Đây là biện pháp mà NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với các TCTD. 
Trên cơ sở qui mô, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng 
TCTD, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng TCTD, đó chính là mức 
tối đa mà mỗi TCTD được phép vay từ NHTW. Với việc sử dụng biện pháp này tạo 
cho NHTW dễ đạt được các mục tiêu trung gian của CSTT. Tuy nhiên trong điều kiện
kinh tế thị trường, với sự biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp 
này bỏ ra không còn phù hợp vì không điều chỉnh kịp thời với sự biến động của nền 
kinh tế.
Bên cạnh việc qui định hạn mức tín dụng đối với các TCTD, NHTW còn qui 
định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này, NHTW có thể qui 
định giới hạn khối lượng tín dụng mà các TCTD có thể cung cấp cho nền kinh tế. Nó 
được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi NHTW thực hiện chính 
sách chặt tiền tệ.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 35 trang
35 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2958 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 tương tối, do đó tổng cầu của xã hội cũng tăng lên. Vai trò của 
CSTK mang tính chất phản chu kỳ. 
Mặt khác, trong điều kiện mất cân đối giữa tắc tổng cung và tổng cầu, có thể 
thông qua CSTKh để gia tăng chi tiêu công cộng, hoặc là giảm bớt thu nhập của chính 
phủ từ thuế khóa để duy trì sự không thay đổi về tổng nhu cầu. Ngược lại, nếu chi tiêu 
của các tổ chức tư nhân quá nhiều, có nguy cơ gây ra lạm phát, CSTK, một mặt cần 
giảm bớt chi tiêu công cộng, mặt khác cần tăng gia thu thuế để thu hút sức mua dư thừa 
của xã hội. Vai trò đó của CSTK mang tính chất ổn định. 
Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, để khống chế và đẩy lùi lạm phát, các 
biện pháp của tài chính thường được sử dụng như: Cắt giảm chi tiêu Ngân sách, tăng 
thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư; vay dân qua con đường phát hành công trái, 
tín phiếu Kho bạc nhà nước hoặc sử dụng công cụ tín dụng và lãi suất để thu hút lượng 
tiền mặt trong lưu thông làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ tiền - hàng ... 
16 
2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KINH 
TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP 
2.1 CSTT, mục tiêu và nội dung của CSTT 
1). CSTT 
Tiền tệ là sản phẩm của quan hệ trao đổi hàng hóa. Có thể nói bất cứ vật gì được 
chấp nhận chung để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ hoặc để thanh toán các khoản nợ đều 
được gọi là tiền tệ. 
Tiền tệ có vai trò quan trọng trong kinh tế thị trường. Để phát huy được vai trò 
đó, nhà nước phải hoạch định CSTT theo những định hướng nhất định, hình thành 
CSTT. 
Như vậy, CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô do NHTW soạn 
thảo và tổ chức thực hiện nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một 
thời kỳ nhất định. 
Trong tác phẩm “Tiền tệ, ngân hàng và TTTC”, F.S. Miskin đã đưa ra quan điểm 
về CSTT theo nghĩa rộng: “CSTT là một trong các chính sách vĩ mô, trong đó ngân 
hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết 
khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên 
cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng 
trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định TTTC và ổn định tỷ giá hối 
đoái”. 
Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước 
luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. NHTW điều hành CSTT phải kiểm soát 
được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền với mức tăng tổng sản phẩm 
quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây 
thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu của lưu thông. 
Xét cho cùng, CSTT có thể được xác định theo một trong hai hướng sau: 
- CSTT mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích 
đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường hợp này, chính sách 
nhằm vào chống suy thoái. 
- CSTT thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu 
tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp này CSTT nhằm vào 
việc kiềm chế lạm phát. 
Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền (money supply) làm thay đổi 
cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến chi tiêu của các khu vực 
17 
nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động quan trọng đến GDP (thực, tiềm năng) và lạm 
phát. Trong dài hạn, CSTT xác định giá trị danh nghĩa hay giá trị tiền tệ của hàng hóa 
và dịch vụ - đó chính là mức giá chung hay CSTT chính là yếu tố quyết định mức giá 
chung trong dài hạn. Tuy nhiên, những thay đổi của CSTT cũng có ảnh hưởng nhất 
định đến hoạt động kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. CSTT là cách thức hay tổng 
thể các biện pháp, công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính 
sách kinh tế, thông qua việc chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền và tín dụng, tức 
là thông qua chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiềnii. 
Qui trình hoạt động của CSTT có thể tóm tắt như sau: 
Qui trình này thực hiện thông qua một cơ chế truyền dẫn tiền tệ 
2). Hệ thống mục tiêu CSTT 
Để đạt được cái đích cuối cùng của CSTT, trong quá trình điều hành CSTT, 
NHTW phải theo đuổi những đích trực tiếp và gián tiếp khác. Các đích này có sự liên 
kết lẫn nhau và liên kết với cái đích cuối cùng của CSTT, từ đó hình thành “ hệ thống 
mục tiêu” của CSTT. Nhiều nghiên cứu thực tế đã chỉ ra rằng, CSTT chỉ đạt được hiệu 
quả cao khi NHTW lựa chọn được hệ thống mục tiêu CSTT phù hợp với thực trạng của 
nền kinh tế và hệ thống tài chính. 
Mục tiêu cuối cùng 
Mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là mục tiêu trung hạn, vì tác động trễ của 
tiền tệ đến sản lượng và lạm phát. CSTT là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, nên mục 
tiêu CSTT theo đuổi không ngoài mục tiêu của kinh tế vĩ mô là “ mức sản lượng cao và 
tăng trưởng nhanh; mức công ăn việc làm hữu hiệu với mức thất nghiệp tự nguyện thấp 
nhất; ổn định giá cả”. Trên thực tế NHTW các nước điều hành CSTT đều theo đuổi 
mục tiêu trên. Tuy nhiên, CSTT không phải là duy nhất để nền kinh tế đạt được sự ổn 
định kinh tế vĩ mô với mức tăng trưởng bền vững, công ăn việc làm cao và lạm phát 
thấp, mà để đạt được điều đó phải phối hợp đồng bộ với nhiều chính sách khác như 
chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại...Có thể khái quát hoá 
mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ sự phát triển 
kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở mức mong muốn. 
Trong từng thời kỳ, mục tiêu cuối cùng được lượng hoá cụ thể phù hợp với diễn biến 
kinh tế và diễn biến tiền tệ. 
Mục tiêu 
hoạt động 
Mục tiêu 
trung gian 
Mục tiêu 
cuối cùng 
Công cụ của 
CSTT 
18 
Mục tiêu trung gian 
Mục tiêu trung gian là những biến số tiền tệ mà có thể đo lường được, NHTW có 
thể kiểm soát được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối cùng. Điều đó có 
nghĩa rằng biến số tiền tệ đó có mối liên kết với mục tiêu hoạt động và có thể tác động 
đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. 
Qua đúc kết kinh nghiệm của các nước, IMF đã chia mục tiêu trung gian được 
chia thành 3 loại: Mục tiêu trung gian là tổng tiền, thường là lượng chọn M2 và/hoặc là 
tổng tín dụng nền kinh tế. Mục tiêu trung gian là tổng tiền, hoặc tỷ giá hối đoái, hoặc lãi 
suất thị trường đã được áp dụng trong nhiều thập kỷ qua, qua đó cho thấy mỗi một mục 
tiêu được lựa chọn gắn liền với những diễn biến kinh tế và TTTC trong từng giai đoạn 
phát triển, gắn liền với mục tiêu và giải pháp đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Như vậy, để 
lựa chọn được mục tiêu trung gian thích hợp, đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng về các diễn 
biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương lai, và xác định rõ định hướng phát 
triển kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn. 
Mục tiêu hoạt động 
Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ mà NHTW có thể tác động hay kiểm 
soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu trung gian, qua 
đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Mục tiêu hoạt động có vai trò quan 
trọng đối với việc điều hành CSTT, đây là điểm khởi đầu trong cơ chế truyền tải tiền tệ, 
là biến số chủ yếu để NHTW thực thi CSTT. 
IMF đã chia mục tiêu hoạt động thành hai loại là mục tiêu hoạt động giá cả hay 
lãi suất ngắn hạn và mục tiêu hoạt động là khối lượng (tiền cơ bản), cụ thể như sau: 
+ Gắn với mục tiêu hoạt động là giá cả nghĩa là NHTW kiểm soát lãi suất ngắn 
hạn trên thị trường liên ngân hàng. Thông thường NHTW qui định lãi suất trần và lãi 
suất sàn của NHTW trên thị trường liên ngân hàng nhằm tạo ra hành lang dao động cho 
lãi suất ngắn hạn trên thị trường theo mức mong muốn của NHTW, thông qua sự tác 
động của công cụ CSTT như nghiệp vụ thị trường mở v.v. Trong trường hợp việc chỉ 
đạo CSTT hầu hết thông qua sự can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối hơn là 
việc điều chỉnh lãi suất thì tỷ giá được xem như là mục tiêu hoạt động. 
+ Gắn với mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ nghĩa là NHTW kiểm soát 
tiền cơ bản (MB), hoặc các cấu thành của nó, chẳng hạn như Dự trữ quốc tế ròng, Dự 
trữ của các NHTM, hoặc tài sản có trong nước ròng trên bảng cân đối của NHTW. 
+ Đối với mục tiêu giá cả tiền tệ, việc kiểm soát lãi suất sẽ có hiệu quả trong điều 
kiện thị trường tiền tệ phát triển- thị trường liên ngân hàng có tính thanh khoản cao và 
hiệu quả, hệ thống NHTM tồn tại sự cạnh tranh, NHTW phải có sự tín nhiệm với thành 
viên thị trường. Sở dĩ phải có điều kiện như vậy là do lãi suất chỉ có tính nhạy cảm cao 
19 
trong môi trường như vậy, khi đó bất cứ sự thay đổi nhỏ trong cung tiền của NHTW sẽ 
tác động đến sự biến động của lãi suất. Đối với mục tiêu là khối lượng điều kiện áp 
dụng có phần ngược lại, tức là có thể áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa 
phát triển, kém hiệu qủa, khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng là thấp, nhất là trong 
điều kiện môi trường lạm phát cao. Tuy nhiên trong tình hình như vậy, một điều kiện 
tiên quyết là giữa hệ số tạo tiền và hàm cầu tiền phải có sự liên hệ chặt chẽ với nhauiii, 
và gắn với nó là mục tiêu trung gian là tổng tiền (tổng phương tiện thanh toán hoặc 
tổng tín dụng nền kinh tế). Sở dĩ mục tiêu khối lượng có hiệu quả trong điều kiện như 
vậy là do, khi đó chỉ có sự thay đổi khối lượng tiền mới tạo ra sức đẩy tiền tệ trong cơ 
chế truyền tải tiền tệ trong môi trường thị trường tiền tệ kém phát triển. 
3). Nội dung cơ bản của CSTT 
Trong cơ chế thị trường, CSTT bao gồm 3 chính sách cơ bản. Đó là chính sách 
tín dụng; chính sách ngoại hối; chính sách đối với NSNN. 
Chính sách tín dụng 
Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền 
kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quĩ cho vay 
được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù 
hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. 
Khi các TCTD thiếu phương tiện thanh toán thì họ đến NHTW xin tái cấp vốn. 
NHTW luôn là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ với các tổ chức tín dụng. 
Chính sách ngoại hối 
Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối 
ngoại, phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia 
tăng việc làm trong xã hội. 
Chính sách ngoại hối được thể hiện trên các phương diện: (i) Chính sách hối 
đoái; (ii) Dự trữ ngoại hối và (iii) Tỷ giá hối đoái. 
Chính sách hối đoái: Chính sách hối đoái thường hướng vào việc ngăn chặn tích 
trữ ngoại hối trong các pháp nhân và thế nhân, quản lý việc mua bán ngoại tệ, thu hút 
các nguồn ngoại tệ vào NHTW. 
Dự trữ ngoại hối: Mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối tùy thuộc vào khả năng của 
nền kinh tế đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh 
khối lượng tiền trong nước. Khi NHTW mua ngoại tệ sẽ làm gia tăng dự trữ ngoại tệ, 
gia tăng khối lượng tiền tệ và ngược lại. Qua việc mua bán ngoại hối, NHTW can thiệp 
vào thị trường, chủ động tác động vào tỷ giá hối đoái theo ý muốn nhất định. 
20 
Tỷ giá hối đoái: Phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ giá hối 
đoái ảnh hưởng trực tiếp đến xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp sẽ khuyến 
khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái quá cao sẽ 
bất lợi cho nhập khẩu. Do tầm quan trọng của nó, nên NHTW rất quan tâm và khi cần 
thiết dùng nhiều biện pháp để ổn định tỷ giá hối đoái. 
Chính sách đối với ngân sách 
Ngân sách cân bằng hay không cân bằng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với 
những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ. 
Trường hợp ngân sách cân bằng. Vẫn có thể tác động mạnh tới CSTT. Nếu 
CSTT nhằm chống lạm phát, thì ngân sách thăng bằng vẫn có thể làm tăng giá. Nếu 
CSTT nhằm chống suy thoái, ngân sách thăng bằng vẫn có thể chuyển dịch thu nhập 
tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. 
Trường hợp ngân sách thiếu hụt sẽ có 4 cách để tài trợ thiếu hụt. Đó là: vay dân; 
vay hệ thống TCTD và TTTC trong nước; vay NHTW; vay ở nước ngoài. Trong đó 
vay của NHTW sẽ làm tăng mạnh khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về 
sau. Nhưng trong trường hợp cần thiết, NHTW phải đảm bảo cung ứng phương tiện 
thanh toán cho Chính phủ. 
2.2 Các công cụ của CSTT và sự lựa chọn 
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn sử dụng các công cụ CSTT trong điều hành 
CSTT của các NHTW trên thế giới, IMF đã tổng kết và phân chia các công cụ CSTT 
thành 2 loại chủ yếu: Công cụ tiền tệ trực tiếp và công cụ tiền tệ gián tiếp. 
4). Công cụ trực tiếp 
Là cách thức mà NHTW trực tiếp tác động thông qua các quy định để giới hạn 
mục tiêu giá cả (hoặc mục tiêu khối lượng) thường nhằm vào các chỉ tiêu trên bảng cân 
đối của ngân hàng thương mại. Các công cụ này thường được áp dụng trong điều kiện 
thị trường tiền tệ chưa phát triển, khả năng sử dụng các điều kiện thị trường để điều tiết 
tiền tệ của NHTW còn hạn chế, như: kiểm soát trực tiếp lãi suất của nền kinh tế, hạn 
mức tín dụng, tín dụng chỉ định. 
 Ấn định lãi suất tiền gửi và tiền vay 
Nếu lãi suất qui định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn 
cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín 
dụng. 
Nhược điểm của biện pháp này là làm cho các TCTD mất đi tính linh hoạt và 
quyền tự chủ kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại 
21 
thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản, 
trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay. 
 Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay 
NHTW có thể qui định khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu về lãi suất) bắt 
buộc các TCTD phải thực hiện. 
Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để 
cho vay, loại bỏ những dự án kinh tế kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định khung lãi 
suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường. 
Bởi vì, trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động 
theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. 
 Ấn định hạn mức tín dụng đối với các TCTD 
Đây là biện pháp mà NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với các TCTD. 
Trên cơ sở qui mô, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng 
TCTD, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng TCTD, đó chính là mức 
tối đa mà mỗi TCTD được phép vay từ NHTW. Với việc sử dụng biện pháp này tạo 
cho NHTW dễ đạt được các mục tiêu trung gian của CSTT. Tuy nhiên trong điều kiện 
kinh tế thị trường, với sự biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp 
này bỏ ra không còn phù hợp vì không điều chỉnh kịp thời với sự biến động của nền 
kinh tế. 
Bên cạnh việc qui định hạn mức tín dụng đối với các TCTD, NHTW còn qui 
định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này, NHTW có thể qui 
định giới hạn khối lượng tín dụng mà các TCTD có thể cung cấp cho nền kinh tế. Nó 
được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi NHTW thực hiện chính 
sách chặt tiền tệ. 
 Phát hành tín phiếu ngân hàng trung ương 
Trong một số trường hợp, NHTW có thể phát hành tín phiếu để giảm khối lượng 
tiền trong lưu thông. Việc phân bổ tín phiếu mang tính chất bắt buộc đối với TCTD. 
Việc phát hành tín phiếu NHTW thường áp dụng trong trường hợp lạm phát cao, hoặc 
được sử dụng để hỗ trợ một số công cụ khác. 
 Phát hành trực tiếp cho NSNN và cho đầu tư 
Trong điều kiện NSNN bị thiếu hụt, NHTW phát hành tiền để bù đắp sự thiếu 
hụt ấy. Biện pháp này làm gia tăng khối lượng trong lưu thông, hậu quả là gia tăng lạm 
phát. 
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua NSNN hoặc qua con đường tín dụng 
ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm 
22 
năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, nếu phát hành này được sử dụng để 
khơi tăng tiềm năng về tài nguyên và con người. 
5). Công cụ gián tiếp 
Các công cụ gián tiếp là các công cụ mà sự tác động của chúng vào các mục tiêu 
trung gian được thông qua một biến số khác thuộc về sự kiểm soát của NHTW và phải 
thông qua cơ chế tự điều tiết của các lực lượng thị trường. Thuộc về nhóm công cụ này 
bao gồm: 
 Dự trữ bắt buộc 
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo qui định của NHTW. 
Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi trong một 
khoảng thời gian nhất định. 
Dự trữ bắt buộc được xác định bằng cách: 
DTBBTGBB xTLTDTBB 
Trong đó: 
o DTBB: Tiền dự trữ bắt buộc 
o 
TGBBT
: Tổng số tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc 
o 
DTBBTL
: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 
Về nguyên tắc, các khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc gửi trên tài khoản chuyên 
dùng tại NHTW và không được NHTW trả lãi. 
Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều qui định về việc 
xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Dự trữ bắt buộc có thể qui định cho tất cả các 
TCTD hoặc có thể chỉ tính cho một số các TCTD. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được qui 
định chung cho toàn bộ các nguồn vốn huy động được của các TCTD hoặc có thể chỉ 
được qui định đối với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn dưới một năm. 
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các 
TCTD và quan trọng hơn là để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống 
TCTD. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động tới sự thay đổi số nhân tiền và qua đó 
tác động đến mức cung tiền. 
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không đổi, làm giảm khả năng 
cho vay và đầu tư của TCTD, do đó làm giảm tiền trong lưu thông. Ngược lại, NHTW 
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mở rộng cho vay và đầu tư của các TCTD, dẫn đến tăng 
mức cung ứng tiền. 
23 
Như vậy thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả về khối lượng 
và giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại: 
Về số lượng: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là thắt chặt hay nới 
lỏng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. 
Về chi phí: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng hoặc giảm 
cho phí tín dụng của các ngân hàng thương mại. 
Do đó dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép (vừa tác động về khối lượng, vừa tác 
động về chi phí) để buộc các ngân hàng thương mại có thể mở rộng hay hạn chế tín 
dụng. 
 Tái cấp vốn 
Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số 
lượng và chất lượng tín dụng của các TCTD. 
Nếu căn cứ vào mục đích, các khoản tái cấp vốn của NHTW đối với TCTD bao 
gồm: Cho vay thanh toán đối với các ngân hàng thiếu hụt tạm thời; cho vay bổ sung 
nguồn vốn tín dụng ngắn hạn; cho vay thời vụ để đáp ứng nhu cầu thời vụ của một số 
ngân hàng. 
Thông qua việc ấn định lãi suất tái cấp vốn, NHTW tác động đến chi phí vay 
mượn của các TCTD tại NHTW. Nếu lãi suất tái cấp vốn tăng lên, chi phí các khoản 
tiền vay từ NHTW tăng lên, các TCTD sẽ bất lợi trong vay vốn. Trong điều kiện đó, 
các TCTD không có khả năng bành trướng tín dụng. Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm 
xuống, các TCTD có khả năng bành trướng tín dụng. do được lợi trong việc vay vốn 
của NHTW. 
Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là: 
- Còn hạn mức tín dụng dành cho TCTD đó. 
- Các khoản tín dụng đem đến tái chiết khấu phải lành mạnh và đảm bảo khả 
năng thu hồi nợ. 
Ở các nước công cụ tái cấp vốn được sử dụng một cách phổ biến để tác động đến 
cơ số tiền và cung ứng tiền tệ và qua đó thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế 
và ổn định tiền tệ. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng. Tái cấp 
vốn được thực hiện trên nền các giấy tờ có giá, nên thời hạn vay mượn là rõ ràng, việc 
hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của quy 
luật cung cầu thị trường. 
Mặc dù công cụ tái cấp vốn có nhiều công dụng trong việc thực hiện CSTT, 
nhưng việc kiểm soát cơ số tiền và mức tiền cung ứng thường kém chặt chẽ. Sự thay 
đổi của lãi suất tái cấp vốn có thể làm tăng hay giảm khối lượng vay mượn của TCTD, 
24 
nhưng mức độ thay đổi là bao nhiêu lại phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của TCTD. 
Vì vậy, đôi khi khối lượng tiền vay mượn của TCTD nằm ngoài ý định của NHTW, do 
vậy NHTW không thể kiểm soát chặt chẽ sự thay đổi của mức cung ứng tiền. 
 Nghiệp vụ thị trường mở 
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn của 
NHTW trên thị trường tiền tệ. 
Ở các nước phát triển, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan trọng trong 
việc thực hiện CSTT của NHTW nhằm đạt được mục đích là điều tiết mức dự trữ của 
TCTD, điều tiết mức cung tiền. 
Nếu ý muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng, NHTW 
thực hiện nghiệp vụ mua các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, khi muốn 
giảm mức cung ứng tiền thu hẹp tín dụng, NHTW bán các giấy tờ có giá đang nắm giữ. 
Qua nghiệp vụ mua bán này, NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của ngân hàng 
thương mại, tác động tới khả năng tín dụng của ngân hàng này và từ đó làm tăng hay 
giảm khối lượng tiền tệ. 
Công cụ thị trường mở có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của 
các TCTD và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối 
với nền kinh tế. Nếu không có sự tham gia mua bán của NHTW trên thị trường tiền tệ 
mà chỉ có việc mua bán tín phiếu kho bạc giữa các TCTD với nhau thì khối lượng tiền 
tệ sẽ không thay đổi. Bởi vì một TCTD này bán tín phiếu cho TCTD thì chỉ là sự 
chuyển dịch tín phiếu và một phần dự trữ dư thừa từ TCTD này qua TCTD khác mà 
thôi. 
Công cụ tiền tệ gián tiếp là cách tác động thông qua thị trường dưới những điều 
kiện về cung cầu vốn, và hầu hết các công cụ này nhằm vào bảng cân đối tiền tệ của 
NHTW. Các công cụ tiền tệ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường 
mở…) không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, hệ thống 
thanh toán. Đến nay, công cụ dự dữ bắt buộc ít được sử dụng hơn ở những nước phát 
triển,mà dự trữ bắt buộc chủ yếu được sử dụng ở những nước đang phát triển và những 
nước chuyển đổi. Còn công cụ tái cấp vốn cũng được mở rộng thêm, đến nay NHTW 
nhiều nước đã thực hiện nghiệp vụ thấu chi cung cấp nguồn vốn qua đêm cho các 
NHTM do thiếu hụt khả năng thanh toán khi tham gia hệ thống thanh toán của NHTW 
và thực hiện nghiệp vụ gửi tiền (deposit facility) để thu hút vốn khả dụng thừa của các 
NHTM nhằm ngăn chặn lãi suất thị trường hạ xuống mức quá thấp. Nghiệp vụ tiền gửi 
thường được kết hợp với nghiệp vụ lombard hoặc cho vay qua đêm tạo ra một hành 
lang dao động cho lãi suất thị trường liên ngân hàng. 
25 
Nghiệp vụ thị trường mở ngày nay đã trở thành công cụ CSTT chủ yếu ở những 
nước phát triển. Từ nghiệp vụ thị trường mở truyền thống (mua bán hẳn chứng khoán 
chính phủ) đến nay nghiệp vụ này đã phát triển dưới nhiều hình thức, như nghiệp vụ 
mua – bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (Repo); nghiệp vụ mua – bán có kỳ hạn ngoại tệ 
(nghiệp vụ Swap); bán tín phiếu của NHTW trên thị trường sơ cấp. 
Ngoài nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở là những công cụ tiền tệ 
gián tiếp chủ yếu được áp dụng trong điều hành CSTT của NHTW các nước, còn một 
số công cụ khác được áp dụng trong những điều kiện nhất định và chỉ có một vài nước 
áp dụng. Chẳng hạn như nghiệp vụ tiền gửi của khu vực công – là sự phân bổ lại tiền 
gửi chính phủ giữa NHTW với các NHTM để bù đắp sự thiếu hụt ngắn hạn vốn khả 
dụng của các NHTM. Sử dụng công cụ này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa NHTW 
và Kho bạc… 
Như vậy, để điều hành CSTT, NHTW đã sử dụng rất nhiều các công cụ tiền tệ, 
mỗi công cụ đều có những vai trò nhất định trong việc tác động đến cung, cầu vốn trên 
thị trường. Tùy theo các điều kiện của thị trường tiền tệ, mức độ phát triển của thị 
trường tiền tệ, mục tiêu và khuôn khổ CSTT của NHTW mà mỗi công cụ khi áp dụng 
có thể mang lại những hiệu quả tối đa. 
6). Lựa chọn sử dụng các công cụ CSTT 
Có thể đưa ra nét chung nhất mà IMF đã tổng kết làm cơ sở tham khảo để lựa 
chọn công cụ CSTT cho phù hợp với mục tiêu điều hành của NHTW như sau: 
- Công cụ dự phòng: Tạo hành lang lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, do 
vậy phù hợp với mục tiêu hoạt động là lãi suất ngắn hạn hơn là với mục tiêu hoạt động 
là tiền cơ bản. 
- Nghiệp vụ thị trường mở: Mục tiêu điều tiết của nghiệp vụ thị trường mở là giá 
cả (lãi suất) hay khối lượng tiền tùy thuộc vào việc lựa chọn phương thức đấu thầu là 
đấu thầu khối lượng hay đấu thầu lãi suất trong các giao dịch mua bán hẳn hoặc mua 
bán có kỳ hạn các giấy tờ có giá. 
Khi thực hiện nghiệp vụ Swap, NHTW không tác động được đến tỷ giá hối đoái, 
mà tác động đến khối lượng tiền. Nhưng khi thực hiện mua – bán đứt ngoại tệ, NHTW 
vừa tác động đến tỷ giá hối đoái vừa tác động đến khối lượng tiền cơ bản. 
- Công cụ dự trữ bắt buộc: Là công cụ không hiệu quả để định hướng lãi suất 
ngắn hạn, mà cũng như tác động đến khối lượng tiền cơ bản. Tuy nhiên, với việc áp 
dụng dự trữ bình quân, công cụ dự trữ bắt buộc có thể đóng góp vào sự ổn định của lãi 
suất ngắn hạn, về khía cạnh nào đó tạo thuận lợi cho hệ thống thanh toán và hỗ trợ việc 
ổn định hệ số tạo tiền, qua đó góp phần cho cơ chế truyền dẫn tiền tệ thực hiện trôi 
chảy. 
26 
Việc lựa chọn các công cụ CSTT có vị trí quan trọng trong việc nâng cao hiệu 
quả điều hành, việc áp dụng các công cụ CSTT gắn liền với khuôn khổ CSTT nhất 
định. Trong một khuôn khổ CSTT, mỗi một công cụ có một vai trò nhất định trong điều 
tiết tiền tệ, như có công cụ giữ vị trí chủ yếu để cung ứng vốn khả dụng, tạo tín hiệu 
CSTT, điều chỉnh lãi suất; có công cụ thì có vai trò hạn chế sự biến động của lãi suất, 
hoặc cung ứng dài hạn vốn khả dụng cho các NHTM... Ngoài ra, với cùng một công cụ, 
kỹ thuật áp dụng cũng có sự khác nhau giữa các nước, giữa các thời kỳ phát triển, điều 
đó thể hiện tính đa năng, linh hoạt của các công cụ chính sách. Để phát huy hết tính đa 
năng và hiệu quả của các công chính sách phụ thuộc nhiều vào kỹ năng điều hành và 
các điều kiện thực thi CSTT của NHTW. 
7). Cơ chế truyền tải tác động của CSTT 
Cơ chế truyền tải tiền tệ là tuyến đường, hay những kênh tác động mà NHTW có 
thể sử dụng các công cụ CSTT làm thay đổi các điều kiện tiền tệ trên thị trường, qua đó 
tác động đến tổng cầu của nền kinh tế làm thay đổi sản lượng, giá cả và việc làm (mục 
tiêu cuối cùng của CSTT). Trong nhiều thập kỷ qua, NHTW đã có những kênh khác 
nhau làm thay đổi tổng cầu và hoạt động kinh tế. Sự hình thành và phát triển cơ chế 
truyền tải CSTT được bắt đầu từ lược đồ đơn giản của Keynes để xem xét sự thay đổi 
trong cung tiền, lãi suất của NHTW ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh tế. 
 Kênh lãi suất trực tiếp: Kênh lãi suất là đặc trưng cơ bản của mô hình Keynes 
truyền thống áp dụng cho nền kinh tế đóng. CSTT thắt chặt làm tăng lãi suất danh nghĩa 
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ (thị trường liên ngân hàng) và tiếp đến tăng lãi suất tiền 
gửi và cho vay của các ngân hàng. Sự gia tăng lãi suất của các ngân hàng tác động tới 
các khoản chi nhạy cảm với lãi suất và thu nhập theo các cách khác nhau. 
+ Tác động lãi suất tới chi tiêu: Sự thay đổi lãi suất của NHTW tác động đến cầu 
thực và sản lượng thực của nền kinh tế, vì xét về mặt ngắn hạn, với kỳ vọng về lạm phát 
không thay đổi thì sự thay đổi lãi suất danh nghĩa dẫn đến sự thay đổi lãi suất thực, qua 
đó sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. 
+ Tác động tới thu nhập: Lãi suất tăng hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người 
vay tiền sang người gửi tiền. 
- Kênh tỷ giá hối đoái: Kênh truyền tải qua tỷ giá hối đoái của CSTT được xây 
dựng từ mô hình Mundell-Fleming áp dụng cho nền kinh tế mở có chế độ tỷ giá linh 
hoạt. Lãi suất tăng dẫn đến giá nội tệ tăng có thể làm cho giá cả hàng hoá sản xuất trong 
nước tăng so với hàng hoá của nước ngoài, đưa tới giảm nhu cầu đối với hàng hoá trong 
nước, tăng nhu cầu hàng nhập làm suy yếu cán cân thương mại, giảm tổng cầu và sản 
lượng. Tỷ giá không chỉ tác động tới tổng cầu, mà còn có thể tác động tới tổng cung. 
Như vậy, ngược với tổng cầu, tổng cung có thể tăng lên khi đồng nội tệ lên giá. 
27 
Ở những nước có chế độ tỷ giá cố định hoặc bị kiểm soát chặt, CSTT có thể tác 
động tới tỷ giá thực thông qua giá cả trong nước và do vậy vẫn có thể tác động tới xuất 
khẩu ròng mặc dù với mức độ thấp hơn và chậm hơn. 
- Kênh giá cả tài sản: Sự thay đổi của của CSTT tác động tới giá cả của cổ 
phiếu, trái phiếu và bất động sản. Sự thay đổi về giá cả các tài sản này tác động tới tổng 
cầu qua các kênh: tác động Tobin, thực trạng tài chính và năng lực tài sản ròng. 
- Kênh tín dụng ngân hàng: CSTT thắt chặt làm giảm tiền gửi ngân hàng. Để cân 
đối giữa cung và cầu tín dụng, các ngân hàng không chỉ tăng lãi suất mà còn áp dụng 
hạn mức tín dụng thông qua tăng các chuẩn mực về uy tín tín dụng. Sự giảm sút của 
vốn tín dụng sẽ hạn chế đầu tư và sản lượng của doanh nghiệp. 
2.3 Chính sách và chế độ điều hành tỷ giá 
8). Khái niệm và thước đo tỷ giá 
Tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ tính bằng đồng bản tệ hoặc tỷ giá là giá cả 
của đồng bản tệ tính bằng đồng ngoại tệ. Vịêt Nam hiện nay sử dụng cách yết giá thứ 
nhất, đó là giá cả của đồng đô la Mỹ (USD) tính bằng đồng Việt Nam (VND). Trong 
nghiên cứu này, nói đến sự tăng tỷ giá đồng nghĩa với VND giảm giá. 
Các thước đo tỷ giá bao gồm: 
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (NER) là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội 
tệ và chưa tính đến sức mua của đồng tiền. 
-Tỷ giá hối đoái thực (RER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo giá 
tương đối giữa các nước (nghĩa là tỷ giá danh nghĩa đã loại trừ yếu tố giá cả trong nước 
và ngoài nước). Tương quan giữa tỷ giá thực E(r) và tỷ giá danh nghĩa E được biểu diễn 
như sau: 
E(r) = EP*/P 
Trong đó:: P* là mức giá cả nước ngoài 
 P là mức giá ở trong nước 
Tỷ giá thực là thước đo đầy đủ sức cạnh tranh hàng hóa của một nước so với 
hàng hóa nước ngoài xét về phương diện giá cả. 
- Tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER) là tỷ giá được điều chỉnh theo các tỷ giá 
thực của các nước có giao dịch với một nước theo tỷ trọng thương mại của nước đó với 
các nước bạn hàng. REER là một thước đo hiệu quả về tính cạnh tranh của một nước 
trong quan hệ thương mại với nước khác. 
28 
Tỷ giá thực cân bằng (RERE) là mức tỷ giá mà tại đó nền kinh tế đồng thời đạt 
cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài. 
9). Các chế độ tỷ giá 
Chế độ tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong phân tích và hoạch định chính sách. 
Một khi Chính phủ đã lựa chọn một chế độ tỷ giá cụ thể thì mọi phân tích và đề xuất 
chính sách dựa trên cơ sở chế độ tỷ giá đó. Có 3 chế độ tỷ giá điển hình: 
- Chế độ tỷ giá cố định: Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá trong đó Ngân 
hàng Trung ương ấn định tỷ giá danh nghĩa giữa đồng nội tệ và một đồng ngoại tệ ở 
một mức cố định. Thông thường, đồng ngoại tệ trong trường hợp này là đồng tiền của 
một quốc gia lớn hoặc một nhóm các quốc gia (đồng tiền chung) có quan hệ thương 
mại chặt chẽ hoặc có mức lạm phát thấp hoặc cả hai. Trong trường hợp cầu ngoại tệ lớn 
hơn cung ngoại tệ tại mức tỷ giá cố định, NHTW phải bán dự trữ ngoại hối của mình để 
cân bằng cung cầu và ngược lại, trong trường hợp cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, 
NHTW phải mua lại số ngoại tệ dư thừa. Để thực hiện được chế độ tỷ giá này, đương 
nhiên NHTW phải có một lượng ngoại tệ đủ lớn để sẵn sàng can thiệp thị trường. 
Tại một số quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, do nhiều lý do mà NHTW quyết 
định cố định tỷ giá tại một mức nhất định cho dù là không có đủ dự trữ ngoại tệ cần 
thiết để can thiệp thị trường. Trong trường hợp này sẽ hình thành 2 thị trường về ngoại 
tệ: Thị trường chính thức sẽ giao dịch với mức tỷ giá chính thức do NHTW quyết định 
và thị trường phi chính thức sẽ giao dịch với mức tỷ giá do cung cầu ngoại tệ quyết 
định và đôi khi mức tỷ giá này được bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ. 
Dưới chế độ tỷ giá cố định, Chính phủ quyết định tỷ giá theo một mục tiêu và sử 
dụng các công cụ để bảo vệ mức tỷ giá này. Các loại tỷ giá thuộc vùng cố định như chế 
độ tỷ giá bò trườn, chế độ neo tỷ giá, tỷ giá neo có khả năng điều chỉnh. 
+ Chế độ tỷ giá bò trườn là chế độ tỷ giá trong đó NHTW cố định tỷ giá trong 
một khoảng thời gian nhất định thông thường là một tháng hoặc một quý. Trong cơ chế 
này, tỷ giá có thể được cố định với một ngoại tệ hoặc một rổ tiền tệ. NHTW sẽ thông 
báo khi nào họ sẽ thay đổi tỷ giá hoặc thậm chí công khai về công thức tính tỷ giá. 
+ Chế độ neo tỷ giá là chế độ cho phép gắn đồng nội tệ theo một đồng tiền mạnh 
hoặc rổ tiền tệ. Thường thì một nước neo đồng nội tệ của mình theo một loại ngoại tệ 
mạnh nhất. Trong một số trường hợp, tỷ giá bị gắn chặt với một rổ tiền tệ tính theo bình 
quân gia quyền của các bạn hàng. Biên độ dao động cho phép của tỷ giá dưới chế độ 
này nằm trong khoảng từ 2-3%, đủ để các tổ chức kinh doanh tiền tệ không thể chủ 
động điều tiết được. Biên độ này được phép thay đổi khi có quyết định của NHTW. 
+ Chế độ neo có thể điều chỉnh là chế độ mà trong đó giá đồng nội tệ bị neo theo 
một đồng tiền khác mạnh hơn một rổ tiền tệ nhưng với biên độ dao động nới rộng hơn 
29 
(khoảng từ 5%-10%). Dưới chế độ này, các nhà kinh doanh tiền tệ có thể chủ động điều 
tiết tỷ giá trong hoạt động kinh doanh của mình. 
+ Một hình thức khá phổ biến của chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá gắn với 
dự trữ ngoại hối (Currency Board). Trong cơ chế này, NHTW cam kết chuyển đổi bất 
kỳ một lượng bản tệ nào thành ngoại tệ với một tỷ giá cố định. Đương nhiên trong 
trường hợp này, việc phát hành đồng bản tệ của NHTW phụ thuộc chặt chẽ vào lượng 
dự trữ ngoại hối. Vì vậy, về bản chất, đây là chế độ phát hành tiền lấy ngoại tệ làm đảm 
bảo của NHTW. 
- Chế độ tỷ giá thả nổi: Chế độ tỷ giá thả nổi là chế độ tỷ giá mà trong đó tỷ giá 
danh nghĩa hoàn toàn được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ và 
NHTW không thực hiện bất kỳ sự can thiệp nào vào thị trường. Xét về mặt lý thuyết, 
khi thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, NHTW không cần có dự trữ ngoại tệ. Tuy nhiên, 
trên thực tế gần như không quốc gia nào thả nổi hoàn toàn tỷ giá mà luôn có những biện 
pháp can thiệp khi cần thiết để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mình. 
- Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ tỷ 
giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Tỷ giá được tự do biến 
động trong phạm vi giới hạn cao nhất và giới hạn thấp nhất do NHTW ấn định. NHTW 
cũng có thể can thiệp khi tỷ giá có xu hướng vượt ra khỏi phạm vi cho phép. Hình thức 
phổ biến nhất của chế độ tỷ giá này là việc NHTW quy định tỷ giá chính thức và biên 
độ dao động tính bằng tỷ lệ phần trăm của tỷ giá chính thức. Chính vì vậy, cơ chế này 
còn được gọi là chế độ tỷ giá quy định biên độ dao động. 
10). Chính sách tỷ giá 
Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng tác động đến giá cả của hàng hoá và dịch 
vụ xuất nhập khẩu, đến chi phí đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và lợi nhuận từ 
hoạt động đầu tư đó. Nhiều quốc gia đã có những biện pháp nhằm kiểm soát tỷ giá danh 
nghĩa. Các biện pháp này, cùng với những công cụ được sử dụng để đạt được mục tiêu 
tỷ giá đề ra được gọi là chính sách tỷ giá. 
Nội dung của chính sách tỷ giá được thể hiện ở 3 khía cạnh sau đây: 
- Lựa chọn chế độ tỷ giá phù hợp với điều kiện phát triển của quốc gia trong nền 
kinh tế toàn cầu; 
- Xác định một mức tỷ giá hối đoái áp dụng cho các hoạt động kinh tế có liên 
quan nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tỷ giá; 
- Xác định phương pháp và công cụ điều hành tỷ giá. Thông qua đó, nhà nước 
thực hiện vai trò điều tiết lưu thông ngoại hối để đạt được mức tỷ giá đã xác định. 
30 
3. PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ CSTK VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG 
ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ 
3.1 Các quan điểm lý thuyết về sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong 
điều tiết kinh tế vĩ mô. 
1). Lý thuyết tài chính nhà nước của J.M.Keynes 
 Nhà kinh tế lỗi lạc người Anh Kenyes đã đặt nền móng về ký luận và thực tiễn 
cho tư tưởng sử dụng tài chính nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Lý thuyết của 
Ông đã đưa ra một quan niệm mới về vị trí và vai trò của tài chính nhà nước trong nền 
sản xuất xã hội, đồng thời bắt đầu thời kỳ đoạn tuyệt với những trào lưu cũ trong lý 
thuyết kinh tế về sự không can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế. 
Trong cuốn sách “Lý thuyết chúng về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), các 
quan điểm về CSTC điều tiết kinh tế của Kenyes được xuất phát từ các luận điểm sau: 
 Thứ nhất, tất cả những vấn đề quan trọng của nền kinh tế phải được nghiên cứu 
với quan điểm cầu. Sự khủng hoảng của sản xuất là xuất phát từ cầu tiêu dùng. Bởi vậy, 
vấn đề cân bằng trong nền kinh tế cần được giải quyết với quan điểm cầu. Ông sử dụng 
thuật ngữ “cầu hiệu qủa” để biểu hiện sự cân bằng giữa nhu cầu và sản xuất, thu nhập 
và việc làm. 
 Thứ hai, công cụ quan trọng để thực hiện điều chỉnh nền kinh tế là CSTK, còn 
chính cách tiền tệ - tín dụng bị ông đưa xuống hàng thứ yếu. Ông viết: “Nhà nước cần 
phải thực hiện sự lãnh đạo của mình ảnh hưởng đến giới hạn tiêu dùng bằng cách sử 
dụng hệ thống thuế phù hợp, lãi suất tín dụng và cả các phương pháp nữa”iv. 
 Ông coi chi tiêu nhà nước là một công cụ cơ bản của Chính phủ để can thiệp 
vào sự phát triển có tính chất chu kỳ của nền kinh tế và vượt qua khủng hoảng. Bởi vậy, 
sự hình thành, cơ cấu và tốc độ của chi tiêu nhà nước được ông coi là yếu tố quan trọng 
và không thể tách rời để đạt được "cầu hiệu qủa". Tốc độ chi tiêu nhà nước theo ông 
cần phải thúc đẩy tăng thu nhập quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào mục tiêu đảm 
bảo việc làm. Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải tác động đến các tác nhân của 
cầu là: tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tư. Theo quan điểm của Kenyes, tốc độ đầu 
tư nhà nước có vai trò hỗ cho các biện pháp của chính phủ để kích thích "giới hạn đối 
với đầu tư". 
Bên cạnh chi tiêu nhà nước, ông coi thuế là một công cụ quan trọng của tài chính 
nhà nước trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế và cho rằng sự thay đổi trong chính 
sách thuế có thể tác động đến "giới hạn tiêu dùng" và cầu của Chính phủ được đảm bảo 
bằng thuế sẽ khuấy động hoạt động kinh doanh để làm tăng thu nhập quốc dân và việc 
làm. 
31 
Ngoài ra, một điểm đáng chú ý trong học thuyết của ông là cần tăng chi tiêu nhà 
nước bằng nguồn vay nợ. Những người ủng hộ ông đã gọi nguyên tắc này là “cấp phát 
tài chính thiếu hụt". Kenyes khẳng định rằng, sự đầu tư của nhà nước và chi tiêu hiện tại 
của Nhà nước có thể được đảm bảo từ nguồn vay nợ. Đầu tư của chính phủ được đảm 
bảo bằng vay nợ sẽ đưa đến mở rộng “khuynh hướng đối với đầu tư", còn đảm bảo tài 
chính cho chi tiêu hiện tại của chính phủ sẽ mở rộng “khuynh hướng đối với tiêu dùng". 
Tốc độ nợ nhà nước được coi là một bộ phận khăng khít của chính sách điều chỉnh của 
nhà nước để đạt được “cầu hiệu qủa". Sự thiếu hụt ngân sách trở thành một trong những 
phương thức điều chỉnh nền kinh tế. 
Sau này những nhà kinh tế khác như: A.Han Xen, P. Sammuelson, A.Lerher, 
R.Makgreiv, G.Ekkli, U.Kheller, J.Pecman (Mỹ), J.Khics (Anh) đã bổ sung những cơ 
cấu mới cho lý thuyết của Kenyes về điều chỉnh tài chính nhà nước không chỉ trong giai 
đoạn khủng hoảng mà còn cả trong giai đoạn phát triển kinh tế theo chu kỳ. 
2). Lý thuyết tài chính nhà nước của trường phái Trọng cung 
 Sự khủng hoảng của điều chỉnh nhà nước nền kinh tế thị trường dựa trên cơ sở 
học thuyết kinh tế của Kenyes diễn ra sau những năm 1970 đã dẫn đến sự tìm kiếm tích 
cực của các nhà kinh tế phương Tây một quan điểm mới làm lành mạnh hóa nền kinh 
tế. Khoảng những năm 1980 ở Mỹ và Anh đã ra đời một học thuyết kinh tế mới dựa 
trên cơ sở luận điểm của các nhà kinh tế Trọng cung, mà các đại biểu của trường phái 
này là Arthur Laffer, Jude Winniski, Norman Ture. 
 Một trong những luận điểm cơ bản của thuyết Trọng cung là giảm bớt sự can 
thiệp của nhà nước đến các qúa trình kinh tế và kích thích sự phát triển kinh doanh của 
tư nhân. Mặc dù vai trò cơ bản trong chính sách kinh tế của nhà nước thuộc vẫn về tài 
chính nhà nước và công cụ chủ yếu trong việc điều hành CSTC vẫn là các đòn bẩy; 
thuế, chi tiêu nhà nước và vay nợ chính phủ, nhưng những biện pháp của thuyết Trọng 
cung lại hoàn toàn đối lập với thuyết Trọng cầu của Kenyes. 
 Thuyết Trọng cung đưa ra những đề nghị cơ bản là: thứ nhất, cắt giảm thuế; thứ 
hai, cắt giảm chi tiêu nhà nước; thứ ba, giảm số lượng tiền trong lưu thông với sự trợ 
giúp của các chính sách vay nợ của chính phủ và tiến hành định mức tốc độ phát hành 
tiền trong lưu thông. 
 Các đại biểu của trường phái này cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế được xác 
định bởi mức tiết kiệm và tích lũy đủ đến mức độ nhất định. Theo họ, mức tiết kiệm từ 
những khoản thu nhập cao sẽ hình thành nguồn tài chính để mở rộng ĐTPT kinh 
doanh. Vì vậy, chính phủ cần tích cực sử dụng các biện pháp tín dụng để kích thích 
tăng trưởng kinh tế, đồng thời thông qua hệ thống thuế, cần tạo ra những điều kiện cần 
thiết để hình thành mức tiết kiệm đủ để đảm bảo đầu tư trong các thành phần tư nhân. 
Laffer – một đại biểu chính của trường phái Trọng cung đã đưa ra đề nghị bãi bỏ biểu 
32 
thuế suất luỹ tiến và hạ thấp thuế lợi nhuận công ty, coi đó như một trong những biện 
pháp quan trọng nhằm tăng tích luỹ tư bản, mở rộng ĐTPT kinh tế. 
Friedman lại cho rằng chính sách phục hồi kinh tế bằng ngân sách thực chất 
cũng là CSTT nhằm tăng thêm khối lượng tiền tệ trong lưu thông mà đó lại là một 
yếu tố đảm bảo cho sự phục hồi phát triển kinh tế. 
3). Lý thuyết tài chính nhà nước của kinh tế học hiện đại 
Từ sau những năm 1970 hình thành một trào lưu hậu Kenyes, được phát triển 
trên cơ sở phê phán các học thuyết cổ điển mới và học thuyết Kenyes chính thống. 
Những đại biểu của trường phái hậu Kenyes ở Anh là Robinson, Kando, Sekl, Arestic. 
Trong các tác phẩm về tài chính của các nước phương Tây đã giành sự chú ý đến 
việc giải quyết một mâu thuẫn vĩ đại giữa trường phái kinh tế của Kenyes và trường 
phái tân cổ điển. Một trong những nhà nghiên cứu lịch sử các học thuyết về tài chính 
Kindlebege đã nhận xét rằng, những người tân cổ điển thường coi trọng các vấn đề lạm 
phát, giá cả và số lượng tiền tệ trong lưu thông, còn Kenyes - việc làm và sản xuất. Ông 
đưa ra kết luận rằng, kể cả tân cổ điển và kể cả Kenyes cũng không thể giải quyết 
những vấn đề phức tạp của xã hội tư sản, bởi vì họ đã không tính hết các yếu tố kinh tế 
khác nhau và sự thay đổi quá trình chính trị . Về bản chất, CSTC của hai trường phái 
này là hai phương thức khác nhau để điều tiết nền kinh tế TBCN. Sự khác nhau và mâu 
thuẫn giữa chúng có tính chất đối kháng. 
Hiện nay đang diễn ra xu hướng xích lại gần nhau giữa hai trường phái tư tưởng 
tài chính phương Tây: tư tưởng Trọng cung được lồng trong lý thuyết của Kenyes còn 
tư tưởng của Kenyes lại được đưa vào trong lý thuyết Trọng cung để hình thành lý 
thuyết kinh tế học hiện đại. Biểu hiện rõ nét nhất là sự cần thiết kết hợp chính sách tài 
khoá và CSTT. Còn các nhà tân cổ điển thì cho rằng hiệu quả áp dụng lý thuyết Trọng 
cung sẽ cao hơn nếu như bao hàm trong đó một vài cơ cấu của Kenyes. 
Cũng cần phải thừa nhận rằng, tư tưởng hòa hợp và xích lại gần nhau giữa hai 
trường phái lý thuyết nổi tiếng nhất trong lịch sử các học thuyết kinh tế đã góp phần 
làm thay đổi tư duy lý luận trong khoa học tài chính và việc vận dụng các công cụ tài 
chính nhà nước vào hoạt động thực tiễn. Điều đó được thể hiện rõ nét trong việc soạn 
thảo các chính sách kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong dài hạn cũng như ngắn hạn để 
đối phó với nền kinh tế chu kỳ, mức thất nghiệp ngày càng tăng cao, tình trạng lạm phát 
đang đe doạ và mức tiết kiệm tư nhân ngày càng giảm sút trong các nước phát triển 
hiện nay. 
Có thể khẳng định rằng, Mỹ là nước đi đầu trong việc vận dụng thành công lý 
thuyết về tài chính nhà nước hiện đại để điều tiết nền kinh tế trong thập kỷ cuối cùng 
của thế kỷ XX. Chính sách tài khoá được thực hiện trên cơ sở kiên quyết cắt giảm thâm 
hụt ngân sách làm cho lãi suất thấp được duy trì, thực hiện chính sách lấy kiềm chế lạm 
33 
phát làm ưu tiên số một sang cân bằng giữa kiềm chế lạm phát, góp phần kích thích nền 
kinh tế phục hồi và phát triển. Các biện pháp tài chính cứng rắn cũng đã được áp dụng 
nhằm điều tiết và chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ sản xuất sang dịch vụ để làm giảm tính 
chu kỳ của nền kinh tế và kéo dài thời kỳ ổn định để tăng trưởng nhiều hơn. CSTT linh 
hoạt cũng đã được áp dụng bằng cách chuyển hướng CSTC từ trung lập sang thắt chặt 
trên cơ sở tăng lãi suất tín dụng. Ngoài ra, nhà nước còn có vai trò quan trọng trong việc 
tạo ra nhiều cơ chế tự động điều chỉnh để hình thành quỹ phúc lợi làm xoa dịu sức ép 
giảm thu nhập khi thất nghiệp gia tăng, quỹ bảo hiểm chống lại nguy cơ khủng hoảng 
ngân hàng. 
Như vậy, bằng việc thực hiện CSTC linh hoạt có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính 
sách tài khoá và CSTT, giữa CSTC ngắn hạn (theo trường phái Trọng cầu) với CSTC 
dài hạn (theo trường phái Trọng cung) các nhà kinh tế học hiện đại đã tạo dựng một lý 
thuyết tài chính nhà nước mới phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế trong giai đoạn 
hiện nay. 
3.2 Mối quan hệ tác động qua lại giữa CSTK và CSTT trong việc thực 
hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô 
Mặc dù mỗi chính sách dù là CSTK hay CSTT đều sử dụng hệ thống các công 
cụ khác nhau: CSTK sử dụng công cụ thuế, chi tiêu ngân sách và vay nợ chính phủ; 
CSTT sử dụng hệ thống công cụ gián tiếp dựa trên cơ sở thị trường nhưng cuối cùng cả 
hai chính sách đều nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô như sau: 
- Tăng trưởng kinh tế 
- Lạm phát ổn định 
- Việc làm và thu nhập 
Có thể nói giữa CSTK và CSTT có mối quan hệ gắn bó với nhau. Để đảm bảo 
thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế thì hai chính sách này không 
thể tách rời nhau, bởi vì, nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô sẽ không thể thực hiện được 
khi mà không sự kết hợp điều chỉnh của hai chính sách này. 
4). Tác động của CSTK đến CSTT 
Việc điều hành CSTK cũng có ảnh hưởng đến mục tiêu của CSTT. Chẳng hạn, 
CSTK nới lỏng (hay thắt chặt) gắn liền với tăng (giảm) thâm hụt ngân sách, 
trong đó phương thức tài trợ thâm hụt ngân sách sẽ tác động đến việc thực hiện mục 
tiêu ổn định tiền tệ của CSTT. Khi xuất hiện thâm hụt NSNN, chính phủ có thể sử dụng 
các phương thức bù đắp như sau: 
- Phát hành tiền hoặc vay NHTW. 
34 
- Vay từ dân cư và các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác bằng việc phát 
hành các chứng khoán nợ (tín phiếu, trái phiếu công trình, công trái giáo dục và các loại 
trái phiếu có mục đích khác). 
- Vay nợ nước ngoài. 
Nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách phát hành tiền thì sẽ gây ra lạm 
phát. Nếu thâm hụt được tài trợ bằng vốn vay từ các ngân hàng thương mại mà NHTW 
không điều tiết thêm tiền cung ứng cho nhu cầu vốn tín dụng của các NHTM thì các 
NHTM sẽ buộc phải hạn chế cho vay đối với khu vực tư nhân. Điều này sẽ làm giảm 
nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân, qua đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. 
Trường hợp Chính phủ vay từ NHTM và NHTW hỗ trợ cung ứng thêm tiền cho 
các NHTM thì tác động cũng tương tự như việc Chính phủ vay trực tiếp từ NHTW 
(tương tự phát hành tiền). 
Nếu Chính phủ tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu, dù bán 
cho công chúng hay bán cho các tổ chức tín dụng, đều có tác động đến nguồn vốn huy 
động của các ngân hàng và cuối cùng sẽ hạn chế khả năng cung ứng vốn tín dụng 
của ngân hàng. Việc Chính phủ vay từ hệ thống ngân hàng hay khu vực phi ngân 
hàng để tài trợ thâm hụt ngân sách cũng làm giảm nhu cầu đầu tư tư nhân thông qua 
việc hạn chế lượng vốn tín dụng hoặc qua việc tăng lãi suất. Trường hợp tài trợ bằng 
nguồn vay nước ngoài cũng có tác động nhất định đến việc thực hiện mục tiêu ổn 
định cán cân thanh toán... 
Ngoài ra, CSTK nới lỏng sẽ đi liền với tăng chi tiêu Chính phủ, tác động mạnh 
đến tổng cầu. Trường hợp cung nhỏ hơn cầu sẽ dẫn đến áp lực tăng giá cả trong nước, 
hoặc làm tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu và tăng giá hàng nhập khẩu. 
Do vậy, trong điều hành CSTT cần luôn quan tâm xem xét các diễn biến CSTK 
để đảm bảo có sự nhất quán giữa CSTT và CSTK. 
5). Tác động của CSTT đến CSTK 
Hiệu quả của CSTK ở một chừng mực nhất định cũng phụ thuộc vào việc kết 
quả điều hành CSTT. Chẳng hạn, khi thực hiện CSTT mở rộng sẽ làm giảm giá vay nợ 
chính phủ do giảm áp lực của lãi suất. Tuy vậy điều này có thể dẫn tới cơ hội tăng mức 
bội chi ngân sách và lạm phát, lãi suất danh nghĩa tăng lên, người đầu tư chịu đựng rủi 
ro lợi vốn và vì thế yêu cầu mức lãi suất tăng thêm nhằm bù đắp rủi ro. Giá nợ tăng, đến 
lượt nó, hạn chế mức bội chi. Ngược lại, một CSTT thắt chặt sẽ làm tăng giá các khoản 
nợ chính phủ, tâm lý lo sợ rủi ro lợi vốn sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất thị trường và 
cuối cùng ảnh hưởng tới tổng cầu, ảnh hưởng tới mức tăng trưởng và một mức bội chi 
tăng thêm trong tương lai. 
35 
Tuy nhiên, quá trình này nếu diễn ra trong điều kiện có sự phối hợp với một 
CSTK hợp lý thì những động thái của CSTT sẽ không dẫn tới kỳ vọng rủi ro lợi vốn và 
vì thế mặt bằng lãi suất không bị ảnh hưởng bởi phản ứng dây chuyền của người đầu tư, 
TTTC nội địa ổn định. 
Như vậy, thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT và CSTK có thể kéo theo sự 
thiếu ổn định tài chính mà biểu hiện là những dao động mạnh của lãi suất, tỷ giá, mức 
lạm phát và vì thế mà phá huỷ nền tảng của tăng trưởng kinh tế. 
Từ những phân tích đó có thể kết luận rằng, việc kết hợp giữa CSTK và CSTT 
là hết sức quan trọng để đảm bảo các chính sách được đưa ra đồng bộ, góp phần 
thực hiện được các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. 
i Larousse, Nxb Larousse, Paris, 1993. 
ii
 Xem CSTT của NHTW Đức, xuất bản văn hoá và thông tin, năm 1994 
iii
 Mối quan hệ giữa hệ số tạo tiền với hàm cầu dựa trên cơ sở lý thuyết về thuyết lượng cầu tài sản 
iv
 J.Keynes Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ. Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva. Năm 1978, tr.368 tiếng Nga. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 cstk_va_cstt_trong_kttt_1927.pdf cstk_va_cstt_trong_kttt_1927.pdf