Đề tài Tư tưởng triết học của pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại (3)

Tưtưởng chính trịcủa Pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tửcó nhiều yếu tốtích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tưtưởng Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tốcó giá trịcó thểvận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thểchắc chắn một điều là không có gì hoàn toàn cả. Tưtưởng Pháp gia cũng vậy, nó có những điểm tiêu cực, thậm chí là phản động nhưng nó cũng có những điểm rất tiến bộ, mà ngay cảngày nay cũng là lý tưởng.

pdf31 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 10236 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại (3), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH ------------------------------- TIỀU LUẬN TRIẾT HỌC HVTH : Trần Nguyễn Băng Dương LỚP : CH19-D1 Thành phố Hồ Chí Minh – 02/2010 háp trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những những yếu tố của những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra một phương thức giải quyết vững chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc: Lễ nghĩa, danh phận của Nho gia được cụ thể hoá trong pháp luật; Vô vi của Lão gia được chuyển hoá thành quan hệ biện chứng vô vi- hữu vi; Kiêm ái của Mặc gia tuy là nội dung yếm thế nhất của học thuyết pháp trị, nhưng Hàn Phi Tử vẫn coi đây là mục đích cuối cùng của pháp luật. Nhờ học thuyết pháp trị, Tần Thuỷ Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia phân tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc. Trong khuôn khổ đề tài, người viết xin được đi sâu vào phân tích để làm rõ tư tưởng trị quốc của phái Pháp gia, cùng sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại. P MỤC LỤC ~ ~ ~ * ~ ~ ~ CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHÁP GIA 1.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................................. 1 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Pháp gia................................................. 1 1.2.1. Một số khái niệm ................................................................................... 1 1.2.2. Sự phát triển của Pháp gia qua các thời kỳ của các nhà tư tưởng............ 2 1.3. Phân tích tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử.................................................... 4 1.3.1. Tư tưởng trị nước bằng pháp luật ........................................................... 5 1.3.2. Quan điểm coi trọng ba yếu tố “Pháp – Thế – Thuật” ............................ 6 1.3.3. So sánh với Nho gia ............................................................................. 14 CHƯƠNG 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP GIA ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ CỦA THỜI ĐẠI 2.1. Trung Quốc đương thời................................................................................ 17 2.2. Ý nghĩa ứng dụng thực tiễn tại Việt Nam ..................................................... 19 2.2.1. Pháp quyền và nhà nước pháp quyền ................................................... 19 2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay........... 20 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Pháp gia là trường phái triết học hàm chứa các học thuyết khác nhau nhiều nhất, gắn liền với dấu ấn lịch sử Trung Hoa cổ đại trong quá trình thống nhất đất nước. Điều đó đã tạo sự cuốn hút đặc biệt với người viết, cũng là lý do người viết chọn đề tài này. 2. Mục tiêu của đề tài: - Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của Pháp gia. - Tìm hiểu học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử. - Tìm hiểu sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến cục diện chính trị Trung Quốc cổ đại. - Tìm hiểu ý nghĩa ứng dụng học thuyết này vào thực tiễn ở Việt Nam. 3. Phạm vi, đối tượng đề tài: Tìm hiểu và phân tích những tư tưởng chủ đạo của học thuyết phái Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp lịch sử thống kê - Phương pháp nghiên cứu tại bàn - Phương pháp phân tích tổng hợp 5. Bố cục: Bài viết được trình bày trong 20 trang, được kết cấu thành 2 chương như sau: Chương 1: Tư tưởng triết học của Pháp gia. Chương 2: Sự ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia đến đời sống chính trị của thời đại. Nội dung chi tiết của bài viết sẽ được trình bày ở phần nội dung sau đây. NỘI DUNG Chương 1 TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHÁP GIA 1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ: Ở thời Đông Chu, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới, đó là tầng lớp địa chủ mới lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời kỳ này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân Thu và Chiến Quốc. Thời Xuân Thu (770 - 403 TCN), đất nước loạn lạc với hơn 400 cuộc chiến lớn nhỏ. Giữa các nước lớn đã triển khai một cuộc giành giật quyết liệt quyền bá chủ. Thời Chiến Quốc (403 - 221 TCN), cục diện ở Trung Quốc có sự biến đổi lớn: rất nhiều nước chư hầu vừa và nhỏ đã bị thôn tính, chỉ còn lại 7 nước là Tề, Sở, Hàn, Yên, Ngụy, Triệu, Tần. Giai đoạn này chính trị bất ổn, xã hội rối ren, đạo đức suy đồi, quan lại tham nhũng, chiến tranh kéo dài khiến đời sống nhân dân càng thêm đói khổ cùng cực. Trong bối cảnh đó, các học thuyết như Lão gia, Nho gia… đã không giúp được xã hội thoát khỏi tình trạng rối loạn và suy sụp vì tính không tưởng và không có khả năng đáp ứng yêu cầu thời cuộc. Đạo đức và tình thương không đủ sức mạnh để lập lại trật tự xã hội. Học thuyết Pháp gia thì khác vì giải quyết được vấn đề đương thời giúp nước Tần hùng mạnh, đi đến thống nhất được Trung Quốc. 1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP GIA: Trước tiên cần tìm hiểu thế nào là pháp trị và tư tưởng chủ đạo của Pháp gia. 1.2.1. Một số khái niệm: Nếu nói theo cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại thì “Pháp trị là dùng pháp luật để cai trị, chứ không phải dùng đạo đức để cai trị”1, còn nói theo quan điểm trong xã hội hiện đại thì khái niệm pháp trị gắn liền với nhà 1 TS Nguyễn Sĩ Dũng, “Chế độ pháp trị”, www.tuoitre.com.vn nước pháp quyền, tức “Pháp trị là một trật tự pháp lý độc lập, nó bao gồm ba ý nghĩa cơ bản: pháp trị là công cụ để điều chỉnh nhà nước (điều chỉnh quyền lực); pháp trị có nghĩa là tất cả mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật; pháp trị có nghĩa là bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức”2. Pháp gia là một trường phái tư tưởng có mục đích tiếp cận tới cách phân tích các vấn đề pháp luật đặc trưng ở lý lẽ logic lý thuyết nhắm vào việc đưa ra văn bản pháp luật ứng dụng, hơn là nhắm tới xã hội, kinh tế, hay tình huống chính trị. Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Để hiểu một cách tương đối có hệ thống về đường lối trị nước của phái Pháp gia, ta cần tìm hiểu tư tưởng cơ bản của các nhà pháp trị đã nêu trên cũng như những luận chứng khá thuyết phục về sự cần thiết của đường lối pháp trị. 1.2.2. Sự phát triển của Pháp gia qua các thời kỳ của các nhà tư tưởng:  Quản Trọng (725 - 645 TCN): Là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân nhưng rất có tài chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật như là phương cách trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm 4 điểm chủ yếu sau: (1) Mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường. “Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục”3. (2) Muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công, thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: “Tội nặng thì chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một cái 2 TS Nguyễn Sĩ Dũng, “Chế độ Pháp trị”, www.tuoitre.com.vn 3 Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.334 qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa”4. (3) Chủ trương phép trị nước phải đề cao “Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. (4) Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm... trong phép trị nước. Như vậy có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.  Thân Bất Hại (401-337 TCN): Là người nước Trịnh chuyên học về Hình Danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Ông đưa ra chủ trương ly khai “Đạo đức” chống “Lễ” và đề cao “Thuật” trong phép trị nước. Thân Bất Hại cho rằng “Thuật” là cái “bí hiểm” của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình... bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.  Thận Đáo (370-290 TCN): Là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng pháp luật phải khách quan như vật “vô vi” và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Đây là một tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi Tử đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép trị nước, Thận Đáo đặc biệt đề cao vai trò của “Thế”. Ông cho rằng: “Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp; kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao. Cây ná yếu mà bắn 4 Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận ngữ, NXB Văn học, tr.40 được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền”5.  Thương Ưởng (390-338 TCN): Là người nước Vệ, sau sang Tần và giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao “Pháp” theo nguyên tắc “Dĩ hình khử hình” (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Chủ trương của ông là pháp luật phải nghiêm, ban bố khắp trong nước cho ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng; Pháp đã định rồi thì không ai được bàn ra bàn vào, không được “dùng lời khéo mà làm hại pháp”. Thương Ưởng chủ trương: tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất... nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên.  Hàn Phi Tử (280 – 233 TCN): được trình bày cụ thể ở mục 1.3 sau đây. 1.3. PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ: Trước tiên, xin điểm sơ vài nét về Hàn Phi Tử (Hàn Phi). Ông sống cuối đời Chiến Quốc, là Vương tộc nước Hàn. Ông nói ngọng, không có sở trường hùng biện nhưng lại rất giỏi viết lách. Lúc đó, nước Hàn ngày càng suy yếu, do yêu nước ông nhiều lần gửi sớ cho vua nước Hàn, kiến nghị biến pháp, chủ trương người thống trị cần phải lấy nước giàu binh mạnh làm nhiệm vụ trọng tâm, nhưng nhà vua không tiếp nhận kiến nghị của ông. Bởi vậy ông mới viết các bài luận văn chính trị hơn 10 vạn chữ như “nội ngoại trư thuyết”, 5 Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.337 “thuyết lâm”, “thuyết nan”... căn cứ theo những kinh nghiệm quản lý đất nước trong lịch sử và tình hình xã hội hiện thực, và gọi chung là sách “Hàn Phi Tử”. Những bài luận văn này không được coi trọng ở nước Hàn, nhưng khi truyền đến nước Tần thì lại được Tần Thủy Hoàng yêu chuộng. Tần Thủy Hoàng dấy binh đánh nước Hàn. Vua Hàn cử Hàn Phi đi cầu hòa, Tần Thủy Hoàng liền giữ lại và chuẩn bị trọng dụng. Lý Tư làm thừa tướng nước Tần lúc đó là bạn học của Hàn Phi, biết người này có tài hơn minh, bèn dèm pha nói xấu với Tần Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng nghe lời nên đã giam Hàn Phi và cho ông uống thuốc độc. Tìm hiểu cuộc đời Hàn Phi để thấy rằng ông là một nhà tư tưởng lớn. Những phân tích sau đây sẽ minh chứng cho nhận định trên. 1.3.1. Tư tưởng trị nước bằng pháp luật: Theo Hàn Phi, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “Đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như trước nữa mà cần phải dùng pháp trị. Ông đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ, coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng. Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu” 6, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc). 1.3.2. Quan điểm coi trọng ba yếu tố “Pháp – Thế – Thuật”: Trong phép trị nước, nếu như Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao “Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “Pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “Pháp”, “Thuật” với “Thế”, và cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời. Trong đó, “Pháp” là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; “Thế” là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn “Thuật” là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.  Phân tích “Pháp”: Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, “Pháp” là phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng “Pháp” là thể chế quốc gia, là chế độ chính trị xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp “Pháp” là những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển lý luận pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi cho rằng: “Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp”7. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt, ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Ông chê Thương Ưởng chỉ biết phạt tội mà không thưởng công và cho rằng cần phải thực hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và phạt. Bởi vì “thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân làm, dân mới mau mắn mà làm, phạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm đoán, dân mới mau mắn mà tránh... thưởng hậu không phải chỉ để thưởng công, mà còn để khuyến khích dân 6 Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.55 7 Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.346 chúng nữa, phạt mà nặng không phải chỉ là phạt một kẻ gian mà còn để ngăn kẻ bậy trong nước”8. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện “Pháp” để “cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù”9. Hàn Phi cho cách thưởng phạt dựa theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải trọng hậu, phạt thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư; Vua phải nắm hết quyền thưởng phạt. Về việc lập pháp, cần phải xét đến các nguyên tắc sau: (1) Tính tư lợi: Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”10. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại. (2) Hợp với thời thế: Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc thực tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi bật trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà 8 Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.346 9 Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.347 10 Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.150-151 cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”11. (3) Ổn định, thống nhất: Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi, vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội cho bọn gian thần. (4) Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm. (5) Đơn giản mà đầy đủ. (6) Thưởng hậu phạt nặng. Về việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là: (1) Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”. (2) Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”, “hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ – nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”12; Nếu nhà vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền. (3) Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho người không có công, vô cớ sát hại người vô tội. (4) Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật. Với nội dung và mục đích như trên, “Pháp” thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh - phận, phải - trái, tốt - xấu, thiện - ác và sẽ làm cho 11 Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.588 12 Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, tr.394 nhân tâm và vạn sự đều quy về một mối, đều lấy “Pháp” làm chuẩn. Vì vậy, “Pháp” trở thành cái gốc của thiên hạ.  Phân tích “Thế”: Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có “Thế”. “Thế” trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. “Thế” có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: “Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy...”13. “Thế” không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: “Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ có gió kích động, và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”14. Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng. “Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời nói không có hai cách đều quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho nên lời nói và việc làm mà không đúng với pháp lệnh thì cấm”15. Trọng “Thế” tức trọng sự cưỡng chế, cho nên Hàn Phi chủ trương: (1) Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua. (2) Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung. Điều này gần với tư tưởng Trung quân của Nho gia. (3) Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. 13 Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.348 14 “Tư tưởng Pháp gia, học thuyết của trí bình thiên hạ”, www.thuvien-ebook.com/forums 15 Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Tập I, NXB TPHCM, tr.105  Phân tích “Thuật”: Công việc trị nước của vua phải thông qua bộ máy cai trị, là quan lại. Hàn Phi cho rằng cái lợi của vua và bề tôi khác nhau, mà bản tính con người nói chung là tư lợi nên bọn thần đều mang ít nhiều lòng phản nghịch. Như vậy vua trực tiếp trị quan lại chứ không trị dân. Để trị được tầng lớp quan lại, đa phần là những kẻ hơn người hoặc tài năng hoặc sức mạnh hoặc thế lực… bắt buộc bậc minh chủ phải có thuật. Do vậy Pháp gia rất chú ý đến “Thuật” trong đường lối cai trị. “Thuật” trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn... trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể “trị quốc bình thiên hạ”. Nhiệm vụ chủ yếu của “Thuật” cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế. Theo Hàn Phi, “Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật – là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại; Tâm thuật – tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm tâm của họ ra. * Kỹ thuật: được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng người. Ông kể ra những hạng gian thần có thể làm loạn là: kẻ thân thích của vua, và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược điểm của vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm họ, Pháp gia chủ trương vua phải: - Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình. - Không cho họ biết mưu tính của mình. - Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì cũng phải hỏi mình trước. - Bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng pháp luật trong việc thưởng phạt họ - Xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ không. - Khi tìm kẻ gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người khác thì xét xem ai là kẻ có lợi. Vua muốn kiềm chế hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn thì: - Nếu là người hiền thì có thể bắt người thân yêu của họ làm con tin. - Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc thật hậu để an định họ. - Nếu là kẻ gian thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt. Nếu dùng những cách đó mà vẫn không cảm hóa được họ thì phải trừ họ, bằng cách mượn tay kẻ thù của họ hoặc đầu độc để mình không bị thương tổn danh tiếng. Nhưng cách tốt nhất là không nên dùng những hạng người đó để khỏi phải đề phòng họ. Ngoài ra, Hàn Phi cho biết một số hạng người không nên dùng: - Hạng người coi khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ mà đi nơi khác. - Hạng đặt lời giả dối trái pháp luật. - Hạng người lánh đời, ở ẩn, chê bai vua. - Hạng vì tư lời mà làm thân các chư hầu. - Hạng vì người thân quen mà làm việc riêng tư. Tuy nhiên Hàn Phi cũng cho rằng có kẻ rất tài giỏi lại là gian thần, nếu vua có thuật để khống chế họ thì vẫn có thể dùng. * Tâm thuật: thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc nào ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như ra lệnh và ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác; Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được… “Thuật” còn thể hiện trong “thuật dùng người”. Quy tắc cơ bản của thuật dùng người theo Pháp gia là thuyết Hình danh. Thuyết này kế thừa từ Khổng Tử, và phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc thực tế, không bàn về tri thức luận mà đem học thuyết của Nho gia vào chính trị, ông chỉ thu hẹp vào việc dùng người, gạt bỏ những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ông không nói đến “Chính danh”, mà chỉ nói đến “Hình danh” hay là “Thực danh”. Danh và Hình hay Thực phải hợp nhau. Ví như một người hứa đến thăm ta, lời hứa đó là Danh và hành động tới thăm là Hình hay Thực. Nếu người đó đến thăm thật thì chứng tỏ Danh và Hình hợp nhau, nếu không thì chỉ có Danh mà không có Hình hay không có Thực. Nếu pháp luật là Danh thì sự việc là Hình, sự việc hợp pháp luật thì Danh và Thực hợp nhau. Nếu quan vị là Danh thì chức vụ là Hình, chức vụ không hợp với quan vị thì Danh và Hình không hợp nhau. Hàn Phi cho quy tắc Hình và Danh hợp nhau là quan trọng nhất trong việc trị quan lại, nếu không theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay người dở, người giỏi kẻ gian, khó thưởng phạt đúng được, như vậy nước khó mà trị được. Muốn dùng quy tắc Hình Danh hợp nhau để thu phục bề tôi thì vua phải tự mình kiểm xét xem có chính đáng không, vì nếu chỉ nghe lời giới thiệu thì có thể người giới thiệu hoặc vì tư lợi hoặc vì tình riêng hoặc vì bè phái mà đề cử kẻ bất tài hay gian thần. Để không bị lừa gạt thì phải thận trọng, tham bác ý kiến nhiều người, rồi đích thân xét tài đức, sau đến mới giao việc. Hàn Phi không chỉ đưa ra cách xét người, mà còn chỉ ra phương pháp “Thỉnh ngôn”, “Tham nghiệm”, và “Thí chi giao chức”. * “Thỉnh ngôn”: tức phương pháp nghe, là: - Khi bề tôi nói thì vua phải trầm mặc, lầm lì không khen không chê, không để lộ ý nghĩ và tình cảm của mình. - Phải bắt bề tôi nói, không được làm thinh, mà nói thì phải có đầu có đuôi có bằng cớ; Lời nói của bề tôi không được trước mâu thuẫn với sau. - Bề tôi phải đưa ra ý kiến rõ rệt, không được mập mờ, ba phải để trốn tránh trách nhiệm. - Quan trọng nhất lời nói phải thiết thực, có công dụng, không phải là hư ngôn. * “Tham nghiệm”: là khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi và để xem lời nói của họ có giá trị không. Hàn Phi cho rằng muốn biết lời nói của họ có thành thực không thì phải: - Kiểm tra việc đã qua để biết lời nói có đúng không. - Để bề tôi ở gần mình để biết nội tình của họ. - Dùng những điều mình biết rồi để tra hỏi những điều chưa biết. - Nói những điều trái ngược để biết ý tứ kẻ dưới. * “Thí chi giao chức”: Giao chức tức cho bề tôi làm việc rồi mới biết thực hay hay dở. Khi giao chức phải nhớ quy tắc: - Mới đầu giao một việc nhỏ rồi tăng dần. - Không cho kiêm nhiệm. - Đã giao trách nhiệm cho một người thì đừng dùng kẻ khác để nhòm ngó kẻ đó. Thuật dùng người, quy tắc là như vậy nhưng đó chỉ để cho những vua tầm thường theo, còn bậc minh chủ có pháp luật thì tự có cách riêng. Ngoài các yếu tố “Pháp”, “Thế”, “Thuật”, tư tưởng Pháp gia còn coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ. 1.3.3. So sánh với Nho gia: Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ lý thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân đức của nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”) là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất nước. Khổng Tử – người sáng lập Nho gia – làm hết sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi hành; còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác) cũng không tuân theo”16. Theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ”. Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của ông là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ. Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý là lời nói của thánh nhân đời xưa, hay những gì đã từng được nói đến trong quá khứ. Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan điểm này: “Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của hai người khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu, Thuấn không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là đúng với Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước đấy đã hơn hai ngàn năm mà còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho và đạo Mặc. Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn năm, chẳng phải là không thể nào làm được sao?...”17. Các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình. Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác. Ông viết: “Bọn nhà Nho đời nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được trị mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu 16 Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận ngữ, NXB Văn học 17 Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử. NXB Văn học, tr.561 rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình hình của bọn gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn thầy cúng, đồng cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái vô dụng, không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”18. Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị nước”19. Trên đây là những tư tưởng pháp trị mang tính toàn diện nhất được đề xuất và tổng hợp bởi triết gia tài ba Hàn Phi Tử. Những tư tưởng ấy đã được vận dụng vào thực tế như thế nào? Nội dung này sẽ được trình bày ở chương 2 sau đây. 18 Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử. NXB Văn học, tr.570 19 Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử. NXB Văn học, tr.327 Chương 2 SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP GIA ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ CỦA THỜI ĐẠI 2.1. TRUNG QUỐC ĐƯƠNG THỜI: Đại diện tiêu biểu trong việc ứng dụng triệt để tư tưởng Pháp gia vào cai trị đất nước và đạt nhiều thành tựu đáng kể là Tần Thủy Hoàng. Năm 770 TCN, nước Tần - vốn là nước có lãnh thổ nhỏ, quốc lực không mạnh - mới được phong làm một trong những Hầu Quốc phía Tây của Trung Quốc, vì thế luôn bị Hầu Quốc Trung Nguyên khinh thường. Lúc bấy giờ, sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới, trong đó tư tưởng về “Pháp”, “Thế”, “Thuật” vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng một cách triệt để, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất đất nước: Năm 230 TCN, Tần Thủy Hoàng phát động chiến tranh với quy mô lớn, trải qua 10 năm lần lượt tiêu diệt Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề, đến năm 221 TCN đã thống nhất 6 nước, nhờ vậy cục diện chia rẽ trong gần 600 năm ở Trung Quốc đã kết thúc. Lấy tư tưởng Pháp gia làm chủ đạo, sau khi thống nhất 6 nước, Tần Thủy Hoàng đã áp dụng một loạt các biện pháp để củng cố nước Tần. Nhờ đó đã đạt được những thành tựu đáng kể: - Là triều đại đầu tiên bãi bỏ chế độ phân phong chư hầu trước đây, thiết lập chế độ quận huyện để xác lập quyền lực tuyệt đối của Hoàng Đế. - Đặt ra tiêu chuẩn hóa chữ viết, tiêu chuẩn hóa hệ đo lường (về trọng lượng, khối lượng, thước đo,…) và luật pháp thống nhất áp dụng trên toàn lãnh thổ. - Mở rộng lãnh thổ, xây dựng biên cương, xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống,…), nông dân được ưu đãi, đất đai thuộc sở hữu của người làm ruộng, mở rộng các kênh tưới tiêu cho nông nghiệp, khuyến khích dân nhập cư, tăng gia sản xuất lao động, chế tạo sản phẩm, thuế thu trực tiếp từ bộ máy quản lý nhà nước, không thông qua giai cấp quý tộc… - Pháp luật công khai những điều luật, luật lệ, quy định mang tính nguyên tắc được biên soạn rõ ràng, minh bạch như khuôn mẫu, được chép trong đồ thư và bày ra nơi quan phủ, ban bố rộng rãi cho dân chúng biết. - Quân đội thuộc về nhà nước, không thuộc về quản lý của quý tộc. - Thiết lập bộ máy chính quyền mới, có tính hệ thống. - Quan trọng nhất là việc thống nhất tư tưởng. Tuy nhiên, tư tưởng pháp trị cũng bộc lộ nhiều điểm quá cực đoan như: - Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt nghiêm khắc. - Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật. - Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán. - Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau. - Lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử. Vì thế, việc áp dụng triệt để tư tưởng pháp trị của Tần Thủy Hoàng đã dẫn đến nhiều hệ lụy như: áp đặt hệ tư tưởng do thực hiện độc tài chính trị khiến các trí thức không phục; thủ tiêu nhiều tập quán văn hóa do tiêu diệt các trường phái tư tưởng khác; bác bỏ lễ trị, coi thường nhân lễ nghĩa (nặng về hình nhẹ về đức), đã đánh mất lòng dân, không thu phục lòng người; phân chia của cải trong xã hội không hợp lý; triều đình nắm hết các mối lợi thương nghiệp, địa chủ thâu tóm tài sản đất đai; giai cấp quý tộc cũ không được hưởng ưu quyền đặc quyền dẫn đến bất bình ngấm ngầm bùng nổ;… Từ đó khiến nhà Tần sụp đổ chỉ 4 năm sau khi Tần Thủy Hoàng qua đời. 2.2. Ý NGHĨA ỨNG DỤNG THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM: Lịch sử Việt Nam thường gắn liền với lịch sử Trung Quốc. Nền độc lập và diễn trình tiến hoá của dân tộc thưòng bị tác động bởi ảnh hưởng xa gần của người láng giềng vĩ đại phương Bắc. Việt Nam ta trong một thời gian dài đã trị nước bằng chỉ thị và nghị quyết. Nhưng từ rất sớm (khoảng 1956) một luật sư nổi tiếng đã lên tiếng cảnh báo về sự cần thiết phải cai trị theo pháp luật. Sau khi đường lối đổi mới đi vào cuộc sống, xã hội Việt Nam đã thực sự phân hóa về giai tầng, về quyền lợi, nhất là sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, những mối quan hệ trong nước lại đan xen phức tạp với các mối quan hệ quốc tế, thì dứt khoát nền đức trị cổ truyền đã chấm hết vai trò lịch sử của nó, thay vào đó là một nền pháp trị cứng rắn bất vị thân mới có khả năng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ xã hội phức tạp hiện nay. Trên cơ sở đó, xây dựng nhà nước pháp quyền là mục tiêu quan trọng và cần thiết. 2.2.1. Pháp quyền và nhà nước pháp quyền: Pháp quyền là pháp luật về quyền. Pháp luật gắn với hiến pháp, được Bác Hồ nêu rõ trong bản Tuyên ngôn độc lập: “…Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Nhà nước pháp quyền là nhà nước với các quan hệ xã hội được xây dựng trên cơ sở các quyền. Quyền của chủ thể này có thể là nghĩa vụ của chủ thể khác. Pháp luật điều chỉnh và phân định các quyền này, chúng được phân chia và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xảy ra, đồng thời quyền tự do, dân chủ của người dân được bảo vệ. Trong đó hiến pháp là công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền, được coi là bản khế ước xã hội quan trọng nhất. Vấn đề cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền là pháp quyền ở trên nhà nước. Nhà nước pháp quyền đó phải được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” để kiểm tra nhau, cơ quan nhà nước và công chức thì chỉ được làm những điều luật pháp cho phép còn dân thì được phép làm tất cả những điều gì mà luật pháp không cấm, và để đảm bảo dân ủy quyền mà không mất quyền thì công việc của nhà nước và các cơ quan công quyền phải công khai và minh bạch trước dân, dân có quyền tham gia vào việc hoạch định pháp luật, giám sát và kiểm soát. 2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay: Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó có nêu phương hướng nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Đó là: - Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. - Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao. - Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Luật hoá cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương. - Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. - Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. - Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những công chức không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực. Hoặc xét trên phương diện thực tế xã hội, các nội dung cần thực hiện là: - Dân chủ hóa xã hội: xã hội dân chủ “lợi ích vì dân, quyền hạn của dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. - Hợp lý hóa bộ máy nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương… đổi mới tổ chức và hoạt động có hiệu quả thiết thực. - Xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động của nhà nước (dịch vụ công): luật khoa học và công nghệ ra đời phát huy khả năng đầu tư không chỉ của nhà nước mà của các thành phần kinh tế, thuận lợi cho sự đóng góp của trí thức, của nhà đầu tư vào khoa học và công nghệ. - Dân doanh hóa nền kinh tế: mở rộng và phát triển kinh tế dân doanh, thu hẹp kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải bình đẳng với các doanh nghiệp thành phần kinh tế khác và phải hoạt động có hiệu quả. Đẩy mạnh thi hành luật doanh nghiệp, đơn giản tối đa với mọi thủ tục hành chính. - Pháp chế hóa đường lối, chính sách của Đảng: xã hội văn minh là sống và làm việc theo pháp luật. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không tự thân nó đi vào cuộc sống xã hội được. Ban hành kịp thời, đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành luật để luật thực sự đi vào cuộc sống. Như vậy, phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là bắt nguồn từ sự ảnh hưởng của tư tưởng phái Pháp gia. Trải qua thời gian cùng những minh chứng lịch sử, ta đã đút kết được nhiều kinh nghiệm quý báu để đi đến một đường lối đúng đắn và thực tế, mang tính quy luật hơn: nhà nước pháp quyền XHCN. KẾT LUẬN Tư tưởng chính trị của Pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thể chắc chắn một điều là không có gì hoàn toàn cả. Tư tưởng Pháp gia cũng vậy, nó có những điểm tiêu cực, thậm chí là phản động nhưng nó cũng có những điểm rất tiến bộ, mà ngay cả ngày nay cũng là lý tưởng. Tài liệu tham khảo - Giáo trình đại cương Lịch sử Triết học, NXB Tổng Hợp Tp.HCM - Phan Ngọc (2001), Hàn Phi Tử, NXB Văn học - Doãn Chính (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận ngữ, NXB Văn học - Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Tập I, NXB TPHCM - Nguyễn Thị Kim Bình (2008), “Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của nó trong lịch sử”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (Số 3(26).2008) - ThS Nguyễn Tài Đông, “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi”, Tạp chí Triết học, Viện Triết học - Website: o Pháp gia o Nền văn minh Trung Hoa o Hàn Phi Tử, Tần Thủy Hoàng,… - Website: o Hàn Phi – Nhà tư tưởng lỗi lạc - Website: o Tần Thủy Hoàng – Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc - Website: www.thuvien-ebook.com/forums o Tư tưởng Pháp gia, học thuyết của trí bình thiên hạ - Website: www.tuoitre.com.vn o Nguồn cội của pháp quyền o Chế độ pháp trị - Website: www.chungta.com o Quản lý bằng pháp luật như thế nào? o Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự o Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới - Website: www.dangcongsan.vn o Báo cáo chính trị của BCH Trung Ương Đảng Khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdetai4_trannguyenbangduong_d1k19_0886.pdf