Đề tài Những hạn chế và giải pháp hoạch định cấu trúc vốn trong mối quan hệ với chính sách thuế tn cho các doanh nghiệp Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 3 1. TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC VỐN 4 1.1 Khái niệm 4 1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc quyết định cấu trúc vốn 4 Chi phí sử dụng vốn bình quân Số lượng nợ trong cấu trúc vốn tối ưu 1.3 Những nguyên tắc cơ bản hoạch định cấu trúc tài chính 7 Tính tương thích ( Nguyên tắc tự phòng ngừa) 7 Giá trị thị trường - Các hàm ý về rủi ro và tỷ suất sinh lợi 7 Quyền kiểm soát 8 Khả năng điều động hay khả năng tài trợ linh hoạt 8 Định thời điểm 8 1.4 Lý thuyết MM về cấu trúc vốn của doanh nghiệp 9 2. TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (TNDN) VÀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN (TNCN) ĐẾN CẤU TRÚC VỐN CỦA MỘT DOANH NGHIỆP. 10 2.1 Tác động của thuế TNDN đến cấu trúc vốn 10 Tác động nợ đối với cấu trúc vốn 10 Tấm chắn thuế và giá trị doanh nghiệp 12 Tấm chắn thuế và chi phí kiệt quệ tài chính 14 2.2 Tác động thuế TNCN đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp 14 3. THỰC TRẠNG CẤU TRÚC VỐN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP ĐẾN HOẠCH ĐỊNH CẤU TRÚC VỐN. 16 3.1 Cấu trúc vốn của các công ty lớn ở Mỹ và ảnh hưởng của thuế thu nhập đến việc hoạch định cấu trúc vốn của các công ty này. 16 3.1.1 Thuế thu nhập doanh nghiệp ở Mỹ 16 3.1.2 Thuế TNCN đánh trên cổ tức, đánh trên lãi vốn ở Mỹ 17 3.1.3 Cấu trúc vốn các công ty ở Mỹ 19 Cấu trúc vốn của Microsoft Corporation 20 Cấu trúc vốn của Intel Inc. 21 Cấu trúc vốn của công ty Hewlett-Parkard Company ( HP Corp.) 22 3.2 Tác động của thuế thu nhập đối với hoạch định cấu trúc của các doanh nghiệp ở VN 24 3.2.1 Thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam 24 Tình hình thuế TNDN ở Việt Nam 24 Tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp lên cấu trúc vốn của công ty ở Việt Nam 25 Thực trạng cấu trúc vốn các nhóm ngành điển hình ở Việt Nam 25 Phân tích Công ty cổ phần nhiệt điện Phả Lại (PPC) và Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ (FPT) 26 3.2.2 Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam 29 Biểu thuế 29 Tác động của thuế TNCN 30 4. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP HOẠCH ĐỊNH CẤU TRÚC VỐN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 31 4.1 Hạn chế trong hoạch định cấu trúc vốn ở Việt Nam 31 Hạn chế trong việc phát hành cổ phiếu 32 Hạn chế trong phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong huy động vốn 32 4.2 Giải pháp cho việc hoạch định cấu trúc vốn ở Việt Nam 33 Ứng dụng lý thuyết trật tự phân hạng trong hoạch định cấu trúc vốn (pecking order theory). 33 Sát nhập nhằm gia tăng nguồn vốn và nâng cao năng lực cạnh tranh. 34 Xây dựng hệ thống thuế hiệu quả và công bằng 35 Xây dựng mô hình quản lý thuế 35 Hoàn thiện cơ chế quản lý 35 Hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam 36 Tăng cường kiểm tra, giám sát tính minh bạch của thông tin 36 KẾT LUẬN 38 Tài liệu tham khảo 39

doc45 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3372 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những hạn chế và giải pháp hoạch định cấu trúc vốn trong mối quan hệ với chính sách thuế tn cho các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất sinh lợi mà các cổ đông nhận được.Các nhà đầu tư phát hiện ra điều này và họ sẽ phản ứng bằng cách ấn định một tỷ số giá thu nhập P/E thấp và kết quả là giá cổ phần sẽ giảm đi. Quyền kiểm soát Mục tiêu chính của các chủ sở hữu là nắm quyền kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Các chủ sở hữu không muốn chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp bởi vì điều đó có thể làm cản trở khả năng huy động vốn. Do vậy để đảm bảo nguyên tắc này đòi hỏi các chủ sở hữu doanh nghiệp khi cần thiết gia tăng vốn phải huy động từ nguồn vốn cổ phần ưu đãi hay cổ phần thường hoặc kết hợp cả hai. Tuy nhiên điều này đôi khi không thực thi trong thực tiễn vì không phải lúc nào cũng có thể huy động thêm nguồn vốn tài trợ từ phát hành cổ phần, điển hình khi nền kinh tế đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, cổ phiếu của doanh nghiệp đang mất giá, tình hình tài chính của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả .... thì cơ hội phát hành cổ phiếu thành công là điều hết sức khó khăn. Đối với nguồn tài trợ nợ thì các chủ nợ không có tiếng nói trong việc lựa chọn và kiểm soát ban điều hành của doanh nghiệp, nhưng khi doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn thì các chủ nợ có thể tịch biên tài sản của doanh nghiệp để đảm bảo trái quyền của họ, hoặc trong nhiều trường hợp, các chủ nợ có thể đòi hỏi thông tin về mục đích sử dụng khoản nợ vay, cũng có thể làm tiết lộ thông tin mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Khả năng điều động hay khả năng tài trợ linh hoạt Khả năng điều động hay khả năng tài trợ linh hoạt tức là khă năng điều chỉnh nguồn vốn tăng hay giảm đáp ứng với các thay đổi quan trọng trong nhu cầu vốn.Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải luôn chuẩn bị sẵn các phương án điều động hay tài trợ linh hoạt, điều này cho phép doanh nghiệp có thể có nhiều phương án mở khi cần mở rộng hay thu hẹp tổng nguồn vốn sử dụng, đồng thời cho phép doanh nghiệp sử dụng loại vốn có sẵn vào bất kỳ một thời điểm nào đó, mà còn làm tăng năng lực mặc cả của doanh nghiệp khi giao dịch với nhà cấp vốn tương lai. Định thời điểm Đây là nguyên tắc gắn liền với chu kỳ sống của một doanh nghiệp. Khi ở giai đoạn khởi sự, việc huy động nguồn vốn nợ là hết sức khó khăn vì đối với các nhà cung cấp vốn, doanh nghiệp chưa thể hiện được các thông tin tài chính cần thiết để tạo niềm tin. Do đó, nguồn vốn quan trọng trong giai đoạn này là vốn cổ phần. Trong giai đoạn tăng trưởng, nguồn vốn quan trọng cũng chính là vốn cổ phần và từ thu nhập giữ lại và có thể sử dụng một phần tài trợ nợ. Trong giai đoạn sung mãn thì doanh nghiệp có thể sử dụng và khai thác tối đa lợi ích của đòn bẩy tài chính, đây là một công cụ quan trọng không chỉ kéo dài thời gian của giai đoạn này mà nó còn hữu ích cho hoạt động tái cấu trúc vốn để đưa doanh nghiệp không lâm vào giai đoạn cuối cùng là giai đoạn suy thoái. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn ở khía cạnh chu kỳ sống của doanh nghiệp không thì chưa đủ, mà điều quan trọng hơn là việc huy động vốn cổ phần hay gia tăng nợ vào thời điểm nào trong chu kỳ sống của doanh nghiệp phải gắn chặt với đặc điểm của nền kinh tế, cụ thể là tùy thuộc vào tình trạng tăng trưởng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng, tỷ số giá thu nhập của cổ phần thường có thể tăng, do đó doanh nghiệp có thể thoả mãn ý muốn bằng gia tăng thêm cổ phần thường. Bằng cách định thời điểm phát hành cổ phần thường để đạt được càng nhiều càng tốt lợi ích cho mỗi cổ phần, doanh nghiệp có thể tối thiểu hoá số cổ phần cần thiết để huy động một lượng vốn cho sẵn, tránh được tình trạng loãng giá. Không những thế, với sự gia tăng của vốn cổ phần thường còn nhằm cung cấp khả năng điều động cho phát hành nợ sau này trong giai đoạn phục hồi sắp tới của chu kỳ kinh doanh. 1.4 Lý thuyết MM về cấu trúc vốn của doanh nghiệp Lý thuyết MM về cơ cấu vốn được xem là lý thuyết hiện đại lý giải được quan hệ giữa giá trị công ty, chi phí sử dụng vốn và mức độ sử dụng nợ của công ty. Modigliani và Miller đưa ra hai mệnh đề và xem xét trong hai trường hợp có thuế và không có thuế. Trong trường hợp không có thuế, mệnh đề I của MM phát biểu rằng giá trị công ty có vay nợ và giá trị công ty không có vay nợ là như nhau. Do đó, giá trị công ty không thay đổi khi cơ cấu vốn của công ty thay đổi. Mệnh đề II cho rằng, chi phí sử dụng vốn trung bình không đổi trong khi chi phí sử dụng vốn cổ phần tăng lên khi công ty gia tăng tỷ số nợ. Trong trường hợp có thuế, giá trị công ty có vay nợ bằng giá trị công ty không vay nợ cộng với hiện giá của lá chắn thuế do sử dụng nợ. Nhu vậy, việc sử dụng nợ hay sử dụng đòn bẩy tài chính làm gia tăng giá trị công ty. Đây là nội dung mệnh đề I của MM trong trường hợp có thuế. Mệnh đề số II trong trường hợp có thuế cho rằng chi phí sử dụng vốn trung bình giảm trong khi chi phí sử dụng vốn cổ phần tăng lên khi công ty gia tăng tỷ số nợ. 2. TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (TNDN) VÀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN (TNCN) ĐẾN CẤU TRÚC VỐN CỦA MỘT DOANH NGHIỆP. 2.1 Tác động của thuế TNDN đến cấu trúc vốn Tác động nợ đối với cấu trúc vốn Đối với doanh nghiệp tài trợ nợ có một lợi thế rất quan trọng. Vì lãi vay từ các khoản vay của doanh nghiệp có được bởi việc phát hành các chứng khoán nợ, là các khoản chi phí được phép khấu trừ thuế. Trong khi đó, nếu doanh nghiệp huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh bằng nguồn khác như là phát hành cổ phiếu, sử dụng lợi nhuận giữ lại thì cổ tức và lợi nhuận giữ lại sẽ không được khấu trừ thuế. Lợi thế này của nợ được gọi là tấm chắn thuế của doanh nghiệp sử dụng nợ. Để xem xét sự ảnh hưởng của thuế TNDN ta xem xét mối tương quan giữa tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu với các cấu trúc vốn khác nhau của doanh nghiệp X có Tỷ lệ nợ Đơn vị: USD 0% 40% 60% Tổng nguồn vốn 1000000 1000000 1000000 Nợ vay 0 400000 600000 VCSH 1000000 600000 400000 EBIT 200000 200000 200000 Lãi vay (10%) 0 40000 60000 Lợi nhuận trước thuế 200000 160000 140000 Thuế thu nhập doanh nghiệp (25%) 50000 40000 35000 EAT 150000 120000 105000 Tổng lợi nhuận cho trái chủ và cổ đông 150000 160000 165000 Tấm chắn thuế ( khoản khấu trừ thuế lãi từ chứng khoán nợ 0 10000 15000 ROE 15.0% 20.0% 26.3% Qua bảng trên chúng ta thấy với mức EBIT trong trường hợp này ta giả định là 200.000, khi mà tỷ lệ nợ trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp X tăng từ thì tấm chắn thuế sẽ tăng tương ứng (ở mức 40% là 10000 ở mức 60% là 15000). Đồng thời tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần cũng tăng lên từ mức từ 15% lên 20% và 26.3% tương ứng khi đòn cân nợ tăng từ 0% đến 20%, đến 40% và 60%. Từ đó ta thấy cấu trúc vốn của doanh nghiệp càng thâm dụng nợ thì có thể làm tăng từ lợi ích của tấm chắn thuế và hiệu quả sử dụng vốn cổ phần. Tuy nhiên, có phải trường hợp nào thâm dụng nợ cũng mang lại lợi ích như vậy không? Chúng ta tiếp tục xét trường hợp EBIT là 60.000 ta có kết quả sau: Tỷ lệ nợ Đơn vị: USD 0% 40% 60% Tổng nguồn vốn 1000000 1000000 1000000 Nợ vay 0 400000 600000 VCSH 1000000 600000 400000 EBIT 90000 90000 90000 Lãi vay (10%) 0 40000 60000 Lợi nhuận trước thuế 90000 50000 30000 Thuế thu nhập doanh nghiệp (25%) 22500 12500 7500 EAT 67500 37500 22500 Tổng lợi nhuận cho trái chủ và cổ đông 67500 77500 82500 Tấm chắn thuế ( khoản khấu trừ thuế lãi từ chứng khoán nợ 0 10000 15000 ROE 6.8% 6.3% 5.6% Ta thấy mặc dù tấm chắn thuế vẫn tăng lên khi gia tăng tỷ lệ nợ nhưng lúc này ROE lại không tăng mà giảm dần từ 6.8% lên 6.3% và 5.6% tương ứng khi đòn cân nợ tăng từ 0% đến 20%, đến 40% và 60%. Như vậy doanh nghiệp thâm dụng nợ chưa chắc đã có lợi. Tóm lại việc sử dụng nợ mang lại tấm chắn thuế TNDN cho doanh nghiệp nhưng không phải trường hợp nào cũng có lợi cho doanh nghiệp nó vì nó có thể làm tăng hoặc giảm mức ROE. Và việc sử dụng nợ có mang lại hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc dự đoán EBIT thu được trong tương lai có chính xác hay không. Tấm chắn thuế và giá trị doanh nghiệp Các tấm chắn thuế có thể là các tài sản có giá trị. Giả sử nợ của công ty X là cố định vĩnh viễn (tức là, công ty cam kết tài trợ các nghĩa vụ nợ hiện hữu của mình khi đáo hạn và giữ các nghĩa vụ nợ này “tuần hoàn” mãi mãi). Như vậy cứ 1000$ vay nợ với thuế suất thuế thu nhập là 25%, lãi vay 10% thì doanh nghiệp sẽ có một dòng tiền vĩnh viễn là 25$. Dòng tiền này so với có rủi ro ít hơn các tài sản phục vụ cho kinh doanh của X. Tác dụng của các tấm chắn thuế tùy thuộc vào thuế suất thuế thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên thực tế ta thấy thường thì thuế suất thuế thu nhập ổn định. Và giả định khả năng đạt lợi nhuận đủ để chi trả lãi vay của doanh nghiệp X phải chắc chắn một cách hợp lý. Giả định rủi ro của các tấm chắn thuế bằng với rủi ro của các chi trả lãi phát sinh từ các tấm chắn thuế này, để tính toán hiện giá của tấm chắn thuế, ta có thể sử dụng lãi suất chiết khấu bằng với tỷ lệ lãi vay đòi hỏi của các trái chủ, trong minh họa này là 10%. Ta có: PV (tấm chắn thuế ) = = 250 Từ đó ta thấy chính phủ đã gánh chịu 25% nghĩa vụ nợ 1000$ của X. Và ta cũng nhận xét rằng hiện giá của tấm chắn thuế trong trường hợp này không phụ thuộc vào tỷ suất sinh lợi của nợ. Trong trường hợp nợ là vĩnh viễn không đổi thì hiện giá của tấm chắn thuế TNDN nhân với số nợ vay: PV (tấm chắn thuế) Bây giờ chúng ta tiếp tục xem xét xem tấm tác động của tấm chắn thuế lãi đối với giá trị doanh nghiệp như thế nào. Định đề I của MM nói rằng “ giá trị của một cái bánh không tùy thuộc vào việc nó được cắt ra như thế nào”. Cái bánh là tài sản của doanh nghiệp, các lát bánh là nợ và vốn cổ phần. Nếu giữ cái bánh không đổi, thì thêm một đồng nợ là bớt đi một đồng vốn cổ phần. Nhưng thực ra, còn một lát bánh thứ ba, đó là phần của chính phủ. So sánh giá trị của doanh nghiệp qua 2 bảng cân đối kế toán sau: Bảng cân đối kế toán thông thường Giá trị tài sản ( hiện giá các dòng tiền sau thuế) Nợ Vốn cổ phần Tổng tài sản Tổng nợ và vốn cổ phần Bảng cân đối kế toán mở rộng Giá trị tài sản trước thuế ( hiện giá các dòng tiền trước thuế) Nợ Trái quyền của chính phủ (hiện giá của thuế tương lai) Vốn cổ phần Tổng tài sản Tổng nợ và vốn cổ phần Theo như bảng cân đối kế toán mở rộng cho thấy giá trị tài sản trước thuế của doanh nghiệp bên tài sản và giá trị trái quyền thuế của chính phủ được công nhận như một món nợ ở bên nợ. Theo MM trong cái bánh lúc này, giá trị của doanh nghiệp trước thuế, sẽ không đổi khi cắt ra thành từng lát. Điều mà các doanh nghiệp có thể làm đề làm lợi cho cổ đông đó là thu nhỏ miếng bánh của chính phủ. Để thu nhỏ lát bánh của chính phủ là vay nợ, vì nó làm giảm hóa đơn thuế. Giá trị sau thuế của doanh nghiệp sẽ tăng thêm và phần tăng thêm này chính là hiện giá của thuế tương lai. Như vậy, giá trị của công ty có sử dụng nợ sẽ lớn hơn công ty được tài trợ hoàn toàn bằng vốn cổ phần. Giá trị doanh nghiệp = Giá trị DN được tài trợ hoàn toàn bằng vốn cổ phần + PV ( tấm chắn thuế) Tấm chắn thuế và chi phí kiệt quệ tài chính Kiệt quệ tài chính xảy ra khi không thể đáp ứng các hứa hẹn với chủ nợ hoặc đáp ứng một cách khó khăn.Kiệt quệ tài chính đưa doanh nghiệp đến phá sản hoặc chỉ có nghĩa là doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong thực hiện nghĩa vụ nợ. Như ở trên ta đã thấy khi doanh nghiệp gia tăng vay nợ thì giá trị của doanh nghiệp sẽ tăng lên, nhưng vì có chi phí kiệt quệ tài chính nên trên thực tế khó có doanh nghiệp nào sử dụng cấu trúc vốn 100% nợ. Khi doanh nghiệp gia tăng vay nợ đến một mức nào đó, các chủ nợ của doanh nghiệp sẽ cảm thấy lo lắng hơn về khả năng trả nợ của doanh nghiệp hay nói cách khác là khả năng lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp. Cho nên nếu muốn vay thêm doanh nghiệp buộc phải trả tỷ suất sinh lợi cao hơn trước. Và lo ngại này cũng được phản ánh trong giá thị trường hiện tại của chứng khoán các doanh nghiệp có vay nợ. Ta có: Giá trị thị trường của doanh nghiệp Giá trị nếu được = tài trợ hoàn toàn bằng vốn cổ phần + PV ( tấm chắn thuế) - PV (chi phí kiệt quệ tài chính) Vậy khi doanh nghiệp thực hiện gia tăng vay nợ sẽ làm cho gia tăng giá trị doanh nghiệp nhưng điều nay cũng dẫn đến kiệt quệ tài chính. Kiệt quệ tài chính có thể dẫn doanh nghiệp đến phá sản hoặc chỉ là khó khăn trong thực hiện nghĩa vụ nợ. Cho nên doanh nghiệp cần phải có một cấu trúc vốn tối ưu để có thể phát huy hết lợi thế của tấm chắn thuế hạn chế chi phí khánh kiệt tài chính. 2.2 Tác động thuế TNCN đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp Khi đưa vấn đề thuế thu nhập các nhân vào xem xét, thì mục tiêu của doanh nghiệp không còn là tối thiểu hóa đơn thuế thu nhập doanh nghiệp nữa, mà doanh nghiệp sẽ phải tối thiểu hiện giá các khoản thuế chi trả từ lợi nhuận của doanh nghiệp. Lúc này doanh nghiệp sẽ phải lựa chọn cấu trúc vốn sao cho tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp sau thuế. Từ hình trên ta rút ra: Lợi thế tương đối của nợ = (1- Tp)/ (1- TpE)(1- Tc) Như vậy, vay nợ là tốt hơn nếu 1- Tp lớn hơn (1- TpE)x(1-Tc), và ngược lại. Ta có hai trường hợp đặc biệt: Nếu giả dụ lợi nhuận từ vốn cổ phần đều là cổ tức. Lúc đó thì lợi nhuận từ nợ và vốn cổ phần cùng chịu mức thuế thu nhập cá nhân thực tế, như vậy lợi thế tương đối chỉ phụ thuộc vào thuế thu nhập doanh nghiệp: Lợi thế tương đối= (1- Tp)/ (1- TpE)(1- Tc) = 1/(1-Tc) Khi thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân bù qua sớt lại với nhau làm cho chính sách nợ không đặt thành vấn đề. Điều này đòi hỏi: (1- Tp) = (1- TpE)(1- Tc) Trường hợp này xảy ra nếu thuế xuất thuế thu nhập doanh nghiệp Tc thấp hơn thuế suất thuế thu nhập cá nhân Tp và thuế suất thực tế TpE đánh trên lợi nhuận vốn cổ phần rất thấp. 3. THỰC TRẠNG CẤU TRÚC VỐN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP ĐẾN HOẠCH ĐỊNH CẤU TRÚC VỐN. 3.1 Cấu trúc vốn của các công ty lớn ở Mỹ và ảnh hưởng của thuế thu nhập đến việc hoạch định cấu trúc vốn của các công ty này. Để xem xét tác động của thuế thu nhập đến hoạch định cấu trúc vốn của doanh nghiệp, chúng ta sẽ đưa ra các biểu thuế thu nhập ở Mỹ, bao gồm biểu thuế TNDN và biểu thuế TNCN. 3.1.1 Thuế thu nhập doanh nghiệp ở Mỹ Thuế suất thuế TNDN ở Mỹ thường khá ổn định, thuế ở Mỹ đã từng sụt từ 46% xuống 34% sau Đạo luật cải cách thuế năm 1986 ( Trước năm 1986, thuế thu nhập doanh nghiệp ở Mỹ là 46%). Năm 1999, thuế thu nhập doanh nghiệp nhích lên 35%. Sau đây là biểu thuế TNDN lũy tiến ở Mỹ từ năm 2003 đến nay (đơn vị USD) Taxable income over Not over Tax rate 0 50,000 15% 50,000 75,000 25% 75,000 100,000 34% 100,000 335,000 39% 335,000 10,000,000 34% 10,000,000 15,000,000 35% 15,000,000 18,333,333 38% 18,333,333 .......... 35% 3.1.2 Thuế TNCN đánh trên cổ tức, đánh trên lãi vốn ở Mỹ Trước khi đạo luật cải cách thuế 1986 ra đời, có sự  khác biệt rất đáng kể giữa thuế đánh trên cổ tức và thuế đánh trên lãi vốn: các nhà đầu tư chi trả đến 50% trên cổ tức so với mức tối đa 20% tính trên lãi vốn.Cải cách thuế năm 1986 đã cân bằng thuế suất tính trên cổ tức và lãi vốn là 28%. Thuế đánh trên lãi vốn từ năm 2003 đến nay:  Capital Gains Taxation in the United States from 2003 forward 2003 - 2010 2011 - 2003 - 2007 2008 - 2010 2011 - Ordinary Income Tax Rate Short-term Capital Gains  Tax Rate Long-term Capital Gains  Tax Rate Short-term Capital Gains  Tax Rate Long-term Capital Gains  Tax Rate Ordinary Income Tax Rate Short-term Capital Gains  Tax Rate Long-term Capital Gains  Tax Rate 10% 10% 5% 10% 0% 15% 15% 15% 15% 15% 5% 15% 0% 28% 28% 20% 25% 25% 15% 25% 15% 31% 31% 20% 28% 28% 15% 28% 15% 36% 36% 20% 33% 33% 15% 33% 15% 39.6% 39.6% 20% 35% 35% 15% 35% 15% Thu nhập lãi vốn ngắn hạn được đánh thuế  bằng với mức thuế suất thu nhập cá nhân, trong khi đó thu nhập lãi vốn dài hạn được đánh với mức thuế thấp hơn. Từ 2008-2010, thu nhập lãi vốn dài hạn không bị  đánh thuế đối với nhà đầu tư có mức thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân trong khung 10% và 15%. Hiện nay, Chính phủ Mỹ đang cân nhắc nâng mức thuế thu nhập cá nhân. Thu nhập trong khung chịu thuế cũ 10% và 15% bây giờ sẽ chịu mức thuế 15% và 28%. Tương ứng theo đó chính phủ tăng thuế đối với thu nhập lãi vốn dài hạn đối với những nhà đầu tư này từ 0% lên 15% và 20%. Với các nhà đầu tư có thu nhập cao hơn thì thuế trên thu nhập lãi vốn dài hạn cũng được tăng  từ mức 15% lên đến 20%. Việc nâng mức thuế cho những nhà đầu tư này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của các doanh nghiệp trong năm nay. Thuế đánh trên cổ tức từ năm 2003 đến nay:   Dividend Taxation in the United States from 2003 forward 2003 - 2010 2011 - 2003 - 2007 2008 - 2010 2011 - Ordinary Income Tax Rate Ordinary Dividend  Tax Rate Qualified Dividend  Tax Rate Ordinary Dividend  Tax Rate Qualified Dividend  Tax Rate Ordinary Income Tax Rate Ordinary Dividend  Tax Rate Qualified Dividend  Tax Rate 10% 10% 5% 10% 0% 15% 15% 15% 15% 15% 5% 15% 0% 28% 28% 28% 25% 25% 15% 25% 15% 31% 31% 31% 28% 28% 15% 28% 15% 36% 36% 36% 33% 33% 15% 33% 15% 39.6% 39.6% 39.6% 35% 35% 15% 35% 15% Trong giai đoạn 2003-2010 thu nhập cổ tức bình thường được đánh thuế bằng với mức thuế suất thu nhập cá nhân, trong khi đó thu nhập cổ tức đến hạn được đánh với mức thuế thấp hơn. Trong giai đoạn 2011 trở về sau với việc tăng thuế thu nhập cá nhân của chính phủ Mỹ, chính phủ cũng sẽ nâng mức thuế suất đánh trên cổ tức bình thường và cổ tức đến hạn lên bằng nhau và bằng mức thuế thu nhập cá nhân nhà đầu tư chịu, tức là chính phủ xem thu nhập lãi vốn và thu nhập cổ tức như thu nhập bình thường. Sau 2011 thì có sự chênh lệch giữa thuế đánh trên lãi vốn dài hạn và thuế đánh trên cổ tức đến hạn. Thuế  trên lãi vốn dài hạn Thuế trên cổ  tức đến hạn 15% 15% 20% 28% 20% 31% 20% 36% 20% 39.6% Tiếp theo, ta hãy xem xét cấu trúc vốn của các công ty lớn và điển hình ở Mỹ. 3.1.3 Cấu trúc vốn các công ty ở Mỹ Cấu trúc vốn của Microsoft Corporation Đơn vị: triệu Đôla 2009 2008 2007 2006 Nợ dài hạn 3.746 - - - Doanh thu không kiếm mà có dài hạn ( tạm dịch từ cụm từ "Long-term unearned revenue") 1.281 1.900 1.867 1.764 Các nghĩa vụ dài hạn khác 6.269 4.721 6.453 5.387 Vốn chủ sở hữu 39.552 36.286 31.097 40.104 Tổng vốn 50.484 42.907 39.417 47.255 (Nguồn : Bảng cân đối kế toán của BCTC năm 2009 và 2007 Microsoft Corporation ) Tỷ trọng của nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu trong nguồn vốn 2009 2008 2007 2006 Nợ dài hạn/Tổng vốn 7,42% - - - Vốn chủ sở hữu/Tổng vốn 78,35% 84,57% 78,89% 84,87% Cấu trúc vốn của Intel Inc. Đơn vị: triệu Đôla 2009 2008 2007 2006 Thuế thu nhập phải trả (Long-term income taxes payable) 193 736 785 - Nợ dài hạn 2.049 1.185 1.980 1.848 Nghĩa vụ thuế dài hạn được hoãn (Deferred tax liabilities) 555 46 411 265 Nghĩa vụ dài hạn khác 1.003 1.141 1.142 989 Vốn chủ sở hữu 41.704 39.546 42.762 36.752 Tổng nguồn vốn 45.504 42.654 47.080 39.854 ( Nguồn: Bảng cân đối kế toán trong BCTCcủa Intel Inc. năm 2009 và 2007) Tỷ trọng của nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu trong nguồn vốn 2009 2008 2007 2006 Nợ dài hạn/Tổng vốn 4,5% 2,78% 4,2% 4,64% Vốn chủ sở hữu/Tổng vốn 91,65% 92,71% 90,83% 92,21% Cấu trúc vốn của Hewlett-Parkard Company (HP Corp.) Đơn vị: triệu Đôla 2009 2008 2007 2006 Nợ dài hạn 13.980 7.676 4.997 2.490 Các nghĩa vụ dài hạn khác 17.294 13.774 5.916 5.497 Vốn chủ sở hữu 40.517 38.942 38.526 38.144 Tổng nguồn vốn 71.791 60.392 49.439 46.131 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán trong báo cáo tài chính của HP Corp. năm 2009 và 2007) Tỷ trọng của nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu trong nguồn vốn 2009 2008 2007 2006 Nợ dài hạn/Tổng vốn 34,5% 12,71% 10,11% 5,40% Vốn chủ sở hữu/Tổng vốn 56,44% 64,48% 77,93% 82,69% Nhận xét: Dựa vào bảng số liệu của các công ty ở trên ta có các nhận xét như sau: Đối với tập toàn Microsoft, hầu như ta thấy ở bảng số liệu là tập đoàn này đã không sử dụng nợ dài hạn trong cấu trúc vốn của mình, chỉ có riêng năm 2009, tập đoàn đã sử dụng khoảng 7,42% nợ trong cấu trúc vốn. Đối với công ty Intel, hầu như công ty cũng sử dụng vốn cổ phần trong cấu trúc vốn của mình và một cách ổn định qua các năm, tỷ trọng vốn cổ phần chiếm từ khoảng 90% đến 92%, còn việc sử dụng nợ thì công ty sử dụng nợ dài hạn trong cấu trúc vốn tương đối ít, chỉ chiếm khoảng từ 2,78% đến 4,64%. Đối với công ty HP, công ty đã tăng dần mức sử dụng nợ trong những năm qua, cụ thể là tỷ lệ nợ dài hạn trên tổng nguồn vốn đã tăng từ 5,4% vào năm 2006 lên đến 34,5% vào năm 2009. Sau đây ta sẽ đi tính hiện giá tấm chăn thuế của các công ty trong những năm qua, với mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 35%: Đơn vị: triệu $ 2009 2008 2007 2006 Microsoft Corp. 1.311 - - - Intel Inc. 718 415 693 647 HP Corp. 4893 2687 1749 872 Với Microsoft, một công ty chiếm lĩnh thị trường sản phẩm phần mềm trên toàn thế giới, đa phần tài sản của Microsoft có đặc điểm là các tài sản vô hình có giá trị lớn. Xét về góc độ lý thuyết, công ty nên sử dụng nguồn tài trợ là vốn cổ phần, tuy nhiên Microsoft là một công ty đang trong giai đoạn sung mãn, doanh số lớn và có lợi nhuận cao, dòng tiền phát sinh dương lớn và ổn định, do vậy việc chuyển từ vốn cổ phần sang sử dụng nợ, để khai thác lợi ích của tấm chắn thuế và gia tăng giá trị công ty là một vấn đề có thể thấy được. Với công ty Intel, một công ty chuyên về sản xuất các bộ vi xử lý công nghệ cao, lợi nhuận mà công ty thu về rất lớn, và ổn định, công đã sử dụng nợ với tỷ lệ thấp, phù hợp với đặc điểm ngành. Với HP, một công ty chuyên sản xuất máy tính, tài sản cố định của công ty lớn, nên có thể công ty không có đủ lượng tiền có sẵn để tài trợ hoặc đầu tư vào tài sản cố định nên việc sử dụng nợ của công ty là hợp lý và công ty đã khai thác được lợi ích từ tấm chắn thuế. Như vậy, ở trên, ta đã thấy rằng sự khác biệt trong ngành nghề sản xuất đã ảnh hưởng đến cấu trúc vốn, và do đó cũng ảnh hưởng đến cấu trúc vốn. Để thấy rõ được điều này, ta có bảng sau: Bảng: Tỷ lệ trả cổ tức năm 2005 Công ty Ngành Cổ tức chi trả Tỷ suất cổ tức Các công ty trả cổ tức cao General Motors Ô tô 266,67% 5,4% The South Company Điện 73,4 4,2 Merck & Co.Inc. Dược phẩm 60,56 4,8 Verizone Communications Viễn thông 54,18 4,7 Bank of America Corporation Ngân hàng 51,15 4,3 Các công ty trả cổ tức ít hoặc không trả cổ tức Wal-Mart Bán lẻ 24,1% 1,2 Marriott International Cư trú 15,97 0,6 Texas Instrument incorporated Công nghệ bán dẫn 9,17 0,3 Dell Máy tính các nhân 0 0 eBay Phần mềm và dịch vụ Internet 0 0 Genetech Inc. Công nghệ sinh học 0 0 Như vậy, việc trả cổ tức và lợi tức cổ phần khác nhau rất xa giữa các công ty lớn. Thông thường, các công ty trong các ngành công nghiệp ổn định và tạo ra tiền mặt như sản phầm gia dụng, thực phẩm, thuốc lá trả cổ tức tương đối cao, trong khi các công ty trong các ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh như phần mềm máy tính,công nghệ sinh học có xu hướng trả cổ tức thấp hơn. Ở trên ta chỉ thấy được sự khác biệt trong ngành nghề sản xuất đã ảnh hướng đến cấu trúc vốn, ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến việc hoạch định cấu trúc vốn như khủng hoảng kinh tế, các chính sách tiền tệ và đặc biệt là thuế thu nhập. Chẳng hạn như khủng hoảng tài chính toàn cấu năm 2008 có thể cũng đã ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các công ty, như việc sử dụng nhiều nợ trong cấu trúc vốn có thể đẩy đòn bẩy tài chính lên cao, đây là một việc làm có thể có nhiều rủi ro trong giai đoạn này. Ở Mỹ, thuế suất thuế TNCN cũng ảnh hưởng lớn đến việc phân chia cổ tức của các công ty và do đó là hoạch định cấu trúc vốn. Ta thử xem xét việc phân chia cổ tức ở Mỹ diễn ra như thế nào sau đạo luật cải cách thuế vào năm 2003.Trước năm 2003, cổ tức phải chịu thuế ở mức ngang bằng thuế suất thuế thu nhập thông thường, có thể lên tới mức 38% so với mức thuế đánh trên lãi vốn là 20%.Từ năm 2003, thuế suất cao nhất đối với cổ tức và lãi vốn dài hạn được quy định ở mức 15%, khi đó nhiều công ty bắt đầu hoặc gia tăng mức cổ tức chi trả.Trước đó, các công ty này có xu hướng mua lại cổ phiếu. Sau đây là số liệu về số các công ty tăng hoặc bắt đầu chi trả cổ tức: Năm Số lượng các công ty tăng hoặc bắt đầu chi trả cổ tức 2002 113 2003 229 2004 2000 công ty nội địa Mỹ đã trả cổ tức và 365 trong số 500 công ty của S&P đã trả cổ tức (Carla Pasternak, "Hầu hết các công ty đã trả cổ tức", High-Yield Investing, 8/3/2004). 3.2 Tác động của thuế thu nhập đối với hoạch định cấu trúc của các doanh nghiệp ở VN 3.2.1 Thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam Tình hình thuế TNDN ở Việt Nam Năm 1997, Thuế suất thuế TNDN áp dụng đối với cơ sở kinh doanh trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là 32%. Cơ sở kinh doanh có thu nhập cao do lợi thế khách quan mang lại thì ngoài việc nộp thuế thu nhập theo thuế suất 32%, còn phải nộp thuế thu nhập bổ sung 25% trên phần thu nhập cao do lợi thế khách quan mang lại. Năm 2004, Thuế suất thuế TNDN đối với cơ sở kinh doanh là 28%. Thuế suất thuế TNDN đối với cơ sở kinh doanh tiến hành tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí và tài nguyên quí hiếm khác từ 28% đến 50% phù hợp với từng dự án, từng cơ sở kinh doanh. Năm 2008, Thuế suất thuế TNDN là 25%. Thuế suất thuế TNDN đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và tài nguyên quí hiếm khác từ 32% đến 50% phù hợp với từng dự án, từng cơ sở kinh doanh. Tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp lên cấu trúc vốn của công ty ở Việt Nam: Lợi thế tương đối của nợ Trước năm 2004 (Tc = 32%) Từ năm 2004 – 2008 (Tc = 28%) Từ năm 2008 – 2009 (Tc = 25%) Từ năm 2009 đến nay (Tc = 25%; Tp = 5%; TpE = 20%) (nếu nhà đầu tư bán ngay cổ phiếu)) Thực trạng cấu trúc vốn các nhóm ngành điển hình ở Việt Nam Bảng : Tỷ trọng nợ bình quân trên tổng tài sản của các nhóm ngành điển hình qua các năm Như đã biết việc hoạch định cấu trúc vốn của một doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều yếu tố chứ không chỉ là dựa vào ý kiến chủ quan của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách thuế, tiêu chuẩn ngành, chu kỳ kinh tế, quy mô công ty, tác động của chính phủ, …) Trong giai đoạn 2005-2009 ta thấy có 2 giai đoạn của thuế thu nhập doanh nghiệp đó là 28% (2005-2007) và 25% (2008-2009), điều này là hoàn toàn phù hợp với chủ trương kích thích nền kinh tế phát triển nhưng điều đó cho thấy xu hướng là thuế thu nhập giảm làm giảm tác dụng của tấm chắn thuế. Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy trong giai đoạn 2005-2007 xu hướng tỷ trọng nợ trên tổng tài sản của có xu hướng giảm và trong giai đoạn 2008-2009 thì có xu hướng tăng, ví dụ: ở ngành dịch vụ xăng dầu giảm 53% (2005) xuống còn 38% (2007) sau đó tăng lên 41%(2008) rồi đến 51%(2009). Tỷ lệ giá trị tài sản cố định hữu hình trên tổng tài sản, tính thanh khoản, quy mô, tốc độ tăng trưởng, đặc điểm riêng có của sản phẩm của doanh nghiệp, tỷ lệ vốn góp của nhà nước tại các công ty cổ phần hình thành từ chủ trương cổ phần hoá ... có tác động rất lớn đến việc sử dụng nợ dài hạn. Bên cạnh đó, công ty cổ phần được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước quá lạc hậu, chậm đổi mới thiết bị công nghệ, quản trị doanh nghiệp chưa đáp ứng với yêu cầu, thiếu những dự án đầu tư mang tính chiến lược, cho thấy đây chính là một trong những nguyên nhân mà đa số các công ty cổ phần khó tiếp cận các nguồn vốn dài hạn (ngoại trừ một số công ty cổ phần có tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ trên 51% còn tận dụng được nguồn tài trợ nợ dài hạn do có mối quan hệ với các ngân hàng thương mại từ trước khi được cổ phần hoá). Từ những nhận xét trên và sự phát triển không đồng bộ của thị trường vốn ở nước ta, chúng ta có thể thấy sự khó khăn của các công ty cổ phần trong việc huy động và sử dụng nguồn vốn tài trợ nợ trung, dài hạn và không khai thác được lợi ích từ tấm chắn thuế. Phân tích Công ty cổ phần nhiệt điện Phả Lại (PPC) và Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ (FPT). Công ty cổ phần nhiệt điện Phả Lại (PPC) Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất điện với sản lượng chiếm 10% sản lượng điện sản xuất của cả nước và 40%sản lượng điện của miền Bắc có thể nói đây là một trong những doanh nghiệp tiêu biểu của ngành. (Tổng hợp từ BCTC qua các năm của công ty cổ phần nhiệt điện Phả Lại) Đòn cân nợ 2006 2007 2008 Tỷ số nợ trên tổng tài sản Ngành sản xuất phân phối điện 59% 52% 57% Toàn thị trường 58% 53% 58% Tỷ số nợ trên VCSH Ngành sản xuất phân phối điện 143% 109% 133% Toàn thị trường 138% 111% 137% (www.vietstock.vn) Qua tỷ số nợ trên tài sản, cho thấy trên 60% tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bằng nợ vay và tỷ số nợ trên tài sản của PPC cao hơn mức bình quân ngành. Với đặc điểm là ngành độc quyền có đầu ra ổn định cho nên việc trong chuyển từ cấu trúc vốn không sử dụng nợ dài hạn sang có sự dụng nợ dài hạn như vậy là phù hợp. Xem xét tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần và tỷ nợ trên vốn cổ phần ta thấy doanh nghiệp đang sử dụng tỷ lệ nợ dài hạn ít hơn hướng đến sử dụng nợ ngắn hạn nhiều hơn trước, mặc dù nợ ngắn hạn có thể gây ra khánh kiệt tài chính. giảm. Điều này không phù hợp với đặc điểm ngành của doanh nghiệp. Bên cạnh đó,ta thấy trong giai đoạn 2004-2005 tỷ lệ nợ trên tổng tài sản giảm từ 92% xuống còn 72%. Và giai đoạn sau 2006-2009, tỷ lệ nợ trên tổng tài sản của doanh nghiệp biến ổn định trong khoảng 64%, trong khi lợi ich từ tấm chắn thuế giảm do thuế suất đã giảm từ 28% xuống còn 25%. Cho thấy lợi ích của tấm chắn thuế có vẻ chưa được doanh nghiệp quan tâm một cách hợp lý để sử dụng một cách hiệu quả. Như vậy doanh nghiệp đã không tận dụng hết tất cả các khả năng về sử dụng nợ, đặc biệt là nợ dài hạn do đặc điểm ngành. Và cũng chưa có sự quan tâm đến việc tận dụng được lợi thuế tấm chắn thuế một cách hữu hiệu. Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ (FPT): Doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất phần mềm, dịch vụ, thương mại với các sản phẩm chủ yếu là dịch vụ viễn thông, phân phối thiết bị công nghệ thông tin. Một số tỷ số đòn cân tài chính của FPT qua 8 năm 2002-2009: (Tổng hợp từ báo cáo tài chính của công ty FPT) Kết quả số liệu trên cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng chủ yếu là cấu trúc thâm dụng nợ bám sát chỉ số trung bình ngành. Ví dụ: giai đoạn 2005-2009 với tỷ số nợ trên tài sản từ 69 % (2005) có giảm xuống 50,5 % (2006) nhưng tăng lên lại 57,8 % (2007), sau đó tuy giảm xuống 35% (2008) do khủng hoảng kinh tế, doanh thu sụt giảm nên doanh nghiệp thực hiện giảm nợ nhưng đã dần phục hồi tăng lên 49%(2009), sự biến động này nói chung là bám sát chỉ số trung bình ngành trong giai đoạn 2005-2009 đã được đưa ra ở phần trước. Tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần tuy giảm mạnh nếu ta so sánh mức 286% (2002) đã giảm xuống chỉ còn 0.44% (2006) do việc phát hành thêm cổ phiếu cho hai nhà đầu tư chiến lược là Quỹ đầu tư Texas Pacific Group (TPG) và Intel Capital và phát hành cổ phiếu trên sàn chứng khoán Hồ Chí Minh. Sau đó đã có sự phục hồi trong giai đoạn 2007-2009 lên mức 27% (2009). Và dự đoán là tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn cổ phần của công ty sẽ tiếp tục tăng lên như vậy mới phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận rất cao như FPT,(cổ tức 70 - 80%/ năm) (nguồn Wikipedia). Việc duy trì tỷ lệ nợ dài hạn như vậy đối với là phù hợp đối với đặc điểm doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tận dụng tấm chắn thuế một cách hiệu quả. Bên cạnh ta thấy: cấu trúc vốn của doanh nghiệp có sự điều chỉnh theo thời gian và sự thay đổi của thuế khi thuế. Ở mức 32% thì tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần ở mức lớn nhất là 1565% còn mức nhỏ nhất là 468%. Sang giai đoạn 20004-2007, với thuế suất 28% thì mức cao nhất là 408% thấp nhất là 109,85%. Tiếp tục giai đoạn tiếp theo 2008-2009 khi mức thuế TNDN là 25% tỷ số nợ trên vốn cổ phần ở mức lớn nhất là 100% nhỏ nhất là 57% rõ ràng có một sự thay đổi lớn do thay đổi cấu trúc thuế. Qua đó ta có thể kết luận doanh nghiệp đã có sự nhận thức khá tốt về tấm chắn thuế, khi thuế suất giảm lợi ích từ tấm chắn thuế giảm doanh nghiệp cũng đã giảm tỷ lệ nợ của mình một cách phù hợp. 3.2.2 Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam Biểu thuế: Biểu thuế luỹ tiến từng phần Biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế quy định tại khoản 1 Điều 21. Biểu thuế luỹ tiến từng phần được quy định như sau: Bậc thuế Phần thu nhập tính thuế/năm (triệu đồng) Phần thu nhập tính thuế/tháng (triệu đồng) Thuế suất (%) 1 Đến 60 Đến 5 5 2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10 3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15 4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20 5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25 6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30 7 Trên 960 Trên 80 35 Biểu thuế toàn phần Biểu thuế toàn phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế quy định tại khoản 2 Điều 21. Biểu thuế toàn phần được quy định như sau: Thu nhập tính thuế Thuế suất %) a) Thu nhập từ đầu tư vốn 5 b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5 c) Thu nhập từ trúng thưởng 10 d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10 đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định tại khoản 1 Điều 13 Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán quy định tại khoản 2 Điều 13 20 0,1 e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 1 Điều 14 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 2 Điều 14 25 2 Tác động của thuế TNCN Đối với cổ tức của cổ đông Doanh nghiệp khi chi trả cổ tức có thể thực hiện bằng các hình thức như: cho trả cổ tức bằng tiền mặt, chi trả cổ tức bằng cổ phiếu hoặc sử dụng hỗn hợp, vừa chi trả bằng tiền mặt và bằng cổ phiếu. Theo quy định tại khoản 2 điều 6, Luật thuế TNCN thì cổ tức nhận được bằng cổ phiếu phải quy đổi ra tiền theo giá thị trường của cổ phiếu tại thời điểm cổ đông nhận chi trả. Qua kết quả này, với giả định cổ đông không thực hiện bán cổ phiếu nhận được mà giữ lại, rõ ràng việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm giảm lợi ích của cổ đông, cụ thể cổ đông phải nộp thuế TNCN cao gấp 5 lần so với chi trả cổ tức bằng tiền mặt. Chính sách thuế TNCN và lợi ích của doanh nghiệp. Về góc độ doanh nghiệp: theo chính sách thuế TNCN có hiệu lực từ ngày 01.01.2009 thì các khoản cổ tức chi trả bằng tiền hay chi trả bằng cổ phiếu đều là đối tượng chịu thuế TNCN, do vậy việc xây dựng cơ chế cổ tức hợp lý là nội dung mà các doanh nghiệp phải nghiên cứu. Điều quan trọng là phải kết hợp chính sách phân phối cổ tức với quyết định đầu tư và quyết định tài trợ trên cơ sở một cấu trúc vốn thích hợp. Với quy định của luật thuế TNCN không tính thuế thu nhập đối với khoản thu nhập giữ lại, sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp sử dụng khoản thu nhập sau thuế để tái đầu tư, vừa giảm chi phí sử dụng vốn trong tình hình lãi suất vay ngân hàng thương mại đang tăng cao và không ổn định, vừa gia tăng giá trị công ty và đem lại lợi ích cho cổ đông qua trì hoãn được khoản thuế TNCN phải nộp. Về kinh tế vĩ mô: việc qui định tính thuế TNCN đối với cổ tức nhận bằng cổ phiếu, trên cơ sở qui đổi theo giá thị trường tại thời điểm nhận cổ phiếu để xác định thu nhập tính thuế, là một vấn đề cần được xem xét. Với quy định này của Luật Thuế TNCN chưa thật sự khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguồn thu nhập giữ lại để đầu tư thông qua hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu. Việc áp dụng thuế suất thấp (5%) đối với thu nhập là cổ tức bằng tiền mặt nhưng lại tính thuế trên cổ tức được chia bằng cổ phiếu theo giá thị trường tại thời điểm chi trả, khi mà khoản thu nhập này cổ đông chưa thật sự nắm giữ trên tay không thể hiện định hướng khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư. Nếu cổ đông thực hiện chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường thì lúc này sẽ phát sinh khoản thuế TNCN phải nộp trên chênh lệch giá (giữa giá thị trường và mệnh giá) hoặc bằng một tỷ lệ (%) ấn định trên giá trị chuyển nhượng, sẽ khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng một chính sách phân phối linh hoạt, sử dụng khoản lợi nhuận sau thuế để đầu tư khi mà nguồn vốn tài trợ cho hoạt động SXKD còn quá thấp, chi phí sử dụng vốn quá cao. Trong xu hướng chung của thế giới, thuế TNCN là một sắc thuế tiên tiến, đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế đối với mỗi cá nhân và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của các quốc gia. Vì vậy, Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng biểu thuế, phương pháp tính thuế một cách khoa học, để có thể đưa chính sách thuế TNCN trở thành một công cụ điều tiết vĩ mô trong phát triển kinh tế, định hướng cho hoạch định cấu trúc vốn nhằm gia tăng giá trị của các doanh nghiệp và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. 4. Những hạn chế và giải pháp hoạch định cấu trúc vốn trong mối quan hệ với chính sách thuế thu nhập cho các doanh nghiệp Việt Nam 4.1 Hạn chế trong hoạch định cấu trúc vốn ở Việt Nam Hạn chế trong việc phát hành cổ phiếu Vào thời điểm 4 tháng cuối năm 2007, cơ hội rất lớn và tương đối dễ dàng để các công ty huy động vốn trong công chúng cho các dự án đầu tư. Tuy nhiên, thay vì phát hành công khai như các công ty niêm yết, nhiều công ty cổ phần có tên tuổi tổ chức phát hành riêng lẻ để thành lập công ty cổ phần mới hoặc kiếm khoản thặng dư vốn rất lớn cho những cổ đông lớn ở công ty mẹ đã sáng lập ra công ty con. Làn sóng phát hành riêng lẻ nhiều nhất trong ngành dầu khí, điện xây dựng và bất động sản… Nhằm lách luật, những công ty cổ phần con mới thành lập chỉ có dưới 100 cổ đông vì nếu trên con số này sẽ trở thành công ty cổ phần đại chúng và bị bắt buộc phải công bố thông tin công khai và đăng ký với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Ngay sau khi có giấy phép kinh doanh, công ty con bắt đầu bắt đầu bán cổ phiếu cho công chúng với giá gấp 2-3 lần mệnh giá. Muốn bán thật nhanh với giá cao, họ dùng phương thức truyền miệng, đồn thổi thông tin. Thực chất của việc chào bán riêng lẻ này là để thay đổi cơ cấu sở hữu nhưng không làm tăng vốn điều lệ công ty và thu về một khoản thặng dư vốn rất lớn cho những cổ đông lớn ở công ty con mới thành lập. Ngoài ra, hạn chế ở những doanh nghiệp còn là lượng vốn huy động được sử dụng chưa thật sự hiệu quả. Có những doanh nghiệp tranh thủ phát hành, đúng ra để đầu tư vào hoạt động SXKD thì lại sử dụng nguồn vốn huy động để trả nợ, gửi ngân hàng, đầu tư vào những lĩnh vực mới như bất động sản, tài chính, thậm chí góp vốn vào các quỹ đầu tư, mà những hoạt động đầu tư này không phải là hoạt động sở trường của doanh nghiệp. Kết quả đã thể hiện sự yếu kém của các doanh nghiệp trong việc hoạch định cấu trúc vốn, xuất phát từ nguyên nhân là thiếu những quyết định đầu tư chiến lược. Hạn chế trong phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong huy động vốn Trước 2006, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp được thực hiện theo Nghị định số 120/CP ngày17/9/1994 của Chính Phủ về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó, thị trường Việt Nam chưa phát triển, chỉ có các tổ chức tài chính tín dụng phát hành trái phiếu, còn trái phiếu doanh nghiệp thì có rất ít được phát hành, chính xác thì chỉ có 5 doanh nghiệp là: Công ty Cơ điện lạnh REE phát hành 5 triệu USD (năm 1996), Tổng công ty Dầu khí phát hành 300 tỷ (năm 2003), Tổng công ty Điện lực (EVN) phát hành 300 tỷ, Tổng công ty Xi măng 200 tỷ và EIS 10 tỷ (năm 1998). Vì vậy, trong khoảng thời gian này, kênh cấp vốn cho doanh nghiệp chủ yếu là thông qua tín dụng ngân hàng hoặc ngân sách Nhà nước hoặc Nhà nước cho vay rồi vay lại. Hoạt động huy động vốn trực tiếp trên thị trường hầu như chưa phát triển. Tuy nhiên, kể từ năm 2006 trở lại đây, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có bước phát triển tích cực, đặc biệt là sau khi có Nghị định 52/CP về việc cho phép các doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo hình thức riêng lẻ. Hiện nay, chủ thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp không chỉ là doanh nghiệp Nhà nước như trước đây mà còn có các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngay cả nguyên tắc phát hành cũng thông thoáng hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp có quyền tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm và công khai minh bạch thông tin. Điều này có nghĩa là Nhà nước không còn can thiệp quá sâu vào việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhìn chung quy mô thị trường giao dịch trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn nhỏ, chủ yếu vẫn là thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư vẫn chủ yếu mua và giữ trái phiếu tới khi đáo hạn, các dịch vụ liên quan nhằm hỗ trợ thị trường trái phiếu như dịch vụ định mức tín nhiệm, định giá trái phiếu hay dịch vụ lưu ký… hầu như chưa có. Các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc phát hành trái phiếu, đặc biệt là phát hành ra nước ngoài. Riêng khu vực trái phiếu doanh nghiệp đến thời điểm 2007 cũng chỉ chiếm 10% tổng giá trị thị trường. Hơn nữa, trên thị trường trái phiếu nội địa, viêc phát hành cũng chỉ mới tập trung ở một vài tập đoàn, doanh nghiệp lớn. Nói cách khác là các doanh nghiệp cũng mới chỉ đi những bước đi đầu tiên trong viêc phát hành trái phiếu doanh nghiệp.  4.2 Giải pháp cho việc hoạch định cấu trúc vốn ở Việt Nam Ứng dụng lý thuyết trật tự phân hạng trong hoạch định cấu trúc vốn (pecking order theory). Lý thuyết trật tự phân hạng giải thích tại sao các doanh nghiệp có khả năng sinh lợi nhất thường vay nợ ít hơn, không phải họ có các tỷ lệ nợ mục tiêu thấp mà vì họ không cần tiền bên ngoài. Các doanh nghiệp có khả năng sinh lợi ít hơn thì phát hành nợ vì họ không có các nguồn vốn nội bộ đủ cho chương trình đầu tư vốn và vì tài trợ nợ đứng đầu trong trật tự phân hạng của tài trợ từ bên ngoài. Trong lý thuyết trật tự phân hạng, sự hấp dẫn của tấm chắn thuế từ lãi chứng khoán nợ được coi là tác động hạng nhì. Các tỷ lệ nợ thay đổi khi có bất cân đối của dòng tiền nội bộ, cổ tức và cơ hội đầu tư thực sự. các doanh nghiệp có khả năng sinh lợi cao với cơ hội đầu tư hạn chế sẽ cố gắng duy trì một tỷ lệ nợ thấp. Các doanh nghiệp có cơ hội đầu tư lớn hơn các nguồn vốn phát sinh nội bộ thường phải vay nợ ngày càng nhiều. Mặc dù việc sử dụng nợ đem lại cho doanh nghiệp lợi ích từ lá chắn thuế nhưng nó lại gây ra những rủi ro tài chính gia tăng. Nghiên cứu và ứng dụng trật tự phân hạng, các doanh nghiệp Việt Nam có thể chọn cho mình một cấu trúc vốn tối ưu, tác dụng phòng ngừa rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh, tích lũy để gia tăng vốn sở hữu… Sát nhập nhằm gia tăng nguồn vốn và nâng cao năng lực cạnh tranh. Có nhiều động cơ dẫn đến sát nhập. Tham vọng bành trướng: một công ty lớn, đang phát triển mạnh có thể muốn tiếp quản các địch thủ nhỏ hơn của mình để trở nên lớn mạnh hơn nữa. Trong một số trường hợp, một công ty nhỏ có thể muốn mở rộng, nhưng lại bị hạn chế do thiếu vốn. Sẽ tìm kiếm một đối tác lớn hơn để lấy được khoản đầu tư cần có. Một số công ty khác thì sát nhập để tự vệ, để đáp trả các công ty sát nhập khác đang đe doạ vị trí cạnh tranh của mình. Các vụ sát nhập thường xảy ra thành từng đợt. Trong thời kỳ phát triển của thị trường chứng khoán khiến các vụ sát nhập dễ xảy ra hơn do khi đó chi phí của việc chiếm đoạt các công ty khác bằng cách trả cho họ các cổ phiếu (có giá trị cao) là khá rẻ. Nhưng giá cổ phiếu giảm có thể dẫn tới công ty ở trong tình trạng có giá trị thấp hơn thực tế, và vì vậy khi đó trở thành một mục tiêu hấp dẫn. Một số ngành buộc các công ty phải sát nhập do những khó khăn nào đó mà ngành đang phải đối mặt. Quá trình toàn cầu hoá cũng có ảnh hưởng lớn đển khả năng dễ xảy ra sát nhập. Vì vậy, đây cũng là một giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và trên thế giới. Xây dựng hệ thống thuế hiệu quả và công bằng Thuế TNCN chỉ chiếm 2% tổng thu ngân sách hoặc bằng khoảng 6% thuế TNDN. Vẫn còn rất thấp so với chuẩn mực quốc tế. Có nghĩa là hệ thống thuế Việt Nam vẫn chưa nắm bắt được một phần khá lớn các hoạt động kinh tế và cần phải xem lại hệ thống thuế TNCN. Nếu tính theo GDP thì thuế TNDN chiếm khoảng 8,5% GDP, sau đó là thuế hàng hóa và dịch vụ chiếm khoảng 6,2% GDP. Một hệ thống thuế hiệu quả hơn hệ thống thuế khác nếu số thu như nhau nhưng chi phí của người nộp thuế thấp hơn, cụ thể nhất là giảm thiểu những tổn thất tải trọng phát sinh từ việc thuế làm biến dạng các quyết định của mọi người và những chi phí hành chính mà người nộp thuế phải chịu khi họ tuân thủ luật thuế. Một hệ thống thuế như thế nào là công bằng là một vấn đề còn được tranh cãi khá nhiều, tuy nhiên có thể xem xét trên hai nguyên tắc sau để đánh giá hệ thống thuế có công bằng hay không, đó là nguyên tắc lợi ích được hưởng và nguyên tắc khả năng nộp thuế. Mà biểu hiện cụ thể nhất là hệ thống thuế phải khuyến khích được sản xuất kinh doanh phát triển và người lao động nỗ lực làm việc. Xây dựng mô hình quản lý thuế Xây dựng tách bạch mô hình quản lý thuế đối với các doanh nghiệp lớn được phân loại theo tiêu chí vốn hoạt động. Những lợi ích đem lại với kinh nghiệm, trình độ, khả năng hiểu biết về luật pháp quốc tế của đội ngũ công chức thuế chuyên nghiệp sẽ hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp xử lý nhanh chóng, sẽ là điều kiện để cơ quan thuế phát hiện kịp thời các khiếm khuyết để sửa đổi, bổ sung chính sách thuế. Giúp doanh nghiệp giảm thiểu tối đa các chi phí tuân thủ và thực hiện chế độ kế toán công khai minh bạch, đúng quy định của pháp luật. Hoàn thiện cơ chế quản lý Cải cách và hiện đại hoá ngành thuế. Cụ thể: Triển khai đồng bộ và có hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế. Thực hiện tốt cơ chế quản lý công khai, minh bạch và đơn giản hoá các thủ tục hành chính thuế tại cơ quan thuế, giảm thiểu chi phí giao dịch cho người nộp thuế. Xây dựng trung tâm xử lý dữ liệu về thuế ở các khu vực và quốc gia, nhằm kiểm soát chặt chẽ toàn bộ các dữ liệu phát sinh về người nộp thuế. Hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam Để tạo dựng những cơ chế khuyến khích cho sự phát triển của thị trường vốn và các thành viên tham gia thị trường phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế thì sự tồn tại và phát triển của các công ty định mức tín nhiệm với tư cách là một bộ phận cấu thành của hạ tầng thị trường vốn là điều kiện cần thiết. Việc ra đời của các tổ chức định mức tín nhiệm sẽ góp phần tăng cường tính minh bạch và hiệu quả huy động vốn trên thị trường nhờ giảm đi sự thiếu đồng bộ trong thông tin giữa tổ chức phát hành chứng khoán và nhà đầu tư. Đồng thời, việc định mức tín nhiệm cũng là một phương pháp tốt để hỗ trợ phát triển và hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam. Theo các chuyên gia kinh tế, để phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam thì Chính phủ cần thiết lập một khuôn khổ pháp lý phù hợp để tổ chức định mức tín nhiệm được hoạt động một cách độc lập, đảm bảo cho kết quả định mức tín nhiệm được chính xác, toàn diện và phù hợp với các tiêu chí quốc tế; cho phép tăng cường công khai thông tin, các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán; tự do hoá thị trường vốn, nhất là trong việc tạo nhu cầu về định mức tín nhiệm và tạo sức ép đối với các tổ chức định mức tín nhiệm trong nước phát triển. Với mục đích của định mức tín nhiệm là cung cấp cho người sử dụng những khả năng có thể xảy ra trường hợp sự đầu tư không đạt được lợi nhuận mong muốn. Tuy nhiên cho đến nay, Bộ Tài chính Việt Nam vẫn chưa đưa ra một lộ trình rõ ràng cho sự phát triển ngành định mức tín nhiệm. Tăng cường kiểm tra, giám sát tính minh bạch của thông tin Chất lượng thông tin có vai trò quyết định trong việc thu hút các nhà đầu tư, quyết định sự tồn tại và phát triển của TTCK. Để tăng cường thêm tính minh bạch trong thông tin Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 09/2010/TT-BTC hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Bắt đầu từ ngày 1/3/2010, việc công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân liên quan trên thị trường chứng khoán sẽ áp dụng thực hiện theo qui định của Thông tư 09. Thông tư 09 thay thế Thông tư số 38/2007/TT-BTC ngày 18/4/2007 của Bộ Tài chính về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán và được coi là qui phạm pháp luật chặt chẽ hơn, có nhiều điểm qui định mới so với trước đây, nhằm đẩy mạnh tính minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán. Thông tư 09 có những điểm mới như là các đối tượng công bố thông tin phải lập trang thông tin điện tử và thường xuyên cập nhập, các báo cáo tài chính phải được kiểm toán, công ty đại chúng phải công bố thông tin về việc chào bán chứng khoán và tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm đảm bảo cho nhà đầu tư có thể giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn huy động. KẾT LUẬN: Khi hoạch định cấu trúc vốn tối ưu của doanh nghiệp, cần phải gắn trong mối quan hệ với chính sách thuế thu nhập là một sự cần thiết. Với việc áp dụng lý thuyết trật tự phân hạng trong hoạch định cấu trúc tối ưu, đáp ứng cho các nhà quản trị doanh nghiệp của Việt Nam trong việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, giảm thiểu rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh trong bối cảnh thị trường tài chính của Việt Nam chưa thật sự phát triển. Hình thành những tổ chức định mức tín nhiệm một trong những yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển của thị trường chứng khoán là cơ hội để các nhà đầu tư có thể đưa ra những kết luận của mình về chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, là yếu tố quyết định cho việc thành công của doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp. Thông qua sự phân tích tác động của chính sách thuế TNDN và thuế TNCN đến giá trị doanh nghiệp, xuất hiện những vấn đề cần được sự xem xét và nghiên cứu sửa đổi của Nhà nước khi ban hành chính sách thuế, định hướng cho doanh nghiệp trong việc huy động và sử dụng nguồn vốn có giới hạn trong xã hội. Chính phủ cũng phải tăng cường công tác kiểm soát, đảm bảo tính thực thi của luật được nghiêm minh về cả hai phía là cơ quan thuế và doanh nghiệp, đây chính là điều kiện quan trọng để xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp, là những tiền đề quan trọng để hướng tới xây dựng một thị trường cạnh tranh vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, góp phần giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo Giáo trình tài chính doanh nghiệp hiện đại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam 1997, 2004, 2008 Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam 2008 www.saga.vn www.vietfinance.com www.microsoft.com www.mof.gov.vn www.hp.com www.intel.com www.vietstock.vn www.ppc.evn.vn/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững hạn chế và giải pháp hoạch định cấu trúc vốn trong mối quan hệ với chính sách thuế tn cho các doanh nghiệp vn.doc
Luận văn liên quan