Đề tài Nguồn thu từ dầu, chính sách chi tiêu của chính phủ và sự tăng trưởng

Mặc dù cung cấp những hướng dẫn chung, những đề nghị của chúng tôi đối với chính sách nên được thực thi một cách thận trọng. Như Barma và cộng sự (2012) nhấn mạnh: căn cứ các chính sách kinh tế chính trị cụ thể đối với mỗi quốc gia và tình hình thực tế của nền kinh tế khác nhau nên hoạch định những cải cách chính sách phù hợp để gia tăng lợi ích xã hội từ nguồn tài nguyên sẵn có. Thêm nữa, nghiên cứu này không tính đến tác động có thể có của chất lượng ngân sách và thể chế dân chủ trong quản lý nguồn thu từ dầu trong thời kỳ tăng cao, hay trong vi ệc xác định quy mô và thành phần của chi tiêu. Theo kinh nghiệm của quỹ tài nguyên thiên nhiên ở nhiều quốc gia phụ thuộc vào dầu mỏ, ví dụ, cho thấy rằng sự tồn tại đơn thuần của một quỹ không đảm bảo quản lý tốt các nguồn tài nguyên lớn. Một thể chế chính trị yếu và các tổ chức nhỏ bé về môi trường là điều kiện cho các quy tắc tài chính nghiêm ngặt bị vi phạm. Vì vậy, để một tổ chức có thể giúp giảm giảm bớt áp lực chi tiêu công, cần khuyến khích các nhà chính trị thay đổi quan điểm để đảm bảo tính thận trọng trong chính sách tài khóa (Humphreys & SANDBU, 2007). Vì vậy, một điểm quan trọng đáng để nghiên cứu thêm là sự tương tác tiềm năng giữa chất lượng quản lý và hiệu quả tài chính trong những nền kinh tế có tài nguyên phong phú, và làm thế nào kênh này có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng.

pdf36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2201 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn thu từ dầu, chính sách chi tiêu của chính phủ và sự tăng trưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p và dữ liệu thực nghiệm được đưa ra. Những kết quả và các tranh luận chính sách được trình bày trong phần bốn. Phần năm là kết luận . 2. CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG TRONG CÁC NƯỚC XUẤT KHẨU DẦU Mô hình tăng trưởng nội sinh bắt nguồn từ mô hình tân cổ điển trong đó họ cho phép các chính sách công có những tác động tăng trưởng lâu dài. Trong một mô hình tiêu chuẩn tăng trưởng tân cổ điển, sự khác biệt chính sách tài khóa chỉ có thể được giải thích qua quan sát được sự khác biệt trong mức thu nhập chứ không phải tăng trưởng. Những chuyên đề nghiên cứu của Barro (1990) và Barro và Sala-i-Martin (1992) phát triển một mô hình tăng trưởng nội sinh trong đó vốn công có hiệu ứng lan tỏa trên năng suất vốn tư nhân. Tính chất bên ngoài này cho phép vốn công ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn, ngụ ý là sự khác biệt trong chính sách tài khóa giải thích một số quan sát khác biệt trong sự phát triển lâu dài giữa các quốc gia. Ở các nước xuất khẩu dầu mỏ, tài chính phụ thuộc vào dầu mỏ làm cho quản lý tài chính rất khó khăn. Có ít nhất ba đặc điểm tài chính có tiềm năng tăng trưởng chậm. Thứ nhất, giá dầu tăng có xu hướng giảm bớt sự thúc đẩy để điều chỉnh chính sách tài khóa và làm giảm động lực cho sự thận trọng tài chính. Ngoài ra, tích lũy thặng dư ngân sách NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 5 trong thời gian bùng nổ dầu thường là không phổ biến về chính trị, do đó, áp lực tăng chi tiêu công (Talvi và Végh, 2005). Chính phủ các nước xuất khẩu dầu có xu hướng phải đối mặt với nhu cầu cấp bách để "hiện đại hóa" nền kinh tế để đáp ứng nguyện vọng của người dân và để chia sẻ tiền thuê tài nguyên với công chúng. Hệ quả trực tiếp là tham gia vào các dự án công cộng có uy tín rất lớn, mở rộng việc làm công cộng, và trải qua chính sách tài khóa thuận chu kỳ. Tornell và Lane (1999) đưa ra một lời giải thích nền kinh tế chính trị: "hiệu ứng tham lam ". Khi chính phủ phân cấp quản lý, các nhà hoạch định chính sách tài khóa phải đối mặt với áp lực lớn, từ sự cạnh tranh của các nhóm có quyền lực trong chính quyền nhằm chiếm đoạt một phần nguồn thu từ dầu được phân phối đến người dân của họ , từ việc tăng chi tiêu chính phủ và sự bảo hộ của chính phủ trong thời gian bùng nổ giá dầu. Alesina và cộng sự (2008) cung cấp một lý thuyết thay thế phù hợp nhất đối với các nước đang phát triển với nạn tham nhũng nhưng chịu trách nhiệm trước chính phủ. Theo lý thuyết của họ, những cử tri này quan sát thấy sự được sự bùng nổ trong giá dầu nhưng không thể biết được số tiền được hưởng lợi chiếm đoạt của các quan chức tham nhũng. Vì vậy, để "làm cho con quái vật chết vì đói " họ có nhu cầu hợp lý hơn hàng hóa công (hoặc thuế thấp hơn), tạo ra chính sách tài khóa thuận chu kỳ. Lập luận khác, phù hợp hơn trong bối cảnh không có nền dân chủ, ủng hộ "lý thuyết thương mại", trong đó người sống bằng tiền phúc lợi tuyên bố "chi tiêu" theo cách của họ để ổn định chính trị và hòa bình xã hội. Trong mô hình này, chính phủ các nước xuất khẩu dầu cung cấp thêm hàng hóa công và các loại thuế thấp hơn, và ngược lại, nhu cầu hàng hóa công ít hơn và ít quyền chính trị. Điều này sẽ có tác dụng làm tăng chi tiêu công khi có sự bảo trợ của chính phủ đặc biệt là trong thời gian bùng nổ (Robinson và cs, 2006;. Aslaksen & Torvik, 1006; Schwarz, 2008). NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 6 Các nhánh tăng trưởng kinh tế của việc tăng trong chi tiêu trong thời gian bùng nổ có thể được truyền qua cơ chế "căn bệnh Hà Lan " mà trong đó nguồn thu từ dầu được đánh giá đúng qua tỷ giá hối đoái thực. Chi tiêu chính phủ cao hơn đối với hàng hoá phi thương mại (ví dụ, y tế, giáo dục, và các dịch vụ công cộng) đẩy giá của hàng hoá phi thương mại lên cân xứng với hàng hoá thương mại, dịch chuyển các nguồn lực của khu vực phi dầu mỏ đến khu vực phi thương mại. Đối với phạm vi mà các khu vực sản xuất cung cấp một tác động tích cực lan tỏa đến các lĩnh vực khác, thì sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ đối với hàng hóa phi thương mại sẽ có tác động yếu đối với tăng trưởng dài hạn (Sachs và Warner, 1995). Thứ hai, nhiều nghiên cứu cho rằng sự gia tăng lớn trong đầu tư công trong suốt sự bùng nổ là không hiệu quả và thường dẫn đến khoản sinh lời thấp. Mô hình của Robinson và Torvik (2005) nghiên cứu các nhà chính trị ưu đãi trong nguồn tài nguyên sẵn có ở nước đang phát triển đã xây dựng lý thuyết con voi trắng, tức là dự án đầu tư với lợi ích xã hội âm. Sau những cú sốc dầu đầu tiên và thứ hai của năm 1970, 85%, 50%, và 46% trong tổng thu nhập bất thường được tích lũy cho chính phủ của Nigeria, Indonesia, Venezuela, tương ứng, được chuyển về tăng cường đầu tư công mà không có bất cứ sự tăng trưởng nào ( Gelb và cộng sự, 1988). Tình hình đã thay đổi một chút trong những năm 2000. Theo báo cáo của IMF tại Trung Đông và Trung Á, trong Hội đồng Hợp Tác Các Nước Vùng Vịnh, đầu tư công theo kế hoạch vượt quá 800 tỷ $ trong năm 2007-2008, đưa ra câu hỏi về khả năng hấp thụ hiệu quả đầu tư lớn như vậy. Thứ 3, nguồn thu từ dầu mỏ làm giảm tác động của nguồn thu trong nước và từ nguồn thu phi dầu mỏ, đặc biệt là các loại thuế (Bornhorst và cộng sự, 2008). Thêm nữa, những nước xuất khẩu dầu mỏ thường xuyên phải đối mặt với khó khăn vay vốn trong suốt chu kỳ giá dầu mỏ thấp điều đó làm giảm khả năng của các nhà quản trị chính sách tài khóa trong việc duy trì mức độ chi tiêu như trong quá khứ và trong việc thúc đẩy cắt NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 7 giảm chi phí. Những cắt giảm này thường có xu hướng là có chi phí xã hội cao do việc phân phối lại của cải và năng suất sản lượng thường thấp trong việc sử dụng vốn công cộng. 3. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM VÀ DỮ LIỆU Hệ thống bảng dữ liệu kỹ thuật GMM sử dụng những biến khác nhau có độ trễ thích hợp để tạo nên các biến nội sinh. Ngoài ra, nó cũng khai thác kích thước gộp của bảng điều khiển và do đó không hạn chế về độ dài của mỗi chuỗi thời gian trong bảng điều khiển. Điều này cho phép sử dụng một cấu trúc trễ thích hợp để khai thác các đặc điểm kỹ thuật của dữ liệu. Mặc dù có những lợi thế trên, nhưng phương pháp này vẫn có những thiếu sót quan trọng. Đầu tiên, nó chỉ cho phép chặn-không-dốc thay đổi theo nhóm. Như lập luận của Pesaran, Shin, và Smith (1997, 1999), giả định về tính đồng nhất của độ dốc có thể không thích hợp khi kích thước thời gian của bảng điều khiển là dài. Thứ hai, sự phụ thuộc vào dữ liệu chéo thì không được giải quyết. Vì vậy, nghiên cứu này đã theo phương pháp thứ hai dự toán. Pesaran, Shin, và Smith (1997 và 1999) ước lượng (PMG), bằng cách sử dụng cả hai: nhóm cá nhân và kích thước bảng điều khiển, có lợi thế là cho phép tính không đồng nhất trong ngắn hạn nhưng giả định tính đồng nhất trong dài hạn. Ước tính PMG cho phép chúng tôi: (i) ước tính co giãn dài hạn của bảng điều khiển, (ii) ước tính tốc độ điều chỉnh trở lại trạng thái cân bằng cho từng quốc gia, (iii) kiểm tra tính tính vững của các kết quả cốt lõi GMM, xem xét bảng điều khiển không đồng nhất và dữ liệu chéo trong mức độ phụ thuộc . 3.1. MÔ HÌNH DỮ LIỆU BẢNG NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 8 Xem xét mô hình sau đây: Ở đó, y là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người; V là một véc tơ bao gồm các biến liên quan đến giá dầu, F là một vector của các biến chính sách tài khóa; H là một vector của các biến kiểm soát phi tài chính, , một biến thời gian cố định không quan sát được, có tác động cụ thể đến quốc gia và là một thuật ngữ lỗi quan sát cụ thể. Các đặc điểm kỹ thuật năng động trong (1) cho thấy hiệu ứng cố định quốc gia cụ thể là tương quan với biến phụ thuộc trễ và một số biến cũ có thể là nội sinh. Điều đó làm tăng OLS không thống nhất và mối quan tâm điều chắc ước tính. Hệ thống dự toán (GMM), được phát triển bởi Arellano và Bover (1995), và Blundell và Bond (1998), đã khắc phục những vấn đề này. Nó sử dụng sự khác biệt trễ của các biến được xác định trước là công cụ cho các cấp và sự khác biệt của các biến nghiêm ngoại sinh (như trong các thủ tục IV tiêu chuẩn). Để nắm bắt được ảnh hưởng trực tiếp của giá dầu lên sự tăng trưởng, chúng bao gồm hai biến giải thích: tốc độ tăng trưởng hàng năm của giá dầu và sự biến động của giá dầu. Sau này được đo bằng phương sai có điều kiện thay đổi của giá dầu thu được bằng cách sử dụng mô hình GARCH (1,1). Chúng tôi thực hiện theo các đặc điểm kỹ thuật của Lee, Ni, và Ratti (1995), sử dụng dữ liệu hàng tháng về giá dầu từ tháng 5/1957 đến tháng 12/2008. Chính sách tài khóa được đại diện bởi các vector F. Mục tiêu chính của chúng tôi là nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn thu từ dầu trong thời kỳ tăng cao đến nền kinh tế thông qua những thay đổi trong các loại chi phí hoặc thay đổi trong thặng dư ngân sách của chính phủ. Vì những quyết định tài chính của chính phủ phụ thuộc lẫn nhau, chúng NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 9 tôi giới thiệu đầy đủ các hạn chế ngân sách nhà nước (GBC) trong mô hình tăng trưởng. Phụ thuộc lẫn nhau tài chính phát sinh từ những tác động của các tuyến tính của GBC yêu cầu bỏ qua một biến tài chính, , mục đích của sự ước tính. Bằng việc xây dựng, ceteris paribus, biến này đại diện cho phương thức tài chính của một sự thay đổi trong một trong các biến tài chính gồm các biến khác nhau, Khi nguồn thu ngân sách được bỏ qua trong khi tổng chi phí và cân bằng trong ngân sách được bao hàm trong hồi quy, hệ số tổng chi phí được xem như là ảnh hưởng thực sự của một sự gia tăng trong tổng chi tiêu trừ ảnh hưởng của một sự gia tăng tương ứng trong thu nhập, để lại cân đối ngân sách không thay đổi. Chính thức, véc tơ F có thể được thể hiện như Và , là nguồn tài chính, và vector của các hệ số như là Cuối cùng, phi tài chính vector H đại diện cho đầu tư tư nhân, mức độ của sự cởi mở, giáo dục, lạm phát, các tổ chức chính trị, và quản trị. 3.2. KIỂM ĐỊNH NGHIỆM ĐƠN VỊ TRÊN SỐ LIỆU DẠNG BẢNG, ĐỒNG LIÊN KẾT VÀ ƯỚC LƯỢNG PMG Chúng tôi kiểm định nghiệm đơn vị trên số liệu dạng bảng bằng cách sử dụng hai bài kiểm tra xem xét bảng không đồng nhất. Đầu tiên, bài kiểm tra Fisher của Maddala và Wu (1999) được dựa trên các giá trị p của kiểm định nghiệm đơn vị cá nhân, nhưng nó giả định không có dữ liệu chéo phụ thuộc vào giữa các nhóm. Thứ hai, kiểm tra CIPS của Pesaran (2007) là phiên bản thêm dữ liệu chéo của Im, kiểm tra của Pesaran và Shin (2003) đưa vào các dữ liệu chéo phụ thuộc lẫn nhau có thể đếm được. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 10 Sau đó chúng tôi tiến hành xác định tính đồng liên kết giữa các biến khác nhau. Chúng tôi sử dụng bốn bài kiểm tra bảng đồng liên kết được phát triển bởi Westerlund (2007). Các bài kiểm tra chính xác cho sự phụ thuộc dữ liệu chéo có thể trong số tất cả các đơn vị bảng và cho phép một mức độ lớn của tính không đồng nhất. Hai trong số những thử nghiệm này là kiểm tra trung bình nhóm trong đó tất cả các hệ số sửa lỗi được tự do khác nhau giữa các nhóm. Còn lại hai được gộp lại kiểm tra bảng. Họ cho rằng hệ số hạn sửa lỗi không thay đổi giữa các nhóm. PMG được sử dụng để ước lượng mô hình sửa lỗi sau đây: Trong đó: là (log) GDP thực tế thu nhập bình quân đầu người và là sự phát triển của nó; là độ lệch từ cân bằng dài hạn tại bất kỳ thời gian cho nhóm i, và là các sửa lỗi (tốc độ điều chỉnh) hệ số. Vector nắm bắt được hệ số dài hạn của lãi suất mà không thay đổi giữa các nhóm, các hệ số này đại diện cho độ đàn hồi lâu dài của thu nhập bình quân đầu người đối với mỗi biến trong mà biến này là một vector của các biến dự kiến với ảnh hưởng đến sự phát triển cả trong ngắn hạn và trong dài hạn. Các phản hồi trong ngắn hạn của các biến X được phản ánh bởi các vector ; là một vector của các biến kiểm soát được dự kiến sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chỉ trong ngắn hạn và là hệ số ngắn hạn của nó. là hiệu ứng cụ thể nhóm và là sai. Các biến trong X và Z là tương tự như trên. Tuy nhiên, các phân vùng của các biến vào dài hạn và ngắn hạn sẽ được hướng dẫn bởi kết quả của chúng tôi từ các ước lượng GMM. 3.3 DỮ LIỆU NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 11 Mô tả đầy đủ của tất cả các biến và các nguồn dữ liệu được cung cấp trong bảng Al. Bảng điều khiển cân bằng quan sát hàng năm bao gồm tất cả hoặc một phần của giai đoạn 1970-2007. Mẫu bao gồm 15 quốc gia xuất khẩu dầu, cụ thể là Bahrain, Cameroon, Colombia, Ai Cập, Indonesia, Iran, Kuwait, Malaysia, Mexico, NiGeria, Na Uy, Oman, Syria, UAE, và Venezuela. Các dữ liệu tài chính thu được từ GFS của IMF. Trong một số trường hợp, chẳng hạn như Nigeria và Indonesia, để hoàn thành bộ số liệu ,chúng tôi phải quay lại với số liệu tài chính do cấp có thẩm quyền của địa phương báo cáo. Đáng chú ý là các phương pháp của GFS đã thay đổi đối với dữ liệu được báo cáo cho các năm 1991 trở đi. Vì vậy, cho các mục đích nhất quán, chúng tôi giới hạn dữ liệu đến các căn cứ tiền mặt và mức độ của chính quyền trung ương. Ngoài ra, các định nghĩa của các biến được kết hợp một cách cẩn thận. Ví dụ, định nghĩa của chi thường xuyên báo cáo cho dữ liệu cũ là giống với định nghĩa của chi phí tiền mặt cho các dữ liệu sau năm 1990, v.v….. Bảng (la) tóm tắt các tỷ lệ trung bình của các loại khác nhau của chi tiêu chính phủ và các khoản thu trong GDP cho bảng điều khiển của chúng tôi của 15 nước xuất khẩu dầu. Nó miêu tả sự phát triển của tài chính chính phủ (% GDP) để đáp ứng với các chu kỳ bùng nổ - phá sản - bùng nổ dầu trong giai đoạn 1970 – 2007. Chi phí đầu tư công và cơ sở hạ tầng là những bất lợi nhất bị ảnh hưởng bởi các cú sốc tiêu cực của năm 1980 và 1990, nhưng tiếp tục giảm tỷ lệ phần trăm của GDP trong sự bùng nổ của những năm 2000. Chi tiêu vốn đã được cắt giảm mạnh từ 9,2% đến 5,6% trong những năm 80 và 90, và giảm hơn nữa để đạt được chỉ có 4,7% GDP từ năm 2002 đến năm 2007. Theo báo cáo của IMF ở Trung Đông và Trung Á (năm 2007), xuất khẩu dầu phản ứng thận trọng hơn đến việc tăng giá dầu và các khoản thu trong giai đoạn bùng nổ, đặc biệt là trong việc xử lý chi phí đầu tư, so với năm 1970. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng những con số trong bảng (la) không phản ánh đầy đủ sự bùng nổ chu kỳ đạt đỉnh vào năm 2008. Sự sụt giảm tỷ trọng đầu tư công trong cuối giai đoạn bùng nổ, do đó, có thể phản ánh trễ chi tiêu đầu tư. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 12 Ngược lại, chuyển nhượng và các chi tiêu xã hội (giáo dục, phúc lợi xã hội, y tế và nhà ở công cộng) đã tăng đáng kể trong những năm 1980 và những năm 1990 và tiếp tục tăng trong giai đoạn tiếp với mức giá cao. Điều này phản ánh một phần sự thay đổi trong ưu tiên của vốn vật chất đến nguồn nhân lực. Tiêu dùng của chính phủ như là một tỷ lệ phần trăm của GDP có xu hướng giảm liên tục kể từ khi làn sóng lớn của những năm 1970. Tóm lại, mặc dù bảng (la) cho thấy một số chi tiêu từ những năm 1970, nó cho thấy dấu hiệu của một cơ cấu doanh thu suy yếu. Sự gia tăng mạnh trong doanh thu từ năm 2002 đến năm 2007 dẫn đến một sự suy giảm đáng kể trong tỷ lệ thuế trong tổng số thu ngân sách từ 53% trong những năm 80 và 90 đến 41% trong những năm 2000. Bảng (1a) cũng cho thấy hiệu suất tăng trưởng của các nước mẫu dạng chuỗi trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người thực tế ở cả ba tập. Tuy nhiên nó mô tả một số dấu hiệu của một phản ứng không cân xứng thu nhập bình quân đầu người đến chu kỳ NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 13 dầu hỏa. Trong khi chúng tôi kỳ vọng thu nhập bình quân đầu người tăng lên trong các chu kỳ bùng nổ, chúng ta thấy rằng, tính bình quân thì nó giảm nhẹ trong chu kỳ đầu và thứ ba. Không có gì đáng ngạc nhiên, tuy nhiên, giá dầu sụt giảm đã kéo theo hiệu suất tăng trưởng thấp nhất trong những năm 1980 và 1990, trên thực tế thu nhập bình quân đầu người đã giảm với tỷ lệ trung bình 2,65%/năm trong suốt thời gian đó. Bảng (1b) trình bày sự tăng trưởng trung bình hàng năm ở mỗi quốc gia cho cả giai đoạn và độ lệch chuẩn của nó. Trong gần 4 thập kỷ, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là âm (-1,74%). Tuy nhiên, một số nước đã làm tương đối tốt hơn so với các nước khác. Venezuela, Nigeria, Mexico và Iran đã có hiệu suất tăng trưởng kém nhất mà rõ ràng có liên quan đến biến động thu nhập cao. Điều đó tạo nền tảng cho nghiên cứu của chúng tôi về vai trò của chính sách tài khóa. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 14 4. CÁC KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN CHÍNH SÁCH Sử dụng những kiểm tra F thông thường, chúng ta ước lượng mô hình tăng trưởng trong phương trình (2) để xác định số lượng thích hợp của độ trễ. Bắt đầu từ tám độ trễ trên các biến chính sách tài chính, mô hình ước lượng được giảm xuống 5 độ trễ1 Bảng (2) trình bày các kết quả ước lượng của mô hình tăng trưởng cơ bản, tổng hợp với sự thay đổi giá dầu và biến động. Trong cột 3, hai biến số chính sách tài chính thông thường là - tiêu dùng của chính phủ và các khoản thu thuế - được thêm vào trong một cách đặc biệt quảng cáo và xuất hiện không đáng kể. Trong cột 4, mô hình được ước lượng lại để giới thiệu GBC trong hình thức tổng hợp của nó2. Hồi quy 4b (và tất cả các hồi quy tiếp theo ký hiệu bằng chữ b) hạn chế mẫu đển giai đoạn 1984-2002 để loại trừ các thời kỳ được hưởng lợi của những năm 1970 và đầu những năm 2000. Đầu tiên, chúng tôi nhấn mạnh một số kết quả sơ bộ từ bảng (2). Đầu tiên, trong khi giá dầu tăng cao có tác động tích cực đến sự phát triển, biến động cao hơn làm chậm tăng trưởng. Tuy nhiên, một khi chúng ta kiểm soát chính sách tài chính, hệ số thay đổi của giá dầu giảm đáng kể ( từ 0,21 đến 0,008) nhưng vẫn tích cực, có ý nghĩa và tác động tiêu cực của biến động có xu hướng biến mất3. Kết quả này giữ trong mọi dự toán tiếp theo. Vì vậy, biến động giá dầu, ngoài các kênh tài chính, dường như ít để giải thích sự thay đổi trong tốc độ tăng trưởng. Ví dụ, giá dầu đã giảm với tốc độ trung bình hàng năm là 7% giữa năm 1984 và năm 2002. Theo kết quả trong bảng (2), sự sụt giảm này 1 Bleany và cộng sự (2001) tìm tám độ trễ để thích hợp với các nước OECD. Tương tự như vậy, Kocherlakota và Yi (1997) được tìm thấy chiều dài độ trễ tương tự cho dữ liệu của Anh và Mỹ. Tuy nhiên, trong các ước lượng của chúng tôi, các biến số tài chính quan tâm không có bất kỳ tác động đáng kể (riêng và chung) vượt quá 5 độ trễ. 2 Tổng thu ngân sách được bỏ qua để thay đổi trong thặng dư hoặc trong chi tiêu phải được cung cấp bằng những thay đổi trong thu nhập. 3 Theo ghi nhận của một trọng tài kinh tế, đây không phải là một kết quả đáng ngạc nhiên kể từ khi cú sốc giá dầu đánh vào các nước dầu mỏ ở những mức độ khác nhau, và tập hợp duy nhất của các biến thể hiện việc này là các biến tài chính. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 15 chỉ giải thích một 0,14 % (trong số khoảng 2,7%) giảm tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi năm4. Thứ hai, tích lũy thặng dư ngân sách tại thời điểm được hưởng lợi có một tác động tiêu cực và có ý nghĩa lớn đối với tăng trưởng. Điều này dường như ảnh hưởng mạnh mẽ thông qua tất cả hồi quy tiếp theo. Thứ ba, chi tiêu chính phủ - được tài trợ bởi một sự gia tăng trong doanh thu - có tác động tích cực đáng kể đến tăng trưởng. Thứ tư, tất cả các biến kiểm soát khác có những dấu hiệu chính xác. Đáng chú ý là chỉ số dân chủ dường như mất đi ý nghĩa một khi các biến tài chính và quản trị được bao gồm. Sau khi kiểm soát chính sách tài chính, quản trị dường như có tác động tích cực rất quan trọng đối với tăng trưởng. Phần còn lại của chủ đề phần này chỉ ra những kết quả để xem xét kỹ lưỡng. 4 Từ hồi quy 4b, chúng tôi thấy rằng 1% giảm giá dầu trong giai đoạn này kết quả chỉ có 0,02 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng giảm. Vì vậy, giảm 7% trong giá dầu sẽ chỉ giải thích giảm 0,14% trong tốc độ tăng trưởng, còn lại 2,5% của sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng (xem bảng 1b) được giải thích bởi các yếu tố khác. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 16 Ghi chú: Tất cả hồi quy bao gồm ban đầu (1970) thu nhập bình quân, độ trễ tăng trưởng, khu vực và biến giả theo thời gian. Biến chính sách tài khóa được nhập với 5 độ trễ, tất cả những cái khác với 1 độ trễ. Các hệ số báo cáo được tính bằng tổng các hệ số cùng thời điểm và độ trễ chia cho một trừ đi hệ số của biến độ trễ phụ thuộc. Thống kê F được báo cáo theo hệ số trong ngoặc đơn. P-giá trị trong dấu ngoặc vuông. Biểu tượng ***, ** và * chỉ ra rằng hệ số có ý nghĩa ở mức tương ứng 1%, 5% và 10%. Các nguồn tài trợ trong cột 4a, 4b là tổng doanh thu của chính phủ. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 17 Trong bảng (3), tổng chi tiêu của chính phủ được phân tích ra thành vốn và các khoản đang lưu hành. Các khoản chi hiện thời được tiếp tục chia thành tiền lương chính phủ, mua hàng hóa và dịch vụ, chuyển giao vãng lai và tất cả các chi phí khác trong bảng (4). Sự phân tích dựa trên chức năng chi tiêu được trình bày trong bảng (5). Tổng chi tiêu được chia thành những chi tiêu thiết yếu xã hội,dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng, và chi cho tất cả các chức năng khác của chính phủ. Lưu ý rằng trong mọi dự đoán chúng ta duy trì các giả định tài chính tương tự. Trước tiên chúng ta xem xét tổng doanh thu, bao gồm cả doanh thu từ thuế và các nguồn khác, và sau đó chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa của tài chính thuế. Tiếp theo, chúng ta sẽ nhập các ý thảo luận và hàm ý chính sách thành 2 nhóm, tìm kiếm các bên liên quan đến doanh thu của ngân sách và những bênliên quan đến vấn đề chi tiêu. 4.1 DOANH THU CHÍNH PHỦ TĂNG CAO VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Bảng (3), (4), (5) cho thấy ảnh hưởng tác động tăng trưởng âm của thặng dư trong chính sách tài khóa khi có một sự tăng đột biến trong doanh thu dường như để chịu chi phí phân tán. Kết quả này cần xem xét kỹ lưỡng. Lưu ý rằng tác động tiêu cực này phản ánh 2 thành phần: hiệu ứng biên của cân đối ngân sách và hiệu quả của doanh thu chính phủ. Nói cách khác, hệ số này đo lường hiệu quả tăng trưởng kinh tế của việc tích lũy từ thặng dư của chính phủ trong thời kỳ doanh thu tăng cao và thời kỳ doanh thu sụt giảm mạnh. Do đó, mối quan hệ tiêu cực giữa tăng trưởng - thặng dư có thể được dàn xếp bởi các ảnh hưởng tiêu cực của cú hích lên nền kinh tế. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia giàu tài nguyên, ví dụ như Mexico, Nigeria, Venezuela, và những nước tương tực khác, cho thấy khi nguồn thu từ dầu tăng cao thì gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế bởi vì chúng sẽ gây ra các cuộc chạy đua trục lợi kinh NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 18 tế từ nguồn thu dầu mỏ của đất nước trên tất cả các cấp của chính quyền5. Ngược lại, trong một cuộc suy thoái, chính phủ thường có thặng dư nhỏ hơn hoặc thâm hụt ngân sách thì sẽ làm giảm bớt áp lực trục lợi kinh tế và cải thiện hiệu quả chi tiêu . Điều này, tuy nhiên, không có nghĩa là các quốc gia dầu mỏ không nên tiết kiệm phần thặng dư của họ. Cần cảnh báo tầm quan trọng của việc thực hiện các quy định tài chính phản chu kỳ nghiêm ngặt, và xây dựng chính sách chính trị phù hợp để đảm bảo việc tuân thủ chúng. Điều này thực hiện như là cơ sở để đầu tư thành công thặng dư trong quỹ tài nguyên quốc gia (Humphreys vàSANDBU, 2007). Ngoài ra, thanh toán nợ công trong thời kỳ giá dầu tăng cao cũng rất quan trọng. Để phân tích rõ hơn về hiệu ứng thặng dư tiêu cực này, doanh thu được phân ra thành thu nhập từ thuế và các phần thu nhập khác. Đối với phần doanh thu không từ thuế bao gồm hầu hết các hóa đơn dầu chuyển vào ngân sách, biến thể của nó sẽ phản ánh doanh thu bùng nổ và phá sản của dầu6. Điều này đặc biệt đúng trong nền kinh tế dồi dào dầu nhưng kém phát triển. Trong cột 6, 8 và 10 cácloại thuế được giả sử là nguồn tài chính và do đó doanh thu không từ thuế được bao gồm như một hồi quy. Vì vậy, bằng cách xây dựng, những thay đổi trong doanh thu không từ thuế được điều tiết bởi những thay đổi trong thuế, để lại chi tiêu và thặng dư không bị ảnh hưởng. 5 Bảng 1a cho thấy tổng chi tiêu chính phủ (% GDP) không thay đổi nhiều trong chu kỳ bùng nổ thứ ba (27,9%) so với chu kỳ phá sản thứ hai (28%). Tuy nhiên, các hoạt động trục lợi kinh tế vẫn có thể xảy ra dù kích thước của Chính phủ không thay đổi. Sự bảo trợ của chính phủ, ví dụ, có thể thông qua hình thức tăng tiền lương khu vực công cộng hoặc chuyển khoản. Điều này có thể được,tuy nhiên, được tài trợ bởi sự cắt giảm trong chi tiêu cơ sở hạ tầng mà không cần thay đổi tổng chi tiêu. 6 Chúng ta có thể nhìn thấy từ bảng (1a) là doanh thu không từ thuế thực sự là nhạy cảm nhất với chu kỳ dầu so với các loại thuế.Ví dụ, doanh thu ko từ thuế đã tăng từ 12% trong giai đoạn 1982 - 2001 lên mức 21% GDP trong mức tăng của 2002-2007. Các loại thuế, chỉ tăng vừa phải từ 13,4% lên 14,6%. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 19 Ghi chú: Mọi dự đoán bao gồm ban đầu (1970) thu nhập bình quân, độ trễ tăng trưởng, khu vực và biến giả theo thời gian. Biến chính sách tài khóa nhập với 5 độ trễ, tất cả những biến khác với 1 độ trễ. Những tác động tăng trưởng được tính bằng tổng các hệ số cùng thời điểm và độ trễ chia cho một trừ đi hệ số của biến độ trễ phụ thuộc. Thống kê F được báo cáo dưới mỗi hệ số. Giá trị P trong dấu ngoặc vuông. ***, ** và * biểu hiện ý nghĩa ở mức tương ứng 1%, 5% và 10%. Một khi nguồn thu không phải từ thuế được bao gồm, hệ số thặng dư ngân sách sẽ không còn quan trọng, nhưng vẫn còn ý nghĩa tiêu cực, trong khi ảnh hưởng của nguồn NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 20 thu không phải từ thuế xuất hiện có ý nghĩa tiêu cực. Kết quả này phù hợp với lập luận trên là hiệu ứng tăng trưởng âm của thặng dư ngân sách bắt nguồn từ những tác động bất lợi của nguồn thu từ dầu trong thời kỳ tăng cao (điều làm chậm thuế trong trường hợp này) chứ không phải là thặng dư ngân sách cho mỗi se. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 21 Ghi chú: Tất cả những ước tính ban đầu(1970) bao gồm thu nhập bình quân, độ trễ sự tăng trưởng, biến giả khu vực và thời gian. Biến chính sách tài khóa được nhập với 5 độ trễ; những biến khác chỉ với 1 độ trễ. Các tác động tăng trưởng được tính bằng tổng các hệ số cùng thời điểm và độ trễ (5 độ trễ) chia 1 trừ đi hệ số độ trễ của biến phụ thuộc. Thống kê F được báo cáo theo từng hệ số. p-value trong dấu ngoặc vuông.***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. 4.2. THÀNH PHẦN CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG Trong bảng (3), chi tiêu được phân ra thành chi tiêu đầu tư và chi thường xuyên. Chúng tôi xem xét khả năng chi tiêu của chính phủ có thể có tác động tăng trưởng khác nhau tùy thuộc vào độ lớn của sự thay đổi giá dầu. Các khoản tương tác của những thay đổi trong giá dầu với chi tiêu đầu tư và chi tiêu thường xuyên được cộng vào. Bất chấp phương án tài chính, chi tiêu thường xuyên vẫn không có ý nghĩa với sự tương tác của nó với sự thay đổi giá dầu. Ngược lại, chi tiêu đầu tư tài trợ thông qua sự gia tăng doanh thu có khoản sinh lợi xã hội dương trong dài hạn. Tác động này trở nên rất ý nghĩa và lớn hơn trong thời kỳ giá dầu thấp. Tuy nhiên, sự nhân lên của chi tiêu đầu tư và biến động giá dầu hóa ra là không có ý nghĩa. Do đó, hiệu quả tăng trưởng biên của sự thay đổi trong chi tiêu đầu tư được tính bằng: 0 * . .capgrowth real oil prices    ; trong đó, cap và 0 là các hệ số của chi tiêu đầu tư và hệ số tương tác của nóvới những thay đổi tương ứng của giá dầu. Bởi vì 0 là âm, nên cú sốc dầu mỏ sẽ làm giảm khoản sinh lợi xã hội trong việc tăng chi tiêu đầu tư. Mức độ của cú sốc dầu mỏ càng lớn thì tác động tích cực của vốncông lên tăng trưởng càng thấp.Ví dụ, khi chi tiêu đầu tư được tài trợ thông qua tổng doanh thu (cột 5a) tăng 45% trong giá dầu thực làm giảm các tác động tích cực của sự gia tăng tỷ trọng đầu tư công trong GDP (0,41-0,91 * 45%). Nếu cú sốc giá dầu vượt quá 45%, chi phí đầu tư mang lại lợi nhuận âm. Trong thời điểm giá dầu thấp (cột 5b), chúng NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 22 ta thấy ngưỡng này nhiều hơn gấp đôi (lên 94%). Phải mất một cú sốc dầu tích cực rất lớn cho đầu tư công để có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Phát hiện này là phù hợp với thực nghiệm. Từ nguồn tài nguyên có sẵn chính phủ đáp ứng các ưu đãi chính trị để chi cho các dự án lớn, có uy tín, và kém hiệu quả. Ngoài ra, các kết quả trong cột 6a và 6b cho thấy đầu tư công, được tài trợ thông qua đánh thuế cao hơn trong thời gian bùng nổ (thay đổi giá dầu), sẽ có lợi nhuận âm. Lưu ý rằng cap trở nên không có ý nghĩa trong khi 0 vẫn có ý nghĩa tiêu cực. Những kết quả này gợi ý nhanh 2 chính sách quan trong: thứ nhất là mở rộng chi tiêu đầu tư trong thời gian bùng nổ sẽ làm chậm sự tăng trưởng; thứ hai, phản ứng với sự sụt giảm của giá dầu bằng cách tăng chi tiêu đầu tư kích thích tăng trưởng, bất kể phương thức tài chính. Ngược lại, cắt giảm chi tiêu đầu tư trong bối cảnh những cú sốc giá dầu tiêu cực sẽ làm tăng mạnh thêm những tác động bất lợi cho tăng trưởng vì những cú sốc. Mức độ thiệt hại tăng trưởng lớn lớn hơn những cú sốc tiêu cực và rõ nét hơn trong việc cắt giảm chi phí vốn. Chúng tôi cũng có thể xem xét hiệu quả tăng trưởng biên của một sự thay đổi trong giá dầu, tại tỷ trọng xác định của vốn công, điều này có thể được tính như sau: 0 * .Ex .%growth oilp capital penditure GDP    oilp là hệ số của sự tăng trưởng trong giá dầu và 0 là hệ số tương tác. Có nghĩa là, hiệu quả tăng trưởng của thay đổi giá dầu phụ thuộc vào tỷ trọng đầu tư công trong nền kinh tế. Bởi vì oilp là dương và 0 là âm, tỷ trọng đầu tư công trên GDP cao hơn sẽ giảm tác động tích cực của việc tăng giá dầu. Nghĩa là, giá dầu tăng có thể cản trở tăng trưởng ở các nước với tỷ trọng chi tiêu đầu tư công lớn hơn, có thể bởi vi khoản sinh lời xã hội thấp trên vốn công. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 23 Ví dụ, Venezuela và Oman có chi tiêu đầu tư của chính phủ tương ứng mức 1,6% và 7,4% trên GDP. Khi vốn công được tài trợ thông qua nguồn thu có sẵn (cột 5a), tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của giá dầu tại điểm1%sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng 0,23% ở Venezuela và 0,78% ở Oman. Ngược lại, tỷ trọng lớn của chi tiêu công làm giảm hiệu quả tăng trưởng của những cú sốc giá dầu. Vì vậy, các nước có cơ sở hạ tầng và chi tiêu đầu tư công tốt là một thế mạnh tốt để bảo vệ năng suất đầutư trong bối cảnh của những cú sốc dầu. Trong bảng (4), chúng tôi nghiên cứu kỹ hơn về ảnh hưởng của chi tiêu công. Kết quả trong cột 7 và 8, chỉ ra rằng việc tăng quỹ tiền lương trong thành phần kinh tế nhà nước và mua hàng hóa và dịch vụ của chính phủ trong thời gian bùng nổ giá dầu có ảnh hưởng bất lợi đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong khi tăng tiền lương khu vực công thông qua tăng thuế có hiệu quả tăng trưởng không đáng kể, thì việc tăng chi tiêu mua hàng hóa và dịch vụ của chính phủ có tác động ít đối với tăng trưởng kinh tế . Ngoài ra, tài khoản vãng lai và chi tiêu thường xuyên khác xuất hiện không phụ thuộc đáng kể vào nguồn kinh phí, cái mà chỉ ra rằng hầu hết chúng không hiệu quả. Bảng (5) phân tích tổng kinh phí theo chức năng. Chi tiêu cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ công xuất hiện hiệu quả nhất, không phụ thuộc vào phương án tài chính. Hiệu quả này tương đối lớn trong trường hợp các dịch vụ công, cho thấy lợi nhuận tương đối cao. Mặt khác, việc chi tiêu cao hơn cho xã hội được tài trợ bởi nguồn thu từ dầu tăng cao sẽ cản trở tăng trưởng. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 24 Ghi chú: Tất cả những ước tính ban đầu(1970) bao gồm thu nhập bình quân, độ trễ sự tăng trưởng, biến giả khu vực và thời gian. Biến chính sách tài khóa được nhập với 5 độ trễ; những biến khác chỉ với 1 độ trễ. Các tác động tăng trưởng được tính bằng tổng các hệ số cùng thời điểm và độ trễ (5 độ trễ) chia 1 trừ đi hệ số độ trễ của biến phụ thuộc. Thống kê F được báo cáo theo từng hệ số. p-value trong dấu ngoặc vuông.***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 25 4.3 KIỂM TRA TÍNH VỮNG Kết quả ước lượng trên bị hạn chế bởi thời kỳ giá dầu thấp (1984-2002) cho thấy kết quả cốt lõi không có khác biệt đáng kể cho toàn bộ giai đoạn lấy mẫu. Kết quả là cũng chắc chắn với sự bao gồm của một cú sốc dầu mỏ tiêu cực và những biến giả phụ thuộc dầu mỏ . Chúng tôi cũng đã kiểm tra các kết quả quan sát có ảnh hưởng, loại bỏ ba quan sát có tốc độ tăng trưởng cao và thặng dư tiêu cực đặc biệt cao. Chúng tôi cũng sử dụng Sachs và biến giả mở của Warner thay vì tổng( không có nguồn thu từ dầu ) của xuất khẩu và tỷ lệ nhập khẩu so với GDP, chỉ số tự do chính trị (từ nhà tự do) thay vì điểm chính thể, kiểm soát giá trị chỉ số tham nhũng trong năm 1996 từ các chỉ số quản trị toàn cầu (WB) thay vì năm 1984 chỉ số quản trị tổng hợp ICRG, và dân số tăng thêm. Tất cả những phát hiện chính sách tài khóa cốt lõi đã được. Chúng tôi cũng sử dụng biến giả mở rộng của Sach và Warner thay vì tổng của tỷ lệ nhập khẩu và xuất khẩu khu vực phi dầu mỏ đối với GDP, chỉ số tự do chính trị thay vì điểm chính thể, kiểm soát giá trị chỉ số tham nhũng trong năm 1996 bằng Chỉ số Quản trị toàn cầu WB thay vì chỉ số quản trị tổng hợp ICRG năm 1984, và thêm tăng trưởng dân số. Tất cả những phát hiện chính sách tài khóa cốt lõi là khá mạnh mẽ. Cuối cùng, người ta có thể cho rằng, các nền kinh tế mà phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ sẽ đưa đến một sự thặng dư , nhưng đồng thời nhưng phải chịu tỷ lệ tăng trưởng trung bình thấp. Vì vậy, tác động tiêu cực của thặng dư ngân sách trong tăng trưởng có thể gián tiếp đưa đến mối quan hệ tiêu cực giữa sự phụ thuộc vào dầu mỏ và tăng trưởng. Để kiểm tra điều này, chúng tôi xem xuất khẩu dầu như một tỷ lệ của xuất khẩu hàng hóa. Nếu tác động tiêu cực của thặng dư biến mất, sau đó thực tế phụ thuộc vào dầu mỏ tác động lên cả hai biến, không có mối quan hệ trực tiếp giữa thặng dư thứ và tăng trưởng. Chúng tôi thấy rằng các tác động tiêu cực rất quan trọng của thặng dư vẫn còn giữ. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 26 4.4 BẢNG KHÔNG ĐỒNG NHẤT, ĐỒNG LIÊN KẾT VÀ KẾT QUẢ PMG: Đầu tiên, chúng tôi tiến hành kiểm định nghiệm đơn vị trên số liệu dạng bảng. Kết quả từ Maddala và Wu (1999), chỉ ra rằng, tất cả các biến - ngoại trừ đầu tư tư nhân, lạm phát, chi tiêu chính phủ, và chi tiêu hiện hành - là không dừng ở các mức độ. Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh cho các biến phụ thuộc chéo nhau, thử nghiệm CIPS chỉ ra rằng tất cả các biến là I (1) Một nhược điểm của kỹ thuật PMG là nó cho phép chỉ có một mối quan hệ cùng đồng liên kết. Ngoài ra, mối quan tâm chính của chúng tôi là để thử nghiệm một mối quan hệ lâu dài giữa chính sách tài khóa, giá dầu và thu nhập bình quân đầu người. Vì những lý do này, được hướng dẫn bởi các kết quả GMM định trước, chúng tôi giới hạn điều tra của chúng tôi đối với các biến tài chính cụ thể mà xuất hiện chính trong phân tích trước đây của chúng tôi. Bảng (6) thể hiện kết quả kiểm tra biến đồng liên kết Westerlund. Khi có ít nhất ba trong số bốn kiểm nghiệm bác bỏ tính vô hiệu nghĩa là không cùng đồng liên kết, một hiệp phương sai được coi là đồng liên kết với GDP thực bình quân đầu người. Ba biến tài chính đã không vượt qua được thử nghiệm cùng đồng liên kết là: 1) mua hàng hóa và dịch vụ của chính phủ, 2) tiền lương và 3) các dịch vụ công. Chính vì vậy, những biến này không có bao gồm trong mối quan hệ cùng đồng liên kết. Mặc khác, những thử nghiệm hỗ trợ một mối quan hệ đồng liên kết dài hạn giữa thu nhập bình quân đầu người và các yếu tố như: giá dầu, thặng dư ngân sách, tổng chi tiêu chính phủ, chi phí đầu tư và chi tiêu công cho sơ sở hạ tầng. Dựa trên kết quả này, chúng tôi kiểm tra 3 vector cùng đồng liên kết thu nhập/vốn, giá dầu, thặng dư ngân sách và mỗi khái niệm chi tiêu. Tất cả 4 thử nghiệm này chỉ ra sự tồn tại của biến cùng đồng liên kết trong 3 vector. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 27 Do đó, chúng tôi tiến hành ước lượng ba đặc điểm kỹ thuật PMG, mà chỉ khác nhau trong các biến có mối quan hệ lâu dài. Các kết quả được trình bày trong bảng 7. Cả ba thuật ngữ sai số hiệu chỉnh đều âm đáng kể, chỉ ra rằng, có tồn tại 1 mối quan hệ cùng đồng liên kết trong dài hạn ở ít nhất một quốc gia trong bảng. Các hệ số tương quan về lâu dài cũng quan trọng và có những dấu hiệu được kỳ vọng. Về lâu dài, giá dầu càng cao và chi tiêu chính phủ càng cao thì có liên quan đến thu nhập bình quân đầu người càng cao. Ngược lại, thặng dư ngân sách cao hơn có liên quan với thu nhập bình quân đầu người thấp hơn. Các hệ số ngắn hạn PMG là bình quân đơn giản của các hệ số thu được từ mô hình phù hợp với từng quốc gia trong bảng, và do đó cần được xem xét một cách thận trọng. Nhưng một sự liên quan quan trọng được xác nhận. Một đặc quyền sẽ làm giảm tăng trưởng trong ngắn hạn do ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng chi tiêu đầu tư. Nhưng vì chi NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 28 tiêu đầu tư chính phủ, giá dầu, và đầu ra được gắn với nhau bằng một mối quan hệ lâu dài, kết quả là mất cân bằng trong ngắn hạn sẽ dần dần dẫn đến một cơ chế điều chỉnh trong những năm sau đó trở lại trạng thái cân bằng dài hạn. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 29 NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 30 5. KẾT LUẬN Nghiên cứu này đưa ra câu hỏi liệu tính chất đặc biệt của chính sách tài khóa trong các nước xuất khẩu dầu đóng góp như thế nào vào thâm hụt trong tăng trưởng đã được dẫn chứng trong các tài liệu. Chúng tôi nhận thấy rằng, cách các chính phủ phân bổ nguồn thu từ dầu tăng cao theo các cách sử dụng khác nhau và cách điều chỉnh chi tiêu trong bối cánh cú sốc dầu mỏ giải thích một vài sự thay đổi trong tăng trưởng dài hạn của nước xuất khẩu dầu. Đặc biệt, chính sách tài khóa áp dụng khi nguồn thu từ dầu tăng cao có thể cản trở sự tăng trưởng kinh tế là: thuế trong nước sẽ thấp hơn, khoản sinh lời xã hội từ nguồn vốn công mới thấp hơn, và áp lực thặng dư cao hơn. Nguồn vốn công ít có hiệu quả trong thời kỳ bùng nổ, nhưng những nước với cơ sở hạ tầng vật chất cao hơn và phần vốn công tốt có thể chống lại những cú sốc giảm giá dầu và bảo vệ năng suất khỏi sự sụt giảm. Những khuyến nghị chính sách chính để kích thích sự tăng trưởng như sau: i) giảm sự phụ thuộc tài chính vào dầu mỏ và tăng cường cơ sở thuế phi dầu ii) Đối phó đối với một cú sốc tiêu cực bằng cách gia tăng chi phí đầu tư, iii) Áp dụng thắt chặt hơn trong các tiêu chuẩn đầu tư và phân bổ thêm nguồn lực để chi tiêu hiệu quả hơn, như cơ sở hạ tầng trong thời kỳ giá dầu bùng nổ, và iv) Giảm bớt áp lực cạnh tranh trục lợi kinh tế bằng cách đầu tư phần thặng dư vào các quỹ đầu tư hay thanh toán bớt nợ công trong quá trình nguồn thu từ dầu cao. Việc xác định khoản sinh lời xã hội ròng trên hai lựa chọn chính sách công vẫn còn nguyên giá trị nghiên cứu trong tương lai. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 31 Mặc dù cung cấp những hướng dẫn chung, những đề nghị của chúng tôi đối với chính sách nên được thực thi một cách thận trọng. Như Barma và cộng sự (2012) nhấn mạnh: căn cứ các chính sách kinh tế chính trị cụ thể đối với mỗi quốc gia và tình hình thực tế của nền kinh tế khác nhau nên hoạch định những cải cách chính sách phù hợp để gia tăng lợi ích xã hội từ nguồn tài nguyên sẵn có. Thêm nữa, nghiên cứu này không tính đến tác động có thể có của chất lượng ngân sách và thể chế dân chủ trong quản lý nguồn thu từ dầu trong thời kỳ tăng cao, hay trong việc xác định quy mô và thành phần của chi tiêu. Theo kinh nghiệm của quỹ tài nguyên thiên nhiên ở nhiều quốc gia phụ thuộc vào dầu mỏ, ví dụ, cho thấy rằng sự tồn tại đơn thuần của một quỹ không đảm bảo quản lý tốt các nguồn tài nguyên lớn. Một thể chế chính trị yếu và các tổ chức nhỏ bé về môi trường là điều kiện cho các quy tắc tài chính nghiêm ngặt bị vi phạm. Vì vậy, để một tổ chức có thể giúp giảm giảm bớt áp lực chi tiêu công, cần khuyến khích các nhà chính trị thay đổi quan điểm để đảm bảo tính thận trọng trong chính sách tài khóa (Humphreys & SANDBU, 2007). Vì vậy, một điểm quan trọng đáng để nghiên cứu thêm là sự tương tác tiềm năng giữa chất lượng quản lý và hiệu quả tài chính trong những nền kinh tế có tài nguyên phong phú, và làm thế nào kênh này có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO Alesina, A., Tabellini, G., and Campante, F. (2008) “Why is fiscal policy often procyclical?” J o u r n a l o f t h e E u r o p e a n E c o n o m i c A s s o c i a t i o n , (5): 1006— 1036. Alesina, A. and Perotti, R. (1996) “Fiscal adjustments in OECD countries: composition and macroeconomic effects,” IMF Working Paper 96/70, IMF. Arellano, M. and Bond, S. (1991) “Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and application to employment equations,” R e v i e w o f E c o n o m i c S t u d i e s , 58: 277-297. Arellano, M. and Bover, O. (1995) “Another look at the instrumental variable estimation of error-components models,” J o u r n a l o f E c o n o m e t r i c s , 68: 29-51. Aslaksen, S. and Torvik, R. (2006) “A Theory of Civil Conflict and Democracy in Rentier States,” S c a n d i n a v i a n J o u r n a l o f E c o n o m i c s , 108: 571-581. Barma, N., Kaiser, K., Minh Le, T., and Vinuela, L. (2012) R e n t s T o R i c h e s ? : T h e P o l i t i c a l E c o n o m y o f N a t u r a l R e s o u r c e L e d D e v e l o p m e n t , Washington DC: World Bank Publications. Barro, R. (1990) “Government spending in a simple model of endogenous growth,” J o u r n a l o f P o l i t i c a l E c o n o m y , 98(1): s 103-s 117. Barro, R. and Sala-I-Martin, X. (1992) “Public finance in models of economic growth,” R e v i e w o f E c o n o m i c S t u d i e s , 59(4): 645-661. Bleaney, M., Kneller, R., and Gemmell, N. (2001) “Testing the endogenous growth model: public expenditure, taxation and growth over the long run,” C a n a d i a n J o u r n a l o f E c o n o m i c s , 34(1): 36-57. Blundell, R. and Bond, S. (1998) “Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models,” J o u r n a l o f E c o n o m e t r i c s , 87: 115-43. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 33 Bornhorst, F., S. Gupta and J. Thornton (2008) “Natural resource endowments, governance, and the domestic revenue effort: evidence from a panel of countries, IMF Working Paper 08/170, IMF. Brunnschweiler, C. (2008) “Cursing the blessing? Natural resource abundance, institutions and economic growth,” W o r l d D e v e l o p m e n t , 36: 399-419. Bulte, E., Damania, R., and Deacon, R. (2005) “Resource intensity, institutions, and development”, W o r l d D e v e l o p m e n t , 33(7): 1029-1044. Easterly, W. and Rebelo, S. (1993) “Fiscal policy and economic growth: an empirical investigation” J o u r n a l o f M o n e t a r y E c o n o m i c s , 32(3): 417-458. El Anshasy, A. and Bradley, M. (2011) “Oil prices and the fiscal policy response in oil- exporting countries,” J o u r n a l o f P o l i c y M o d e l i n g , 161893811001013 Frankel, J. A. (2010) “The natural resource curse: a survey,” NBER Working Paper, No. 15836. Gelb, A. and associates (1988) O i l W i n d f a l l : B l e s s i n g o r C u r s e . New York: Oxford University Press. Gylfason, T. (2001) “Natural Resources, Education, and Economic Development,” E u r o p e a n E c o n o m i c R e v i e w , 45: 847-859. Flumphreys, M., and Sandbu, M. (2007) “The Political Economy of Natural Resource Funds,” in M. Humphreys, J. Sachs, and J. Stiglitz (eds) E s c a p i n g t h e R e s o u r c e C u r s e , pp. 144-233, N.Y: Colombia University Press. Husain, A., Tazhibayeva, K., and Ter-Martirosyam, A. (2008) “Fiscal policy and economic cycles in oil-exporting countries,” IMF Working Paper 08/253, IMF. Isham, J., Prichett, L., Woolcock, M., and Busby, G. (2005) “The varieties of resource experience: natural resource export structures and the political economy of economic growth” T h e W o r l d B a n k E c o n o m i c R e v i e w , 19(2): 141-174. Kneller, R., Bleaney, M., and Gemmell, N. (1999) “Fiscal policy and growth: evidence from OECD countries,” J o u r n a l o f P u b l i c E c o n o m i c s , 74: 171-190 NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 34 Kocherlakota, N. and Yi, K. (1997) “Is there endogenous long-run growth? evidence from the united states and the United Kingdom,” J o u r n a l o f M o n e y , C r e d i t a n d B a n k i n g , 29(2): 235-262. Lee, K., Ni, S., and Ratti, R. (1995) “Oil Shocks and the Macroeconomy: The role of price variability,” E n e r g y ! J o u r n a l , 16(4): 18-39. Levine, R. and Renelt, D. (1992) “A sensitivity analysis of cross-country growth regressions,” A m e r i c a n E c o n o m i c R e v i e w , 82: 942-963. Mehlum, H., Moene, K., and Torvik, R. (2006) “Institutions and the resource curse,” E c o n o m i c J o u r n a l , 116: 1-20. Miller, S. and Russek, F. (1997) “Fiscal structures and economic growth: international evidence,” E c o n o m i c I n q u i r y , 35: 603-613 Pesaran, M. (2007) “A Simple Panel Unit Root Test in the Presence of Cross Section Dependence,” J o u r n a l o f A p p l i e d E c o n o m e t r i c s , 22: 265-312. Pesaran, M., Shin, Y., and Smith, R. (1997) “Estimating long-run relationships in dynamic heterogeneous panels,” DAE Working Papers Amalgamated Series 9721. Pesaran, M., Shin, Y., and Smith, R. (1999) “Pooled Mean Group estimation of dynamic heterogeneous panels,” J o u r n a l o f t h e A m e r i c a n S t a t i s t i c a l A s s o c i a t i o n , 94: 621-34. Pieschacon, A. (2009) “Oil booms and their impact through fiscal policy,” manuscript, Stanford University. van der Ploeg, F. and Poelhekke, S. (2009) “Volatility and the natural resource curse,” O x f o r d E c o n o m i c P a p e r s , 61(4): 727- 760. Robinson, J.A. and Torvik, R. (2005) “White Elephants,” J o u r n a l o f P u b l i c E c o n o m i c s , 89: 197-210. Robinson, J.A., Torvik, R., and Verdier, T. (2006) “Political foundations of the resource curse,” J o u r n a l o f D e v e l o p m e n t E c o n o m i c s , 79: 447-468. NGUỔN THU TỪ DẦU,CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG GDVH: TS SỬ ĐÌNH THÀNH Trang 35 Rodrik, D. (1998) “Where did all the growth go? External shocks, social conflicts, and growth collapse, ” NBER Working Paper No. 6350. Sala-i-Martin, X. and Subramanian, A. (2003) “Addressing the natural resource curse: an illustration from Nigeria, ” IMF Working Paper 03/139, IMF. Sala-i-Martin, X., Doppelhofer, G., and Miller, R. (2004) “Determinants of long-term growth: A Bayesian averaging of classical estimates (BACE) Approach, A m e r i c a n E c o n o m i c R e v i e w , 94(4): 813-835. Sachs, J. and Warner, A. (1995) “Natural resource abundance and economic growth,” NBER Working Paper No. 5398. Sturm, M., Gurtner, F., and Gonzalez-Alegre, J. (2009) “Fiscal policy challenges in oil- exporting countries: a review of key issues,” European Central Bank Occasional Papers Serries No. 104. Schwarz, R. (2008) “The political economy of state-formation in the Arab Middle East: Rentier states, economic reform, and democratization,” R e v i e w o f I n t e r n a t i o n a l P o l i t i c a l E c o n o m y , 15(4): 599-621. Talvi, E. and Vegh, C. (2005) “Tax Base Variability and Procyclical Fiscal Policy in Developing Countries,” J o u r n a l o f D e v e l o p m e n t E c o n o m i c s , 78: 156- 190. Tomell, A. and Lane, P. (1999) “The voracity effect,” A m e r i c a n E c o n o m i c R e v i e w , 89: 22-46. Villafuerte, M. and Lopez-Murphy, P. (2010) “Fiscal policy in oil producing countries during the recent oil price cycle,” IMF Working Paper 10/28, IMF. Westerlund, J. (2007) “Testing for error correction in panel data,” O x f o r d B u i l e t i n o f E c o n o m i c s a n d S t a t i s t i c s , 69: 709-748. Wick, K., and Bulte, E. (2009) “The curse of natural resources,” A n n u a l R e v i e w o f R e s o u r c e E c o n o m i c s , 1: 139- 156.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom5_ngan_hang_dem_1_k22_bai_cuoi_6308.pdf
Luận văn liên quan