Giải pháp chính sách quản lý nhà nước với phát triển sản phẩm lụa của làng nghề lụa Vạn Phúc - Hà Đông

Du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới tham quan, thẩm nhận các giá trị văn hoá và mua sắm những hàng hoá đặc trưng của làng nghề trên khắp mọi miền đất nước. . Mô hình phát triển du lịch gắn với làng nghề là một hình thức mang lại hiệu quả rất cao ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Thông qua việc hình thành sản phẩm du lịch - làng nghề, chẳng những ngành du lịch sẽ giữ chân được du khách mà làng nghề cũng có điều kiện để quảng bá và tiêu thụ sản phầm của mình Song trên thực tế, các tour du lịch gắn với làng nghề đều còn mang tính tự phát, chưa được chú trọng thực sự. Như vậy để giải quyết vấn đề này cơ quan quản lý cần kết hợp với các hãng du lịch tổ chức đưa khách du lịch tham quan quê lụa, phối hợp thực hiện các chương trình truyền hình quảng bá nét độc đáo, đặc sắc của làng nghề tới công chúng. . Để thực hiện vấn đề này, cần có sự phối hợp giữa các công ty du lịch và làng nghề để hợp tác đầu tư phát triển sản phẩm du lịch làng nghề, từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch - làng nghề độc đáo; đồng thời, làm tốt công tác quy hoạch chi tiết làng nghề, có hướng đầu tư để làng nghề không những đẹp về cảnh quan, giao thông thuận lợi mà còn tạo được môi trường trong lành và để lại ấn tượng tốt cho du khách khi đến thăm.Ðầu tư phát triển du lịch và thực hiện những phương thức tiếp thị hiệu quả sẽ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển và giới thiệu sản phẩm lụa Vạn Phúc tới bạn bè trong khu vực và quốc tế.

docx42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5408 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp chính sách quản lý nhà nước với phát triển sản phẩm lụa của làng nghề lụa Vạn Phúc - Hà Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khích họ mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng cũng như tăng gia sản xuất. Thế nhưng, điều đáng quan tâm là bên cạnh danh hiệu cao quý ấy, các nghệ nhân sẽ có những chính sách đãi ngộ cụ thể như thế nào? Về quản lý nhà nước, Hiệp hội làng nghề Việt Nam hiện chưa có cơ chế chính sách cụ thể, rõ ràng trong việc đãi ngộ những nghệ nhân nổi tiếng, có đóng góp quan trọng đối với việc gìn giữ và lưu truyền nghề truyền thống của làng nghề. Hiện nay, các nghệ nhân khi được phong vẫn chưa được hưởng bất kỳ chế dộ đãi ngộ nào. Họ chưa được tạo điều kiện để mở các lớp đào tạo truyền nghề cho các thế hệ trẻ. Được hỏi về điều này ông Nguyễn Hữu Chỉnh – nghệ nhân nổi tiếng của làng lụa Vạn Phúc cho biết Nhà nước chưa có chính sách gì đặc biệt để khuyến khích các nghệ nhân trong làng. Trong những lần triển lãm thì gian hàng của ông chỉ được giảm giá, ưu đãi về thuế hay hỗ trợ tiền vận chuyển để đi xa triển lãm. Hiện nay thì chẳng có gì ngoài mấy điều đó. Không có lương, bảo hiểm không, không có bất cứ một hình thức trợ cấp nào khác. Việc thiếu chế độ đãi ngộ xứng đáng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều loại hình văn hóa truyền thống, nghề truyền thống bị mai một. Còn thế hệ trẻ thì không muốn theo học nghề của cha ông vì sợ không kiếm sống được. Một số loại hình nghệ thuật truyền thống còn bị biến dạng do không có được sự đào tạo truyền nghề đúng cách từ các nghệ nhân thực sự. Còn ở các làng nghề truyền thống thì những người trẻ tuổi bỏ làng ra đi, và không muốn tiếp tục ở lại làng để học nghề, nối nghiệp của cha ông mình. Như vậy chính sách đãi ngộ nghệ nhân của Nhà nước cũng chưa có gì đặc biệt, chưa phát huy được hiệu quả trong việc khuyến khích phát triển sản phẩm lụa làng nghề Vạn Phúc- Hà Đông. c. Chính sách môi trường Hiện nay, các cơ sở sản xuất – kinh doanh trên địa bàn làng nghề chủ yếu tồn tại dưới hình thức hộ kinh tế gia đình, sản xuất kinh doanh diễn ra tại nơi ở của hộ gia đình. Đó vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên nhà xưởng quá hẹp, môi trường bị ô nhiễm, không có khả năng mở rộng sản xuất, kết cấu hạ tầng cho sản xuất – kinh doanh không đảm bảo. Tiến hành khảo sát 3 cơ sở dệt nhuộm, chúng tôi thấy các xưởng sản xuất ở ngay trong khuôn viên gia đình, xen kẽ khu dân cư. Chỉ có một cơ sở đầu tư một khoản kinh phí 50 triệu đồng/năm để cải tạo mở rộng nhà xưởng và 150 triệu đồng/năm cho mua sắm thiết bị cải tiến công nghệ phát triển sản xuất. Thực tế cho thấy diện tích các xưởng sản xuất rất chật hẹp(trên dưới 100m2/hộ) và các máy dệt được cơ giới chạy bằng thoi điện thay cho dệt chân như ngày xưa. Khâu nhuộm vải vẫn còn thủ công hoàn toàn khi phải dùng bếp lò than công suất rất nhỏ. Hiện Vạn Phúc có khoảng 100 gia đình chuyên dệt lụa. Ông Đỗ Văn Minh- chủ một xưởng nhuộm khá khang trang ở đây cho biết: Để nhuộm 40m2 lụa cần dùng 3kg thuốc nhuộm và sẽ thải ra 20 lít nước thải có chứa nhiều loại chất độc như BOD, COD. Cũng theo ông Nguyễn Hữu Chỉnh, thì mỗi ngày các cơ sở sản xuất của Vạn Phúc cho ra đời từ 4.000-5.000m lụa, tương đương với 400kg lụa. Trong khi đó cứ mỗi kg lụa thành phẩm phải mất tới 30 lít nước tẩy rửa, số hóa chất được đưa vào phục vụ cho quá trình nhuộm tạo màu cho lụa luôn chiếm một tỷ lệ cao, cứ 10kg lụa phải mất tới 300g hóa chất nhuộm. Trong khi ở làng lụa Vạn Phúc, hầu hết các xưởng nhuộm chưa có hệ thống xử lí nước thải và khí thải mà thứ nước thải này đổ trực tiếp ra kênh và chảy ra sông Nhuệ khiến nước sông khu vực này ngả màu đen đặc. Các loại sinh vật như cây cỏ hay tôm cá trong sông đều khó có cơ hội tồn tại lâu dài bởi cả tầng nước mặt và nước ngầm đều nằm trong tình trạng ô nhiễm báo động. Ngày trời nắng, không khí bốc mùi hôi thối nồng nặc. Ngày trời mưa, trên mặt sông lềnh bềnh những rác thải. Phía cuối làng, rác tập trung lại thành đống lớn. Trả lời về tình trạng làng nghề đã hoạt động lâu năm mà đến nay vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải, ông Nguyễn Hữu Chỉnh-nghệ nhân làng nghề- nguyên Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc cho biết: “đầu tư một công trình xử lý nước và rác thải cần khoảng 300 - 400 triệu đồng nên các hộ dân không thể tự lo được mà phải cần sự hỗ trợ của Nhà nước”.Theo số liệu Hợp tác xã Dệt lụa Vạn Phúc đưa ra thì mỗi năm các cơ sở của địa phương này sản xuất khoảng 2,5 triệu mét khối lụa, tương đương với hàng trăm ngàn kg lụa. Để tẩy và làm màu cho toàn bộ số lụa này phải dùng tới hàng trăm kg các loại hóa chất. Theo ông Nguyễn Văn Hùng, Chủ nhiệm Hợp tác xã Dệt lụa Vạn Phúc, nguyên nhân của quá trình thay đổi không dùng cách nhuộm dân gian mà thay vào đó là dùng hóa chất cũng chỉ vì kinh tế thị trường, đặc biệt là sau thời kỳ bao cấp người làm lụa đã đẩy mạnh đưa hóa chất vào nhuộm lụa. Thời gian đó, người dân Vạn Phúc lại thiếu nước ăn phải dùng giếng khoan. Trải qua thời gian dài hóa chất đã tác động rất nhiều vào nguồn nước ngầm, giờ thì tác động trực tiếp tới con người. Tất cả những điều trên không chỉ ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên mà nó còn đe dọa đến tính mạng người dân nơi đây. Theo chị Nguyễn Thị Hòa, cán bộ Trạm Y tế của địa phương cho biết: "Ngoài những người mắc phải các căn bệnh về đường hô hấp, mắt, viêm mũi, viêm xoang thì những người mắc phải các căn bệnh và tử vong do ung thư mà Trạm Y tế của địa phương biết tới thì trong vài năm trở lại đây khá cao. Trong năm 2007 đã có cả gần chục ca tử vong do mắc phải căn bệnh này. Phần lớn những người chết tuổi trung bình từ 32-40, chiếm tới 60% số ca tử vong của Vạn Phúc". Ông Nguyễn Văn Hùng cũng cho hay Vạn Phúc là địa phương có số người mắc bệnh ung thư cao nhất so với các địa phương khác của toàn vùng. Ảnh 3.1.Mương dẫn nước thải của làng liên tục đổi màu trong ngày vì hóa chất . Như vậy diện tích sản xuất chật hẹp, tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đang là vấn đề nổi cộm ở Vạn Phúc hiện nay. Vậy chính quyền địa phương đã có những biện pháp gì để khắc phục tình trạng trên? Trả lời câu hỏi này ông Nguyễn Văn Sinh- Chủ tịch Hiệp hội làng nghề dệt lụa Vạn Phúc cho biết “chính quyền địa phương đã có các biện pháp hạn chế sự ô nhiễm môi trường, tổ chức đội thu gom rác, phát động phong trào sạch làng đẹp ngõ, cải tạo một bước hệ thống cống rãnh trong làng...”. Tuy nhiên tình trạng ô nhiễm môi trường ở đây vẫn chưa có dấu hiệu suy giảm, dòng sông Nhuệ vẫn ngày ngày gồng mình chịu đựng một lượng lớn chất thải, chất độc hại. Và nguy hiểm hơn con người ở đây vẫn ngày ngày sống trong tình trạng bị đe dọa đến tính mạng. Mặc dù nhận được sự hỗ trợ của Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) với chương trình nghiên cứu xử lý ô nhiễm làng nghề, bằng cách làm thử một số thiết bị xử lý nhỏ đặt tại các gia đình để giảm thiểu ô nhiễm môi trường do sử dụng chất tẩy, nhuộm trong sản xuất nhưng không đạt hiệu quả. Tiếp đến, khoa Hoá của trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Hà Nội) cũng tiến hành nghiên cứu cả một thiết bị tương đối đồ sộ để xử lý nước thải bằng phương pháp vi sinh vật (làm ra chiếc máy đặt trên giá có bánh xe đẩy, mỗi chiều 2m, có hai thùng để trao đổi vi sinh và bốn thùng lắng đọng) trong vòng hơn 8 tháng, cũng không cho kết quả khả quan hơn là mấy vì nước thải đổ khắp cả làng. Việc nghiên cứu có hiệu quả (nước ra có trong) nhưng năng suất không cao Năm 2005 chính quyền địa phương triển khai chính sách quy hoạch đất đai thực hiện dự án điểm thủ công nghiệp làng nghề- đưa các hộ gia đình tập trung vào một nơi để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn, mở rộng quy mô sản xuất. Với tổng diện tích 13,5 ha khu sản xuất tập trung nằm biệt lập ở rìa làng này dự kiến sẽ được chia cho 22 hộ sản xuất mỗi nhân khẩu sẽ được chia khoảng 10m. Theo quy hoạch, khu sản xuất này sẽ được chia lô cho các hộ tự xây nhà xưởng và lắp đặt máy móc thiết bị. Sẽ có hai khu vực biệt lập giành cho sản xuất và bán hàng. Ngôi làng cũ sẽ được cải tạo thành khu du lịch. Đây là chương trình rất lớn của làng nghề với tổng số vốn đầu tư 60-70 tỷ đồng cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến nay hạ tầng cơ sở đã hoàn thành chuẩn bị giao cho các hộ trong vòng đầu năm 2011. Nếu khu sản xuất này đi vào hoạt động thì việc áp dụng khoa học kĩ thuật cho việc xử lý chất thải sẽ thuận tiện hơn, giúp giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. 3.3. Kết quả khảo sát điều tra 3.3.1 Khái quát về đối tượng, mục đích và nội dung điều tra phỏng vấn. a. Khái quát về đối tượng điều tra phỏng vấn Để đề tài nghiên cứu khoa học mang tính thực tế cao, chúng tôi đã tiến hành điều tra phỏng vấn trên các đối tượng sau: Cơ quan quản lý Nhà nước ( Hiệp hội làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, Hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc), một số nghệ nhân nổi tiếng của làng dệt lụa Vạn Phúc như bác Nguyễn Hữu Chỉnh, người lao động và các hộ sản xuất- kinh doanh trên địa bàn làng lụa Vạn Phúc-Hà Đông. Do điều kiện thời gian và kinh phí nên chúng tôi chỉ tiến hành điều tra 40 đối tượng tương ứng với 40 phiếu điều tra phỏng vấn được phát ra. Trong đó: Số phiếu phát ra tại Hiệp hội làng nghề và Hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc: 5 phiếu Số phiếu phát ra tại cơ sở dệt lụa tại làng nghề Vạn Phúc: 15 phiếu Số phiếu phát ra tại cơ sở nhuộm lụa Vạn Phúc: 10 phiếu Số phiếu phát ra tại cơ sở kinh doanh trên phố lụa Vạn Phúc: 10 phiếu Tổng số phiếu thu về hợp lệ là 40 phiếu. Các đối tượng được hỏi đều có phản hồi. Với những tiêu thức lựa chọn đối tượng điều tra phỏng vấn như trên, những thông tin thu thập được từ các phiếu điều tra phỏng vấn mang tính đại diện cao. b. Mục đích điều tra phỏng vấn Phiếu điều tra phỏng vấn được xây dựng nhằm mục đích thu thập các thông tin về những khó khăn thường gặp, những chính sách quản lý Nhà nước nhằm phát triển làng nghề và tính hiệu quả của các chính sách đó tại làng lụa Vạn Phúc- quận Hà Đông. c. Nội dung điều tra phỏng vấn Nội dung phiếu điều tra phỏng vấn dựa trên các nguyên lý, nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với các chính sách phát triển làng nghề. Phiếu điều tra bao gồm 2 phần: Phần 1:Phần thông tin chung. Đó là thông tin về bản thân và công việc của đối tượng được điều tra Phần 2: Phần thông tin riêng liên quan đến đề tài: “giải pháp chính sách QLNN với phát triển sản phẩm lụa của làng nghề Hà Đông – Hà Nội” Nội dung câu hỏi điều tra nhằm thu thập thông tin về ưu nhược điểm của chính sách QLNN đối với phát triển sản phẩm làng nghề lụa Vạn Phúc- Hà Đông, kết quả đạt được trong quá trình thực hiện chính sách QLNN đối với phát triển sản phẩm làng nghề lụa Vạn Phúc-Hà Đông cũng như những giải pháp được đưa ra về chính sách áp dụng trong công tác quản lý Nhà nước đối với phát triển sản phẩm làng nghề dệt lụa Vạn Phúc-Hà Đông. Nội dung các câu hỏi xoay quanh các vấn đề: Thực trạng sản xuất và kinh doanh ở làng nghề Vạn Phúc- Hà Đông. Mức độ cần thiết của các chính sách QLNN về phát triển sản phẩm làng nghề lụa Hà Đông. Mức độ tiếp cận các chính sách QLNN của các hộ sản xuất và kinh doanh lụa Vạn Phúc - Hà Đông. Tác dụng của các chính sách QLNN trong thực tiễn sản xuất và kinh doanh tại làng nghề lụa Vạn Phúc. Nhằm phát huy tính hiệu quả trong thực thi chính sách QLNN với phát triển sản phẩm làng nghề, đưa ra một số kiến nghị với cơ quan hoạch định chính sách. 3.3.2. Kết quả điều tra, phỏng vấn Thông qua tổng hợp các số liệu, dữ liệu từ 40 phiếu điều tra phỏng vấn đã thu về, chúng tôi đã phân tích và thu được kết quả như sau: Về khó khăn mà các hộ sản xuất kinh doanh ở làng lụa Vạn Phúc thường gặp Trong tổng số các ý kiến thì 100% ý kiến cho rằng tình trạng sản xuất và kinh doanh của làng nghề dệt lụa Hà Đông vẫn còn đang gặp rất nhiều khó khăn bên cạnh một số ít thuân lợi. 70% ý kiến cho rằng khó khăn về vốn là khó khăn lớn nhất, 20% ý kiến cho rằng khó khăn về mặt bằng sản xuất là quan trọng nhất và 10% rằng ý kiến cho rằng khó khăn lớn nhất là khó khăn khác như thông tin thị trường, khả năng tiếp cận công nghệ mới…. . Như vậy khó khăn lớn nhất tại làng nghề là khó khăn về vốn. Trong khi nguồn kinh phí có hạn thì giá các yếu tố đầu vào không ngừng tăng, đặc biệt là tơ ( từ năm 2005-2010 giá tơ tăng gần gấp 3 l ần). nguồn vốn vay ưu đãi 1 năm nhà nước cho các hộ sản xuất vay 5 triệu đồng, tuy nhiên khoản vay này là quá ít so với lượng vốn mà các hộ phải bỏ ra khi giá cả đầu vào leo thang. Trước tình trạng khó khăn này nhiều hộ sản xuât đã phải tạm ngừng sản xuất để kinh doanh mặt hàng khác. Ông Nguyễn Văn Hà – khối Hồng Phong- phường Vạn Phúc- Hà Đông-HN_ phát biểu:”tình trạng chúng tôi bây giờ như treo niêu đợi gạo”. Chỉ cần có nguồn vốn thì họ lại có thể tiếp tục sản xuất, gắn bó với nghề truyền thống dệt lụa. Về nguồn vốn sản xuất kinh doanh chủ yếu của các hộ sản xuất kinh doanh tại làng lụa Vạn Phúc Nguồn vốn sản xuất kinh doanh tại làng nghề:70% ý kiến cho rằng nguồn vốn chủ yếu là vốn vay ngân hàng, 20% ý kiến cho rằng vốn tự có và 10% ý kiến cho rằng vốn vay ưu đãi. Như vậy nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn của người dân. Về biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất tại làng nghề. Trong tổng số 40 phiếu điều tra phỏng vấn thu về thì 100% ý kiến cho rằng biện pháp xư lý ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất tại làng nghề còn chưa được quan tâm đúng mức. 90% ý kiến cho rằng các hộ sản xuất đã có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất nhưng chưa hiện đại, còn 10% ý kiến cho rằng các cơ sở sản xuất vẫn chưa có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường. Theo như kết quả này cho thấy chính sách QLNN về môi trường vẫn chưa hiệu quả, trên thực tế các hộ sản xuất vẫn chưa tuân thủ theo chính sách mà nhà nước đề ra để bảo vệ môi trường. Về mức độ cần thiết của chính sách quản lý Nhà nước với việc phát triển sản phẩm lụa Vạn Phúc Về mức độ cần thiết của chính sách: theo đánh giá đánh giá của các đối tượng được điều tra phỏng vấn thì thứ độ cần thiết giảm dần theo thứ tự sau: 90% ý kiến cho rằng chính sách QLNN đối với phát triển sản phẩm làng nghề truyền thống là vô cùng quan trọng, 10% ý kiến cho rằng quan trọng và không có ý kiến nào cho rằng không quan trọng. Như vậy các hộ sản xuất và kinh doanh đều nhận thức được tầm quan trọng của chính sách QLNN đối với việc phát triển sản phẩm lụa Vạn Phúc. Bởi xu thế hội nhập kinh tế hiện nay đặt làng nghề dệt lụa Vạn Phúc nói riêng, làng nghề truyền thống nói chung trước những khó khăn và thách thức lớn. Vai trò của làng nghề truyền thống đối với phát triển kinh tế nông thôn là vô cùng quan trọng. Chính vì thế nên cần phải có chính sách QLNN trong công tác phát triển làng nghề truyền thống lụa Hà Đông. Về các chính sách quản lý Nhà nước với phát triển sản phẩm lụa Hà Đông Trong tổng số 40 phiếu điều tra phỏng vấn thu về thì 100% ý kiến đều đưa ra được các chính sách QLNN: chính sách vốn, chính sách đãi ngộ nghệ nhân, chính sách môi trường. Ngoài ra còn có một số ý kiến nêu thêm chính sách đào tạo nhân lực, chính sách thuế. 80% ý kiến cho rằng chính sách vốn là quan trọng nhất, 10% ý kiến cho rằng chính sách quy hoạch là quan trọng,5% ý kiến cho là chính sách môi trường, 5% ý kiến cho là chính sách đãi ngộ nghệ nhân. Như vậy theo ý kiến của các hộ sản xuất thì chính sách về vốn chiếm vai trò quan trọng nhất, tiếp theo đó là chính sách quy hoạch để giải quyết khâu mặt bằng sản xuất cũng như giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường trong quá trình sản xuất. Chính sách quy hoạch cũng là một trong những biện pháp hạn chế ô nhiễm môi trường. Về mức độ tiếp cận các chính sách quản lý Nhà nước của người dân nơi đây. Trong tổng số 40 phiếu điều tra phỏng vấn thu về thì 100% ý kiến cho rằng các đối tượng đều được biết đến chính sách QLNN, nhưng mức độ không cao. Kênh thông tin mà qua đó họ được tiếp cận tới chính sách QLNN: 70% qua thông báo của Hiệp hội làng nghề và hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc, 30% qua sách báo, tivi, đài,truyền hình, internet…Như vậy các đối tượng được biết đến chính sách QLNN thông qua rất nhiều kênh thông tin khác nhau, tuy nhiên cần phải có biện pháp nâng cao trình độ tiếp cận các chính sách QLNN cho các đối tượng để phát huy tối đa hiệu quả quản lý của các chính sách. Về mức độ phát huy hiệu quả của các chính sách trên thực tế. Trong tổng số 40 phiếu điều tra phỏng vấn thu về thì 70% ý kiến cho rằng các chính sách QLNN đã phát huy hiệu quả nhưng chưa cao và 30% còn lại cho rằng các chính sách trên chưa phát huy được hiệu quả. Với chính sách vốn thì các hộ sản xuất đã sử dụng đồng vốn vay mở rộng sản xuất, tăng doanh thu. Tuy nhiên do vốn vay có hạn nên lợi nhuận thu được không cao, hiệu quả của chính sách này vẫn còn chưa cao. Với chính sách đãi ngộ nghệ nhân, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu cho một số nghệ nhân nổi tiếng, giúp cho hoạt động sản xuất của họ được thuận lợi hơn. Tuy nhiên, ngoài chính sách đó ra thì vẫn chưa có chính sách trợ cấp nào cho các nghệ nhân trong làng để khuyến khích họ sản xuất, duy trì nghề truyền thống, giữ gìn nét văn hóa dân tộc. Vì vậy chính sách đãi ngộ nghệ nhân vẫn chưa phát huy hết tính hiệu quả của nó. Với chính sách môi trường thì thực sự chưa có hiệu quả, các hộ sản xuất ở tách biệt nhau, không có biện pháp xử lý chất thải, xử lý tiếng ồn. Dòng sông Nhuệ la nơi chứa các chất thải vừa là rác thải sinh hoạt vừa là rác thải sản xuất, kèm với đó là tiếng ồn do các máy dệt, máy nhuộm hoạt động dẫn đến môi trường làng nghề Vạn Phúc bị ôm nhiễm không nhỏ. Chính sách tập trung sản xuất đã được áp dụng nhưng vẫn chưa đem lại hiệu quả có thể nhìn thấy. Khu tập trung sản xuất được xây dựng vào năm 2010, đến đầu năm 2011 bắt đầu đi vào hoạt động nên chưa thể đem lại kết quả ngay. Tuy nhiên với chính sách tập trung sản xuất thì sẽ thuận tiện cho hoạt động xử lý rác thải, tiếng ổn trong quá trình sản xuất nhằm bảo vệ môi trường làng nghề Vạn Phúc. Về những khó khăn, thuận lợi của các hộ sản xuất kinh doanh khi có những chính sách quản lý của Nhà nước. Trong tổng số 40 phiếu điều tra phỏng vấn thu về thì 100% ý kiến cho rằng áp dụng chính sách QLNN vào quá trình phát triển sản phẩm lụa Hà Đông bên cạnh một số ít thuận lợi thì còn có rất nhiều khó khăn. Thuận lợi: Các chính sách của Nhà nước đã góp phần khuyến khích sản xuất, gia tăng sản lượng (từ năm 2005-2010 sản lượng tăng gấp đôi), chất lượng (nhiều mặt hàng mẫu mã đa dạng với chất lượng phù hợp với từng đối tượng tiêu dùng), mở rộng quy mô, góp phần cải thiện môi trường làng nghề. Từ đó thúc đẩy phát triển sản phẩm lụa Hà Đông. Khó khăn: nguồn vay hạn hẹp, trong khi đó thủ tục vay rườm rà, khiến cho các hộ sản xuất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay ưu đãi. Chính sách đãi ngộ nghệ nhân và chính sách môi trường hầu như chưa được thực hiện một cách khoa học, triệt để. Chính sách quy hoạch làng nghề mới thực hiện nên bước đầu mới có hiệu quả. Về những đề xuất, kiến nghị của người dân nhằm phát huy hiệu quả trong thực thi những chính sách quản lý Nhà nước với phát triển sản phẩm lụa Hà Đông. Trong tổng số 40 phiếu điều tra phỏng vấn thì 100% ý kiến cho rằng Nhà nước cần tập trung hơn nữa vào chính sách vốn, cung cấp nhiều vốn vay hơn nữa để phát triển sản xuất sản phẩm làng nghề lụa Hà Đông. Một số ít ý kiến còn đưa ra kiến nghị: Nhà nước cần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc và các hộ sản xuất, tạo điều kiện khi cần vay vốn thì có tài sản để thế chấp. Ngoài ra cần tập trung chính sách kế hoạch để thúc đẩy phát triển sản phẩm làng nghề, cải thiện môi trường làng nghề truyền thống. 3.4 Kết quả thu thập dữ liệu. Để phát triển làng nghề trên cả nước nói chung và trên địa bàn làng Vạn Phúc -Hà Đông theo hướng bền vững, hiện đại, gắn liền với bảo tồn văn hóa dân tộc, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà nước đã ban hành một số các chính sách sau: Bảng 3.2 Các văn bản liên quan đến chính sách vốn STT Văn bản liên quan đến chính sách QLNN với sự phát triển làng nghề Năm ban hành Khái quát nội dung 1 Nghị quyết 120/HĐBT 1992 Chính sách tín dụng hỗ trợ cho các đối tượng tạo việc làm 2 Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg 30/03/1999 Về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn 3 Nghị định số 43/1999/NĐ-CP 29/06/1999 Về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 4 Nghị định số 178/1999/NĐ 29/12/1999 Về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng 5 Nghị định số 78/NĐ-CP 04/11/2002 Về tín dụng đối với hộ nghèo 6 Nghị định 134/2004/NĐ-CP 09/04/2004 Về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn 7 Nghị định 66/2006/NĐ-CP, 07/07/2006 Về phát triển ngành nghề nông thôn 8 Nghị quyết số 04- NQ/TU 13/05/2008 Về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tỉnh Hà Tây 9 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP 30/05/2008 Về chính sách xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề,y tế, văn hóa, thể thao,môi trường 10 Quyết định số 131/QĐ-TTg 23/01/2009 Về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh 11 Thông tư số 02/2009/TT-NHNN 03/02/2009 Về hướng dẫn thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân Bảng 3.3 Các văn bản liên quan đến chính sách môi trường STT Văn bản liên quan đến chính sách QLNN với sự phát triển làng nghề Năm ban hành Khái quát nội dung 1 Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg 2003 Về việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường làng nghề nghiêm trọng 2 Nghị quyết 41/NQ-TƯ 2004 Về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 3 Nghị quyết liên tịch số 01/2004/NQLT-MTTQ-BTNMT 28/10/2004 Về việc phối hợp thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 4 Nghị quyết số 13/NQ/TU 07/04/2005 Về bảo vệ môi trường 5 Nghị định 66/2006/NĐ-CP, 07/07/2006 Về phát triển ngành nghề nông thôn 6 Thông tư số 113/TT-BTC 28/12/2006 Hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn 7 Nghị quyết đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam 25/04/2006 Về công tác bảo vệ môi trường 8 Nghị quyết đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam 14/01/2011 Về công tác quy hoạch và bảo vệ môi trường Qua bảng thống kê các văn bản liên quan tới chính sách QLNN, có thể nhận thấy Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm hỗ trợ các hộ sản xuất và kinh doanh, phát triển sản phẩm làng nghề . Tuy nhiên các chính sách quản lý Nhà nước đối với phát triển làng nghề ở nước ta thường gắn với các chính sách quản lý Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn….nên được lồng ghép trong các chính sách phát triển kinh tế khác. Hiện nay chúng ta chưa có một chính sách cụ thể, riêng biệt nào của Nhà nước được ban hành liên quan đến vấn đề phát triển làng nghề. Trong khi đó công tác quản lý làng nghề còn nhiều mặt hạn chế; cơ chế, chính sách của Nhà nước còn thiếu tính hệ thống, chưa đồng bộ, chưa xác định cụ thể cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với các làng nghề nên làng nghề phát triển còn mang tính tự phát, thiếu vốn kinh doanh, thị trường tiêu thụ sản phầm không ổn định. Tình trạng phân công, phân cấp quản lý làng nghề chưa rõ ràng, dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc buông lỏng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng đối với một số ngành nghề, làng nghề. Để giải quyết tình trạng trên Nhà nước cần kiện toàn lại bộ máy quản lý các làng nghề. Ủy ban nhân dân và các cơ quan chức năng của địa phương cần phân định rõ phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của từng sở, ban, ngành đối với các ngành nghề, làng nghề…cần phân công cán bộ phụ trách công tác phát triển làng nghề để tham mưu kịp thời cho lãnh đạo ban hành những chính sách mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở làng nghề trong quá trình hoạt động. Cần rà soát để có định hướng xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển làng nghề. Đồng thời, khuyến khích làng nghề triển khai thành lập các Hội nghề nghiệp, một mặt tạo điều kiện thuận lợi phát triểnsản phẩm làng nghề, mặt khác đại diện cho làng nghề đề xuất kịp thời những vướng mắc với các cơ quan chức năng, qua đó tăng cường sự liên kết, hợp tác với các Hiệp hội nghề ở các đia phương khác. Chương IV. Các kết luận và đề xuất giải pháp các chính sách QLNN nhằm phát triển sản phẩm lụa làng nghề Vạn Phúc - Hà Đông 4.1. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu về những thành công và tồn tại khi áp dụng chính sách QLNN vào phát triển sản phẩm làng nghề lụa Vạn Phúc 4.1.1 Thành công - Thứ nhất, tạo điều kiện về vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh Nhờ có chính sách vốn mà nhiều hộ sản xuất kinh doanh có thêm nguồn vốn để mở rộng sản xuất. Đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng (giai đoạn 2008-2009. Theo ông Vũ Quốc Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam thì hiện nay, 60% doanh nghiệp làng nghề hoạt động cầm cự, 20% thoi thóp, 20% phá sản) thì nguồn vốn vay ưu đãi là kịp thời đối với các hộ sản xuất kinh doanh ở làng lụa làng nghề Vạn Phúc mặc dù nguồn vốn này còn eo hẹp. Đồng thời với nguồn vốn vay ưu đãi người dân làng nghề bớt đi nỗi lo về lãi suất hơn. Do đặc thù của sản xuất sản phẩm lụa là cần vốn lớn và thời gian quay vòng vốn chậm vì thế với nguồn vốn vay ưu đãi hộ sản xuất có thể yên tâm hơn khi quyết định vay vốn đầu tư phát triển sản phẩm làng nghề. Từ đó có thể mở rộng quy mô sản xuất, tăng sản lượng và doanh thu từ lụa. Từ năm 2005-2007 doanh thu có tăng nhưng không đáng kể và mang tính ổn định. Từ năm 2008-2010 doanh thu tăng mạnh từ 34 tỷ đồng năm 2008 lên 50 tỷ đồng năm 2009 và năm 2010 là 60 tỷ đồng. - Giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân Theo báo cáo tình hình lao động việc làm và vệ sinh môi trường làng nghề Vạn Phúc năm 2008 thì tổng số lao động trong độ tuổi lao động của làng hiện nay vào khoảng 2800 lao động chiếm tỷ lệ 50% dân số của làng. Ngoài ra lao động ngoài độ tuổi cũng tham gia hoạt động kinh tế như lao động người già, lao động trẻ em. Làng nghề không chỉ tạo việc làm tại chỗ mà còn thu hút lao động đến từ nơi khác (khoảng 15% trong tổng số lao động) chủ yếu là lao động nữ trên 90% trong số lao động làm thuê đến từ nơi khác. Số hộ làm lao động thuần chỉ còn 3,38% trong tổng số hộ toàn xã. Đời sống của các hộ gia đình được nâng cao cả về vật chất và tinh thần: 100% số hộ có phương tiện nghe nhìn, 90% số hộ có điện thoại cố định, 60% số hộ có điện thoại di động. do phát triển làng nghề, hiện nay trong làng không có hiện tượng thất nghiệp, 100% lao động trong độ tuổi có việc làm, bên cạnh đó còn tận dụng lao động ngoài độ tuổi (lao động người già, lao động trẻ em tham gia lao động ngoài giờ học tập) và thu hút lao động từ các địa phương khác. Vấn đề tệ nạn cũng giảm đi trong vòng 3 năm qua (2005-2008). Số đối tượng nghiện hút ma túy giảm từ 19 đối tượng xuống còn 12,các tệ nạn khác như trộm cắp tài sản, cờ bạc cũng giảm. Vấn đề giáo dục học tập của con cái được các hộ gia đình quan tâm đầu tư, một số gia đình đã mua máy tính cho con cái học tập. Hiện tượng học sinh trong độ tuổi đến trường bỏ học không còn tồn tại. - Tạo lập được hệ thống kết cấu hạ tầng và mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các cơ sở sản xuất kinh đồng thời bước đầu cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường Đến nay khu quy hoạch 13,5ha đã được giao cho người dân sử dụng và quản lý giúp giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất chật hẹp vốn đã là vấn đề bức xúc ở Vạn Phúc bao lâu nay. Đồng thời việc quy hoạch như vậy cũng giúp cho việc áp dụng máy móc kĩ thuật công nghệ hiện đại trong việc xử lý chất thải một cách đồng bộ giảm tình trạng ô nhiễm môi trường cũng như ô nhiễm tiếng ồn. - Góp phần mở rộng và phát triển làng nghề Mặc dù chưa thực sự bám sát với nhu cầu, thực trạng phát triển của làng nghề song các chính sách liên quan đến phát triển làng nghề đẫ đề cập đến nhiều nội dung cụ thể nhằm khuyến khích sự phát triển của làng nghề. Chính sách phát triển làng nghề không chỉ là biện pháp khắc phục khó khăn trong chiến lược CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn nói chung, phát triển làng nghề nói riêng mà đó còn là một biện pháp đúng đắn nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. 4.1.2 Những tồn tại và nguyên nhân a. Những tồn tại Bên cạnh những thành công thì quá trình thực hiện các chính sách quản lý Nhà nước với phát triển sản phẩm lụa làng nghề Vạn Phúc- Hà Đông cũng gặp phải không ít khó khăn cũng như những tồn tại của chính sách đã gặp phải. trong thời gian qua, việc quản lý Nhà nước đối với phát triển sản phẩm lụa làng nghề Vạn Phúc còn có những tồn tại sau: - Về chính sách vốn Dù đã có những bước chuyển biến tích cực nhưng vấn đề vay vốn của các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất kinh doanh tại các làng nghề nói chung và làng nghề Vạn Phúc nói riêng vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn. Các cơ sở sản xuất kinh doanh đều phàn nàn rằng họ rất khó tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước. Tại sao lại như thế? + Thứ nhất, nguồn vốn cho vay ưu đãi của Nhà nước còn hạn hẹp hơn nữa thời gian cho vay còn ngắn. Nếu được vay thì mỗi hộ cũng chỉ được vay tối đa 5 triệu đồng. Như vậy thử hỏi với 5 triệu ấy người ta có thể làm gì trong khi sản xuất và kinh doanh lụa đòi hỏi nguồn vốn lớn đồng thời thời gian quay vòng vốn chậm? + Thứ hai, thủ tục vay vốn còn rườm rà khiến các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất kinh doanh rất khó để có thể tiếp cận được với nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước. - Chính sách đãi ngộ nghệ nhân Ngoài việc được vinh danh nghệ nhân làng nghề thì những nghệ nhân nơi đây vẫn chưa được hưởng chế độ ưu đãi gì. Họ chưa được tạo điều kiện để mở các lớp đào tạo truyền nghề cho các thế hệ trẻ. Việc thiếu chế độ đãi ngộ xứng đáng cho các nghệ nhân là một trong những nguyên nhân khiến nghề dệt lụa chưa phát triển ở mức cao nhất có thể. - Chính sách môi trường Chính sách của Nhà nước chưa thực sự có tác động tích cực tới giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường tại làng lụa Vạn Phúc. Chính sách quy định không cụ thể, ở tầm vĩ mô chưa có văn bản nào quy định chuyên biệt hoặc một số điều khoản quy định cụ thể chi tiết về bảo vệ môi trường trong các làng nghề. Mặc dù đã có một số quy chế bảo vệ môi trường trong đó có đề cập đến môi trường làng nghề song còn chung chung, chưa cụ thể hóa, tính hiệu lực không cao, các quy định vẫn chỉ mang tính giải pháp tình thế, chưa bảo đảm hiệu quả lâu dài. Trong khi đó, một thực tế đáng lo ngại là các xưởng sản xuất ở các làng nghề nói chung và ở làng dệt lụa Vạn Phúc nói riêng nằm xen kẽ với khu dân cư, dẫn đến khói bụi, tiếng ồn làm ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống, sinh hoạt của cư dân địa phương. Một số người dân sống gần khu vực làng nghề cho biết: Hằng ngày tiếng ồn phát ra từ các khung dệt không ai chịu nổi. Mặt khác, hệ thống thu gom, xử lý chất thải tại các làng nghề này hầu như chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, đang gây ra tình trạng ô nhiễm nặng môi trường đất, nước, không khí. Từ thực tế nêu trên, bài toán về đầu tư khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống đi đôi với việc bảo đảm hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến môi trường sống đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức nan giải, đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của các cấp, các ngành, địa phương và cả người dân của các làng nghề. Gần đây, nhiều nỗ lực hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường của chính quyền địa phương đã được thực hiện như nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường cho người lao động cũng như kiên quyết xử lý các doanh nghiệp vi phạm. Song, các biện pháp này tỏ ra kém hiệu quả khi chưa được thực thi một cách đồng bộ. Cạnh đó, thực trạng làng nghề chưa được qui hoạch một cách bài bản nên rất khó khăn cho việc xây dựng các hệ thống xử lý chất thải. Có ý kiến cho rằng, nếu chỉ tập trung đầu tư khôi phục các làng nghề như hiện nay mà không gắn với công tác bảo vệ và triển khai các biện pháp hiệu quả  xử lý ô nhiễm môi thì khó có thể đảm bảo cho một tương lai phát triển bền vững của làng nghề dệt lụa truyền thống trên địa bàn Vạn Phúc- Hà Đông. b. Nguyên nhân Những tồn tại trên đây của các chính sách quản lý Nhà nước với phát triển sản phẩm lụa làng nghề Vạn Phúc – Hà Đông xuất phát từ một số nguyên nhân sau: - Chính sách vốn Nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước còn hạn hẹp là do nguồn Ngân sách Nhà nước để cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề còn hạn chế (nguồn vốn hỗ trợ cho các làng nghề trong gói kích cầu thứ nhất khoảng 4 tỷ đồng chiếm 25% trong tổng 17 tỷ đồng của gói kích cầu thứ nhất) Một vấn đề hết sức bức xức đối với các doanh nghiệp, hộ gia đình, cơ sở kinh doanh trong làng nghề là việc tiếp cận vốn vay của các tổ chức tín dụng có nhiều rào cản về thủ tục, không có sự hiểu nhau giữa bên cho vay và bên đi vay.Thủ tục vay vốn ở các ngân hàng còn rườm rà, nhiều tầng nấc khiến các hộ gia đình không tiếp cận được nguồn vốn vay. Các cơ sở sản xuất kinh doanh khi được hỏi về vấn đề này đều cho rằng có quá nhiều điều kiện mới vay được vốn. kể cả khi đã có đủ điều kiện đó rồi chưa chắc họ đã nhận được vốn ngay, còn phải thông qua các thủ tục hành chính, tổn thất về thời gian đi lại. ngoài ra để tiếp cận với nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác , các khoản vay có bảo lãnh các cơ sở sản xuất kinh doanh cũng gặp không ít khó khăn và nguồn vốn không được kịp thời. vướng mắc này chính là cơ chế đòi hỏi bắt buộc phải có tài sản thế chấp nếu như muốn vay vốn. trong khi đó hầu hết các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh tại làng nghề có nguồn vốn chủ sở hữu thấp, ít tài sản thế chấp, lại không có người bảo lãnh, khả năng lập dự án, phương án sản xuát kinh doanh còn hạn chế … cùng với sự cầu toàn, quá chặt chẽ về thủ tục và xác định tài sản thế chấp để được vay vốn. Còn về phía ngân hàng, họ không cho doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vì số tiền vay không nhiều nên đem lại hiệu quả ít, hơn nữa cho doanh nghiệp nhà nước vay, nếu không trả được thì đã có nhà nước lo, ngân hàng ít bị liên đới trách nhiệm hơn ngoài ra doanh nghiệp tư nhân vay 1 tỷ hay vài trăm triệu cũng phải mở từng ấy sổ sách, từng ấy công việc, thủ tục phải làm. Như vậy kể cả trong giai đoạn khó khăn nhất về vốn, các làng nghề vẫn phải tự chủ động đến 70%. - Chính sách đãi ngộ Hiện Nhà nước vẫn chưa có chính sách đãi ngộ nào ngoài việc phong tặng danh hiệu nghệ nhân làng nghề. Thực tế từ lâu, nhiều nước trong khu vực đã thực hiện nhiều cách thức khác nhau trong việc đãi ngộ cho các nghệ nhân. Chẳng hạn, Hàn Quốc thực hiện chế độ tiền lương hàng tháng cho các nghệ nhân từ năm 1962. Việc trả lương hàng tháng cho các nghệ nhân VN cũng là một trong những phương án đã được tính đến. Thế nhưng nếu chỉ trả lương cho các nghệ nhân cao tuổi, có đóng góp và đủ tiêu chuẩn phong tặng danh hiệu được hưởng chế độ chính sách thì không loại trừ khả năng nguồn kinh phí khá lớn đó của Nhà nước không đến được với các nghệ nhân trẻ, không khuyến khích được các thế hệ trẻ theo đuổi nghệ thuật truyền thống. - Chính sách môi trường Chính sách môi trường-quy hoạch chưa phát huy hiệu quả là do các nguyên nhân sau: +) Việc xử lý ô nhiễm môi trường đòi hỏi chi phí cao mà khả năng của các hộ và các cơ sở sản xuất kinh doanh là có hạn, trong khi Nhà nước hỗ trợ còn hạn chế, chính sách ưu đãi chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư, xã hội hóa trong lĩnh vực này +) Việc thực thi chính sách có khi còn vướng mắc do thủ tục hành chính còn nặng nề. tổ chức thực hiện chưa nghiêm, kiểm tra, giám sát, phân tích đánh giá tác động của chính sách chưa được coi trọng, chưa được thường xuyên và chuyên nghiệp. công tác phổ biến, giải thích chính sách còn hạn chế ảnh hưởng đến việc tiếp cận chính sách của làng nghề + ý thức chấp hành các chính sách của các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh tại làng nghề còn có nhiều hạn chế đặc biệt như ý thức chấp hành chính sách về môi trường. Những nguyên nhân này đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng của chính sách, làm cho chính sách còn nhiều hạn chế. 4.2. Các đề xuất và giải pháp chính sách QLNN nhằm phát triển sản phẩm lụa làng nghề Vạn Phúc-Hà Đông Để phát triển sản phẩm làng nghề lụa Hà Đông cần nỗ lực từ nhiều phía đặc biệt là về phía Nhà nước với các chính sách quản lý vĩ mô. Cần phát triển làng nghề theo hướng phát triển bền vững- phát triển thương mại song song với việc bảo vệ môi trường làng nghề. Để tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các làng nghề cần thực hiện giải pháp này theo các hướng: Làm tốt công tác quy hoạch phát triển các làng nghề trên địa bàn. Muốn vậy, phải tiến hành rà soát lại các làng nghề, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch cho phát triển làng nghề. Để đảm bảo cơ sở khoa học cho việc xây dựng quy hoạch, các cơ quan chức năng cần đánh giá đầy đủ các thông tin về vùng nguyên liệu, xu hướng vận động của thị trường, khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học của từng sản phẩm, tình hình cung cầu hay những biến động về nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, đánh giá những áp lực về cạnh tranh ở thị trường trong nước, nhu cầu gia tăng về sản phầm khi nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới để có những dự báo, dự đoán kip thời, phù hợp. Đây là vấn đề hết sức quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của làng nghề. Tăng cường quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường của các làng nghề. Giải quyết vấn đề này, bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm cho người sản xuất đối với người tiêu dùng, đối với môi trường, các cơ quan chức năng phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các hộ, các doanh nghiệp ở làng nghề sản xuất sản phẩm dễ gây ô nhiễm môi trường, đồng thời xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm. Quan tâm hơn nữa đến vấn đề lao động trẻ em trong các làng nghề. Các địa phương cần quy định rõ độ tuổi lao động, kể cả lao động bán thời gian, kiên quyết xử phạt những cơ sở sản xuất sử dụng lao động trẻ em trái với các quy định của Nhà nước và chính quyền địa phương. Dưới đây là một số đề xuất nhằm phát triển sản phẩm lụa làng nghề Vạn Phúc- Hà Đông: a. Xây dựng chính sách và cơ chế cung ứng vốn cho phát triển các làng nghề nói chung và lụa Vạn Phúc nói riêng. Vốn sản xuất tại các làng nghề hiện đang thiếu trầm trọng,thiếu vốn đã kìm hãm sự phát triển của làng nghề. Trong bối cảnh phần lớn các cơ sở sản xuất làng nghề thiếu vốn để thực hiện sản xuất kinh doanh thì việc đổi mới chính sách tài chính, tín dụng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với các làng nghề trong việc huy động vốn. Thông qua chính sách vốn, Nhà nước tạo cú huých cho sự phát triển của làng nghề. Chính vì vậy, xây dựng cơ chế cung ứng vốn, cơ quan quản lý Nhà nước cần: + Cần có chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư tín dụng về nông thôn lập nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức ngân hàng, tín dụng hoạt động nhằm hình thành và mở rộng thị trường tín dụng nông thôn. + Đối với các dự án bảo tồn và phát triển làng nghề, ngành nghề cần được hưởng hỗ trợ đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất, các doanh nghiệp kinh doanh ở làng nghề được vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp nhất. + Thực hiện công bằng, hợp lý chế độ miễn giảm thuế đối với các chủ thể sản xuất trong làng nghề. xem xét miễn giảm thuế cho các chủ thể kinh doanh ở các làng nghề trong những trường hợp miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu; miễn giảm thuế cho các cơ sở sản xuất nguyên liệu và các tổ chức dịch vụ, khai thác, cung ứng vật tư nguyên liệu; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên, thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế có liên quan đối với cơ sở tạo ra những mặt hàng mới, tạo lập được những thị trường xuất khẩu mới. Đối với các cơ sở sản xuất và các dự án bảo tồn và phát triển làng nghề, cần có chính sách hỗ trợ thuế theo tỷ lệ nhất định 50 -100% trong thời hạn từ 5-10 năm. + đẩy mạnh lưu thông vốn qua các kênh lưu thông như: hệ thống tín dụng, ngân hàng, quỹ hỗ trợ đầu tư của Nhà nước …. + Tạo điều kiện cho làng nghề tiếp cận được các nguồn vốn. tạo được nguồn vốn cho phát triển làng nghề chỉ là bước đầu của chính sách, mà hiệu quả sử dụng vốn của làng nghề mới là điều quan trọng. do đó Nhà nước cần tạo điều kiện trong tiếp cận vốn cho làng nghề bằng cách: đa dạng các hình thức cho vay vốn, thực hiện lãi suất ưu đãi, thay đổi định mức và thời gian vay hướng đến trung và dài hạn,… + Đơn giản hóa các thủ tục cho vay Với các gói ưu đãi lãi suất các ngân hàng cần đơn giản hóa thủ tục để cho các hộ gia đình sản xuất vừa và nhỏ có thể tiếp cận mở rộng quy mô, cải tiến kĩ thuật. Thủ tục hành chính rườm rà là căn bệnh xuất hiện ở nhiều nơi trong cơ quan hành chính. Nó làm giảm đi tính hiệu quả của các chính sách QLNN, người dân khó tiếp cận, làm chậm quá trình sản xuất, ảnh hưởng tới phát triển sản phẩm làng nghề truyền thống lụa Vạn Phúc. + Thu hút ngồn vốn đầu tư nước ngoài Chính sách vốn do Nhà nước thực hiện để quản lý hoạt động sản xuất- kinh doanh, phát triển sản phẩm làng nghề đã đạt được một số hiệu quả, tuy nhiên do nguồn ngân sách nhà nước hạn hẹp và còn có nhiều khoản chi khác để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, vì vậy nguồn vốn hỗ trợ làng nghề còn hạn hẹp. do đó Nhà nước có thể đưa ra nhiều hoạt động để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển làng nghề dệt lụa Vạn Phúc( như quảng bá thương hiệu lụa Vạn Phúc trên thị trường quốc tế, tổ chức những cuộc triển lãm quy mô lớn,…) + Cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất Nhà nước cần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc và các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh dệt lụa để các tổ chức khi cần vay vốn có tài sản để thế chấp. Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ, các cơ sở kinh doanh ở làng nghề theo hướng tạo thuận lợi cho việc sử dụng các quyền về đất đai; thực hiện cho thuê đất dài hạn trên cơ sở quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết ở địa phương; áp dụng các chính sách ưu đãi trong thuê đất cho tất cả các cơ sở sản xuất ở làng nghề. b. Có những chính sách đãi ngộ thích đáng với những người có công trong việc lưu truyền và phát triển sản phẩm lụa + Phong tặng danh hiệu, bằng khen cho những cho các nghệ nhân để khuyến khích họ sản xuất, gắn bó, tâm huyết với nghề hơn nữa. Đồng thời tiến hành suy tôn một số thợ giỏi lên nghệ nhân để họ có cơ hội phát triển tay nghề + Mở khóa dạy nghề cho thế hệ trẻ trong làng Hàng kì cần mở các khóa giới thiệu về nghệ nhân trong làng và các tác phẩm xuất sắc của họ. đồng thời mở các lớp để các nghệ nhân có thể truyền nghề cho các thế hệ trẻ. + Cấp sổ bảo hiểm Đa số nghệ nhân hiện nay đều không được hưởng lương Nhà nước, không có chế độ bảo hiểm. cấp sổ bảo hiểm cho các nghệ nhân là một hình thức thể hiện sự quan tâm của Nhà nước với những người có công với việc giữ gìn và phát triển làng nghề Vạn Phúc, tạo điều kiện cho họ có thể tiếp tục cống hiến cho làng nghề. c. hoàn thiện chính sách môi trường, phát triển sản phẩm làng nghề theo hướng bền vững + xây dựng và hoàn thiện chính sách ngăn ngừa ô nhiễm môi trường đồng bộ Trước tiên, cần hoàn chỉnh các chính sách về thuế ô nhiễm, lệ phí môi trường. người gây ô nhiễm phải chi trả những chi phí cho việc khống chế ô nhiễm làm sạch môi trường hoặc bồi thường thiệt hại cho những người phải chịu sự ô nhiễm. đây chính là sự kết hợp biện pháp quản lý và biện pháp kinh tế nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa người gây ô nhiễm và người chịu ô nhiễm. Thứ hai, là cần phải xây dựng một quy trình kiểm soát ô nhiễm ở mức chi tiết, xây dựng các chỉ tiêu chất lượng đối với các khu vực không khí, vùng nước bị ô nhiễm ở khu vực làng nghề. Thứ ba, nêu cao trách nhiệm tự quản của người dân cũng như trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ môi trường + hoàn thiện khu quy hoạch sản xuất đạt tiêu chuẩn môi trường Hiện nay, Vạn Phúc đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng khu quy hoạch sản xuất và giao cho người dân song hiệu quả của nó vẫn chưa được phát huy. Để khu quy hoạch đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả cần tiến hành một số viện pháp sau: Thứ nhất, trang bị cơ sở vật chất, máy móc kĩ thuật hiện đại phục vụ cho quá trình sản xuất. Thứ hai, xây dựng khu sản xuất biệt lập với khu dân cư để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm tiếng ồn. Thứ ba, thiết kế khu xử lý rác thải với công nghệ máy móc kĩ thuật hiện đại trong việc xử lý đồng bộ nước thải, rác thải góp phần giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường. Thứ tư, đào tạo đội nghiên cứu môi trường chuyên nghiệp, Tăng cường công tác kiểm tra bảo vệ môi trường làng nghề, theo định kì kiểm tra môi trường làng nghề Vạn Phúc đảm bảo môi trường trong sạch, có biện pháp xử lý nghiêm cơ sở sản xuất vi phạm quy chế môi trường. Thứ năm, tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao nhận thức của người dân làng nghề về việc bảo vệ môi trường. xây dựng thương hiệu cho làng lụa Van Phúc-Hà Đông từ năm 2006, hiệp hội làng nghề dệt lụa tơ tằm Van Phúc phối hợp cùng hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc đăng ký bảo vệ thương hiệu với Cục Sở hữu trí tuệ cho sản phẩm lụa Vạn Phúc mang tên “Lụa Hà Đông”, làm cơ sở chống cạnh tranh trên thị trường với những sản phẩm sản xuất cùng loại. ngoài ra Hiệp hội làng nghề tham gia cùng với hợp tác xã xây dựng trang web mang tên để đưa thông tin lên mạng, giới thiệu với khách hàng về sản phẩm và địa chỉ, tạo thuận lợi trong quan hệ kinh doanh. Thêm vào đó, Vạn Phúc đã tổ chức và tham gia nhiều sự kiện, nhằm quảng bá hình ảnh của lụa Hà Ðông. Có thể kể tới là chương trình Lễ hội du lịch làng nghề năm 2004 do Sở Du lịch Hà Tây (nay là Sở Du lịch Hà Nội) phối hợp nhiều công ty du lịch trong và ngoài nước thực hiện. Ðó chính là một ngày hội lớn, là cơ hội để người dân xứ lụa giới thiệu với bạn bè và du khách về nét đặc sắc, độc đáo và tinh tế của sản phẩm lụa Hà Ðông. Gần đây nhất, năm 2008, Vạn Phúc với hơn 300 người đã tham gia tích cực vào chương trình lễ hội tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Để thương hiệu lụa Vạn Phúc nổi tiếng hơn nữa không chỉ trong nước mà còn cả nước ngoài thì còn cần nhiều biện pháp thiết thực hơn nữa: + hiệp hội làng nghề cần phối hợp với hợp tác xã nâng cao chất lượng bằng biện pháp xây dựng quy chuẩn để xét gắn thương hiệu hàng hóa đã được Nhà nước bảo hộ, tạo thế cạnh tranh trên thị trường. + vận động các gia đình đăng ký dệt thương hiệu lên biên vải. đồng thời tổ chức kiểm tra chất lượng máy dệt của toàn thể các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất để có kế hoạch hỗ trợ tu bổ sửa chữa để nâng cao chất lượng hàng dệt, đủ tiêu chuẩn được gắn thương hiệu lụa Vạn Phúc-Hà Đông lên biên vải. + mở thêm nhiều cuộc triển lãm để quảng bá thương hiệu lụa Vạn Phúc với khách du lịch trong và ngoài nước. + Hằng năm giành một tỷ lệ nhất định từ nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học, từ quỹ khuyến công để đầu tư nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ cho các làng nghề; ưu tiên đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ kinh phí cho các nghiên cứu, thử nghiệm sản xuất sản phẩm mới, các đề tài khôi phục kỹ thuật truyền thống, hiện đại hóa công nghệ truyền thống cũng như mở mang nghề mới . . . Sớm hình thành website làng nghề ở địa phương để giới thiệu những sản phầm độc đáo, sản phẩm mới cho người tiêu dùng ở trong và ngoài nước. Hướng dẫn, hỗ trợ làng nghề, các cơ sở sản xuất xây dựng, đăng ký và quảng bá thương hiệu. Trước mắt, tập trung xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề có để tạo được uy tín nhất định đối với người tiêu dùng. Ngoài ra, địa phương cần trích ngân sách và sử dụng một phần quỹ khuyến công để tổ chức các hội chợ, triển lãm, festival về sản phẩm của làng nghề để qua đó làm cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng và du khách có thêm nhiều thông tin về sản phẩm làng nghề dệt lụa Vạn Phúc. Phát triển làng nghề gắn với du lịch Du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới tham quan, thẩm nhận các giá trị văn hoá và mua sắm những hàng hoá đặc trưng của làng nghề trên khắp mọi miền đất nước. . Mô hình phát triển du lịch gắn với làng nghề là một hình thức mang lại hiệu quả rất cao ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Thông qua việc hình thành sản phẩm du lịch - làng nghề, chẳng những ngành du lịch sẽ giữ chân được du khách mà làng nghề cũng có điều kiện để quảng bá và tiêu thụ sản phầm của mình Song trên thực tế, các tour du lịch gắn với làng nghề đều còn mang tính tự phát, chưa được chú trọng thực sự... Như vậy để giải quyết vấn đề này cơ quan quản lý cần kết hợp với các hãng du lịch tổ chức đưa khách du lịch tham quan quê lụa, phối hợp thực hiện các chương trình truyền hình quảng bá nét độc đáo, đặc sắc của làng nghề tới công chúng. . Để thực hiện vấn đề này, cần có sự phối hợp giữa các công ty du lịch và làng nghề để hợp tác đầu tư phát triển sản phẩm du lịch làng nghề, từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch - làng nghề độc đáo; đồng thời, làm tốt công tác quy hoạch chi tiết làng nghề, có hướng đầu tư để làng nghề không những đẹp về cảnh quan, giao thông thuận lợi mà còn tạo được môi trường trong lành và để lại ấn tượng tốt cho du khách khi đến thăm.Ðầu tư phát triển du lịch và thực hiện những phương thức tiếp thị hiệu quả sẽ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển và giới thiệu sản phẩm lụa Vạn Phúc tới bạn bè trong khu vực và quốc tế. f. Tạo mối liên kết giữa các hộ, các cơ sở sản xuất của làng nghề với các thành phần kinh tế khác, cũng như giữa các làng nghề với nhau. Hiện nay làng nghề gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ví dụ như sản phẩm sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ. Nhằm giảm bớt khó khăn về thị trường tiêu thụ cho làng nghề, chính quyền địa phương cần giúp đỡ tạo mối liên kết giữa các hộ với các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp thương mại, các siêu thị, các đại lý bán hàng để hình thành các kênh tiêu thụ sản phẩm thông qua các hình thức đặt hàng, thu mua, bao tiêu sản phẩm. Khuyến khích hình thành các hợp tác xã làm dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản phẩm của các hộ, các cơ sở các doanh nghiệp trong làng nghề. g. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý ở các làng nghề. Đội ngũ cán bộ quản lý ở các cơ sở làng nghề, nhất là cán bộ quản lý các doanh nghiệp, các hợp tác xã phần lớn trưởng thành từ người lao động, chưa được đào tạo qua các trường lớp về quản lý, quản trị kinh doanh, năng lực quản lý, các kiến thức về kinh tế thị trường, quản trị doanh nghiệp, marketing, xuất nhập khẩu... còn nhiều hạn chế. Do đó, các cơ quan chức năng cần tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý ở làng nghề. Với nguồn kinh phí hạn hẹp, các địa phương nên mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn; đồng thời, có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng với các trường đại học để xây dựng chương trình, nội dung và thời gian.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxGiải pháp chính sách quản lý nhà nước với phát triển sản phẩm lụa của làng nghề lụa Vạn Phúc - Hà Đông.docx
Luận văn liên quan