Khóa luận Ngoại thương: Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ: Lý thuyết, thực tiễn một số nước và những khuyến nghị rút ra cho Việt Nam

Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế sâu rộng, hoạt động ngoại thương đã trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia. Tỷ giá hối đoái, với tư cách là thước đo tương quan kinh tế giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới được coi là một công cụ chính sách vĩ mô quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu như thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định giá trị nội tệ, đảm bảo cân bằng đối nội và đối ngoại, kích thích xuất khẩu Chính vì vậy, việc điều chỉnh tỷ giá nhằm đạt được những thành quả kinh tế nhất định trong vài thập niên gần đây đã và đang là một vấn đề hết sức quan trọng. Đây cũng là đề tài được các nhà kinh tế đặc biệt quan tâm nghiên cứu nhằm tìm ra chính sách điều hành tỷ giá tối ưu nhất cho nền kinh tế của một quốc gia. Phá giá tiền tệ là một biện pháp điều chỉnh tỷ giá trong đó nó làm giảm giá đồng nội tệ, do đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, phát triển sản xuất hướng ngoại, tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp Tuy nhiên phá giá đồng nội tệ là một quyết định hết sức khó khăn và nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến rất nhiều khía cạnh khác nhau của hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống người dân nói chung. Đồng thời nó cũng là một biện pháp mạnh đối với nền kinh tế, vì vậy nếu không có những biện pháp điều hành hợp lý sẽ có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu vấn đề phá giá một cách kỹ lưỡng về cả mặt lý luận và thực tiễn. Do phá giá tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia nên một câu hỏi thường được đặt ra cho các nhà kinh tế và hoạch định chính sách là: “Liệu phá giá tiền tệ có giúp cải thiện tình hình Cán cân thương mại và Tài khoản vãng lai?” Có nhiều lý thuyết khác nhau về phá giá tiền tệ đã nỗ lực trả lời cho câu hỏi này, trong đó không thể không kể đến một lý thuyết đã xuất hiện khá sớm và giải thích câu hỏi này một cách khá đơn giản nhưng hợp lý – đó là lý thuyết về hiệu ứng tuyến J (J – curve effect). MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁ GIÁ TIỀN TỆ VÀ HIỆU ỨNG TUYẾN J 4 I. Những vấn đề cơ bản về phá giá tiền tệ. 4 1. Tỷ giá hối đoái 4 1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái 4 1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái 5 1.3. Các chế độ tỷ giá hối đoái 6 2. Định nghĩa phá giá tiền tệ. 7 3. Tác động của phá giá tiền tệ lên nền kinh tế. 8 3.1. Tác động tích cực. 8 3.2. Tác động tiêu cực. 8 4. Nguyên nhân Chính phủ thực hiện phá giá tiền tệ. 10 4.1. Nguyên nhân chủ quan. 10 4.2. Nguyên nhân khách quan. 11 II. Tác động của phá giá lên Cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia qua cách tiếp cận co giãn. 12 1. Cán cân thanh toán quốc tế. 12 1.1. Định nghĩa Cán cân thanh toán quốc tế. 12 1.2. Kết cấu nội dung của Cán cân thanh toán quốc tế. 12 2. Cách tiếp cận co giãn (Elasticity approach). 15 2.1. Một số giả định quan trọng. 16 2.2. Điều kiện Marshall-Lerner. 16 2.3. Ví dụ minh họa. 18 2.4. Các hiệu ứng. 19 III. Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ. 21 1. Định nghĩa hiệu ứng tuyến J. 21 2. Nguyên nhân xuất hiện hiệu ứng tuyến J. 22 3. Kiểm nghiệm hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ. 26 CHƯƠNG II. THỰC TIỄN VỀ PHÁ GIÁ TIỀN TỆ VÀ HIỆU ỨNG TUYẾN J Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI. 30 I. Phá giá tiền tệ ở Mexico năm 1994. 30 1. Nguyên nhân và diễn biến cuộc phá giá tiền tệ ở Mexico năm 1994. 30 1.1. Nguyên nhân. 30 1.2. Diễn biến. 35 2. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ 1994 đến nền kinh tế Mexico. 37 2.1. Ảnh hưởng tích cực. 37 2.2. Ảnh hưởng tiêu cực. 39 3. Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ ở Mexico năm 1994. 42 II. Phá giá tiền tệ ở Thái Lan năm 1997. 44 1. Nguyên nhân và diễn biến cuộc phá giá tiền tệ tại Thái Lan năm 1997. 44 1.1. Nguyên nhân. 44 1.2. Diễn biến. 48 2. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ năm 1997 đến nền kinh tế Thái Lan. 49 2.1. Ảnh hưởng tích cực. 49 2.2. Ảnh hưởng tiêu cực. 50 3. Hiệu ứng tuyến J trong thực tiễn phá giá tiền tệ Thái Lan năm 1997. 52 III. Phá giá tiền tệ ở Trung Quốc năm 1994. 54 1. Nguyên nhân và diễn biến phá giá tiền tệ Trung Quốc năm 1994. 54 1.1. Nguyên nhân. 54 1.2. Diễn biến. 55 2. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ năm 1994 đến nền kinh tế Trung Quốc. 56 2.1. Ảnh hưởng tích cực. 56 2.2. Ảnh hưởng tiêu cực. 57 IV. Bài học kinh nghiệm rút ra trên cơ sở phân tích phá giá tiền tệ qua thực tiễn phá giá của Mexico, Thái Lan và Trung Quốc. 60 1. Bài học về chính sách tỷ giá hối đoái 60 2. Bài học về thời điểm phá giá. 61 CHƯƠNG III. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ RÚT RA CHO VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ PHÂN TÍCH PHÁ GIÁ TIỀN TỆ VÀ HIỆU ỨNG TUYẾN J. 64 I. Đặc điểm chính sách tỷ giá hối đoái và tình hình Cán cân thương mại của Việt Nam 64 1. Đặc điểm chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn tháng 2/1999 – nay. 64 2. Tình hình Cán cân thương mại của Việt Nam 69 3. Ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá đến Cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua 74 II. Một số quan điểm về việc phá giá đồng VND trong thời điểm hiện tại 77 1. Quan điểm ủng hộ phá giá mạnh đồng VND 77 2. Quan điểm phản đối phá giá mạnh đồng VND 79 3. Quan điểm về phá giá đồng VND dựa trên những phân tích về hiệu ứng tuyến J. 79 III. Khuyến nghị các điều kiện để Việt Nam có thể phá giá thành công VND 81 1. Hình thành một chế độ điều hành tỷ giá mềm dẻo, linh hoạt 81 2. Tạo khả năng chuyển đổi cho đồng VND 83 3. Hạn chế tình trạng đô la hóa. 84 4. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. 84 5. Kiểm soát lạm phát 85 6. Kiểm soát vay nợ nước ngoài 86 7. Kiểm soát chi tiêu Chính phủ. 86 8. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. 87 Kết luận quan điểm của người viết. 88 KẾT LUẬN 91 Danh mục tài liệu tham khảo. 93 Danh mục các từ viết tắt. 94

doc97 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3116 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ngoại thương: Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ: Lý thuyết, thực tiễn một số nước và những khuyến nghị rút ra cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyển về nước đã lên tới 3,5 tỷ USD. Thứ hai, tỷ giá hối đoái luôn được điều chỉnh tăng. Từ năm 1989 đến nay đặc biệt là từ khi chuyển sang chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tỷ giá VND luôn được điều chỉnh tăng (tức giảm giá VND) nhằm cải thiện sức cạnh tranh thương mại của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới, tăng thu ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu. Chỉ trong vòng hai năm trở lại đây, Chính phủ đã nhiều lần nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái nhằm không chỉ đưa giá trị đồng VND về giá trị thực trên thị trường của nó mà còn tạo động lực thúc đẩy xuất khẩu, phát triển kinh tế. Bảng 11: các lần nới rộng biện độ dao động tỷ giá hối đoái từ 2002 – nay 1/7/2002 Từ ±0,1% à ±0,25% 31/12/2006 Từ ±0,25 à ±0,5% 24/12/2007 Từ ±0,5% à ±0,75% 10/3/2008 Từ ±0,75% à ±1% 27/6/2008 Từ ±1% à ±2% 7/11/2008 Từ ±2% à ±3% 24/3/2009 Từ ±3% à ±5% Nguồn: người viết tự tổng hợp Thứ ba, mặc dù NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá tăng nhưng tỷ giá VND vẫn bị định giá cao hơn giá trị thực. Từ sau khủng hoảng đến nay, các nhà kinh tế cho rằng VND được định giá quá cao khiến sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam bị giảm sút so với các nước trong khu vực. Kết quả là khối lượng nhập khẩu tăng, khối lượng xuất khẩu giảm, Cán cân thương mại luôn trong trạng thái thâm hụt. Thứ tư, tỷ giá hối đoái của VND phụ thuộc quá nhiều vào đồng USD. Cơ chế quản lý tỷ giá thông qua USD đã khiến tỷ giá của Việt Nam không phản ánh chính xác mối quan hệ giá cả giữa Việt Nam và thế giới. Điều này đã làm cho tỷ giá không có những tác động mạnh mẽ đến điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. Mặc dù nhiều nhà quản lý tiền tệ cho rằng chế độ tỷ giá của Việt Nam là chế độ không bản vị so với bất cứ một ngoại tệ nào khác, nhưng với 96,9% tỷ trọng thanh toán trong Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam bằng đồng USD đã chứng tỏ thực chất của chế độ tỷ giá của Việt Nam là chế độ bản vị đồng USD TS.Phạm Chí Quang, Vai trò của tỷ giá trong quá trình điều chỉnh Cán cân thanh toán tại Việt Nam, 2003 . Do đó, đòi hỏi về dự trữ ngoại hối, thanh toán trong thương mại quốc tế, chính sách huy động FDI…tại Việt Nam phải được xác định trên cơ sở đồng USD. Tuy vậy, trong quan hệ thương mại quốc tế Mỹ lại không phải là đối tác chính của Việt Nam mà là các nước thuộc EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Chính vì vậy, những biến động về giá cả trên thế giới sẽ tạo ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá VND/USD và do vậy gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc chính sách tỷ giá của Việt Nam duy trì một hệ thống rổ tiền tệ “neo” mà trong đó USD có quyền số rất cao khiến khả năng tự do hóa cán cân vãng lai của Việt Nam thấp, nói cách khác dẫn tới tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài. Ngoài ra, chế độ tỷ giá hối đoái của Việt Nam như vậy khiến tỷ giá chưa thể hiện tương quan sức mua của VND với tất cả các đồng tiền của các quốc gia có quan hệ ngoại thương với Việt Nam, do đó không phản ánh được vị thế tổng hợp về sức cạnh tranh thương mại của Việt Nam. Ngoài ra, chính sách tỷ giá của Việt Nam cũng còn một số điểm hạn chế trong cơ chế điều hành. Thứ nhất, cơ chế điều hành vẫn chưa đủ linh hoạt. Việc đổi mới chính sách tỷ giá hối đoái mặc dù đã được tiến hành song vẫn còn chậm, chưa bắt kịp với sự phát triển kinh tế cũng như sức tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Cơ chế điều hành chính sách tỷ giá hối đoái vẫn còn thiếu linh hoạt, nhất là trong việc quy định biên độ dao động tỷ giá. Cụ thể là có lúc biên độ dao động nới rộng tới 10% nhưng có lúc lại chỉ có 0,1% khiến tính linh hoạt của tỷ giá theo tín hiệu thị trường bị bó hẹp, tạo cơ hội cho các hoạt động đầu cơ trên thị trường. Do vậy, tỷ giá vẫn không thể là công cụ chủ yếu để điều tiết thị trường ngoại hối. Thứ hai, vẫn chưa sử dụng một cách hiệu quả hai công cụ lãi suất và dự trữ ngoại hối trong điều hành tỷ giá. Việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái chủ yếu vẫn sử dụng các biện pháp hành chính, bỏ qua yếu tố thị trường. Thứ ba, phương pháp xác định mức tỷ giá chưa phù hợp, chưa theo sát quan hệ cung – cầu trên thị trường dẫn tới tỷ giá thường xuyên bị định giá cao hơn mức cân bằng do vậy không có tác dụng khuyến khích xuất khẩu cũng như cải thiện tình trạng Cán cân thương mại. Cuối cùng, hiện tượng đô la hóa diễn ra phổ biến trong cả nước dẫn tới một lượng ngoại tệ lớn trôi nổi ngoài dân cư và trên thị trường tự do gây bất ổn cho nền kinh tế và tạo điều kiện cho các hoạt động bất hợp pháp đặc biệt là buôn lậu phát triển. 2. Tình hình Cán cân thương mại của Việt Nam Cán cân thương mại của Việt Nam có một số đặc điểm như sau: Một là, xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng phát triển và ngày càng đóng góp một phần quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rõ ràng rằng, trên thực tế, giá trị nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam nhiều năm qua luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá trị xuất khẩu và Cán cân thương mại luôn ở trạng thái thâm hụt. Mặc dù vậy, nhập siêu vẫn ở mức độ cho phép chưa gây ra những ổn định lớn với ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là khả năng trả nợ của Việt Nam. Hai là, tỷ lệ hàng hóa nhập siêu tăng dần qua các năm. Tuy vậy, mặt hàng nhập siêu hầu hết là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho nhu cầu đầu tư của nhà nước và các doanh nghiệp. Kinh nghiệm các nước cho thấy nếu nhập siêu là để tăng đầu tư trong nước thì hoàn toàn có thể kỳ vọng vào khả năng tăng trưởng năng lực sản xuất và tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Nhìn dưới góc độ này, có thể nói nhập khẩu cao là một dấu hiệu tích cực của nền kinh tế. Ở Việt Nam, khi tình hình tài chính tiền tệ diễn biến có lợi cho cung ứng ngoại tệ thì tranh thủ nhập khẩu để đầu tư cũng là một hành động cần thiết. Tuy nhiên, có thể thấy rằng tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu thô, bán thành phẩm rất cao (trên 60% giai đoạn 1991 - 2001) TS. Vũ Hùng Dũng, Ngoại thương Việt Nam từ 1991 – 2000: những thành tựu và suy nghĩ, 2002 . Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị quá thấp (bình quân 28,7% giai đoạn 1991 – 2001 và 27% giai đoạn 2001 – 2005) Tổng cục thống kê , so với các nước tiến hành công nghiệp hóa số lượng phát minh sáng chế còn rất hạn chế. Thực tế này đã làm chậm lại quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, lý do là công nghệ chậm được đổi mới. Mặt khác, tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị cũng như phát minh sáng chế thấp khiến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp, hàng hóa Việt Nam khó cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài cả ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Đồng thời, sự phụ thuộc quá mức hiện nay của Việt Nam vào nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu sẽ làm gia tăng mức độ rủi ro xuất khẩu bởi đây là nhóm hàng có độ co giãn về giá cao, dễ biến động khi môi trường kinh tế thay đổi. Tất cả các yếu tố trên đều góp phần làm cho việc cải thiện Cán cân thương mại trong dài hạn gặp nhiều khó khăn. Ba là, một điểm đáng lưu tâm là hiện tượng nhập siêu của Việt Nam đều tập trung chủ yếu tại khu vực doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước (đặc biệt là các doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài như dệt may, giày da, gỗ và các sản phẩm từ gỗ…). Hơn nữa, nhiều mặt hàng tiêu dùng trong nước có khả năng sản xuất vẫn được nhập khẩu. Dù khu vực vốn đầu tư nước ngoài có xuất siêu cũng không bù lại được lượng nhâp siêu của khu vực kinh tế trong nước. Trong giai đoạn 2001 – 2008, xuất khẩu ròng (tính cả xuất khẩu dầu thô) của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào khoảng 20,492 tỷ USD nhưng nhập siêu của các doanh nghiệp trong nước lên tới 53,524 tỷ USD, do vậy tính tổng thể Cán cân thương mại của ta vẫn bị thâm hụt khá lớn và tỷ lệ nhập siêu của nước ta so với kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 25% (xem bảng dưới). Bảng 12: Tình hình nhập siêu theo nhóm chủ thể nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn gần đây Đơn vị: tỷ USD Năm/chủ thể nhập khẩu 2005 2006 2007 Giai đoạn 2001- 2008 I. Các doanh nghiệp có vốn FDI Xuất khẩu: Tính cả xuất khẩu dầu thô 18.553 23.013 27.776 86.356 Không tính xuất khẩu dầu thô 11.180 14.749 19.288 56.570 Nhập khẩu: 13.640 16.489 21.715 65.864 Xuất khẩu ròng: Tính cả xuất khẩu dầu thô +4.913 +6.524 +6.061 +20.492 Không tính xuất khẩu dầu thô -2.460 -1.740 -2.427 -9.249 Tỷ lệ xuất siêu so với kim ngạch XK (%) 26,5 28,3 21,8 23,7 II. Các doanh nghiệp trong nước: Xuất khẩu 13.889 16.813 20.785 65.090 Nhập khẩu 18.425 28.402 40.967 118.614 Xuất khẩu ròng -4.536 -11.589 -20.182 -53.524 Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch XK (%) 32,6 68,9 97,1 82,2 III. Tổng số (I+ II) Xuất khẩu 32.442 39.826 48.561 151.445 Nhập khẩu 36.978 44.891 62.682 189.390 Xuất khẩu ròng -4.536 -5.065 -14.121 -37.945 Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch XK (%) 19,3 12,7 29,1 25 Nguồn: Trang Thông tin thương mại Việt Nam – Bộ Công Thương Bốn là, thâm hụt Cán cân thương mại thể hiện khả năng cạnh tranh thấp của hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu được sản xuất trong nước. Điều này thể hiện trước hết là tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là về lượng, yếu tố giá trị gia tăng chưa phải là đặc trưng của hàng hóa xuất khẩu của nước ta. Có thể lấy ví dụ điển hình là nhóm hàng nông sản, khối lượng xuất khẩu khá lớn nhưng chủ yếu là xuất thô với mức giá thấp hơn nhiều so với các sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Trung Quốc. Các sản phẩm chế biến như điện tử, dệt may, da giày có giá thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc. Nhóm hàng công nghệ cao gần như chưa có. Khả năng cạnh tranh thấp của hàng hóa xuất khẩu khiến chất lượng tăng trưởng xuất khẩu thấp và không ổn định. Việt Nam cần nhập nhiều nguyên vật liệu, phụ liệu, bán thành phẩm bởi chất lượng của nhóm hàng này sản xuất trong nước là khá thấp. Xuất khẩu chưa thể tăng đủ để bù đắp thâm hụt Cán cân thương mại, trong khi đó vẫn phải tăng nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị để phục vụ sản xuất tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Yếu kém về khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và thay thế nhập khẩu là một trong những thách thức to lớn của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khi hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong giai đoạn 2001 – 2008 đã có sự thuận chiều giữa gia tăng mức nhập siêu với thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam và tác động mạnh đến Cán cân thanh toán tổng thể. Dự kiến tổng mức nhập siêu giai đoạn 2001 – 2008 vào khoảng 57,032 tỷ USD, chiếm 78,6% tổng mức thâm hụt tài khoản vãng lai (72,5 tỷ USD) và bằng khoảng 13,8% tổng GDP của cả giai đoạn. Bảng 13: Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2008 Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại – Bộ Công Thương, Thông tin thương mại Việt Nam, Đơn vị: triệu USD Năm Cán cân tài khoản vãng lai Cán cân tài khoản vốn Sai số thống kê và bỏ sót Cán cân thanh toán quốc tế XK hàng hóa ròng XK dịch vụ ròng Thu nhập thuần túy từ nước ngoài Cán cân tài khoản vãng lai FDI thuần FPI thuần ODA thuần Cán cân vốn 2001 -1135 -572 -420 -2127 +1638 - +1500 +3138 ±5% +1011 2002 -3027 -750 -564 -4341 +1038 - +1528 +2566 ±5% -1775 2003 -5062 -778 -630 -6470 +1029 - +1422 +2415 ±5% -4019 2004 -5449 -872 -850 -7171 +1013 - +1650 +2753 ±5% -4418 2005 -4536 -1106 -1030 -6669 +1744 - +1787 +3531 ±5% -3138 2006 -5065 -1179 -1314 -7558 +4312 +3000 +2360 +9672 ±5% +2114 2007 -14121 -367 -1886 -16374 +5900 +6200 +2o60 +14766 ±5% -1068 2008-ƯT Số liệu ước tính -18640 -640 -2500 -21780 +10000 - +3000 +13000 ±5% -8780 2001-2008 -57032 -6204 -9194 -72495 +26764 +9200 +15907 +51875 ±5% -20626 Nguồn: Trang thông tin thương mại Việt Nam – Bộ Công Thương Nhìn vào bảng trên ta thấy trong giai đoạn 2001 – 2008 đã diễn ra tình trạng thâm hụt kép cả Cán cân thương mại hữu hình và Cán cân thương mại vô hình. Tổng mức thâm hụt Tài khoản vãng lai cộng dồn của cả giai đoạn sẽ vào khoảng 72,5 tỷ USD (khoảng 17,6% GDP). Trong đó thâm hụt Cán cân thương mại hữu hình chiếm khoảng 76,8%, thâm hụt Cán cân thương mại vô hình chiếm 21,4% trong đó thâm hụt cán cân dịch vụ chiếm 8,64% và thâm hụt cán cân thu nhập chiếm 12,68%. Ngoài ra năm 2008 ước tính mức nhập siêu chiếm tới 57,4% tổng mức nhập siêu của cả giai đoạn và sẽ tác động mạnh đến thâm hụt cán cân Tài khoản vãng lai trong giai đoạn này. Thực tế này đặt ra một vấn đề cấp bách trong điều tiết nền kinh tế vĩ mô là phải đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm kiềm chế nhập siêu, cải thiện Cán cân thương mại và đây là việc làm có ý nghĩa quyết định đến việc cải thiện cán cân Tài khoản vãng lai. 3. Ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá đến Cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua Từ tháng 2/1999, Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt có sự điều chỉnh của nhà nước. Với phương châm linh hoạt trong ngắn hạn, ổn định trong dài hạn nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tỷ giá hối đoái đã có những tác động nhất định nhằm cải thiện Cán cân thương mại và Tài khoản vãng lai. Bảng 14: Tỷ giá hối đoái VND/USD, xuất nhập khẩu, Cán cân thương mại và Tài khoản vãng lai của Việt Nam giai đoạn 1999 – 2008 Đơn vị: triệu USD 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tỷ giá Tỷ giá VND/USD 13941 14170 14806 15244 15638 15774 15907 16008 16003 17486 XK 11540 14449 15027 16706 20149 26485 32447 39826 48581 62906 NK 10460 14071 14400 17760 22730 28772 34886 42602 58921 75189 Cán cân thương mại 1080 378 627 -1054 -2582 -2287 -2439 -2776 -10360 -12284 Tài khoản vãng lai 1252 642 670 -676 -1935 -1565 -560 -164 -6992 -9238 Nguồn: Tổng hợp từ Vietnam Statistical Appendix của IMF và Tổng cục Thống kê Nhìn vào bảng trên ta thấy tỷ giá VND/USD trong giai đoạn này luôn biến động tăng, tức giá VND giảm dần. Hướng biến động này của tỷ giá hối đoái đã tác động tích cực đến khối lượng xuất khẩu của Việt Nam, kết quả là trong suốt giai đoạn này xuất khẩu luôn tăng. Trong giai đoạn đầu sau khi áp dụng chính sách tỷ giá mới, Chính phủ và các doanh nghiệp đã có những nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu, nền kinh tế trong khu vực đã phục hồi sức mua và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam bắt đầu lên giá trên thị trường quốc tế (đặc biệt là dầu thô). Bước sang năm 2000, mặc dù tỷ giá VND/USD tăng không nhiều nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng khoảng 25% so với năm trước đó. Nguyên nhân chính là do những thay đổi tích cực trong cơ chế điều hành xuất khẩu và sự nới lỏng chính sách thắt chặt nhập khẩu được thực hiện từ năm 1997. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến một yếu tố khách quan là sự tăng giá của một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. Bảng 15: Mức thay đổi của tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá hối đoái danh nghĩa hàng năm giai đoạn 2001 – 2007 (%) 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tỷ giá danh nghĩa 2.2 -4.4 -9.4 -6.7 -1.8 -1.7 -4.1 Tỷ giá thực 0.1 -1.8 -7.9 -1.3 4.3 3.8 1.0 Nguồn: tổng hợp từ IMF Staff Country Report No.09/110 và No.07/386 Trong giai đoạn từ 2002 – 2006, Chính phủ rất ít chỉ có hai lần thay đổi biên độ dao động tỷ giá hối đoái. Lần thứ nhất là vào 1/7/2002, biên độ dao động được điều chỉnh tăng từ ±0,1% lên ±0,25%. Sau đó vào 31/12/2006 là từ ±0,25 lên ±0,5%. Tuy vậy, tỷ giá danh nghĩa vẫn tăng khá mạnh. Trong năm 2003, mức tỷ giá danh nghĩa tăng 9,4% tương ứng với 7,9% mức tăng trong tỷ giá thực tế. Xuất khẩu trong năm này cũng khoảng hơn 20% so với năm 2002. Sang đến năm 2003, trong khi mức tỷ giá danh nghĩa và mức tỷ giá thực tăng lần lượt là 6,7% và 1,3% thì xuất khẩu của nước ta lại tăng tới 31% so với năm trước. Tuy vậy, đi kèm với xuất khẩu tăng, kim ngạch nhập khẩu cũng tiếp tục tăng cao nên dù tình hình xuất khẩu được cải thiện thì Cán cân thương mại vẫn ở trong tình trạng thâm hụt. Nhìn vào số liệu trong bảng cho thấy tốc độ tăng nhập khẩu nhanh hơn xuất khẩu, do đó tình trạng thâm hụt Cán cân thương mại của Việt Nam là ngày càng trầm trọng. Nếu năm 2002 con số thâm hụt của Cán cân thương mại nước ta là 1054 triệu USD thì đến năm 2006 con số này là 2776 triệu USD. Ta cũng nhận thấy tỷ giá tăng không ảnh hưởng nhiều đến tình hình nhập khẩu của Việt Nam. Trên lý thuyết, khi tỷ giá thực tăng (giá trị thực của đồng nội tệ giảm) sẽ hạn chế nhập khẩu do giá cả hàng nhập khẩu đắt lên một cách tương đối. Tuy vậy, thực tế cho thấy lý thuyết này không áp dụng cho Việt Nam vì khi tỷ giá giảm thì nhập khẩu Việt Nam vẫn tăng đều cả về giá trị và khối lượng. Một trong những nguyên nhân giải thích cho thực tế này là do nhu cầu nhập khẩu của nước ta bị chi phối bởi nhu cầu rất lớn của một nền kinh tế đang phát triển. Phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của nước ta là mặt hàng tư liệu sản xuất cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hơn nữa, khả năng sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu của nhà sản xuất trong nước còn rất hạn chế. Bảng 16: Cơ cấu hàng nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2003 – 2007 (Tổng kim ngạch nhập khẩu = 100) Chỉ tiêu/Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Tư liệu sản xuất 92,2 93,3 91,9 92,2 91,9 Máy móc thiết bị 31,6 28,8 25,3 24,6 27,7 Nguyên nhiên vật liệu 60,6 64,5 66,6 67,6 64,2 Hàng tiêu dùng 7,8 6,7 8,1 7,8 8,1 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam, Niên giám thống kê 2007 Bên cạnh đó, mặc dù tỷ giá danh nghĩa của Việt Nam luôn giảm trong thời gian qua nhưng từ năm 2005 tỷ giá thực của VND lại có xu hướng tăng giá (xem bảng). Có thể nói VND vẫn bị định giá cao hơn giá trị thực của nó cũng là một nguyên nhân làm tăng giá trị nhập khẩu của Việt Nam. Nhìn chung, trong thời gian qua tỷ giá danh nghĩa của VND luôn có xu hướng tăng (giảm giá) và điều này đã có những tác động tích cực đến tình hình xuất khẩu trong nước nhưng lại không có nhiều ảnh hưởng đến tình hình nhập khẩu khiến Cán cân thương mại và Tài khoản vãng lai vẫn trong tình trạng thâm hụt và thâm hụt có xu hướng tăng lên dù không quá lớn. Theo số liệu ước tính của Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 của Việt Nam ước đạt gần 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tuy nhiên, tình hình xuất nhập khẩu trong năm 2008 gặp khá nhiều khó khăn và biến động do một số nguyên nhân nổi bật như tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, mức giá biến động mạnh (leo thang trong 9 tháng đầu năm sau đó là thoái trào), nhiều lần điều chỉnh thuế nhập khẩu các mặt hàng để thực hiện cam kết gia nhập WTO của Chính phủ và một phần không nhỏ là tác động của chính sách tỷ giá trong năm này. Nếu như từ năm 2002 đến 2006 Chính phủ chỉ điều chỉnh nới rộng biên độ tỷ giá hai lần thì từ 24/12/2007 đến 7/11/2008 Chính phủ đã bốn lần mở rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái. Như vậy chỉ trong vòng 1 năm biên độ dao động của tỷ giá hối đoái đã tăng từ mức xung quanh 0,5% lên đến 3%. Đi kèm với nó là tỷ giá USD/VND tăng khoảng 9% so với cuối năm 2007, vượt xa mức thay đổi quanh 1% so với những năm gần đây trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế của Việt Nam (khoảng 70%). Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến. Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Có thể nói chính sách điều chỉnh tỷ giá của Chính phủ trong năm 2008 trở nên nổi bật với vai trò kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu khi biên độ tỷ giá luôn được nới rộng và tăng mạnh. II. Một số quan điểm về việc phá giá đồng VND trong thời điểm hiện tại 1. Quan điểm ủng hộ phá giá mạnh đồng VND Thứ nhất, do ảnh hưởng của cung cầu ngoại hối, nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu dự báo giảm mạnh. Số liệu về xuất khẩu trong tháng 1/2009 cho thấy nhiều vấn đề đáng lo ngại đối với bức tranh xuất khẩu. So với tháng 1 cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu đã giảm 24% về giá trị. Bên cạnh đó, số liệu không khả quan về FDI tháng 1 cũng dự báo một năm khó khăn về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, nguồn thu kiều hối trong xu thế kinh tế thế giới suy thoái cũng được dự báo không khả quan. Đây là 3 nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Việt Nam, quyết định khá lớn trong cán cân cung cầu ngoại hối. Thứ hai, với mục đích hỗ trợ xuất khẩu, tỷ giá có thể được điều chỉnh tăng theo sự chủ động điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay, giá trị xuất khẩu chiếm đến 70% GDP của Việt Nam, và nền kinh tế cũng khá mở với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương 1,7 lần GDP. Tỷ giá do vậy là công cụ rất quan trọng để kích thích tăng trưởng. Ngoài ra, so với các đồng tiền khác trong khu vực cũng có xu hướng mất giá so với USD (chẳng hạn Rupi của Ấn Độ mất giá 18%, Rupiah của Indonesia mất giá 14%, Peso của Philipinnes mất giá 13%), việc tăng tỷ giá sẽ giúp Việt Nam tiếp tục duy trì sức cạnh tranh với những nước này. Thứ ba, chính sách kích cầu của Chính phủ sẽ đi kèm với nới lỏng hơn tiền tệ, và như vậy đã làm yếu đồng VND một cách tương đối so với USD do cung tiền đồng tăng lên. Bên cạnh đó, nguồn vốn để kích cầu nếu có sử dụng nguồn từ dự trữ ngoại hối, cũng sẽ gây áp lực lên dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Trong bối cảnh nguồn thu giảm mạnh (xuất khẩu dầu thô giảm mạnh) và tình trạng bội chi kéo dài, áp lực này có thể làm tăng tỷ giá. Thứ tư, áp lực tiếp tục rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh suy thoái kinh tế là khó tránh khỏi, trong đó có cả các nguồn vốn đầu tư gián tiếp. Theo một nguồn ước đoán, số vốn nước ngoài đầu tư cả cổ phiếu và trái phiếu tại Việt Nam hiện khoảng còn từ 3-4 tỷ USD (so với hồi đỉnh cao 8-9 tỷ USD). Nếu tình trạng ảm đạm của đầu tư chứng khoán tại Việt Nam không cải thiện, số vốn này có thể được dần rút ra, gây áp lực lên tỷ giá. Về cơ bản, tỷ giá có thể có xu hướng tăng theo các lý do trên. Tuy nhiên, các vấn đề tăng do mất cân đối cung cầu nghiêm trọng, khủng hoảng tâm lý... sẽ không xảy ra, mà nằm chủ yếu ở sự điều hành có chủ ý của và chủ động của Ngân hàng Nhà nước. 2. Quan điểm phản đối phá giá mạnh đồng VND Thứ nhất, mặc dù xuất khẩu giảm, song nhập khẩu cũng giảm theo. Số liệu tháng 1 cho thấy mức nhập siêu chỉ là 300 triệu USD, thấp nhất trong vòng 1 năm qua. Bức tranh nhập siêu giảm mạnh đầu năm 2009 có điểm khác so với đầu năm 2008, khi mà nhập khẩu tăng mạnh do các doanh nghiệp nhập dự trữ và được hưởng nguồn tín dụng dồi dào. Khác với năm 2008, hiện nay doanh nghiệp xuất khẩu và khối sản xuất đều đang trên con đường tìm lại đầu ra. Do vậy xu thế nhập siêu giảm này có lẽ sẽ còn kéo dài trong nhiều tháng tiếp theo của năm 2009. Giảm được nỗi lo nhập siêu là yếu tố căn bản loại bỏ được phần lớn mối đe doạ mất cần đối cung cầu ngoại tệ. Thứ hai, khác với trước đây, khi lạm phát còn cao, tỷ giá có áp lực tăng để hạn chế sự suy giảm của tỷ giá thực, nâng cao sức cạnh tranh cho xuất khẩu Việt Nam, thì hiện nay, lạm phát đã hạ nhanh và tiếp tục cho thấy xu thế hạ ít nhất đến giữa năm 2009. Do vậy áp lực giảm tỷ giá được giảm bớt. Thứ ba, mặc dù vẫn còn có nguy cơ các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục rút vốn trên thị trường chứng khoán, tuy nhiên lượng vốn đã rút ra khá nhiều trong năm 2008 nên áp lực rút vốn còn lại không nhiều (theo một nguồn ước tính số lượng chứng khoán mà nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ khoảng 3- 4 tỷ USD so với hồi đỉnh cao 8-9 tỷ USD). Thứ tư, mặc dù lạm phát vẫn đang trong giai đoạn giảm, tuy nhiên nguy cơ mặt bằng giá cả các mặt hàng có khả năng tăng trở lại trong nửa cuối năm 2009. Rủi ro lạm phát tăng trở lại có thể khiến chính sách điều chỉnh tăng tỷ giá có thể sẽ trở nên thận trọng hơn, do tỷ giá tăng sẽ làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu, đẩy lạm phát tăng cao. 3. Quan điểm về phá giá đồng VND dựa trên những phân tích về hiệu ứng tuyến J Qua phân tích hiệu ứng tuyến J trong thực tiễn phá giá tại ba quốc gia Mexico, Thái Lan và Trung Quốc cho thấy một số điểm như sau. Thứ nhất, cả ba quốc gia này đều thu được lợi ích từ việc phá giá đồng nội tệ của mình. Kết quả là Cán cân thương mại và Cán cân Tài khoản vãng lai được cải thiện đáng kể sau khi phá giá, tình hình xuất nhập khẩu có những biến động tích cực theo hướng tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu. Thứ hai, có thể khẳng định cả ba quốc gia này (đặc biệt là Trung Quốc) đều phá giá đúng theo bản chất của hiệu ứng tuyến J. Chỉ có một điểm đặc biệt là thay vì Cán cân Tài khoản vãng lai xấu đi trong giai đoạn đầu sau khi phá giá (theo lý thuyết trung bình các quốc gia cần khoảng 6 tháng để chính sách phá giá phát huy tác động) thì Cán cân Tài khoản vãng lai tại các quốc gia này lại được cải thiện ngay lập tức do nhiều điểm đặc biệt trong về xuất nhập khẩu của các quốc gia này và thời điểm nó tiến hành phá giá. Sau đó, tình hình Cán cân Tài khoản vãng lai vẫn được duy trì ở mức độ tốt hơn nhiều so với trước thời điểm phá giá. Như vậy, về mặt bản chất thực tiễn phá giá tại các quốc gia này cho thấy trong dài hạn phá giá chắc chắn sẽ giúp cải thiện tình hình Cán cân Tài khoản vãng lai và góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Thứ ba, mặc dù có những tác động tích cực nhưng trong ngắn hạn nền kinh tế sau khi phá giá cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực từ phá giá như lạm phát tăng cao, nền kinh tế có dấu hiệu mất ổn định và tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể giảm. Nếu các nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra những chính sách hợp lý để hạn chế những tác động tiêu cực này thì phá giá có thể là một thành công lớn (điển hình là trường hợp phá giá của Trung Quốc năm 1994). Từ những thực tế trên cho thấy nếu phá giá mạnh đồng VND trong thời điểm hiện tại Việt Nam sẽ có nhiều khả năng phải đối mặt với một số khó khăn trong ngắn hạn trước khi phá giá có thể phát huy hiệu quả của nó. Trong thời điểm nền kinh tế toàn cầu đang khủng hoảng như hiện nay, Việt Nam có thể điều chỉnh được nền kinh tế thoát khỏi những tác động tiêu cực ban đầu của phá giá và tình hình xuất nhập khẩu cũng như Cán cân Tài khoản vãng lai có thể được cải thiện trong dài hạn vẫn còn cần những nghiên cứu sâu hơn về các điều kiện kinh tế của nước ta cũng như thế giới trong hiện tại. Bên cạnh đó một chính sách phá giá hợp lý cùng khả năng đề ra những chính sách kinh tế khác có thể hạn chế tác động tiêu cực của phá giá cũng là một điểm khác mà các nhà hoạch định chính sách cần đặc biệt lưu tâm khi xem xét vấn đề phá giá của quốc gia. Trong thời điểm hiện tại nếu Việt Nam phá giá vẫn chưa thể đảm bảo thành công, đồng thời chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta trong giai đoạn gần đây cũng đã liên tục được điều chỉnh để sát hơn với mức tỷ giá thực tế của thị trường. Do vậy, phá giá mạnh VND là một hành động không cần thiết. III. Khuyến nghị các điều kiện để Việt Nam có thể phá giá thành công VND 1. Hình thành một chế độ điều hành tỷ giá mềm dẻo, linh hoạt Từ thực tiễn ba nước ở đã nghiên cứu ở trên ta thấy các quốc gia này bắt buộc phải phá giá tiền tệ sau khi nền kinh tế đã rơi vào khủng hoảng mà một trong những nguyên nhân chính là do chính sách tỷ giá cứng nhắc, không phản ánh đúng tình trạng cung – cầu trên thị trường. Mặc dù Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm từng bước hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái nhưng hiện nay Việt Nam vẫn chưa hình thành được việc chuyển đổi tiền tệ một cách tự do trên cán cân Tài khoản vãng lai; do vậy trong tương lai để duy trì Cán cân thương mại ổn định, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế thì Việt Nam buộc phải từng bước thực hiện việc tự do hóa giao dịch ngoại hối và các luồng luân chuyển vốn. Muốn quá trình này được thực hiện thành công thì chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam cũng phải chuyển đổi cho phù hợp với các chính sách kinh tế mới. Tuy nhiên, việc này cũng có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng luồng chu chuyển vốn chảy vào và chảy ra khỏi nền kinh tế quá nhanh khiến tỷ giá hối đoái mất ổn định. Do đó, chỉ bằng cách hình thành một chế độ tỷ giá hối đoái đa ngoại tệ mềm dẻo, linh hoạt dựa trên một rổ ngoại tệ có tính toán kỹ càng đến quan hệ với Cán cân thương mại, Tài khoản vãng lai và Cán cân thanh toán, đầu tư nước ngoài, nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối…thì nền kinh tế Việt Nam mới duy trì được sự ổn định và phát triền bền vững. Để thực hiện được điều đó, ta cần có một số biện pháp như sau: Tôn trọng quy luật thị trường bằng cách từng bước để thị trường cân đối cung – cầu ngoại tệ và tỷ giá. NHNN chỉ nên can thiệp vào thị trường ngoại hối khi có các biến động tiêu cực do hành vi đầu cơ gây ra. Tạo lộ trình cần thiết để tiến tới tự do hóa Tài khoản vãng lai, song song với việc chuyển đối sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Để thực hiện điều này cần có một nền kinh tế đủ “mở” với thế giới. Nói cách khác, việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái cần phù hợp với trình độ phát triển và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam cần tính và công bố chính thức một chế độ tỷ giá thực đa biên của VND so với các ngoại tệ khác trên cơ sở xây dựng một rổ tiền tệ hợp lý, hài hòa với các mối quan hệ thương mại, đầu tư và vay nợ. Để thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn thì tỷ giá thực phải được điều chỉnh để đạt được hiệu quả như mong muốn mà công việc khó khăn và quan trọng nhất là duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định trong một thời gian dài. Thực hiện đồng thời và kết hợp chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt với các chính sách khác như tự do hóa thương mại, cải thiện cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu và nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, phải giảm dần tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thô, tăng dần tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng tinh và đã qua chế biến. Về chất lượng của hàng hóa xuất khẩu, trong lộ trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới Việt Nam cần nới lỏng một cách hợp lý và tiến tới xóa bỏ các biện pháp bảo hộ mậu dịch như thuế quan, hạn ngạch, trợ giá…để nâng cao ý thức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đổi mới hình thức quản lý và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, chủ động tiến hành xúc tiến thương mại. Đối với hệ thống ngân hàng cần lành mạnh hóa các hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến thanh toán quốc tế và kiểm soát giao dịch ngoại tệ. NHNN cần nâng cao và hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái, trước hết là cần phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tiếp đến phát triển các thị trường phái sinh để đa dạng hóa các công cụ phòng tránh rủi ro tỷ giá. Sử dụng có hiệu quả hơn hai công cụ quan trọng của chính sách tỷ giá hối đoái là lãi suất và quỹ dự trữ ngoại hối, tiến tới giảm thiểu các biện pháp quản lý tỷ giá hành chính như quy định về trạng thái ngoại hối của các ngân hàng thương mại. NHNN Việt Nam cần theo dõi sự biến động của lạm phát, lãi suất tín dụng trong nước một cách chặt chẽ trước khi thực hiện phá giá. Đồng thời cũng cần nắm bắt được cơ cấu nợ nước ngoài trong nền kinh tế, tìm hiểu ai sẽ được lợi, ai sẽ bị thiệt, những yếu tố nào sẽ bị tác động khi tuyên bố phá giá tiền tệ. Chính phủ nên đưa ra quyết định phá giá vào thời điểm lượng hàng nhập khẩu dự trữ được càng nhiều càng tốt vì số hàng này được nhập khẩu theo tỷ giá hối đoái cũ, do vậy sẽ giảm được hiệu ứng giá lên nền kinh tế, góp phần hạn chế lạm phát. Đồng thời hàng nhập khẩu để phục vụ nhu cầu tiêu dùng cuối cùng sẽ tăng giá theo đúng mức phá giá trong khi hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất sẽ chỉ làm tăng giá thành sản phẩm sản xuất trong nước. 2. Tạo khả năng chuyển đổi cho đồng VND Khả năng chuyển đổi của đồng tiền không chỉ ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái mà còn ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, ngoại thương giữa các quốc gia trên thế giới và tiến trình hội nhập của các nền kinh tế riêng lẻ với nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời, đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi là yếu tố giúp củng cố lòng tin của người dân vào sức mua của đồng tiền nói riêng và vào Chính phủ nói chung. Để nâng cao giá trị VND, NHNN nên thực hiện việc tự do chuyển đổi VND mà trước mắt là trên Tài khoản vãng lai. Khi nền kinh tế phát triển, quỹ dự trữ dồi dào, Chính phủ có thể tiến hành tự do chuyển đổi tiền tệ trong giao dịch vốn và các giao dịch khác. Cụ thể là: Chính phủ phải có một chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh như chính sách tài chính đối nội vừa đảm bảo sự phát triển nền sản xuất trong nước vừa cải thiện Cán cân thương mại, vừa mở đường cho việc chuyển đổi đồng tiền. Ngược lại, đồng tiền chuyển đổi tự do sẽ giúp cho quá trình cải cách thông suốt, bởi đồng tiền mạnh cộng với chế độ tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ giúp Cán cân thương mại ổn định và tạo ra các nhân tố kích thích thị trường , tạo điều kiện phát triển kinh tế. Cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và của quốc gia nói chung. Phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ. Nguồn ngoại tệ dồi dào sẵn sàng thỏa mãn các nhu cầu ngoại tệ hợp lý sẽ củng cố lòng tin của công chúng vào giá trị đồng nội tệ và là tác nhân quan trọng đẩy nhanh tiến độ tự do hóa trong chuyển đổi tiền tệ. Ngoài ra, Chính phủ cần đặc biệt quan tâm đến các giải pháp kích thích kinh tế như hiện đại hóa nền sản xuẩt trong nước, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp, xử lý các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… 3. Hạn chế tình trạng đô la hóa Cần hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế vì nền kinh tế có tỷ lệ đô la hóa cao thường lâm vào tình trạng bất ổn định do NHTW không chủ động được trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng và lưu thông trong nền kinh tế. Sự bất ổn định của các nền kinh tế bị đô la hóa cao ở Nam Mỹ là những minh chứng sống động cho kết luận này. Đã có những thời kỳ nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng đô la hóa nghiêm trọng như giai đoạn 1997 – 1999. Tuy nhiên, Chính phủ đã có những giải pháp kịp thời để giảm tỷ lệ đô la hóa ở nước ta, duy trì chênh lệch dương giữa lãi suất tiền gửi VND và USD, hạn chế việc cho các tổ chức trong nước gửi tiền ra nước ngoài, không cho phép các cá nhân mang quốc tịch Việt Nam được gửi tiền bằng ngoại tệ tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. 4. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định Để duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, không gây ra những biến động lớn có tác động tiêu cực đến nền kinh tế thì điều kiện tiên quyết là phải có được một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Khi cơ chế tỷ giá ngày càng mang nhiều yếu tố thị trường, hàm lượng các nhân tố thị trường ngày càng tăng lên cũng đồng nghĩa với việc rủi ro biến động tỷ giá sẽ tăng lên nếu môi trường kinh tế vĩ mô thường xuyên bất ổn. Đối với Việt Nam, tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, không chỉ do điểm xuất phát của nước ta còn thấp, phải tăng trưởng nhanh chóng để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về mặt kinh tế, để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển mà còn là tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế xã hội khác như chống lạm phát, giảm thất nghiệp, cải thiện Cán cân thanh toán quốc tế, thặng dư ngân sách, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa, xóa đói giảm nghèo… Chính vì vậy chúng ta cần duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững, tăng trưởng nhanh nhưng phải đề phòng những hậu quả do tăng trưởng nóng gây ra, chú trọng cải thiện nền sản xuất cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Trong những năm qua chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao thứ nhì Châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Nếu tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng này thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách phá giá nội tệ trong tương lai. 5. Kiểm soát lạm phát Hầu hết các cuộc phá giá tiền tệ ở các nước đều đi kèm với tỷ lệ lạm phát tăng cao. Chính vì vậy chúng ta cần giữ lạm phát ở mức một con số, tránh để nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao và kéo dài. Thực tế phá giá ở các nước cho thấy sau khi phá giá thường xảy ra lạm phát cao do vậy nếu trước khi phá giá xuất phát điểm của nền kinh tế là ở mức lạm phát thấp thì sẽ có lợi hơn, mặc dù việc chống lạm phát sau khi phá giá phụ thuộc vào chủ yếu là khả năng can thiệp bằng các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, mức cung tiền của Chính phủ… Phá giá và tăng giá sẽ tạo ra những chu kỳ lạm phát gia tăng trong nền kinh tế do vậy Chính phủ và NHNN cần phải có các chính sách và biện pháp ngăn chặn kịp thời sự bùng lên của lạm phát, nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của phá giá. Điều quan trọng là Chính phủ phải củng cố lòng tin của người dân vào giá trị đồng nội tệ, đồng thời có các biện pháp để tránh hiểu lầm phá giá đồng nghĩa với lạm phát. Chính phủ Việt Nam đặc biệt là Bộ Tài Chính cần theo dõi chặt chẽ biến động của giá cả và các hành vi của doanh nghiệp và người tiêu dùng để tránh hiện tượng đầu cơ. Đồng thời, phải dự báo ngay được mức độ thâm hụt ngân sách sau phá giá và thâm hụt ngân sách đó được tài trợ bằng nguồn vốn có sẵn để hạn chế nguy cơ xảy ra vòng xoay phá giá – lạm phát – phá giá. 6. Kiểm soát vay nợ nước ngoài Để phá giá thành công chúng ta cần đảm bảo kiểm soát tỷ lệ và cơ cấu vay nợ nước ngoài ba gồm cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn một cách hợp lý. Bài học từ các quốc gia Mexico, Thái Lan và Argentina đều cho thấy phá giá trong bối cảnh khủng hoảng nợ sẽ dẫn tới sự sụp đổ của cả nền kinh tế và hệ thống tài chính. Trong thực tế, các nước đang phát triền như Việt Nam có nhu cầu về nguồn vốn ban đầu để phục vụ phát triển kinh tế là rất lớn, nhưng thường thì nguồn vốn trong nước không đủ để đáp ứng nên một giải pháp thường được các quốc gia lựa chọn là đi vay nợ nước ngoài. Nhưng về lâu dài thì đây là những khoản nợ nên tất yếu là phải trả. Vì vậy, khi lượng nợ nước ngoài đang ở mức hợp lý thì nên tiến hành phá giá nhằm cải thiện Cán cân thương mại nói riêng, Tài khoản vãng lai nói chung từ đó tạo nguồn thu ngoại tệ để có thể vừa có đủ ngoại tệ trả nợ, vừa có nguồn vốn tự có của nền kinh tế để phát triển bền vững. Hiện nay, tỷ lệ nợ nước ngoài trong nền kinh tế nước ta là khá cao do vậy khi quyết định tiến hành phá giá cần được cân nhắc trước khi nợ nước ngoài lâm vào tình trạng nguy hiểm. Có như vậy phá giá mới phát huy hết tác dụng trở thành đòn bẩy cho phát triển ngoại thương nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. 7. Kiểm soát chi tiêu Chính phủ Thực tế sau khi phá giá thường xảy ra lạm phát cao, do vậy muốn kiềm chế lạm phát thì phải đi kèm với chính sách tài khóa thắt chặt. Muốn làm được điều này cần có sự kiểm soát và lên kế hoạch tốt cho ngân sách nhà nước, đảm bảo cân bằng ngân sách nhà nước trong khả năng có thể đồng thời thâm hụt ngân sách phải được bù đắp chủ yếu bằng nguồnvốn trong nền kinh tế chứ không phải vay nợ từ nước ngoài. Thực tế ngân sách nhà nước của nước ta luôn trong tình trạng thâm hụt, đồng thời việc sử dụng ngân sách chưa được hiệu quả. Do vậy trong thời gian tới ta cần: Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, nên tập trung có trọng điểm vào các công trình hạ tầng cơ sở phục vụ cho sản xuất và giao thông vận tải. Cần đánh giá một cách chính xác về hiệu quả kinh tế mà công trình đem lại trong tương quan với chi phí vốn bỏ ra, từ đó đưa ra quyết định có nên đầu tư hay không. Kiên quyết không bố trí vốn cho các công trình, dự án, chương trình mục tiêu quốc gia không đủ điều kiện, thủ tục theo quy định của pháp luật. Khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát trong xây dựng cơ bản. Mỗi dự án đầu tư cần được thẩm định chính xác về tổng chi phí bỏ ra, tương ứng với những yêu cầu về chất lượng. Tiếp đó tiến hành đấu thầu công khai để lựa chọn nhà thầu với chi phí thấp nhất và chất lượng cao nhất. Đồng thời cũng phải kiểm tra chất lượng công trình hoàn toàn, xem có đúng yêu cầu đưa ra hay không. Chống hiện tượng tiêu xài lãng phí, phô trương hình thức như xây dựn trụ sở tốn kém, mua ô tô đắt tiền vượt quy định, chi kỷ niệm, lễ hội, đón nhận Huy chương…nhằm tiết kiệm chi ngân sách dành cho đầu tư. Quản lý chặt chẽ nguồn vốn ngân sách cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh. Kiên quyết không bù lỗ từ ngân sách cho các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, mà với các doanh nghiệp này nên thực hiện cổ phần hóa hay cho giải thể. Tránh việc nhập nhằng giữa chức năng kinh doanh và chức năng thực hiện các mục tiêu xã hội để gây tổn thất cho ngân sách nhà nước. 8. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Thực tế phá giá tiền tệ là một trong những giải pháp làm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa trên phương diện giá cả. Do đó, để hàng hóa Việt Nam thật sự tận dụng được lợi thế do phá giá đem lại, để có thể thâm nhập mạnh hơn vào thị trường thế giới các doanh nghiệp nước ta phải không ngừng cải thiện chất lượng sản phẩm, xây dựng uy tín thị trường cho sản phẩm của mình. Để làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam cần: Hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh và xây dựng mục tiêu rõ ràng trên cơ sở nắm vững pháp luật quốc gia và pháp luật nước bạn hàng cũng như các thông lệ và tập quán quốc tế. Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động Marketing như tìm hiểu thông tin về thị trường, về đối tác, về xu hướng tiêu dùng của các nước bạn hàng hiện có và tiềm năng, tăng cường tiếp thị sản phẩm. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên và đội ngũ lãnh đạo của các doanh nghiệp như trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, khoa học kỹ thuật, luật pháp kinh doanh… Chủ động trong việc tìm hiểu và tích cực sử dụng các công cụ phòng tránh rủi ro do các biến động của tỷ giá hối đoái gây ra như các công cụ phái sinh. Kết luận quan điểm của người viết Về chính sách tỷ giá của Việt Nam trong hiện tại, có thể nói chính sách tỷ giá của Việt Nam hiện nay đang được Chính phủ điều hành khá hợp lý. Cụ thể, như đã phân tích trong các phần trên, chính sách tỷ giá đang được điều chỉnh hợp lý với tình hình diễn biến thực tế trên thị trường, từng bước đưa tỷ giá danh nghĩa về gần với tỷ giá thực tế. Như vậy, Chính phủ có thể duy trì hướng điều chỉnh tích cực này bằng cách dần dần nới rộng hơn nữa biên độ dao động tỷ giá để tỷ giá hối đoái biến động phản ánh đúng tình hình diễn ra trên thị trường ngoại hối. Bằng cách này, Chính phủ vừa có thể điều chỉnh tỷ giá theo hướng thúc đẩy xuất khẩu vừa tránh được những cú sốc cho nền kinh tế vẫn còn yếu và chứa đựng nhiều bất ổn nội tại nếu tiến hành phá giá mạnh một lần. Về thời điểm phá giá, từ thực trạng nền kinh tế trong thời gian gần đây kết hợp với những phân tích về hiệu ứng tuyến J và tác động của phá giá ở trên, đề tài xin đưa ra khuyến nghị không nên phá giá tiền tệ. Dưới đây là một số lý do chủ yếu giải thích cho khuyến nghị này. Như ta đã biết nền kinh tế toàn cầu đang ở trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Như vậy, nhiều quốc gia đang thực hiện phá giá tiền tệ nhằm mục đích như ngăn chặn mất cân đối Cán cân thanh toán tổng thể, bảo tồn dự trữ ngoại hối, tăng tính thanh khoản của quốc gia… Theo tình hình hiện nay, tỷ giá của Việt Nam đang biến động theo hướng giảm xuất khẩu và kích thích nhập khẩu. Hơn nữa, do một số quốc gia trong khu vực cũng đã phần nào phá giá đồng tiền của mình nên sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam bị giảm sút. Tuy nhiên, phá giá tiền tệ vào lúc này là không cần thiết vì hiện nay các doanh nghiệp nhập khẩu đã nhận được khoản hỗ trợ 4% từ phía Chính phủ. Thêm vào đó, cấu thành hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có đến 70% là những nguyên liệu được nhập khẩu. Do vậy, phá giá tiền tệ ít có khả năng cải thiện Cán cân thương mại vì đồng thời với tác động làm tăng khối lượng xuất khẩu nó cũng làm tăng khối lượng nhập khẩu, tăng giá thành sản xuất hàng nhập khẩu (do tăng giá đầu vào) do vậy tác động của hiệu ứng lượng là không còn. Hiện nay cung – cầu ngoại tệ, đặc biệt là USD trên thị trường Việt Nam đang ở trạng thái cân bằng, do đó phá giá tiền tệ là không cần thiết. Thêm vào đó, khoản nợ nước ngoài của nhà nước đang vào khoảng 18 tỷ USD chưa kể đến tình trạng nợ nước ngoài tại các doanh nghiệp trong nước. Nếu phá giá lúc này có thể khiến gánh nặng nợ nước ngoài tăng cao, nhiều doanh nghiệp đang nợ nước ngoài không trả được nợ, nhiều doanh nghiệp đang đầu tư máy móc để đổi mới công nghệ sẽ bị phá sản. Như vậy, phá giá sẽ gây bất ổn cho nền kinh tế. Phá giá đồng tiền sẽ làm bất ổn vĩ mô. Trong khi đó, tình hình hiện nay là cần ổn định vĩ mô, mà yếu tố quan trọng nhất là ổn định tiền tệ. Nhưng không có nghĩa là trói buộc, mà điều hành linh hoạt dựa trên diễn biến thực tế của thị trường. Phá giá VND trong thời điểm hiện nay cũng đồng nghĩa với việc phá đi lòng tin của công chúng vào sự ổn định của chính sách tiền tệ. Biên độ dao động tỷ giá được nâng lên mức ±5% là hợp lý trong tình hình hiện tại để Chính phủ duy trì một chính sách tỷ giá linh hoạt, theo sát hơn với biến động của thị trường để có phản ứng kịp thời. Tài khoản vãng lai của Việt Nam hiện nay được tài trợ thâm hụt phần lớn bởi các nguồn vốn ngắn hạn và kiều hối. Do vậy, nếu phá giá tiền tệ thì theo như lý thuyết hiệu ứng tuyến J Tài khoản vãng lai sẽ xấu đi trong giai đoạn đầu. Điều này đồng nghĩa với việc không chỉ xuất khẩu chưa tăng, nhập khẩu đắt lên ngay lập tức ảnh hưởng đến tình trạng Tài khoản vãng lai mà phá giá còn khiến cho các dòng tiền này chảy ra khỏi Việt Nam. Có nhiều ý kiến cho rằng khi Tài khoản vãng lai đến điểm đáy của chữ J thì nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng mạnh và khả năng phục hồi vẫn chưa được bảo đảm. Có lẽ đây là một trong những lý do khiến Chính phủ duy trì một chính sách tỷ giá điều chỉnh tăng dần theo hướng có lợi cho xuất khẩu để cải thiện Tài khoản vãng lai nhưng không biến động quá mạnh để tránh những cú sốc cho nền kinh tế vẫn còn yếu và nhiều bất ổn như Việt Nam. Từ các phân tích trên ta thấy phá giá tiền tệ sẽ có thể mạng lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nhưng hiện giờ chưa phải là thời điểm thích hợp cho hành động này. Cần phải có những yêu cầu nhất định về cơ cấu xuất nhập khẩu, tình hình kinh tế chính trị và đời sống nhân dân thích hợp thì phá giá mới có thể phát huy hết hiệu quả của nó. KẾT LUẬN Thông qua những nghiên cứu về lý thuyết và thực tiễn “Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ: Lý thuyết, thực tiễn một số nước và những khuyến nghị rút ra cho Việt Nam”, khóa luận xin rút ra một số kết luận như sau: Thứ nhất, tỷ giá hối đoái là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu từ đó nó có ảnh hưởng quyết định đến trạng thái cân bằng bên ngoài của nền kinh tế thế giới. Với cương vị là một trong những chính sách hay được sử dụng nhất để điều chỉnh biến động của tỷ giá hối đoái theo hướng mong muốn, phá giá tiền tệ có những tác động quan trọng đến các chỉ tiêu trong nền kinh tế cả tích cực và tiêu cực. Thứ hai, hiệu ứng tuyến J là một lý thuyết kinh tế phản ánh cách thức Tài khoản vãng lai phản ứng trước hiện tượng đồng nội tệ của một quốc gia bị mất giá. Nhìn chung, trong dài hạn điều kiện Marshall – Lerner được thỏa mãn và Tài khoản vãng lai được cải thiện sau khi phá giá – tức phá giá trong dài hạn sẽ có tác động tích cực lên xuất nhập khẩu và cải thiện Tài khoản vãng lai, tuy nhiên cần có một độ trễ về mặt thời gian. Độ trễ này nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc điểm của nền kinh tế tiến hành phá giá như cơ cấu xuất nhập khẩu, tỷ lệ hàng hóa thương mại và phi thương mại trong nền kinh tế,… Thứ ba, qua thực tiễn nghiên cứu cuộc phá giá của ba quốc gia Mexico, Thái Lan và Argentina đã rút ra được những kết luận và bài học cần thiết. Dù dấu hiệu về hiệu ứng tuyến J là không rõ ràng nhưng qua thực tiễn ba quốc gia ta có thể kết luận phá giá tiền tệ có thể cải thiện Cán cân thương mại và qua đó cải thiên Tài khoản vãng lai trong một thời gian sau khi phá giá, trước khi các hiệu ứng giá và lượng biến mất hay có một cú sốc kinh tế khác tác động đến nền kinh tế của quốc gia thực hiện phá giá. Thư tư, dù kết quả nghiên cứu khẳng định phá giá tiền tệ có thể giúp cải thiện Tài khoản vãng lai nhưng với điều kiện kinh tế và tình hình nền kinh tế Việt Nam hiện giờ chưa phải là điều kiện thích hợp để tiến hành phá giá. Thứ năm, khẳng định phá giá là một động thái cần thiết để cải thiện sức cạnh tranh của nền kinh tế, phục vụ một số mục tiêu kinh tế xã hội khác. Dù ngay tại thời điểm hiện tại chưa nên tiến hành phá giá quá mạnh nhưng Việt Nam nên xem xét lựa chọn phá giá từ từ đồng thời theo dõi các biến động trong và ngoài nền kinh tế để tìm thời điểm thích hợp cho phá giá. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đạt được một số kết luận như trên, song, do trình độ hiểu biết còn hạn hẹp cộng với thiếu kinh nghiệm thực tế và các khó khăn gặp phải trong quá trình tiếp cận với các nguồn số liệu đáng tin cậy nên khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, những kết luận sai hoặc phiến diện. Em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các thày cô giáo nhằm nâng cao chất lượng khóa luận hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo Tiếng Việt Nguyễn Khắc Minh, Mô hình tài chính quốc tế, Nxb Khoa học & Kỹ thuật, 2008 Nguyễn Văn Tiến, Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, Nxb Thống kê, 2005 Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế, Nxb Lao động-xã hội, 2006 Tiếng Anh Pekka Ahtiala, When does the J-curve have a J-shape? A reconsideration, Discussion paper No.473, 4/1981 Olugbenga Onafowora, Exchange rate and trade balance in East Asia: is there a J-curve?, Economic Bulletin, 2003 Tyler Curtis, The Mexican Peso Crisis: A Balance of Payments Crisis (1994-1995), 2005 Website Banco de Mexico, Bank of Thailand, National Bureau of Statistics of China, Tổng cục thống kê Việt Nam, IMF official website, Trang Thông tin thương mại Việt Nam, Và một số website khác Danh mục các từ viết tắt USD Đồng Đô la Mỹ JPY Đồng Yên Nhật Bản VND Đồng Việt Nam Đồng CNY Đồng Nhân dân tệ Trung Quốc MLC Điều kiện Marshall-Lerner NHTW Ngân hàng Trung Ương NHNN Ngân hàng nhà nước GDP Tổng thu nhập quốc dân GNP Tổng thu nhập quốc nội CA Cán cân Tài khoản vãng lai TB Cán cân thương mại EX / XK Xuất khẩu IM / NK Nhập khẩu CPI Chỉ số giá tiêu dùng IMF Quỹ tiền tệ quốc tế MỤC LỤC J-curve.thesis.docJ-curve.thesis.doc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhóa luận Ngoại thương- Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ- Lý thuyết, thực tiễn một số nước và những khuyến nghị rút ra cho Việt Nam.doc
Luận văn liên quan