nhãn hiệu thông thường. Và sự khác biệt đó được thể hiện thông qua những đặc trưng cơ bản của nhãn hiệu nổi tiếng. Những đặc điểm cơ bản đó là: Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi. Hay nói cách khác, khi nhắc đến hàng hóa, dịch vụ nào đó thì người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến nhãn hiệu đó. Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu có căn cứ xác lập quyền, có tiêu chí đánh giá, có cơ chế bảo hộ riêng, khác hoàn toàn so với nhãn hiệu thông thường. Nhãn hiệu nổi tiếng là kết tinh của nhiều yếu tố trong suốt một quá trình lâu dài. Những yếu tố đó có thể là uy tín, chất lượng sản phẩm, cung cách phục vụ… Nhãn hiệu nổi tiếng là một ưu thế kinh doanh của chủ sở hữu nhãn hiệu. Vì khi được khách hàng biết đến một cách rộng rãi, được khách hàng tin tưởng thì công ty đã có một lợi thế cạnh tranh rất lớn đối với những nhãn hiệu cùng loại. Nhãn hiệu nổi tiếng là một tài sản vô hình có giá trị rất lớn đối với doanh nghiệp. II. BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM Trong vài năm trở lại đây, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng thế giới đã được đưa vào thị trường Việt Nam và trở thành những nhãn hiệu quen thuộc của người tiêu dùng trong nước như nước giải khát Pepsi, Coca Cola, xe hơi Ford, Toyota, sản phẩm thời trang Gucci, CK... Những nhãn hiệu này đã và đang đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia, đòi hỏi chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận đúng đắn và có sự quan tâm cần thiết đến việc bảo hộ đối tượng này một cách hiệu quả và kịp thời trên thực tế. Nhãn hiệu nổi tiếng giữ một vai trò quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, điều đó tất yếu dẫn đến việc pháp luật cần phải có các cơ chế điều chỉnh về vấn đề này. Trong phần này, nhóm em sẽ tập trung phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng. 1. Các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng Trong các văn bản pháp luật quốc tế như công ước Paris, hiệp định TRIPS chỉ đặt ra vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mà không quy định các tiêu chí cụ thể xác định như thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng. Việt Nam là thành viên của hai văn bản trên nên có nghĩa vụ phải thiết lập một hành lang pháp lý rõ ràng cụ thể để các quy định của công ước, hiệp định có thể đi vào thức tiễn áp dụng đồng thời cũng để khắc phục những điểm bất cập trong nghị định 06 trước đây như đã nói ở phần định nghĩa thì tại điều 75 luật sở hữu trí tuệ 2005 đã đưa ra các tiêu chí xác định cụ thể như sau:             1. Số lượng người tiêu dùng liên quan đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn  hiệu hoặc thông qua quảng cáo;             2. Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành.             3. Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp;             4. Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu             5. Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu             6. Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu             7. Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu nổi tiếng             8. Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu....” Trên đây là những tiêu chí để được xem xét khi đánh giá một NHNT, có thể khẳng định đây là một bước tiến trong việc quy định pháp luật về NHNT. Các quy định này là những quy định mở, dựa vào các tiêu chí này các tổ chức, cá nhân sẽ thu thập các chứng cứ liên quan đến quá trình sử dụng của nhãn hiệu để yêu cầu các cơ quan chức năng xem xét, đánh giá. Cũng cần phải lưu ý rằng, ngoài các tiêu chí nêu trên, nếu tổ chức, cá nhân có các chứng cứ khác, có thể cung cấp để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét, đánh giá nhãn hiệu. Tuy nhiên qua xem xét các tiêu chí nêu trên, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy rất nhiều các quy định mang tính chất định lượng, ví dụ như số lượng các quốc gia, số lượng người tiêu dùng...Vấn đề đặt ra ở đây là khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét một nhãn hiệu có phải là nổi tiếng không thì các tổ chức, cá nhân cần phải cung cấp số lượng bao nhiêu quốc gia mà nhãn hiệu đã được đăng ký, 30, 50 hay 70, vấn đề tương tự cũng đặt ra đối với số lượng người tiêu dùng. Nếu ở các quốc gia khác theo hệ thống luật Anh Mỹ, thì những quy định này thường được áp dụng  dựa vào án lệ. Tuy nhiên, do đặc thù của hệ thông luật Việt Nam, không thừa nhận án lệ như một nguồn gốc của luật. Vì vậy, cấp độ Thông tư điều chỉnh về vấn đề này để dễ dàng trong qua trình áp dụng thống nhất pháp luật. Bên cạnh đó, có sự mâu thuẫn giữa quy định trong điểm 6 điều 75 về số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và quy định tại điểm 20, Điều 4, Luật SHTT. Định nghĩa tại điều 4 chỉ yêu cầu NHNT chỉ cần được người tiêu dùng biến đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam trong khi tiêu chí công nhận lại nêu số lượng quốc gia. 2. Về căn cứ xác lập quyền Vấn đề về xác lập quyền đối với NHNT được quy định tại khoản 2, điều 6 của Nghị định 103/CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp, theo quy định tại điều này thì quyền sở hữu công nghiệp đối với NHNT được xác lập trên cở sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó theo quy định tại Điều 75 của Luật SHTT mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký tức theo cơ chế bảo hộ tự động. Việc quy định về việc xác lập quyền như trên là phù hợp với thực tiễn quốc tế về NHNT. Theo quy định của luật pháp Hoa Ký cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia thì NHNT cũng không cần phải xác lập quyền bằng thủ tục đăng ký mà sẽ xác lập trên cở sở thực tiễn sử dụng. Tiêu chí thực tiễn sử dụng là một tiêu chí quan trọng nhất để một nhãn hiệu được công nhận là một NHNT. Chính nhờ quá trình sử dụng liên tục mà nhãn hiệu mới được người tiêu dùng biết đến. Nếu luật các quốc gia có quy định việc đăng ký cũng như công nhận của một cơ quan sở hữu trí tuệ là điều kiện để xác lập quyền đối với một NHNT là điều không hợp lý. Bởi vì việc công nhận hoặc đăng ký sẽ tạo ra một nhãn hiệu bất biến, trái với nguyên tắc sử dụng liên tục (khoản 4, điều 75, Luật SHTT) của NHNT. Trước đây, đã có một số cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia yêu cầu WIPO tiến hành nhận đơn công nhận NHNT, tuy nhiên, WIPO đã từ chối với lý do nêu trên. Việc quy định việc xác lập quyền đối với NHNT theo quy định trên, chúng ta có thể rút ra các kết luận sau:             - Thứ nhất: Sẽ chỉ có hai cơ quan tiến hành xem xét và công nhận một nhãn hiệu là nổi tiếng, đó là Toà án và Cục SHTT.             - Thứ hai: Cục SHTT và Toà án sẽ chỉ xem xét và công nhận một NHNT khi có yêu cầu của các tổ chức, cá nhân theo từng vụ việc cụ thể. Cục SHTT sẽ không nhận đơn đăng ký cũng như đơn đề nghị công nhận NHNT. Vì vậy, sẽ không tồn tại, một đăng bạ quốc gia nào về NHNT.             - Thứ ba: Yêu cầu xem xét NHNT có thể diễn ra trong các trường hợp sau:             + Khi tổ chức, cá nhân tiến hành nộp đơn đăng ký, nhưng bị từ chối vì nhãn hiệu rơi vào các yếu tố loại trừ hoặc bị từ chối vì tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác, tổ chức, cá nhân sẽ xác lập quyền cho nhãn hiệu này thông qua việc chứng minh NHNT.             + Khi các tổ chức, cá nhân yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực một văn bằng bảo hộ hoặc phản đối việc cấp giấy chứng nhận đăng ký cho một nhãn hiệu dựa trên cơ sở nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn với NHNT.             + Khi có các tổ chức, cá nhân yêu cầu xử lý vi phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng.             + Khi có các tổ chức, cá nhân yêu cầu xử lý về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng. Trên đây là những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về cơ chế bảo hộ NHNT. Các quy định mới của Luật SHTT Việt Nam hiện hành về cơ chế bảo hộ NHNT. Các quy định mới của Luật SHTT Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phù hợp với quy phạm quốc tế, cụ thể là điều 6bis của Công ước Paris và phù hợp với thực tiễn pháp luật quốc tế. 3. Về thời hạn bảo hộ Về thời hạn bảo hộ, pháp luật cũng dành cho những nhãn hiệu loại này một ưu đãi đặc biệt: quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ trường hợp một nhãn hiệu nổi tiếng không được bảo hộ nữa. Đó là khi nhãn hiệu không còn nổi tiêng nữa, hay nói cách khác là khi các tiêu chí làm nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng không còn trên thực tế hoặc nhãn hiệu đã trở thành tên gọi chung của một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định (trường hợp này còn gọi là sự lu mờ nhãn hiệu, phần này sẽ được giải thích cụ thể ở phần quy định về nhãn hiệu nổi tiếng của pháp luật Hoa Kỳ). Trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng của Việt Nam chưa đề câp đến các biện pháp cũng như chế tài ngăn cấm việc làm lu mờ nhãn hiệu. 4. Các trường hợp được xem là vi phạm nhãn hiệu nổi tiếng Một trong những vấn đề được xét tới là khả năng phân biệt của nhãn hiệu được quy định tại điểm i, khoản 1, điều 74 Luật SHTT. Trong đó, nhãn hiệu không được coi là có khả năng phân biệt nếu nó là một dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng. Quy định như vậy là phù hợp với thực tế cũng như thông lệ trên thế giới. Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể những dấu hiệu như thế nào thì được coi là “trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn” với nhãn hiệu nổi tiếng. Khắc phục điều này, Nghị định 105/2006 có hướng dẫn như sau: dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là yếu tố xâm phạm nếu: hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Hoặc hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự, không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Ngoài ra, ta có thể tham khảo đến bản Khuyến nghị chung của WIPO về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng (những nhãn hiệu như vậy được gọi là nhãn hiệu gây xung đột). Theo đó, nhãn hiệu sẽ bị coi là gây xung đột với nhãn hiệu nổi tiếng khi nhãn hiệu này, hoặc một phần của nhãn hiệu này, có chứa sự sao chép, sự bắt chước, sự phiên dịch, hoặc sự phiên chữ của nhãn hiệu nổi tiếng, có khả năng gây nhầm lẫn, nếu nhãn hiệu, hoặc phần cơ bản của nhãn hiệu này, được sử dụng, là đối tượng của đơn đăng kí hoặc đã được đăng kí đối với loại hàng hóa hoặc dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu. Không kể đến các loại hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu này là đối tượng của đơn đang kí hoặc đã được đăng kí, nhãn hiệu này sẽ bị coi là xung đột với nhãn hiệu nổi tiếng khi nhãn hiệu này hoặc một phần cơ bản của nhãn hiệu này có chứa sự sao chép, sự bắt chước, sự phiên dịch, hoặc sự phiên chữ của nhãn hiệu nổi tiếng, và khi có ít nhất một trong các điều kiện sau đây: - Sự sử dụng nhãn hiệu đó biểu thị một mối liên hệ giữa hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu, là đối tượng của đơn đăng kí, hoặc đã được đăng kí, và của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, và có nguy cơ đe dọa lợi ích của họ; - Sự sử dụng nhãn hiệu đó có khả năng làm suy yếu hoặc lu mờ theo cách không công bằng những đặc tính khác biệt của nhãn hiệu nổi tiếng; - Sự sử dụng nhãn hiệu đó có thể sẽ gây bất lợi cho những đặc tính khác biệt của nhãn hiệu nổi tiếng. III. BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO QUI ĐỊNH CÁC NƯỚC KHÁC Hầu hết các nước trên thế giới là thành viên của Công ước Paris hoặc thành viên của WTO đều có quy định và thực tiễn bảo hộ các nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng nội dung, cách thức công nhận và bảo hộ có khác nhau. Định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng không đồng nhất ở các nước, nhưng đa phần các nước áp dụng theo các tiêu chí đánh giá do WIPO đưa ra. Đa số các nước đều sử dụng một khái niệm “nhãn hiệu nổi tiếng”, riêng Cộng đồng châu Âu sử dụng hai khái niệm “nhãn hiệu nổi tiếng” và “nhãn hiệu rất nổi tiếng”. Cơ quan quốc gia có thẩm quyền công nhận nhãn hiệu nổi tiếng thường là cơ quan SHCN quốc gia và toà án, tại một số nước chỉ là cơ quan SHCN hoặc toà án. Nói chung, các nước không lập một danh mục các nhãn hiệu nổi tiếng của mình mà giải quyết theo từng vụ việc một trong quá trình cấp đăng ký nhãn hiệu hoặc xét xử tranh chấp tại toà. Chỉ có Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan là lập danh sách nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng chỉ là của các doanh nghiệp trong nước, nhằm phục vụ cho mục đích xúc tiến thương mại hoặc trao đổi thông tin với nước khác. 1. Theo quy định của Cộng đồng châu Âu Các nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng ở Cộng đồng Châu Âu được ghi nhận trong hai văn bản pháp luật quan trọng được ban hành liên quan một cách trực tiếp đến pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa. Văn bản hướng dẫn 89/104/EEC đã đề cập một số vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thông qua việc quy định những căn cứ làm cơ sở cho việc từ chối hay hủy bỏ đăng ký đối với những nhãn hiệu hàng hóa được coi là xung đột với các nhãn hiệu hàng hóa trước đó. Trong đó, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng là một trong những căn cứ quan trọng mà các cơ quan có thẩm quyền phải cân nhắc, xem xét khi tiếp nhận và đánh giá đơn đăng ký bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Châu Âu. Nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng có thể được bảo hộ ngay cả khi chúng chưa được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền. Điều này có nghĩa rằng, đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, việc bảo hộ không chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc “quyền ưu tiên đăng ký” (first - to - file) mà còn dựa trên nguyên tắc “quyền ưu tiên sử dụng” (first - to – use. Theo những quy định tại Điều 4 của Văn bản hướng dẫn 89/104/EEC, một nhãn hiệu hàng hóa sẽ không thể được đăng ký, hoặc nếu đã được đăng ký sẽ có thể bị tuyên bố vô hiệu ở các quốc gia Châu Âu nếu nó bị coi là giống hoặc tương tự với những nhãn hiệu đã được đăng ký được sử dụng cho những hàng hóa hay dịch vụ tương tự, hoặc nó có thể gây ra sự nhầm lẫn với những nhãn hiệu Cộng đồng trước đó. Căn cứ về nguy cơ gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu hàng hóa trước đó là một căn cứ quan trọng cho việc từ chối yêu cầu đăng ký đối với một nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, việc xác định thuật ngữ “nguy cơ gây nhầm lẫn” (likelihood of confusion) là rất khó khăn trên thực tế, nhất là trong việc phân biệt nó với những thuật ngữ tương tự khác. Ngoài ra, còn có một nguyên tắc quan trọng khác liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Châu Âu quy định rằng việc bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng sẽ không chỉ bị giới hạn trong phạm vi những hàng hóa và dịch vụ tương tự. Theo đó, phạm vi bảo hộ sẽ được mở rộng cho cả những trường hợp nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng cho những loại hàng hóa hay dịch vụ không tương tự khi những sự sử dụng như thế có thể gây thiệt hại hoặc tạo ra những điều kiện bất lợi cho danh tiếng của nhãn hiệu trước đó. Và khi một nhãn hiệu đã được công nhận là nổi tiếng tại một trong những nước thành viên của Liên minh, nó sẽ đương nhiên trở thành nhãn hiệu nổi tiếng trong toàn Liên minh. Như vậy, nhãn hiệu nổi tiếng ở Châu Âu sẽ được bảo hộ chủ yếu thông qua các Điều ước quốc tế và các Văn bản pháp luật thống nhất của Liên minh. Bên cạnh đó, các hệ thống pháp luật độc lập của các quốc gia thành viên cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra các tiêu chí và quy định cụ thể về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên lãnh thổ quốc gia mình. 2. Theo quy định pháp luật Hoa Kỳ Khác với các quốc gia Châu Âu và nhiều nước trên thế giới, Hoa Kỳ chưa phải là thành viên của Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như một số các cam kết quốc tế khác về lĩnh vực này. Do vậy, về nguyên tắc Hoa Kỳ sẽ không chịu sự ràng buộc bởi các quy định của các điều ước quốc tế này. Điều này cũng có nghĩa rằng Hoa Kỳ sẽ không thể kế thừa và tận dụng được những thành tựu pháp lý quốc tế liên quan đến lĩnh vực này một cách chính thức như nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng ở Hoa Kỳ hiện nay lại thật sự tỏ ra khá hoàn chỉnh và hiệu quả ở cả cấp độ liên bang lẫn tiểu bang. Việc thực thi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Hoa Kỳ hiện nay chủ yếu dựa trên những quy định của Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa năm 1946 mà nó còn được biết đến với tên gọi Đạo luật Lanham. Thế nhưng Đạo luật này lại không đề cập một cách cụ thể đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. Đến năm 1995, Nghị viện Hoa Kỳ mới thông qua một Đạo luật mới, Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa (FTDA). Đạo luật này được ban hành nhằm bổ sung, sửa đổi Đạo luật về Nhãn hiệu hàng hóa năm 1946, cụ thể là sửa đổi nội dung của Điều 43, quy định về sự đền bù hay bồi thường cho việc làm lu mờ đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. Đạo luật sửa đổi này đã mô tả các yếu tố để xác định một nhãn hiệu hàng hóa là phân biệt và nổi tiếng, đồng thời cũng đưa ra định nghĩa chính xác về thuật ngữ “sự lu mờ” (dilution), theo đó, sự lu mờ sẽ được hiểu là việc làm giảm khả năng của nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng trong việc xác định và phân biệt đối với hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn. Bằng việc đưa ra những quy định mới này, lần đầu tiên nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng được pháp điển hóa trong hệ thống lập pháp Hoa Kỳ. Theo những quy định tại Điều 3 của Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa năm 1995, chủ sở hữu của nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng sẽ có quyền, phù hợp với nguyên tắc của Luật công bằng và tuỳ thuộc vào sự xem xét của Tòa án, yêu cầu một Lệnh của Tòa án chống lại mọi sự sử dụng nhằm mục đích thương mại của người khác đối với nhãn hiệu hàng hóa hay tên thương mại, nếu sự sử dụng như thế được bắt đầu sau khi nhãn hiệu hàng hóa của chủ sở hữu trở nên nổi tiếng và những sự sử dụng đó có thể làm lu mờ hay làm giảm chất lượng hay khả năng phân biệt của nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. Và để có thể xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không, Tòa án sẽ phải cân nhắc, xem xét đến các yếu tố sau đây: Mức độ của tính phân biệt vốn có hay được yêu cầu của nhãn hiệu. Khoảng thời gian và mức độ sử dụng nhãn hiệu trong mối liên hệ với hàng hóa hay dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng. Khoảng thời gian và quy mô của các hoạt động quảng cáo hay phổ biến nhãn hiệu. Các kênh lưu thông đối với hàng hóa hay dịch vụ mà qua đó nhãn hiệu được sử dụng. Mức độ công nhận nhãn hiệu trong các khu vực thương mại và các kênh lưu thông hàng hóa hay dịch vụ được sử dụng bởi chủ sở hữu nhãn hiệu. Bản chất và mức độ của việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa giống hay tương tự của bên thứ ba. Nhãn hiệu đã được đăng ký theo Đạo luật ngày 03/03/1881 hoặc Đạo luật ngày 20/02/1905, hoặc đăng ký nguyên tắc hay chưa. 3. Sự khác biệt so với quy định của pháp luật Việt Nam Trường hợp một nhãn hiệu nổi tiếng không được bảo hộ nữa. Đó là khi nhãn hiệu không còn nổi tiếng nữa, hay nói cách khác là khi các tiêu chí làm nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng không còn trên thực tế hoặc nhãn hiệu đã trở thành tên gọi chung của một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định (trường hợp này còn gọi là sự lu mờ nhãn hiệu). Ở Hoa Kỳ, có Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu (FTDA) vào năm 1995. Đạo luật này có những quy định về sự đền bù hay bồi thường cho việc làm lu mờ đối với nhãn hiệu nổi tiếng, các yếu tố để xác định một nhãn hiệu là phân biệt và nổi tiếng, đồng thời cũng đưa ra định nghĩa chính xác về thuật ngữ “sự lu mờ” (dilution), theo đó, sự lu mờ sẽ được hiểu là việc làm giảm khả năng của nhãn hiệu nổi tiếng trong việc xác định và phân biệt đối với hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn hiệu. Lịch sử đã từng có những trường hợp như vậy mà điển hình là trường hợp của viên thuốc ASPIRIN. Trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng của Việt Nam chưa đề câp đến các biện pháp cũng như chế tài ngăn cấm việc làm lu mờ nhãn hiệu. Tại điều 129 khoản 1 điểm d Luật nhãn hiệu của Anh quy định hành vi sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng cho bất kỳ hàng hoá hay dịch vụ, không xét đến bản chất hàng hoá hay dịch vụ đó trùng hay tương tự đều bị coi là hành vi xâm phạm nếu việc sử dụng đó có thể gây ra một trong các hệ quả sau: Tạo ra lợi thế cạnh tranh không công bằng Gây tổn hại đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng Gây tổn hại đến danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng Như vậy, mặc dù Luật SHTT Việt Nam cũng có quy định giống với luật nhãn hiệu của Anh về tiêu chí nhãn hiệu song lại rất khác về mặt hệ quả : theo luật nhãn hiệu của Anh, hệ quả của hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng là xuất phát từ bản chất của nhãn hiệu đó là tính phân biệt, xuất phát từ lợi ích thực tiễn là khả năng cạnh tranh và xuất phát từ giá trị vô hình của quyền SHTT và đặc thù của nhãn hiệu nổi tiếng đó là danh tiếng của nhãn hiệu. Còn theo khoản 4, điều 11, Nghị định 105/ 2006, hai hệ quả của hành vi xâm phạm được quy định rất sơ sài. Thứ nhất, xuất phát từ hệ quả chung của hành vi xâm phạm nhãn hiệu bất kỳ, đó là không dễ dàng phân biệt và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Thứ hai, cũng chỉ là sự mở rộng của hệ quả thứ nhất, đó là khả năng gây ấn tượng sai lệch mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng với người sử dụng. Nội hàm của sự sai lệch về mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người sử dụng cũng đã hàm chứa sự sai lệch về nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ và từ đó dẫn đến sự nhầm lẫn. Anh và Mỹ là nước theo hệ thống pháp luật Anh Mỹ, cho nên các quy định thường được áp dụng dựa vào án lệ. Tuy nhiên, do đặc thù của pháp luật Việt Nam, không thừa nhận án lệ, điều này có thể lý giải cho trường hợp trên. IV. THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG 1. Mất bò mới lo làm chuồng Thực trạng thứ nhất: Như chúng ta đã biết, nhãn hiệu hàng hoá là một tài sản trí tuệ quý giá, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và phát triển thị trường của một doanh nghiệp, dù doanh nghiệp đó thực hiện sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ. Theo thời gian, cùng với sự phát triển kinh doanh, uy tín của nhãn hiệu ngày càng được bồi đắp, dẫn đến giá trị của nó ngày càng tăng tiến, nhất là khi nhãn hiệu trở thành nổi tiếng và được đông đảo người tiêu dùng biết đến. Khi nhắc đến những nhãn hiệu như TRUNG NGUYÊN, VINATABA, PETRO VIỆTNAM, DUY LỢI ..., người tiêu dùng trong từng lĩnh vực sẽ biết rõ những nhãn hiệu này được dùng cho sản phẩm gì. NHNT là một trong những thành quả đầu tư và là một tài sản vô hình có giá trị rất lớn của các doanh nghiệp sở hữu nó, đôi khi, NHNT còn tạo ra thương hiệu cho mỗi quốc gia, mỗi vùng miền. Vì vậy, việc bảo hộ NHNT đang là một vấn đề được rất nhiều các doanh nghiệp quan tâm và dày công xây dựng. Điều này còn đặc biệt quan trong khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng lắm những thử thách chông gai. Ngày càng nhiều những doanh nghiệp Việt Nam có nhãn hiệu nổi tiếng bị các doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng qua đó có hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hoạt động sản xuất kinh doanh . Xuất phát từ đặc điểm của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là có uy tín, danh tiếng trên toàn thế giới sau một thời hạn nhất định kể từ thời điểm đăng kí bảo hộ lần đầu tiên. Cho nên đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, thủ tục đăng ký bảo hộ bắt buộc chỉ đặt ra lần đầu tiên với ý nghĩa là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Các văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia đều không quy định: Chủ sở hữu/ nhà sản xuất phải tiếp tục đăng kí tại bất kỳ quốc gia nào có sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Như vậy, việc chủ sở hữu có muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của họ. Tuy nhiên trong thực tế, chủ sở hữu/ nhà sản xuất vẫn tiến hành thủ tục đăng kí cho nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng để đảm bảo quyền lợi chắc chắn của mình. Bởi lẽ mỗi quốc gia có những tiêu chí để xác định nhãn hiệu là nhãn hiệu nổi tiếng khác nhau dẫn đến tình trạng cùng một nhãn hiệu hàng hoá nhưng quốc gia này công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và cho hưởng quy chế pháp lý của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nhưng quốc gia khác lại không công nhận. Chẳng hạn như hãng Coca-cola vẫn đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng Coca-Cola tại Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam; Công ty Walt Disney Productions (Mỹ) vẫn đăng ký cho các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình là Mickey Mouse và Snow White taị Trung Quốc. Nhưng điều đáng nói là thực trạng này đang rất phổ biến đối với các doanh nghiệp có nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì trước khi gia nhập WTO các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có nhận thức cao về bảo hộ tài sản trí tuệ vô hình này của mình họ mà chỉ lo đầu tư sản xuất nhằm đem lại chất lượng tốt cho sản phẩm và đến khi Việt Nam gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp Việt Nam mới bắt đầu nghĩ đến việc chinh phục sân ngoài nhưng lúc này họ mới nhận ra rằng các đối thủ cạnh tranh của họ đã đăng kí chính nhãn hiệu của họ ở thị trường nước ngoài và để lấy lại được thành quả mà mình đã dày công xây dựng chỉ còn cách họ phải chứng minh nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng và đã có sự vi phạm nhãn hiệu của mình nhưng điều này là rất khó bởi lẽ nhãn hiệu đó chỉ nổi tiếng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà không nổi tiếng ở các quốc gia khác. Câu chuyện về nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam bị vi phạm có lẽ Cà phê Trung Nguyên là một ví dụ điển hình. Cà phê trung nguyên một thương hiệu nổi tiếng đã được xây dựng trên thị trường trong và ngoài nước. Chỉ trong vòng mấy năm, từ một xưởng sản xuất nhỏ ở Buôn Ma Thuột, với một chiến lược xây dựng và phát triễn, Trung Nguyên đã có mặt ở khắp mọi miền đất nước, chiếm thị phần lớn và trở thành một thương hiệu cà phê nổi tiếng được nhiều người và trong ngoài nước biết đến.Thế nhưng vào tháng 7/2000, Công ty Cà phê Trung Nguyên sang Mỹ để tiếp cận Rice Field với mục đích đưa sản phẩm của mình vào thị trường Mỹ. Mặc dù vẫn đang trong quá trình thương thảo, nhưng nhãn hiệu Trung Nguyên đã bị phía Rice Field nhanh chân nộp đơn đăng ký nhãn hiệu với các cơ quan chức năng Mỹ và Tổ chức Bảo hộ trí tuệ thế giới (WIPO). Cuối cùng, sau 2 năm ròng rã thương thảo, Trung Nguyên mới đòi lại được quyền bảo hộ thương hiệu, nhưng đổi lại công ty này phải chấp nhận để Rice Field làm nhà phân phối sản phẩm của Trung Nguyên tại Mỹ. Không chỉ thương hiệu sản phẩm bị đe dọa, ngay cả tên miền của Trung Nguyên (trungnguyen.com) cũng bị một Việt kiều ở tận... Cộng Hòa Séc đăng ký và rao bán. Nhãn hiệu Trung Nguyên lại tiếp tục phải chịu trận khi cà phê Mêhycô ra đời và cố ý "cầm nhầm" nguyên xi mẫu mã và màu sắc, kiểu dáng của Trung Nguyên, buộc cà phê Trung Nguyên phải lên tiếng. Ngày 13/6/2000 Cục Sở hữu Công nghiệp đã có ngay văn bản phúc đáp, trong đó nêu rõ: "Việc cơ sở Mêhycô sử dụng nhãn hiệu có tập hợp các dấu hiệu trên có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và là hành vi xâm phạm quyền của chủ giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và phải xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp". Tên thương mại Vinataba đã xuất hiện ở Việt Nam năm 1985 cùng với sự ra đời của Tổng công ty thuốc lá Việt Nam. Vinataba được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ năm 1990. Đến năm 2001, khi Tổng Công ty muốn mở rộng thị trường ra nước ngoài và bắt đầu đăng ký quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài. Lúc này mới biết nhãn hiệu Vinataba đã bị công ty Putra Satbat Industry của Indonexia đăng ký tại 13 nước. Trong đó có Lào, Camphuchia, Trung Quốc. Nếu không dành lại được quyền sở hữu nhãn hiệu, Vinataba không thể xuất khẩu sang các nước mà Putra Satbat đã đăng ký, và thuốc lá Vinataba giả có thể thẩm lậu vào Việt Nam qua các nước làng giềng như Lào, Trung Quốc và Camphuchia. Vinataba không chỉ là sản phẩm chủ lực của Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam mà còn là sản phẩm chủ lực của ngành thuốc lá Việt Nam. Đến nay sau rất nhiều công sức đấu tranh giành lại nhãn hiệu, mới thành công ở Camphuchia. Hay Bài học của Công ty Vifon Việt Nam là ví dụ tiếp theo. Khi xuất hàng sang Mỹ bị ách lại vì đăng ký nhãn hiệu Vifon Nhật Bản. Nhãn hiệu Vifon được đăng ký ở Việt Nam năm 1990, năm 1995 công ty nộp đơn đăng ký tại Balan thì bị từ chối vì đã có Công ty Kim Lân đăng ký nhãn hiệu khác với hình ảnh giống của Vifon. Kim Lân chính là bạn làm ăn của Vifon. Bài học của việc không đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại nước ngoài rất nhiều như Bia Sài gòn tại Mỹ và Canada, bánh phồng tôm Sagiang tại Pháp và Châu Âu hay kẹo dừa Bến tre tại Trung Quốc... và chẳng mấy ai có thể ngờ rằng phương pháp sản xuất chả giò rế của người Việt Nam lại bị người Nhật đăng ký bảo hộ độc quyền, mỳ ăn liền lại do người Nga... Tất cả những vụ chiếm đoạt nhãn hiệu trên nhằm mục đích ép chính chủ phải mua lại bản quyền của chính mình với giá cắt cổ. Nếu không, sẽ không xuất khẩu sang những thị trường đã bị chiếm đoạt những nhãn hiệu đó. Những vụ mà những doanh nghiệp mắc phải cũng đã được giải quyết. Nhưng các doanh nghiệp đã mất rất nhiều thời gian và công sức cũng như chi phí kiện tụng. Thực trạng thứ hai : Mặc dù hầu hết các nước đều công nhận, về nguyên tắc, rằng các nhãn hiệu nổi tiếng là đối tượng được bảo hộ rộng rãi, nhưng đôi khi vẫn có thể có những sự khác nhau đôi chút giữa luật pháp các nước về vấn đề thế nào là một nhãn hiệu nổi tiếng và việc cấp bảo hộ đối với các nhãn hiệu này. Do đó, ngay cả chủ của các nhãn hiệu được cho là nổi tiếng ở hầu khắp các nước trên thế giới vẫn có thể vấp phải những tình huống và các phán quyết gây hoang mang. Nếu như ở trường hợp thứ nhất doanh nghiệp gặp phải trường hợp không đáp ứng đầy đủ tiêu chí nổi tiếng của luật các quốc gia khác thì ở trường hợp này một nhãn hiệu có thể nói là nổi tiếng trên toàn thế giới. Trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay, đặc biệt là với công nghệ internet, việc quảng cáo, sự phát triển và danh tiếng của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thường vượt ra khỏi biên giới quốc gia bán hàng của chủ nhãn hiệu. Do đó, một nhãn hiệu được sử dụng một cách rộng rãi và có danh tiếng ở một quốc gia cũng có thể trở nên nổi tiếng ở các quốc gia nơi mà chủ nhãn hiệu thậm chí còn chưa có ý định sử dụng hoặc đăng ký  nhưng cũng có nguy cơ không được bảo hộ bởi lẽ Luật quốc gia ở các nước theo hệ thống dân luật (nơi điều kiện để được bảo hộ độc quyền thường nghiêng về sự kiện đăng ký hơn là sự kiện sử dụng), những kẻ vi phạm độc quyền nhãn hiệu thường tìm cách chiếm đoạt quyền của chủ sở hữu hợp pháp bằng cách đăng ký các nhãn hiệu nổi tiếng trước chủ đích thực của các nhãn hiệu này. Và rằng các quốc gia này cũng không là thành viên của công ước Paris hay hiệp định TRIPs. Điển hình cho thực trạng này là trường hợp Nintendo of America and Nintendo Ltd. kiện Atari Mundial (Toà án Tối cao Venezuela, 3/8/1995), liên quan tới một hãng sản xuất trò chơi video đã nộp đơn nhãn hiệu hàng hoá cho nhãn hiệu NINTENDO. Vì Venezuela là nước theo hệ thống “fist-to-file” (bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trên nguyên tắc đăng ký trước), hãng sản xuất này đã tuyên bố rằng vì họ nộp đơn đầu tiên nên có quyền độc quyền đối với nhãn hiệu NINTENDO ở Venezuela. Trong khi tuyên bố NINTENDO là một nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng lại không xác định bên nào có quyền đăng ký nhãn hiệu này ở Venezuela, toà án đã cho Nintendo America một chiến thắng hữu danh vô thực nhưng đã không công nhận sự bồi thường cho Nintendo America. Tuy nhiên, cuối năm đó Venezuela gia nhập Công ước Paris, và các chủ nhãn hiệu có thể an tâm rằng từ giờ các nhãn hiệu nổi tiếng sẽ được bảo hộ ở Venezuela theo Điều 6bis của Công ước Paris. Thế nhưng nói đi cũng phải nói lại Tình trạng xin bảo hộ cho các nhãn hiệu "ăn theo" những tên tuổi lớn trên thế giới đang trở thành xu hướng ở Việt Nam. Cũng rất nhiều những đơn đăng kí bảo hộ nhãn hiệu từ phía các doanh nghiệp Việt Nam xâm phạm đến các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới nhưng đã bị Cục Sở Hữu Trí Tuệ từ chối : Một hãng kẹo tại TP.HCM xin đăng ký nhãn hiệu kẹo Honda nhưng Cục từ chối cấp đăng ký vì nếu đặt tên trùng sẽ không tránh khỏi gây ra khả năng nhầm lẫn đó là sản phẩm của hãng Honda Nhật Bản. Bên cạnh đó cũng rất nhiều những trường hợp các công ty nước ngoài vào Việt Nam xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu những đã bị từ chối vì có hành vi xâm phạm đến các nhãn hiệu nổi tiếng khác như: Năm 1992, Cục đã bác bỏ đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá “McDonald’s” của một công ty Australia cho các sản phẩm đồ ăn nhanh, dịch vụ ăn uống và các nhóm sản phẩm khác. Cục có đủ thông tin để khẳng định nhãn hiệu “McDonald’s” là nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới cho đồ ăn nhanh và dịch vụ ăn nhanh của Công ty McDonald’s Corporation (Hoa Kỳ) mặc dù Công ty này chưa từng đăng ký và sử dụng nhãn hiệu trên tại Việt Nam. Năm 1993, Cục SHCN đã xem xét và quyết định huỷ bỏ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá số 4854 cấp cho OPHIX GROUP (Australia) đối với nhãn hiệu “Pizza Hut” trên cơ sở đơn khiếu nại của Công ty Pizza Hut International, LLC (Hoa Kỳ). Công ty Hoa Kỳ đã chứng minh được sự nổi tiếng của các nhãn hiệu của mình, mặc dù chưa được đăng ký bảo hộ cũng như chưa từng sử dụng ở Việt Nam. Năm 1998, Cục SHCN đã từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu “MILIKET” của một cơ sở thuộc thành phố Hồ Chí Minh cho sản phẩm vở học sinh vì dễ dàng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu mì “MILIKET” của Công ty thực phẩm quận 5. Trong xu thế toàn cầu hóa, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng quan trọng. Các doanh nghiệp nước ngoài có kinh nghiệm lâu năm về kinh tế thị trường nên nhiều kinh nghiệm và một số công ty lại nhiều thủ đoạn về quyền sở hữu trí tuệ. Việt nam là một nước đi sau. Có thể nói chỉ từ năm 2000 trở lại đây, khi liên tục nhiều nhãn hiệu hàng hóa bị chiếm đoạt, doanh nghiệp Việt Nam mới ý thức được mình quá sơ suất với chính nhãn hiệu hàng hóa của mình. Doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng quan tâm và có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu của mình tại những thị trường có khả năng xuất khẩu. Hãy đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại các nước có đường biên giới chung dù chưa có ý định xuất khẩu hàng sang đó. Việc làm này vừa có ý nghĩa quảng bá thương hiệu, vừa ngăn chặn sản phẩm giả sẽ từ đó thẩm lậu vào Việt Nam. Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ có thể xảy ra mọi lúc, mọi nơi và chiến thắng không phải bao giờ cũng mỉm cười với tất cả. Doanh nghiệp cần có kế hoạch cho việc xây dựng thương hiệu và phát triển quyền sở hữu trí tuệ. Làm thế nào để bảo hộ xây dựng và phát triển nhãn hiệu của mình một cách hiệu quả với một chi phí phù hợp luôn là nỗi băn khoăn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. 2. Những giải pháp kiến nghị Với quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh và để nhanh chóng giải quyết khi xảy ra tranh chấp thì doanh nghiệp Việt Nam nên tự có cơ chế cách thức bảo vệ mình như sau: Đăng ký bảo hộ sớm Nhãn hiệu tạo ra sự khác biệt giữa nhãn hiệu nổi tiếng của doanh nghiệp với các nhãn hiệu khác trên thị trường.Việc đầu tiên cần làm là đăng ký độc quyền các thành tố nhãn hiệu của mình ngay cả trong và ngoài nước càng sớm càng tốt dù rằng nhãn hiệu nổi tiếng theo cơ chế bảo hộ tự động do đó đợi đến lúc bị người khác đăng ký trước thì sẽ mất nhãn hiệu hoặc sẽ tốn kém và mất thời gian để đòi lại được quyền của mình, dẫn đến mất cơ hội kinh doanh. Lưu trữ đầy đủ các bằng chứng sử dụng nhãn hiệu nổi tiếng trong hoạt động thương mại  Các bằng chứng “sử dụng rộng rãi” có thể được Cục Sở hữu Công nghiệp chấp nhận là: bằng chứng sử dụng liên tục từ trước (như mẫu bao bì có ghi ngày sản xuất từ trước, giấy chứng nhận/đăng ký chất lượng/vệ sinh an toàn thực phẩm…), kết quả doanh số, mạng lưới đại lý, số lần/chi phí và mẫu quảng cáo trên báo chí và tivi, tham gia các hội chợ, kết quả điều tra người tiêu dùng kiểu như “danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao”. Việt Nam đã có quy định về “công nhận nhãn hiệu nổi tiếng” (là nhãn hiệu được sử dụng liên tục cho sản phẩm - dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi). Được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất thuận lợi cho việc bảo hộ, như việc xét nghiệm “tương tự” để cấp bằng bảo hộ cho nhãn hiệu khác sẽ khắt khe hơn, được bảo hộ trong mọi loại sản phẩm - dịch vụ… Đưa điều khoản về nhãn hiệu vào tất cả các hợp đồng đại lý, liên doanh liên kết, thay đổi tổ chức công ty, trong quan hệ công ty mẹ - công ty con Tình trạng các đại lý, các đối tác liên doanh liên kết lạm dụng, tìm cách “nẫng tay trên” nhãn hiệu diễn ra khá phổ biến, ở cả trong nước và nước ngoài. Việc đưa các điều khoản về phạm vi sử dụng, phạm vi nhượng quyền (nếu có), cấm đăng ký tại một nước thứ ba, bắt buộc phải thông báo trước và phải được “chính chủ” chấp nhận trước khi sử dụng nhãn hiệu trong bất cứ trường hợp nào… là rất cần thiết để ngăn ngừa các hành vi lạm dụng và là chứng cứ khi xảy ra tranh chấp. “Phòng” bao giờ cũng hữu hiệu hơn là “chống”. Khi thay đổi người góp vốn, khi thực hiện cổ phần hóa, khi chia tách - sáp nhập - giải thể doanh nghiệp… bắt buộc phải có các hợp đồng về chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu nhãn hiệu để tránh mọi rắc rối về sau. Trong quan hệ công ty mẹ - công ty con, quan hệ giữa các công ty cùng một tập đoàn, cùng tổng công ty cũng cần xác định rõ chủ quyền và cách thức chuyển giao quyền liên quan đến nhãn hiệu. Tạo bản sắc nhãn hiệu nổi tiếng bằng cách sử dụng nhất quán các thành tố nhãn hiệu. Cần nhất quán về vị trí sử dụng và về màu sắc, cách viết, font chữ, tỷ lệ, cách kết hợp… các thành tố nhãn hiệu. Trong doanh nghiệp nên xây dựng một quy chế hoặc sổ tay sử dụng nhãn hiệu để mọi người, mọi nơi đều hiểu và sử dụng thống nhất. Theo thời gian, có thể điều chỉnh các thành tố nhãn hiệu cho phù hợp với điều kiện thị trường mới. Thường xuyên theo dõi thông tin và xử lý sớm mọi sự lạm dụng nhãn hiệu nổi tiếng. Cục Sở hữu Công nghiệp hàng tháng xuất bản cuốn “Công báo sở hữu công nghiệp” công bố tất cả các nhãn hiệu, kiểu dáng, giải pháp hữu ích, sáng chế được bảo hộ, sắp tới sẽ công bố cả các đơn đăng ký. Một mục đích của việc công bố là tạo cơ hội cho các doanh nghiệp có thể phản đối, khiếu nại việc cấp văn bằng bảo hộ. Doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội phân tích, nhận dạng những nhãn hiệu nào có thể gây nhầm lẫn, tương tự với mình để kịp thời bảo hộ cho nhãn hiệu của mình. Trong khi các doanh nghiệp tự tìm cách bảo vệ mình thì nhà nước cũng cần tạo ra các hành lang pháp lý phù hợp để giúp các doanh nghiệp tìm được cơ chế bảo hộ tốt hơn. Hiện vẫn tồn tại nhiều khó khăn và sự không đồng nhất của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong phạm vi Việt Nam và trên thế giới. Đó là các thủ tục cụ thể công nhận nhãn hiệu nổi tiếng, việc thống nhất các tiêu chí công nhận nhãn hiệu nổi tiếng và việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần thấy được lợi ích và phương cách xây dựng nhãn hiệu của mình trở nên nổi tiếng cũng như bảo hộ hữu hiệu chúng, mặt khác tránh được sự vi phạm các nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác trong quá trình kinh doanh ở nội địa cũng như trên thị trường quốc tế. LỜI KẾT Ở Việt Nam, về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, trong một chừng mực nhất định, có thể đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của thực tiễn.Tuy nhiên những quy định cụ thể liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, đặc biệt là đối với nhãn hiệu nổi tiếng là vẫn còn thiếu xót, chưa rõ ràng . Có thể nói những quy định nói trên của pháp luật Việt Nam là không khác nhiều so với các quy định của pháp luật Châu Âu và Hoa Kỳ như đã phân tích ở các phần trước. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa rằng hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng của chúng ta đã đủ hoàn chỉnh. Chúng ta cần phải nhận thấy một điều quan trọng là việc đánh giá hệ thống các quy định pháp luật này cần phải được đặt trong các yếu tố kinh tế - xã hội. Và nếu nhìn nhận từ góc độ đó, rõ ràng các quy định pháp luật của chúng ta hiện nay còn có rất nhiều vấn đề phải khắc phục, chẳng hạn như vấn đề liên quan đến tính hợp lý, tính khả thi, tính khoa học... Đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung ở Việt Nam, việc tham khảo và tranh thủ các thành tựu pháp lý quốc tế và các nước là hết sức cần thiết. Dưới góc nhìn của sinh viên ngành luật năm thứ ba về vấn đề còn khá mới mẻ này thì khó có thể tránh được thiếu sót. Chính vì vậy, nhóm chúng em rất mong được nhận sự đánh giá và góp ý của Thầy sau khi đọc qua bài tiểu luận này. Xin chân thành cám ơn Thầy! DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT SHTT: Sở Hữu Trí Tuệ SHCN: Sở Hữu Công Nghiệp NHNT: Nhãn Hiệu Nổi Tiếng PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Công ước Paris 1883 Hiệp định TRIPS Những điều cần biết về sở hữu trí tuệ, Trung tâm Thương mại quốc tế UNCTAD/ WIPO Luật sở hữu trí tuệ 2005 Giáo trình luật sở hữu trí tuệ, TS. Lê Đình Nghị - TS. Vũ Thị Hải Yến, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009 Danh sách nhóm 7-K08504 1/ ĐỖ THỊ NGỌC HÀ K085041663 2/ LƯƠNG MỸ HÀ K085041664 3/ PHAN THỊ THANH HÀ K085041667 4/ NGUYỄN THỊ THU HÒA K085041675 5/ LÊ THỊ NHÃ PHƯƠNG K085041708 6/ ĐỖ THỊ NGỌC THANH K085041718 7/ PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO K085041721 8/ PHẠM THỊ THOA K085041729 9/ TRỊNH THỊ THÚY K085041734 10/ PHẠM MINH VĨNH K058041755

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.doc
Luận văn liên quan