Đề tài Một số Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân Hàng nông nghiệp và phát triển thôn Tây Hồ

Đề tài: Một số Giải pháp & kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân Hàng NN & PTNT Tây Hồ MỤC LỤC Lời nói đầu Mục tiêu mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều mong muốn vươn tới đó là sự tăng trưởng, phát triển và thịnh vượng. Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tự xây dựng cho mình các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, vừa khắc phục được khó khăn và yếu kém vừa tránh được sự tụt hậu đối với xu thế chung của toàn thế giới . Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa, lại nằm trong khu vực Châu á Thái Bình Dương- khu vực kinh tế năng động và phát triển nhất thế giới, nhưng lại vấp phải nhiều khó khăn thử thách: đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh kéo dài gần một thế kỷ, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề, nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội . Để khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì một trong những tiền đề nhằm phát triển nền kinh tế là vốn bởi sẽ là không tưởng khi nói đến cải tạo, đổi mới và phát triển nền kinh tế mà không có vốn hay không đủ vốn. Thực tế, chúng ta phải khẳng định rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, tuy nhiên để tìm được nguồn vốn thật không phải dễ. Câu hỏi đặt ra là: vốn được khơi nguồn từ đâu? Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII của Đảng đã nêu: “Để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì cần huy động được nguồn vốn sẵn có và sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng”. Nguồn nội lực rất dồi dào, phong phú nhưng lại có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu hút và phát huy nguồn nội lực ?, nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế –xã hội . Trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp, dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM ) - là kênh truyền dẫn vốn quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong môi trường kinh doanh tiền tệ, NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất. NHTM là một trung gian tài chính với nghiệp vụ truyền thống “đi vay để cho vay” vì thế nguồn vốn do ngân hàng thương mại cung cấp không chỉ lớn về số lượng mà còn có tính ổn định, chi phí thấp. Như vậy, hoạt động huy động vốn đóng một vai trò quan trọng không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại mà còn góp phần không nhỏ tạo ra vốn cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển . Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và sự phát triển kinh tế đất nước, sau một thời gian thực tập, nghiên cứu tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tây Hồ, em xin chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn”. Đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động huy động vốn góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ . Với lượng thời gian thực tập và kiến thức chuyên môn còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa được tích luỹ nhiều, nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của NHTM . Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hồ. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo & PTNT Tây Hồ.

doc73 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2542 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân Hàng nông nghiệp và phát triển thôn Tây Hồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của ngân hàng Tây Hồ trong việc phối hợp, điều hoà giữa lợi ích của người gửi tiền và của ngân hàng, để từ đó đưa ra chính sách huy động vốn phù hợp, lãi suất huy động hợp lý, đảm bảo an toàn tài sản, tiền gửi cho người gửi tiền… hiệu quả huy động vốn của ngân hàng được nâng cao, đặc biệt là 2 năm trở lại đây, tạo điều kiện nền tảng cho công tác huy động vốn của ngân hàng trong thời gian tới. c3. Huy động vốn qua nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu . Như đã trình bày ở chương 1, huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu là một hình thức huy động vốn chủ động nhằm thu hút vốn trong xã hội phục vụ cho nhu cầu đầu tư sản xuất hàng hoá, thực thi một số chương trình, dự án, chính sách kinh tế –xã hội của chính phủ, đặc điểm của hình thức huy động này là huy động theo đợt, có tính ổn định cao và có chi phí huy động tương đối cao, ngân hàng chỉ sử dụng hình thức huy động này khi có nhu cầu đáp ứng vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng hay khi nhà nước cần vốn cho các dự án, chương trình kinh tế, do đó khi huy động nguồn vốn này, ngân hàng có thể căn cứ vào nguồn vốn huy động cần bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu có tính linh hoạt hơn huy động TGTK vì khi đó ngân hàng có thể xác định khối lượng vốn cần thiết phải huy động và có thể áp dụng mức lãi suất phù hợp (nếu muốn huy động một khối lượng vốn trong thời gian ngắn ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất cao để thu hút vốn, còn nếu huy động chỉ để bổ sung nguồn vốn thì ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất bình thường sao cho phù hợp ). Đối với ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ, nguồn vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu chủ yếu là nguồn vốn có kỳ hạn ngắn và ngân hàng huy động vốn của mọi thành phần kinh tế trong xã hội . Tình hình huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu của ngân hàng: năm 2000, vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu đạt 42,4 tỷ, chiếm tỷ trọng 61,4%; năm 2001 huy động được 155,4 tỷ, chiếm 55% tổng nguồn vốn huy động, đến năm 2002 đạt 188,5 tỷ trọng 48%. Từ các số liệu trên cho thấy, tỷ trọng nguồn vốn huy động qua kỳ phiếu có xu hướng giảm dần nhưng xét về quy mô thì khối lượng vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu tăng trưởng rất cao và chiếm một tỷ lệ khá cao; năm 2000 đạt 42,4 tỷ, năm 2001 tăng 133 tỷ (266%) so với năm 2000; năm 2002 tăng 33,1 tỷ (21%) so với năm 2001. Vậy có một câu hỏi đặt ra là tại sao nguồn vốn này lại chiếm một tỷ lệ cao như vậy?. Nguyên nhân là do lãi suất huy động của hình thức này luôn cao hơn so với các hình thức huy động khác, do đó đã thu hút, khuyến khích người gửi tiền gửi tiền vào ngân hàng vì mục đích sinh lợi. Mặt khác, nằm trên địa bàn một quận mới thành lập, hoạt động sản xuất bắt đầu có sự tăng trưởng, người dân rất nhạy cảm với lãi suất của ngân hàng, hay do chính sách huy động vốn nhằm phục vụ các chương trình kinh tế –xã hội của nhà nước đã tạo ra tâm lý an toàn cho người gửi tiền vì họ biết rằng số tiền mà họ gửi vào ngân hàng là nhà nước vay và như vậy thì rủi ro là không có. Như vậy, vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh hiện nay khi mà các hình thức huy động khác gặp khó khăn thì hình thức huy động này lại tỏ ra có hiệu quả cao, nâng cao hiệu quả huy động vốn đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Hình thức huy động tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng và kho bạc nhà nước. Cũng như mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong quá trình hoạt động kinh doanh có những ngân hàng dư thừa nguồn vốn huy động nhưng cũng có những ngân hàng thiếu hụt vốn ngay cả khi đã bù đắp bằng các nguồn khác (TG, TGTK, huy động kỳ phiếu), cho nên quan hệ vay mượn hay gửi vốn giữa các ngân hàng với nhau cũng diễn ra hoặc ngân hàng có thể vay kho bạc, ngân hàng nhà nước dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường liên ngân hàng chính là chiếc cầu nối trung gian giữa các ngân hàng thương mại, đáp ứng nhu cầu về vốn vay, tuy nhiên nguồn vốn này có tính ổn định rất thấp, chi phí huy động cao. Tại ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ tình hình huy động nguồn vốn này như sau: Qua số liệu bảng 4, tỷ trọng nguồn vốn vay có xu hướng giảm, đối với nguồn tiền gửi, vay các tổ chức tín dụng: Năm 2000 đạt 30,4 tỷ, chiếm 44% trong tổng nguồn vốn huy động; năm 2001 là 119 tỷ, tỷ trọng 42%; năm 2002 nguồn vốn này đạt 120,1 tỷ, chiếm 30,6%. Xét về quy mô thì nguồn vốn huy động, vay các TCTD trong 2 năm 2001, 2002 tăng cao so với năm 2000 (gấp 4 lần) nhưng do tổng nguồn vốn tăng nên tỷ trọng của vốn huy động, vốn vay từ các TCTD có xu hướng giảm dần, giảm vốn vay từ các TCTD là giảm được chi phí huy động, nâng dần tính ổn định của nguồn vốn, và chứng tỏ công tác huy động qua các hình thức khác (TG dân cư, từ các TCKT ) đang ngày càng tỏ ra có hiệu quả, khối lượng vốn tăng, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tuy nhiên, nguồn vốn huy động từ các TCTD vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn (trung bình > 30%) do vậy, ngân hàng Tây Hồ cần có những giải pháp để giảm nguồn vốn này. Nguồn tiền gửi, vay kho bạc nhà nước: Năm 2000 là 11,7 tỷ, chiếm tỷ trọng 17%; năm 2001đạt 38,7 tỷ, tỷ trọng là 13,7%; năm 2002 nguồn vốn này đạt 44,7 tỷ với tỷ trọng 11,4%, nguồn vốn huy động từ kho bạc về quy mô có sự tăng lên nhưng mức tăng trưởng không cao và xét về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn thì lại có xu hướng giảm, đây là một nguồn vốn có tính ổn định (thời gian, khối lượng,..), có những tác động tốt đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Như vậy, để nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn, chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ cần có chiến lược huy động hợp lý tăng cường nguồn vốn tiền gửi của dân cư, của các TCKT, của kho bạc và giảm dần nguồn vốn vay các TCTD . Ngoài ra, ngân hàng còn huy động vốn qua một số hình thức khác: nhận vốn uỷ thác đầu tư, làm trung gian thanh toán… từ đó có thể sử dụng nguồn vốn tạm thời ký quỹ chưa sử dụng đến cho hoạt động tín dụng ngắn hạn, tuy nhiên hình thức này chưa phát huy tác dụng, chưa đạt hiệu quả cao tại ngân hàng Tây Hồ, nhưng đa dạng hình thức huy động vốn chính là nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Chi phí huy động vốn của ngân hàng . a. Lãi suất huy động vốn của ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ. Đối với tiền Việt Nam đồng : Tiền gửi không kỳ hạn : 0,2% /tháng Tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng : 0,57% /tháng Tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng : 0,6% /tháng Tiền gửi có kỳ hạn 9 tháng : 0,62% /tháng Tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng: 0,67% /tháng Đối với tiền gửi ngoại tệ : USD EUR Tiền gửi không kỳ hạn : 1% 1,2% /năm Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng : 1,4% 2% /năm Tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng : 1,6% 2,2% /năm Tiền gửi có kỳ hạn 9 tháng : 1,8% 2,5% /năm Tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng : 2,2% 2,8% /năm Huy động kỳ phiếu 12 tháng : từ 0,65% đến 0,71% /tháng Lãi suất huy động bình quân: TGTK là 0,53% / tháng; Tiền gửi các TCKT là 0,5% / tháng; Tiền gửi các TCTD là 0,2% / tháng . Từ bảng lãi suất huy động vốn, ta thấy lãi suất của ngân hàng Tây Hồ đa dạng, linh hoạt về kỳ hạn, áp dụng cho từng loại tiền, và tương đối hợp lý đối với nhu cầu của người dân trên địa bàn quận, đây có thể coi là một yếu tố đẩy nhanh mức độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động của ngân hàng. b. Chi phí huy động vốn của ngân hàng. Chi phí là tất cả những khoản mà ngân hàng phải chi ra để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí có tính quyết định trong hoạt động kinh doanh, chi phí thấp hoạt động kinh doanh diễn ra thuận lợi. Chi phí quyết định tính cạnh tranh của ngân hàng đặc biệt trong môi trường kinh tế hiện nay thì chi phí là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng và phát triển của ngân hàng. Do có ý nghĩa quan trọng như vậy cho nên trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ luôn tìm giải pháp nhằm giảm chi phí. Chi phí huy động vốn là tất cả các khoản mà ngân hàng chi ra để phục vụ cho hoạt động huy động vốn. Hiệu quả của công tác huy động vốn chính là làm sao để huy động được những tập hợp nguồn vốn với chi phí thấp nhất . Bảng 10: Chi phí hoạt động của ngân hàng . Đơn vị : triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Tổng chi phí hoạt động 2932 100 13212 100 18749 100 Chi phí huy động vốn 2111 72 11842 89 16400 87 Các chi phí hoạt động khác 821 28 1370 11 2349 13 ( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000, 2001, 2002 ). Từ số liệu của bảng trên, ta thấy chi phí huy động vốn của ngân hàng Tây Hồ là chi phí chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi phí; năm 2000 chi phí cho hoạt động huy động vốn là 2111 triệu, chiếm tỷ trọng 72% trong tổng chi phí; năm 2001, chi phí huy động là 11842 triệu, chiếm 89% ; năm 2002 chi phí huy động là 16400 triệu, tỷ trọng là 87% tổng nguồn vốn. Chi phí trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là chi phí huy động vốn, chiếm tỷ trọng rất cao và có xu hướng tăng cả về quy mô lẫn tỷ trọng . Nhưng có thể nói công tác huy động vốn của ngân hàng có hiệu quả hay không ta phải so sánh tốc độ tăng trưởng của tổng nguồn vốn huy động với mức tăng của chi phí huy động . Tổng nguồn vốn huy động: năm 2000: 69 tỷ; năm 2001 tổng nguồn vốn huy động là 283 tỷ, tăng 214 tỷ (310%) so với năm 2000; năm 2002, vốn huy động đạt 392 tỷ, tăng 109 tỷ (38%) so với năm 2001. Chi phí cho công tác huy động vốn : năm 2000: 2111 triệu; năm 2001 chi phí huy động vốn là 11842 triệu, tăng 9731 triệu (460%) so với năm 2000; năm 2002 chi phí là 16400 triệu, tăng 4558 triệu (38%) so với năm 2001 . Qua so sánh số liệu của 2 chỉ tiêu trên ta thấy năm 2001 mức tăng chi phí (460%) cao hơn so với mức tăng trưởng vốn huy động (310%), hiệu quả huy động vốn của ngân hàng trong năm 2001 chưa cao, sang năm 2002, mức tăng chi phí và tổng nguồn vốn huy động có sự đồng đều. Từ kết quả đó có thể khẳng định: hiệu quả huy động vốn của ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ ngày càng tăng lên . Ngoài chi phí huy động vốn, ngân hàng còn có rất nhiều chi phí hoạt động khác liên quan như: chi phí tiền lương nhân viên, chi phí giấy tờ, in ấn, chi phí phụ cấp, bảo hiểm tiền gửi,…và quy mô của những chi phí này có xu hướng tăng lên, đòi hỏi ngân hàng Tây Hồ cần có biện pháp để tiết kiệm chi phí, cắt bỏ hay giảm thiểu những chi phí không cần thiết, tìm kiếm những tổ hợp nguồn vốn có chi phí thấp. Giảm chi phí là điều kiện để ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh . Bảng 11: Chi phí huy động vốn của ngân hàng . Đơn vị : triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Chi phí huy động vốn 2111 100 11842 100 16400 100 Chi phí trả lãi tiền gửi 102 5 750 6 2534 15 Chi phí trả lãi tiền gửi tiết kiệm 383 18 2676 22 3357 20 Chi phí trả lãi kỳ phiếu 1201 57 6222 53,5 7539 47 Chi phí trả lãi tiền vay TCTD, kho bạc 422 20 2190 18,5 2952 18 ( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000, 2001, 2002 ). Qua số liệu của bảng 10, ta có thể nhận thấy chi phí trả lãi phát hành kỳ phiếu luôn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng chi phí huy động của ngân hàng, năm 2000, chi phí trả lãi phát hành kỳ phiếu là 1201 triệu, chiếm tỷ lệ 57%; năm 2001, chi phí là 6222 triệu, chiếm 53,5% và đến năm 2002, chi phí trả lãi phát hành kỳ phiếu là 7539 triệu chiếm 47% tổng chi phí huy động, điều này có thể giải thích là do nguyên nhân trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thì nguồn huy động qua phát hành kỳ phiếu chiếm tỷ trọng rất lớn (vì hình thức huy động vốn này có lãi suất huy động thường cao hơn các hình thức khác nên thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền) và nguồn vốn này có chi phí khá cao. Ngoài chi phí trả lãi huy động kỳ phiếu thì chi phí trả lãi TGTK của ngân hàng cũng chiếm tỷ trọng tương đối cao và xét về quy mô có xu hướng tăng lên; năm 2000, chi phí trả lãi TGTK là 383 triệu, chiếm 18%; năm 2001, chi phí trả lãi TGTK là 2676 triệu, chiếm 22%, đến năm 2002 là 3357 triệu, chiếm 20% trong tổng chi phí huy động. Chi phí trả lãi tiền gửi tăng, năm 2000 chi phí trả lãi TG là 102 triệu, chiếm 5% tổng chi phí huy động; năm 2001 là 750 triệu, 6% tổng chi phí huy động thì đến năm 2002 chi phí trả lãi TG là 2534 triệu và chiếm 15% tổng chi phí huy động vốn của ngân hàng. Chi phí trả lãi TG và TGTK của ngân hàng tăng là do khối lượng vốn huy động TG và TGTK tăng lên. Chi phí trả lãi tiền vay TCTD, kho bạc nhà nước xét về quy mô thì có xu hướng tăng lên, tỷ trọng giảm nhưng mức giảm không đáng kể và vẫn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng chi phí huy động vốn (trung bình > 18%). Nói tóm lại, trong tổng chi phí huy động vốn của ngân hàng thì chi phí trả lãi tiền vay TCTD và chi phí huy động qua phát hành kỳ phiếu chiếm tỷ trọng khá cao, tuy nhiên tỷ trọng của 2 loại chi phí này có xu hướng giảm và thay vào đó là sự tăng dần của phi phí trả lãi tiền gửi và TGTK, điều này có thể chứng tỏ nguồn vốn tiền gửi, TGTK huy động có xu hướng tăng lên, tuy rằng hiệu quả huy động vốn của ngân hàng có xu hướng tăng nhưng việc giảm chi phí huy động vốn cũng phải được quan tâm vì chi phí huy động giảm thì chi phí trên một đồng vốn sinh lời giảm, từ đó tăng hiệu quả hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng, tăng lợi nhuận. Như vậy, chi phí tác động đến hiệu quả huy động vốn và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 2.3.5. Khả năng đáp ứng yêu cầu sử dụng vốn của ngân hàng . Như đã nói đến ở chương 1, hiệu quả huy động vốn của ngân hàng không thể đạt cao nhất khi mà nguồn vốn huy động không đáp ứng được yêu cầu sử dụng vốn của ngân hàng, không thoả mãn được các nhu cầu của hoạt động tín dụng, đầu tư. Có thể nói về cơ cấu nguồn vốn huy động và hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có sự hợp lý vì qua nghiên cứu và xây dựng chiến lược sử dụng vốn, ngân hàng mới tiến hành công tác huy động vốn. Trong hoạt động sử dụng vốn, ngân hàng Tây Hồ chủ yếu dùng vốn cho hoạt động tín dụng ngắn hạn, không có đầu tư hay tín dụng trung dài hạn do vậy, nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là huy động ngắn hạn . Khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn (về quy mô). Bảng 12 : Đơn vị : tỷ đồng. Chỉ tiêu Năm Tổng nguồn vốn huy động Dư nợ tín dụng Dư nợ / Nguồn vốn 2000 69 42 61% 2001 283 109 38% 2002 392 180 46% ( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000, 2001, 2002 ). Từ số liệu của bảng 12, ta thấy về quy mô thì có thể khẳng định tổng nguồn vốn huy động có thể đáp ứng hoàn toàn cho nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, trong cơ cấu của tổng nguồn vốn thì nguồn tiền vay của các TCTD chiếm tỷ trọng khá cao, còn nguồn tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm và TG của kho bạc nhà nước thì có tỷ trọng chưa cao, ngoài ra nguồn vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu còn chiếm tỷ trọng lớn, chi phí huy động vốn cao, mức độ ổn định của nguồn tiền vay tổ chức tín dụng không cao, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. 2.4. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN&PTNT TÂY HỒ. 2.4.1. Những kết quả đạt được . Trong môi trường hoạt động đầy biến động, canh tranh gay gắt, sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa ổn định, hoạt động của ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ luôn gặp phải nhiều khó khăn trở ngại. Tuy nhiên trong những năm vừa qua, ngân hàng cũng đạt được một số kết quả khả quan trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động huy động vốn. Điểm đáng chú ý là quy mô nguồn vốn huy động tăng trưởng rất nhanh: năm 2000 là 69 tỷ; năm 2001: 283 tỷ; năm 2002 tổng nguồn vốn huy động là 392 tỷ. Ngân hàng Tây Hồ được coi là một trong những chi nhánh có hiệu quả huy động vốn cao nhất của ngân hàng NN&PTNT Hà Nội. Trong tổng nguồn vốn huy động thì nguồn vốn huy động từ dân cư và từ các tổ chức kinh tế đang có xu hướng tăng lên, nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm và phát hành kỳ phiếu chiếm tỷ trọng cao chứng tỏ nguồn vốn huy động của ngân hàng đang ngày càng ổn định hơn. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú: huy động nhiều loại tiền, nhiều kỳ hạn được áp dụng trong công tác huy động vốn của ngân hàng . Hoạt động huy động vốn của ngân hàng đã tạo điều kiện nền tảng cho hoạt động tín dụng tăng trưởng góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận phát triển . Hoạt động huy động vốn đã tạo ra lợi thế rất lớn cho ngân hàng về quy mô hoạt động giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng quy mô không chỉ trong địa bàn quận Tây Hồ mà còn cả các khu vực lân cận. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng còn tạo ra một khối lượng vốn rất lớn thực thi các chương trình, dự án kinh tế –xã hội của ngân hàng nhà nước từ đó, đóng góp vào quá trình phát triển của cả nền kinh tế . Thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, luân chuyển tiền tệ diễn ra nhanh tạo đà cho sự phát triển của hoạt động sản xuất. Công tác huy động vốn đã đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng: hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng, nhu cầu rút tiền và thanh toán của khách hàng, chưa để xảy ra tình trạng thiếu vốn cho hoạt động kinh doanh . 2.4.2. Những tồn tại và hạn chế . Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ còn tồn tại một số bất cập trong hoạt động huy động vốn, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng . Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu là nguồn huy động với kỳ hạn ngắn (<1 năm ), chưa có sự hợp lý trong cơ cấu nguồn vốn về thời gian, không huy động được vốn trung và dài hạn, do đó, tính chất ổn định của nguồn vốn chưa thật sự cao. Tỷ trọng của nguồn vốn hình thành qua phát hành giấy tờ có giá và vay của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng cao ( > 30%), qua đó có thể thấy được hình thức huy động tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế chưa thật sự phát huy hiệu quả cao . Chi phí huy động vốn của ngân hàng còn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí hoạt động, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng . Các hình thức huy động vốn của ngân hàng tuy có sự đa dạng, nhưng đó là sự đa dạng của các hình thức truyền thống trong khi sản phẩm dịch vụ, phương thức huy động hiện đại chưa phát triển . 2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại . a. Nguyên nhân khách quan. Là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, cũng như bao doanh nghiệp khác, hoạt động của ngân hàng phải chịu tác động các quy luật kinh tế thị trường: quy luật cung cầu, giá cả, cạnh tranh, vì trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng mà còn với các tổ chức tín dụng khác, ngân hàng không thể ngồi chờ khách hàng đến gửi tiền mà phải luôn luôn có những phương hướng, giải pháp tiếp cận khách hàng, thu hút khách hàng, tăng quy mô nguồn vốn, tăng hiệu quả huy động vốn. Một số nguyên nhân khách quan có tác động tới công tác huy động vốn của ngân hàng Tây Hồ. Do sự tác động của môi trường kinh tế: Như ta đã biết sự tăng trưởng và phát triển của ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng thì sản xuất được đẩy mạnh tạo điều kiện cho hoạt động tích luỹ, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn của ngân hàng, mặt khác, nó tạo ra môi trường đầu tư cho ngân hàng, tăng thu nhập và tạo tiền đề cho việc mở rộng vốn tự có của ngân hàng và ngược lại. Nằm trên địa bàn quận mới thành lập, hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, hoạt động dịch vụ chưa phát triển mạnh, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, sản xuất công nghiệp hầu như không có do vậy, nguồn vốn huy động của ngân hàng Tây Hồ chủ yếu là vốn ngắn hạn phục vụ cho sản xuất trong ngắn hạn, nền kinh tế trên địa bàn chưa thật sự phát triển, thu nhập của người dân chưa cao, quá trình tích luỹ còn nhỏ hẹp, công tác huy động vốn của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn và nguồn vốn huy động của ngân hàng chưa có tính ổn định cao. Do các chính sách của nhà nước tác động: Các chính sách đầu tư phát triển kinh tế của nhà nước trên địa bàn quận Tây Hồ chưa thật sự phát triển mạnh, các dự án phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa phát huy hiệu quả, do vậy, hoạt động tín dụng của ngân hàng chưa đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Do tác động của môi trường pháp lý: Các chế định pháp luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng còn chưa đầy đủ, chặt chẽ, các thủ tục còn rườm rà, điểm hình là việc quản lý của nhà nước về đất đai. Hoạt động của ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ cũng như nhiều ngân hàng khác đóng trên địa bàn chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và dịch vụ, khi người dân hay TCKT vay tiền ngân hàng thường đem giấy tờ đất thế chấp nhưng việc quản lý đất đai, chứng nhận quyền sở hữu của người dân (cấp sổ đỏ) của chính quyền địa phương quá rườm rà, nhiều thủ tục ảnh hưởng đến việc cấp tín dụng của ngân hàng, tác động đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Do tâm lý, thói quen tích luỹ và tiêu dùng của người dân: Thói quen tiêu dùng, tích luỹ của người dân cũng ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng Tây Hồ. Nằm trên địa bàn mà đại bộ phận người dân có thói quen tiêu dùng, thanh toán bằng tiền mặt và tích trữ tiền mặt hoặc vàng tại nhà, hoạt động của ngân hàng chưa thật sự gắn chặt với đời sống người dân, hơn nữa, hoạt động sản xuất chính trên địa bàn là nông nghiệp, thu nhập của người dân chưa cao, nhu cầu thanh toán qua ngân hàng thấp, gây khó khăn cho công tác huy động vốn của ngân hàng. Ngoài ra, để có thể huy động vốn của các tầng lớp dân cư trên địa bàn quận, ngân hàng phải áp dụng một mức lãi suất tương đối cao (thường huy động thông qua phát hành kỳ phiếu), điều này làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và làm hạn chế khả năng huy động vốn của ngân hàng. b. Nguyên nhân chủ quan . Không chỉ những nguyên nhân khách quan bên ngoài tác động mà những nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng cũng ảnh hưởng, làm hạn chế khả năng huy động vốn của ngân hàng. Do năng lực trình độ quản lý của ngân hàng: Là một chi nhánh mới được thành lập, tuy có nhiều đổi mới trong hoạt động quản lý nhưng do số lượng cán bộ nhân viên còn thấp và phần lớn là những nhân viên trẻ, do vậy, trình độ quản lý chưa theo kịp với sự phát triển chung của nền kinh tế, ảnh hưởng không chỉ đến hoạt động huy động vốn mà còn tới kết quả kinh doanh của ngân hàng. Do năng lực tài chính của ngân hàng: Là một chi nhánh ngân hàng cấp 3 mọi khoản chi phí để đầu tư cho cơ sở vật chất, máy móc trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng đều phải xin ý kiến và trình lên ngân hàng cấp trên duyệt, do đó, vốn để đầu tư cho công tác huy động vốn bị hạn chế, làm giảm khả năng huy động vốn của ngân hàng. Do vị trí trụ sở giao dịch, quy mô hoạt động của ngân hàng: Quy mô hoạt động của ngân hàng nhỏ hẹp nên không thể thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng đến với ngân hàng, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh giảm, hiệu quả của công tác huy động vốn chưa cao. Do quy mô cơ cấu tổ chức phòng ban của ngân hàng còn chưa hợp lý, chưa có phòng chuyên về marketing nghiên cứu thị trường, hiệu quả của công tác nghiên cứu, phân tích thị trường chưa cao, việc nắm bắt thời cơ và thu thập thông tin về khách hàng còn chậm, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do sản phẩm dịch vụ và phương thức huy động của ngân hàng chủ yếu là hình thức truyền thống, chưa phát triển hệ thống các hình thức huy động hiện đại. Mạng lưới huy động của chi nhánh còn nhỏ hẹp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng chưa cao. Nền kinh tế càng phát triển thì các hình thức huy động hiện đại với mạng lưới chi nhánh rộng khắp sẽ tạo hình ảnh và uy tín cho ngân hàng trên thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, trình độ cán bộ nhân viên của ngân hàng cao thì quá trình thực hiện nghiệp vụ diễn ra nhanh chóng, chính xác, an toàn và có hiệu quả giúp ngân hàng giảm thấp chi phí, mở rộng hoạt động, thu hút khách hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Với hình thức huy động truyền thống, mạng lưới nhỏ, trình độ cán bộ nhân viên chưa cao thì khả năng tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trong nền kinh tế của ngân hàng Tây Hồ sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng cần đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới các phương thức huy động, mở rộng mạng lưới, có chính sách đào tạo và đào tạo lại trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng, xây dựng phòng ban chuyên về nghiên cứu thị trường (marketing ngân hàng), tạo hình ảnh và nâng cao uy tín, vị thế, hiệu quả hoạt động của ngân hàng. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN&PTNT TÂY HỒ . 3.1. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG TRONG NĂM TỚI . Năm 2003 được dự đoán là một năm kinh tế sẽ phát triển mạnh, nhanh và vững chắc hơn năm 2002, nhiều dự án kinh tế được thực thi, nhiều khu công nghiệp mới được hình thành và thu hút nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế những tháng đầu năm có xu hướng tăng so với cùng kỳ, các hoạt động dịch vụ thương mại được mở rộng và phát triển. Tuy nhiên bên cạnh sự tăng trưởng đó còn có nhiều khó khăn cần khắc phục: tình hình kinh tế xã hội còn nhiều hạn chế, tình hình thế giới đang diến ra với chiều hướng bất lợi, chiến tranh Irắc xảy ra đã tác động mạnh đến sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới và của mỗi quốc gia, hoạt động ngoại thương bị hạn chế, giá cả hàng hoá, sản phẩm tăng… nền kinh tế sẽ có nhiều biến động lớn . Đời sống dân cư tuy có sự tăng trưởng nhưng chưa ổn định, tất cả những điều đó đã đặt ngân hàng Tây Hồ trước những cơ hội và thách thức cần phải vượt qua. Đối với ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ, năm 2003 được đánh giá là năm có nhiều cơ hội để ngân hàng có thể mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng nguồn vốn huy động, mở rộng mạng lưới. Ngân hàng đã đặt ra mục tiêu cho hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động năm 2003 sẽ đạt 500 tỷ, tăng 108 tỷ (26%) so với năm 2002. Tăng nguồn vốn huy động trong dân cư từ 35% năm 2002 lên 45% năm 2003, tăng nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế lên khoảng 30%, giảm dần nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng nhằm tăng tính ổn định, giảm chi phí huy động vốn . Tăng nguồn huy động từ tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn nhằm làm tăng tính ổn định của nguồn vốn, ổn định nguồn vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu, đa dạng về kỳ hạn, mở rộng mạng lưới huy động và phân phối nguồn vốn (tăng thêm 1 –2 phòng giao dịch ). 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN ĐỐI VỚI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN&PTNT TÂY HỒ . Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng luôn phải chịu tác động của thị trường, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng luôn luôn có những tồn tại nhất định, huy động vốn cũng không nằm ngoài sự tác động đó. Do vậy, để nâng cao hiệu quả huy động vốn, ngân hàng luôn phải tìm kiếm những giải pháp nhằm hạn chế sự tác động, dự đoán những tác động trong tương lai, nắm bắt thời cơ. Như vậy, để nâng cao hiệu quả huy động vốn, ngân hàng cần nghiên cứu một số giải pháp sau: Đa dạng hóa hình thức huy động vốn . Hình thức huy động vốn là một chỉ tiêu đặc biệt quan trọng để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Các hình thức huy động vốn có tác động trực tiếp đến công tác huy động vốn, nó là kênh dẫn dắt mọi nguồn vốn trong xã hội đến với ngân hàng, hay là công cụ để ngân hàng tiến hành hoạt động huy động vốn. Với vai trò như vậy, các hình thức huy động vốn có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với công tác huy động vốn mà cả với hoạt động chung của ngân hàng . Nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, tích luỹ từ thu nhập ngày một lớn, do đó nhu cầu sinh lợi từ khoản tiền tích luỹ cao, đây là một điều kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn của ngân hàng, không những vậy, xã hội phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán, trao đổi tăng lên với khối lượng tiền giao dịch là rất lớn, để đảm bảo an toàn nhanh chóng thì ngân hàng được coi là một trung gian thanh toán đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Như vậy, ngân hàng không chỉ là nơi gửi tiền với mục đích sinh lợi đơn thuần mà còn là nơi cung cấp các tiện ích trong thanh toán . Tuy nhiên vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là phải huy động được các nguồn vốn trong xã hội, để làm được điều đó đòi hỏi ngân hàng phải thoả mãn tốt nhất nhu cầu của mọi khách hàng (người gửi tiền), mà nhu cầu của khách hàng thì vô cùng đa dạng: về kỳ hạn, loại tiền, lãi suất … Đa dạng hình thức huy động vốn là cách thức tốt nhất để ngân hàng có thể thoả mãn được các nhu cầu của khách hàng. Đa dạng về loại hình huy động: huy động tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, vay vốn các tổ chức tín dụng, kho bạc… và đa dạng về kỳ hạn: 3,6,9,12,tháng, huy động trung và dài hạn. Đa dạng về loại tiền huy động: ngoài nội tệ, ngoại tệ, ngân hàng còn phải đáp ứng nhu cầu ký gửi của khách hàng về các loại đá quý, bất động sản, tài sản có giá trị… vì đó là yếu tố tâm lý, người gửi tiền không muốn bán những tài sản mà họ muốn vay tiền ngân hàng thông qua hình thức ký thác các tài sản và sau khi hoàn vốn họ sẽ nhận lại tài sản của mình . Đa dạng hình thức huy động vốn chính là nhân tố quan trọng tác động nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng, ngoài ra thoả mãn tốt nhất nhu cầu của mọi cá nhân, tổ chức… là điều kiện để thu hút khách hàng đến với ngân hàng, củng cố vị trí, tăng khả năng cạnh tranh, tăng hiệu quả kinh doanh . 3.2.2 . Tăng cường hiệu quả của hoạt động marketing trong huy động vốn. “Nhiệm vụ của một doanh nghiệp là phải xác định đúng đắn những nhu cầu, mong muốn và lợi ích của các thị trường mục tiêu, trên cơ sở đó đảm bảo thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó một cách hữu hiệu hơn các đối thủ cạnh tranh”- (giáo trình Marketing ngân hàng), do vậy, hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt ngân hàng không thể ngồi chờ khách hàng đem tiền đến gửi vào ngân hàng mà phải tiến hành các biện pháp nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của người gửi tiền để từ đó thoả mãn tốt nhất mong muốn và lợi ích của họ, có như vậy ngân hàng mới thu hút được các nguồn vốn trong xã hội, hay nói cách khác ngân hàng phải xây dựng chiến lược khách hàng mà qua đó ngân hàng có thể tiến hành các hình thức thu hút vốn phù hợp để có thể vừa thoả mãn lợi ích của người gửi tiền vừa đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả . “Chìa khoá để đạt được các mục tiêu trong kinh doanh là các doanh nghiệp phải xác định đúng đắn những nhu cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu và tìm mọi cách thoả mãn tốt nhu cầu, mong muốn đó bằng những ưu thế hơn hẳn đối thủ cạnh tranh”- (giáo trình Marketing ngân hàng). Như vậy, ngân hàng không chỉ thoả mãn tốt nhất lợi ích của người gửi tiền mà còn phải thoả mãn những lợi ích đó bằng những phương tiện, cách thức có ưu thế nhất . Để xác định được những điều đó, hoạt động marketing có vai trò rất lớn trong công tác huy động vốn của ngân hàng: nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu mà thị trường mong muốn, xác định lợi ích của khách hàng, dự đoán những nhu cầu trong tương lai, trên cơ sở những thông tin thị trường về nguồn vốn, khối lượng vốn, thời gian, ngân hàng có thể xây dựng chiến lược huy động vốn đúng đắn với các phương thức huy động phù hợp, cơ cấu nguồn vốn hợp lý và chi phí thấp nhất . Do vậy, để nâng cao hiệu quả huy động vốn, ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ cần phải tăng cường hiệu quả của hoạt động marketing, hoạt động marketing có hiệu quả thì không chỉ huy động vốn mà hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng sẽ đạt hiệu quả cao . 3.2.3. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của ngân hàng . Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng sẽ không cao nếu như nguồn vốn huy động không đủ cho yêu cầu hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng nhưng hiệu quả cũng không cao khi nguồn vốn huy động lại dư thừa so với nhu cầu sử dụng vốn hay cơ cấu nguồn vốn không hợp lý . Mục đích của công tác huy động vốn là huy động được càng nhiều vốn tiền gửi càng tốt, nhưng mục đích cuối cùng để làm gì? rõ ràng để cho vay, đầu tư. Do vậy, ngân hàng cần phải đẩy mạnh hoạt động tín dụng, qua đó tạo nên mối quan hệ hai chiều giữa ngân hàng và các doanh nghiệp, ngân hàng tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và khi các doanh nghiệp có những khoản thu thì đó chính là nguồn vốn huy động của ngân hàng. Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế là một nguồn có tiềm năng lớn mà ngân hàng cần phải khai thác nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn . Như vậy không chỉ tiến hành nghiên cứu thị trường mà ngân hàng còn phải xem xét khả năng sử dụng vốn của chính mình từ đó huy động vốn cho hợp lý: về cơ cấu, thời gian, khối lượng… tránh trường hợp nguồn vốn bị dư thừa hay thiếu hụt, tránh sự lãng phí vốn, ngân hàng cần có chiến lược chiến lược sử dụng vốn hợp lý và từ chiến lược đó ngân hàng tiến hành phân bổ nguồn huy động vốn, hiệu quả sử dụng vốn càng cao thì hiệu quả huy động vốn càng tăng lên. Bản chất hoạt động của ngân hàng là “đi vay để cho vay”, huy động vốn và sử dụng vốn luôn đi liền và bổ sung hỗ trợ cho nhau, là đầu vào và đầu ra của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do đó, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng . Xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách lãi suất huy động vốn linh hoạt . Đối với bất kỳ một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào khi gửi tiền vào ngân hàng ngoài mục đích hưởng các tiện ích trong thanh toán ra thì điều đầu tiên mà họ quan tâm là lãi suất của ngân hàng, bao giờ họ cũng mong muốn khoản lợi sinh ra là lớn nhất, khi gửi tiền vào ngân hàng họ mong muốn sẽ được hưởng lãi suất cao, tuy nhiên nếu huy động lãi suất cao sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, gây ra biến động về lợi nhuận, do vậy đi đôi với việc đa dạng hoá hình thức huy động, ngân hàng cần phải đa dạng về lãi suất cho phù hợp. Hoạt động trên địa bàn quận Tây Hồ, nơi mà khách hàng rất nhạy cảm với lãi suất, ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ cần phải có chính sách lãi suất huy động hợp lý nhằm thu hút vốn trong xã hội . Thực thi có hiệu quả chính sách lãi suất là một giải pháp để ngân hàng thu hút nguồn vốn trong nền kinh tế, nhìn vào chính sách lãi suất của một ngân hàng có thể đánh giá mức độ thoả mãn lợi ích khách hàng của ngân hàng, số tiền huy động tỷ lệ thuận với mức độ hấp dẫn của lãi suất bởi vì các cá nhân, tổ chức kinh tế chỉ gửi tiền vào ngân hàng khi mà số tiền thu được thông qua lãi suất lớn hơn khoản tiền mà nếu đem đầu tư sản xuất kinh doanh thu được và số tiền đó phải đảm bảo an toàn về giá trị và sức mua . Xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách lãi suất huy động linh hoạt và ổn định sức mua đồng tiền là một giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động vốn . Phát triển và mở rộng mạng lưới huy động có hiệu quả . Mở rộng và hoàn thiện mạng lưới huy động vốn là một trong những giải pháp đầu tiên để ngân hàng thu hút được các nguồn vốn trong nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, quá trình tích luỹ hình thành, những khoản thu nhập nhỏ dư thừa trong quá trình chi tiêu thường được người dân tích luỹ tại nhà vì với tâm lý món tiền nhỏ ngại tới ngân hàng, tuy nhiên có rất nhiều khoản tiền nhỏ như vậy mà ngân hàng đã bỏ qua, vậy để có thể “tích tiểu thành đại”, để huy động được mọi nguồn vốn trong xã hội dù là nhỏ nhất thì mạng lưới huy động phải rộng, phải tiếp cận với mọi tầng lớp dân cư . Nằm trên địa bàn quận Tây Hồ, nơi có trụ sở giao dịch của nhiều ngân hàng: công thương, ngoại thương, đầu tư, ngân hàng cổ phần với rất nhiều phòng giao dịch, ngoài ra lại có rất nhiều quỹ tín dụng của các tổ chức, công ty tài chính, do vậy để huy động được vốn, chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ phải có chiến lược mở rộng mạng lưới huy động của mình; năm 2002, chi nhánh ngân hàng Tây Hồ có một trụ sở làm việc và 2 phòng giao dịch; năm 2003 mục tiêu của ngân hàng là mở thêm 1 – 2 phòng giao dịch và kế hoạch đến năn 2005, chi nhánh sẽ có khoảng 7 phòng giao dịch, đây có thể được coi là một ưu thế tạo lập thị trường giúp cho ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ tăng trưởng nhanh nguồn vốn huy động, tuy nhiên đi đôi với việc mở rộng mạng lưới huy động là việc hoàn thiện công tác, nghiệp vụ cho phù hợp và tương xứng, và mở rộng mạng lưới huy động phải phù hợp với năng lực tài chính, khả năng cung cấp tín dụng của ngân hàng. Như vậy, phát triển và hoàn thiện mạng lưới huy động đáp ứng nhu cầu, lợi ích của dân cư là giải pháp để thu hút nguồn vốn trong xã hội, tăng quy mô nguồn vốn huy động, tăng hiệu quả huy động vốn của ngân hàng . Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng phục vụ cho hoạt động huy động vốn. Khoa học công nghệ là những yếu tố tác động thúc đẩy nhanh hoạt động cho mọi lĩnh vực, tăng năng suất lao động, giảm chi phí, giảm sức lao động và tạo ra tính hiện đại cho các loại hình sản phẩm, dịch vụ. Để tăng khối lượng vốn huy động, để thu hút được mọi nguồn vốn, tạo lòng tin cho người gửi tiền thì hiện đại hoá các phương thức huy động vốn được coi là một trong nhiều nhân tố có tính quyết định, áp dụng công nghệ mới: tin học, điện tử vào công tác huy động, đưa ra nhiều hình thức huy động mới: huy động vốn tại nhà, huy động qua mạng…là một giải pháp nâng cao tính hiện đại cho công nghệ ngân hàng . Là một chi nhánh của ngân hàng NN&PTNT Tp Hà Nội, các phương thức huy động của chi nhánh ngân hàng Tây Hồ chủ yếu là phương thức truyền thống và mức độ áp dụng công nghệ không cao, đây là một hạn chế của ngân hàng Tây Hồ trong công tác huy động vốn. Tuy nhiên để tiến hành hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đòi hỏi phải phù hợp với năng lực tài chính của ngân hàng, trình độ cán bộ công nhân viên, chi phí đào tạo và phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế trên địa bàn . Nền kinh tế càng phát triển, đời sống của người dân được nâng cao thì nhu cầu tiếp cận với các công nghệ hiện đại sẽ tăng lên cho nên, ngay từ bây giờ, việc áp dụng các công nghệ mới sẽ tạo ra những nét đặc trưng mới cho công tác huy động vốn của ngân hàng, thu hút nguồn vốn, nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn . Nâng cao hiệu quả hoạt động khuyếch trương của ngân hàng . Ngày nay, việc mở rộng hoạt động của ngân hàng thông qua hoạt động khuyếch trương, quảng cáo là rất cần thiết, với phương châm hoạt động “mọi khách hàng là bạn đồng hành của ngân hàng”, ngân hàng phải làm sao cho mọi người hiếu rõ những lợi ích khi gửi tiền vào ngân hàng: mức lãi suất, thủ tục, chính sách ưu đãi…do đó, ngân hàng cần phải đẩy mạnh và đa dạng hoá hoạt động, hình thức quảng cáo, khuyếch trương, qua đó, uy tín của ngân hàng sẽ tăng lên, tạo được niềm tin nơi khách hàng. Song song với hình thức quảng cáo là hình thức khuyến mãi, người gửi tiền không chỉ được hưởng mức lãi suất hợp lý mà họ còn được hưởng những dịch vụ, những món quà tặng do hoạt động khuyến mãi mang lại, hình thức khuyễn mãi đa dạng sẽ tạo ra sự thích thú cho khách hàng từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng tiến hành công tác huy động vốn có hiệu quả. 3.2.8. Tạo niềm tin nơi khách hàng . Phải nói rằng lòng tin là một trong những vấn đề sống còn của ngân hàng, ngân hàng hoạt động được hay không là nhờ vào lòng tin của công chúng, tạo lòng tin cho công chúng là một giải pháp hữu hiệu nhất xoá đi những e ngại của dân chúng đối với hoạt động của ngân hàng, thu hút nguồn vốn, nâng cao hiệu quả huy động vốn . Cơ sở vật chất kỹ thuật . Trong điều kiện hoạt động hiện nay, cơ sở vật chất là một trong những cơ sở khá vững mạnh đề tạo lòng tin cho người gửi tiền, ngân hàng cần phải xây dựng được trụ sở làm việc với quy mô rộng lớn, vị trí thuận tiện, khang trang hiện đại, thời gian phục vụ nhanh chóng kịp thời, đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của ngườu gửi tiền, tạo ra sự tin tưởng cho người gửi tiền, củng cố uy tín, tăng khả năng cạnh tranh, tăng hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Báo cáo hoạt động kinh doanh của ngân hàng . Ngân hàng là một trung gian tài chính, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng và không thể biết ngân hàng sử dụng số tiền của mình vào mục đích, hoạt động kinh doanh nào?, nhưng điều mà người gửi tiền muốn biết đó là ngân hàng kinh doanh có lãi hay không?, hoạt động kinh doanh của ngân hàng có ổn định, an toàn hay không?, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng có chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro hay không ?…Do vậy, ngân hàng cần phải công bố công khai kết quả hoạt động của mình thông qua các báo cáo tài chính, đây có thể coi là một giải pháp không chỉ nâng cao hiệu quả huy động vốn mà còn nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường, tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh và tính bảo mật trong hoạt động kinh doanh mà có rất ít ngân hàng thực hiện giải pháp này (thường là thông qua các đợt kiểm tra của cơ quan kiểm toán), nhưng đây chính là cơ sở để người gửi tiền tin tưởng vào hiệu quả kinh doanh của ngân hàng . Chính sách bảo vệ tiền gửi của khách hàng . Khách hàng không chỉ gửi tiền vào ngân hàng vì mục đích sinh lời hay hưởng các lợi ích do ngân hàng đem lại mà còn muốn tiền của mình được đảm bảo an toàn cả về khối lượng và giá trị, do vậy ngân hàng cần có các biện pháp để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền: mua bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng, khi cấp tín dụng phải có sự đảm bảo….Ngoài ra, ngân hàng cần phải có hệ thống luật để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, có như vậy, ngân hàng mới khẳng định được uy tín, vị thế của mình, tạo lòng tin cho khách hàng, tạo điều kiện cho công tác huy động vốn của ngân hàng . Đổi mới phong cách phục vụ của ngân hàng . Trong môi trường hoạt động như hiện nay, khi mà sự đa dạng hoá trong hình thức huy động vốn hay việc áp dụng công nghệ ngân hàng diễn ra từng ngày thì phong cách phục vụ chính là nhân tố tạo ra nét đặc trưng cho hoạt động của ngân hàng, thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Phong cách phục vụ, thái độ của nhân viên ngân hàng chính là cái gương soi hình ảnh của ngân hàng. Tại sao khách hàng bước vào ngân hàng lại bỡ ngỡ, ngại ngùng? đó là do yếu tố tâm lý, vậy để làm sao thay đổi điều đó phải nhờ vào thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng, với một thái độ giao tiếp cở mở, hoà nhã, tận tâm, nhiệt tình giải đáp các thắc mắc của khách hàng… thì kết quả đạt được không chỉ là thu hút được nguồn vốn của khách hàng mà còn tạo được uy tín cho ngân hàng. Ngoài thái độ, phong cách phục vụ, ngân hàng còn phải quan tâm đến công tác đào tạo trình độ cho cán bộ nhân viên ngân hàng, đặc biệt là trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Không chỉ có phong cách phục vụ mà vấn đề thủ tục hoạt động cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác huy động vốn, người gửi tiền cần các thủ tục phải nhanh chóng, tiện lợi và an toàn vì họ không muốn mất nhiều thời gian chờ đợi để được gửi tiền hay mở tài khoản. Trong nền kinh tế thị trường, thời gian là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với mọi người do đó, ngân hàng cần bố trí các phòng ban sao cho hợp lý khoa học, rút ngắn các thủ tục, tiết kiệm thời gian cho người gửi tiền và cho cả chính ngân hàng . Một vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm giải quyết đó là thời gian hoạt động của ngân hàng, người gửi tiền chủ yếu là tầng lớp dân cư, người lao động... nếu thời gian hoạt động của ngân hàng trùng với thời gian làm việc của người gửi tiền thì hiệu quả huy động vốn của ngân hàng sẽ không cao do vậy, ngân hàng nên bố trí thời gian hoạt động sao cho hợp lý nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư . 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ . Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước . Sự ổn định của môi trường vĩ mô: môi trường vĩ mô có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huy động vốn của ngân hàng, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hay làm cản trở, hạn chế công tác huy động vốn của ngân hàng. Nhìn chung sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cơ bản và quan trọng cho mọi sự tăng trưởng, đẩy mạnh và thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn vào ngân hàng . Sự ổn định tiền tệ, tốc độ lạm phát: đây là một trong những điều kiện quan trọng và cần thiết cho việc thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm huy động vốn. Điều chỉnh chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá đồng bộ nhịp nhàng, các công cụ lãi suất, tỷ giá phải thực sự phù hợp với biến động của thị trường, tránh gây đột biến cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của ngân hàng. Hoàn thiện hệ thống thông tin dự báo về thị trường, tạo điều kiện hỗ trợ, tư vấn cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế và các NHTM. Thiết lập môi trường kinh tế lành mạnh, ổn định giá trị đồng tiền, chính sách lãi suất hợp lý, kích thích các cá nhân và TCKT gửi tiền vào ngân hàng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM. Tạo lập môi trường pháp lý ổn định và phù hợp: chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các đường lối, chính sách đổi mới, cải tạo hệ thống pháp lý cũng có tác động đến công tác huy động vốn của ngân hàng, xây dựng một hệ thống luật pháp ổn định, tạo hành lang pháp lý an toàn cho mọi hoạt động kinh doanh . Xây dựng cơ chế chính trị ổn định: cơ chế chính trị có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chính trị có ổn định, nền kinh tế có phát triển thì mọi hoạt động của ngân hàng mới đạt hiệu quả cao . Các cơ quan quản lý nhà nước và địa phương cần có chính sách thúc đẩy sản xuất kinh doanh trên địa bàn, mở rộng hoạt động du lịch, xây dựng các trung tâm văn hoá, nhà máy chế biến sản phẩm nông nghiệp, phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất trên địa bàn, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước Việt Nam và ngân hàng NN&PTNT Việt Nam. Là hai ngân hàng thuộc cấp quản lý ở tầm vĩ mô, hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ chịu sự quản lý trực tiếp của ngân hàng cấp trên nhằm thực hiện đúng mục tiêu, đường lối, chính sách, chương trình kinh tế đã đặt ra, tuy vậy, chi nhánh ngân hàng Tây Hồ cần được độc lập hơn trong hoạt động kinh doanh của mình để có thể tận dụng được nhiều cơ hội trong hoạt động kinh doanh, do đó, ngân hàng NN&PTNT Việt Nam cần tạo điều kiện để mở rộng phạm vi, quyền hạn cho chi nhánh ngân hàng Tây Hồ. Sự hình thành và phát triển thị trường vốn: trong giai đoạn phát triển hiện nay, sự hình thành và phát triển thị trường vốn là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Thị trường vốn phát triển tạo điều kiện cho ngân hàng phát hành chứng khoán, trái phiếu huy động vốn có mệnh giá lớn và có thời gian dài, thị trường vốn là một kênh dẫn dắt vốn có hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển tiền tệ, thúc đẩy nền sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng . Tạo điều kiện về mặt pháp lý cũng như tài chính giúp chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ tìm kiếm và xây dựng trụ sở giao dịch mới khang trang và hiện đại hơn . Tạo điều kiện về nhân sự: số lượng, chất lượng đảm bảo cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng Tây Hồ. Tăng cường cho chi nhánh ngân hàng cơ sở vật chất hiện đại nhằm tăng hiệu quả trong công tác huy động vốn, tăng hiệu quả kinh doanh của toàn ngân hàng . KẾT LUẬN . Trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam luôn đóng một vai trò quan trọng, thúc đẩy, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cùng với chức năng “tạo tiền”, cung ứng vốn cho nền kinh tế, cho hoạt động lưu thông hàng hoá, tiền tệ, ngân hàng thương mại đã tiến hành hoạt động tích lũy, tập trung và phân phối lại các nguồn vốn trong xã hội . Nền kinh tế phát triển mạnh, chúng ta đang đối mặt với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, thị trường tài chính mở rộng về quy mô và phạm vi hoạt động, tăng cường sự hợp tác vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh, vừa thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế, thúc đẩy nhu cầu đầu tư trong nước, nền kinh tế đòi hỏi một khối lượng vốn rất lớn. Vậy vốn đó được lấy ở đâu?, nguồn cung cấp chính là các ngân hàng thương mại. Vấn đề đặt ra là các NHTM huy động nguồn vốn đó từ đâu và bằng cách nào?. Do đó hiệu quả huy động vốn của các NHTM là hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế . Để ngân hàng vững chắc đi lên thì nhất thiết hệ thống ngân hàng phải có những nỗ lực rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà chất lượng và hiệu quả huy động vốn là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng . Đứng trước nhu cầu về vốn của nền kinh tế, chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ đang phải đối đầu với những thử thách trong hoạt động huy động vốn, mặc dù hoạt động huy động vốn của ngân hàng trong những năm qua đã thu được những kết quả khả quan: tốc độ tăng trưởng nguồn vốn nhanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế, tuy nhiên, qua phân tích tình hình thực tiễn hoạt động huy động vốn của ngân hàng trong những năm vừa qua, tôi xin mạnh dạn nêu ra một số tồn tại cơ bản của ngân hàng cùng một số ý kiến đóng góp nhằm giải quyết những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động vốn của nhi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ. Đây là một đề tài rộng và khá phức tạp nên những ý kiến đề xuất nêu trong luận văn chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, tham khảo từ phía ngân hàng để bài viết có tính thực tiễn hơn . Để hoàn thành bài khoá luận này, trước tiên em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo hướng dẫn tận tình chu đáo của cô giáo NCS . Nguyễn Thị Thanh Sơn, của các thầy cô giáo khoa nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng – Học Viện Ngân Hàng và sự giúp đỡ của ban giám đốc, các cô chú, anh chị trong phòng kinh doanh, phòng kế toán của ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng . Tác giả : Tiến sĩ Tô Ngọc Hưng 2. Giáo trình Quản trị ngân hàng . Tác giả : Tiến sĩ Nguyễn Duệ Giáo trình Lý thuyết tiền tệ ngân hàng Tác giả : Phó tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hùng Giáo trình Marrketing ngân hàng Tác giả : Phó giáo sư, phó tiến sĩ Trần Minh Đạo Quyết định thành lập chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ . Các báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ năm 2000, 2001, 2002 . Báo cáo kết quả tín dụng của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ năm 2000, 2001, 2002 . Các tạp chí của ngân hàng NN Việt Nam . Các văn bản luật Ngân hàng nhà nước và luật các TCTD . Các văn bản, quy chế về huy động vốn của ngân hàng NN Tp Hà Nội và của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số Giải pháp & kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân Hàng NN & PTNT Tây Hồ.doc
Luận văn liên quan