Luận án Cơ chế tự chủ tài chính trong giáo dục đại học ở Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp các trường nghệ thuật, thể dục thể thao công lập

Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nƣớc từ năm 1986 đến nay, Nhà nƣớc đã xây dựng ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách quan trọng nhằm phát triển hệ thống giáo dục bậc cao, trong đó có lĩnh vực giáo dục, đào tạo về NT-TDTT. Một trong những cơ chế chính sách đang áp dụng thực hiện cho các trƣờng đào tạo nghệ thuật và thể thao đƣợc xem nhƣ một bƣớc đột phá quan trọng, mở ra hƣớng đi mới cho các trƣờng, góp phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy, nghiên cứu của các trƣờng và đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nƣớc hiện nay chính là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. Sau một thời gian thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, các trƣờng NT-TDTT của Bộ VHTTDL đã thu nhận đƣợc những kết quả thành công nhƣng cũng nhận thức đƣợc những vấn đề bất cập mà cơ chế tự chủ tài chính này mang lại. Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, luận án đã giải quyết những nội dung cơ bản đƣợc đặt ra: 1. Đã bổ sung và hệ thống hóa cơ sở lý luận, làm rõ bản chất, phân tích các nhân tố ảnh hƣởng đến TCTC, cơ chế TCTC; tổng kết bài học kinh nghiệm của khu vực và thế giới về TCTC; đƣa ra các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cơ chế TCTC. 2. Luận án đã phân tích, đánh giá kết quả thực hiện cơ chế tự chủ ở các trƣờng NT- TDTT, trong đó làm rõ kết quả thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP và một số cơ chế, chính sách có liên quan đến quy định thực hiện tự chủ tài chính ở các trƣờng NT-TDTT công lập trực thuộc Bộ VHTTDL. 3. Luận án đã đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế tự chủ góp phần nâng cao chất lƣợng GDĐT đối với các trƣờng NT-TDTT; huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nƣớc và xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nƣớc. Các giải pháp này tập trung vào những khía cạnh sau: Đổi mới cơ chế học phí trong lĩnh vực đào tạo NT-TDTT; Đổi mới cơ chế phân bổ NSNN đối với các đơn vị đào tạo công lập về NT-TDTT; Đổi mới cơ chế tự chủ tài chính trong Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ; Đổi mới chính sách đối với ngƣời học NT-TDTT.

pdf263 trang | Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cơ chế tự chủ tài chính trong giáo dục đại học ở Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp các trường nghệ thuật, thể dục thể thao công lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà trƣờng và cơ sở giáo dục khác tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến khoa học, công nghệ; kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục, từng bƣớc thực hiện vai trò trung tâm văn hóa, khoa học, công nghệ của địa phƣơng hoặc của cả nƣớc. Tuy nhiên, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện kiểm định chất lƣợng giáo dục. Nhà trƣờng đƣợc tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật và Điều lệ nhà trƣờng. Điều lệ trƣờng đại học do Thủ tƣớng Chính phủ ban hành; Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trƣởng cơ quan quản lý nhà nƣớc về dạy nghề ban hành điều lệ nhà trƣờng ở các cấp học khác theo thẩm quyền. Ở Việt Nam, Hội đồng trƣờng đối với trƣờng công lập, hội đồng quản trị đối với trƣờng dân lập, trƣờng tƣ thục là tổ chức chịu ít có quyền tự chủ mà chủ yếu có tính trách nhiệm về phƣơng hƣớng hoạt động của nhà trƣờng, huy động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trƣờng, gắn nhà trƣờng với cộng đồng và xã hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục. Hội đồng trƣờng có các nhiệm vụ nhƣ ban hành Quyết nghị về mục tiêu, chiến lƣợc, các dự án và kế hoạch phát triển của nhà trƣờng; Quyết nghị về quy chế hoặc sửa đổi, bổ sung quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trƣờng để trình cấp có thẩm Pl.71 quyền phê duyệt; Quyết nghị về chủ trƣơng sử dụng tài chính, tài sản của nhà trƣờng; Giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng trƣờng, việc thực hiện quy chế dân chủ trong các hoạt động của nhà trƣờng. Thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức, quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể của hội đồng trƣờng đƣợc quy định trong điều lệ nhà trƣờng. Thủ tƣớng Chính phủ là cấp quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trƣởng; thủ tục bổ nhiệm, công nhận Hiệu trƣởng trƣờng đại học; đối với các trƣờng ở các cấp học khác do Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Nhà nƣớc dành riêng chỉ tiêu cử tuyển đối với những dân tộc thiểu số chƣa có hoặc có rất ít cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp; có chính sách tạo nguồn tuyển sinh trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi để học sinh các dân tộc này vào học trƣờng phổ thông dân tộc nội trú và tăng thời gian học dự bị đại học. Việc hợp tác đào tạo, mở trƣờng hoặc cơ sở giáo dục khác của ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài, tổ chức quốc tế trên lãnh thổ Việt Nam cũng do Chính phủ quy định. Việc công nhận văn bằng của ngƣời Việt Nam do nƣớc ngoài cấp đƣợc thực hiện theo quy định của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đến năm 2009, Luật Giáo dục có bổ sung quyền kiểm định chất lƣợng giáo dục. Theo quy định, Nhà nƣớc quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lƣợng giáo dục; quy trình và chu kỳ kiểm định chất lƣợng giáo dục ở từng cấp học và trình độ đào tạo; nguyên tắc hoạt động, điều kiện và tiêu chuẩn của tổ chức, cá nhân hoạt động kiểm định chất lƣợng giáo dục; cấp phép hoạt động kiểm định chất lƣợng giáo dục; cấp, thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lƣợng giáo dục; Quản lý hoạt động kiểm định chƣơng trình giáo dục và kiểm định cơ sở giáo dục; Hƣớng dẫn các tổ chức, cá nhân và cơ sở giáo dục thực hiện đánh giá, kiểm định chất lƣợng giáo dục; Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định về kiểm định chất lƣợng giáo dục. Tổ chức kiểm định chất lƣợng giáo dục bao gồm: Tổ chức kiểm định chất lƣợng giáo dục do Nhà nƣớc thành lập và có thêm Tổ chức kiểm định chất lƣợng giáo dục do tổ chức, cá nhân thành lập. Tuy nhiên, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo lại có quyền quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập tổ chức kiểm định chất lƣợng giáo dục; quy định điều kiện thành lập và giải thể, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức kiểm định chất lƣợng giáo dục. Bên cạnh tổ chức này Nhà nƣớc tiếp tục duy trì các cơ quan thanh tra giáo dục gồm: Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo; Thanh tra sở giáo Pl.72 dục và đào tạo. Nhằm đảm bảo các quy định của nhà nƣớc về giáo dục đại học có thể thực hiện đƣợc, Luật Giáo dục quy định xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về vấn đề vi phạm trong việc thành lập cơ sở giáo dục hoặc tổ chức hoạt động giáo dục; vi phạm các quy định về tổ chức, hoạt động của nhà trƣờng, cơ sở giáo dục khác; vi phạm thêm, bớt số môn học, nội dung giảng dạy đã đƣợc quy định trong chƣơng trình giáo dục; xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa trái phép; làm thất thoát kinh phí giáo dục; lợi dụng hoạt động giáo dục để thu tiền sai quy định; gây thiệt hại về cơ sở vật chất của nhà trƣờng, cơ sở giáo dục khác Năm 2012, Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam ban hành Luật Giáo dục đại học với những quy định mới. Vấn đề tự chủ bộ máy tổ chức của các cơ sở giáo dục đại học một lần nữa lại đƣợc nhắc đến. Luật quy định Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơ sở giáo dục đại học đƣợc thành lập và hoạt động theo quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Đoàn thể, tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục đại học đƣợc thành lập và hoạt động theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và điều lệ của đoàn thể, tổ chức xã hội. Cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm tạo điều kiện cho tổ chức Đảng, đoàn thể và tổ chức xã hội đƣợc thành lập và hoạt động theo quy định. Việc bổ sung vai trò của tổ chức Đảng và Đoàn thể trong tổ chức trƣờng đại học cho thấy quyền tự chủ tiếp tục đƣợc giới hạn bởi quy trình ra quyết định gián tiếp. Bên cạnh cơ cấu tổ chức này, trƣờng cao đẳng, trƣờng đại học thành viên của đại học có cơ cấu tổ chức theo quy định trong Quy chế tổ chức và hoạt động của đại học với bộ khung gồm: Hội đồng đại học; Giám đốc, phó giám đốc; Văn phòng, ban chức năng; Trƣờng đại học thành viên; viện nghiên cứu khoa học thành viên; Trƣờng cao đẳng thành viên; khoa, trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ; Tổ chức phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; Phân hiệu (nếu có); Hội đồng khoa học và đào tạo, các hội đồng tƣ vấn. Luật Giáo dục đại học lần đầu tiên đƣa ra quy định thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học. Phân tầng cơ sở giáo dục đại học một mặt nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lƣới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tƣ phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện quản lý nhà nƣớc. Mặt khác việc Pl.73 xếp hạng nhằm đánh giá uy tín và chất lƣợng đào tạo; phục vụ công tác quản lý nhà nƣớc và ƣu tiên đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc. Các tiêu chí phân tầng và xếp hạng đại học theo các tiêu chí: Vị trí, vai trò trong hệ thống giáo dục đại học; Quy mô, ngành nghề và các trình độ đào tạo; Cơ cấu các hoạt động đào tạo và khoa học công nghệ; Chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu khoa học; Kết quả kiểm định chất lƣợng giáo dục đại học. Luật quy định có 3 loại phân tầng: Cơ sở giáo dục đại học định hƣớng nghiên cứu; Cơ sở giáo dục đại học định hƣớng ứng dụng; Cơ sở giáo dục đại học định hƣớng thực hành. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng quy định tiêu chuẩn phân tầng cơ sở giáo dục đại học; ban hành khung xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học theo mỗi tầng và tiêu chuẩn của từng hạng trong khung phục vụ công tác quản lý nhà nƣớc và ƣu tiên đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc cho giáo dục đại học. Về quyền xếp hạng đại học, Luật Giáo dục đại học quy định Thủ tƣớng Chính phủ có quyền công nhận xếp hạng đối với đại học, trƣờng đại học; Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận xếp hạng đối với trƣờng cao đẳng; căn cứ kết quả xếp hạng cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định kế hoạch ƣu tiên đầu tƣ, giao nhiệm vụ và cơ chế quản lý đặc thù đối với các cơ sở giáo dục đại học phù hợp với nhu cầu nhân lực và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc trong từng giai đoạn. Căn cứ kết quả xếp hạng, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng nơi cơ sở giáo dục đại học đặt trụ sở hoặc có tổ chức hoạt động đào tạo để hỗ trợ cơ sở giáo dục đại học tƣ thục về đất đai, tín dụng và đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ. Thủ tƣớng Chính phủ có quyền quyết định thành lập đại học, học viện, trƣờng đại học công lập; quyết định cho phép thành lập trƣờng đại học tƣ thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thành lập trƣờng cao đẳng công lập; quyết định cho phép thành lập trƣờng cao đẳng tƣ thục. Ngƣời có thẩm quyền quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học thì có thẩm quyền quyết định sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học. Theo Luật Giáo dục đại học, các trƣờng đƣợc phép tổ chức các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học nhƣ Liên kết đào tạo; Thành lập văn phòng đại diện của cơ sở giáo dục đại học nƣớc ngoài tại Việt Nam; Hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học; Tƣ vấn, tài trợ, Pl.74 đầu tƣ phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị; Bồi dƣỡng, trao đổi giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý và ngƣời học; Liên kết thƣ viện, trao đổi thông tin phục vụ hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ; cung ứng chƣơng trình đào tạo; trao đổi các ấn phẩm, tài liệu và kết quả hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ; Tham gia các tổ chức giáo dục, khoa học, hội nghề nghiệp khu vực và quốc tế; Mở văn phòng đại diện cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam ở nƣớc ngoài; Các hình thức hợp tác khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo là cấp có thẩm quyền ban hành quy chế đào tạo và liên kết đào tạo. Trên cơ sở Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học đã ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 hƣớng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 113/2007/TT-BTC ngày 24 tháng 09 năm 2007 sửa đổi bổ sung Thông tƣ số 71/2006/TT-BTC ngày 09/08/2006; Thông tư số 81/2006/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT- GDĐT-BNV ngày 15 tháng 4 năm 2009 hƣớng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo. Đối với hoạt động khoa học và công nghệ của các Tổ chức nghiên cứu khoa học (thuộc trƣờng đại học), cơ chế tự chủ tài chính đƣợc thực hiện theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP đƣợc Chính phủ ban hành ngày 05/09/2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Thông tƣ Liên tịch số 12/TTLT/BKHCN-BTC-BNV đƣợc Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ ban hành ngày 05/06/2006 hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Để tăng cƣờng phát triển giáo dục đại học, Quốc hội sau đó còn đƣa ra hành Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 về chủ trương, định hướng đổi mới một Pl.75 số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015; Chính Phủ xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020; Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng tại Hội nghị lần thứ 6 khóa XI đã có Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”... Từ năm 2006 đến nay, tất cả các trƣờng đại học công lập đã đƣợc Nhà nƣớc phân loại và giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP. Điểm nổi bật của Nghị định 43/2006/NĐ-CP là xác định căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp (các trƣờng đại học công lập) để phân loại thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, từ đó đƣa ra quy định cụ thể về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho từng loại trƣờng. Từ những quy định về chính sách, pháp luật trên đây, chúng ta thấy rằng các trƣờng đại học Việt Nam bị hạn chế rất nhiều về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm so với các trƣờng đại học ở châu Âu, Bắc Mỹ và một số nƣớc khu vực châu Á nhƣ Hàn Quốc, Nhật Bản. Trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, vai trò của Nhà nƣớc là rất lớn, chi phối đến toàn bộ hoạt động giảng dạy – học tập, cũng nhƣ nghiên cứu của các cơ sở giáo dục đại học. Do cách tiếp cận chính sách giáo dục đại học từ trên xuống và những quy định giới hạn quyền tự chủ của các trƣờng đại học từ trƣớc đến nay của hệ thống luật pháp Nhà nƣớc khiến cho việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở các trƣờng chƣa đem lại nhiều chuyển biến thực sự cho giáo dục đại học, trong đó có lĩnh vực đào tạo về NT- TDTT. Cho đến nay, chất lƣợng giáo dục vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nƣớc trong thời kỳ mới và so với trình độ của các nƣớc có nền giáo dục tiên tiến trong khu vực, trên thế giới. Chƣa giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển số lƣợng với yêu cầu nâng cao chất lƣợng; năng lực nghề nghiệp của học sinh, sinh viên tốt nghiệp chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục chƣa đƣợc quy định đầy đủ, sát thực điều này đƣợc thể hiện rõ nhất ở Chiến lƣợc phát triển Giáo dục 2011-2020 ban hành theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tƣớng Chính phủ. Pl.76 PL16: Các xu hƣớng và yêu cầu trong phát triển lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhân lực NT-TDTT ở nƣớc ta trong giai đoạn tới 1. Tác động của bối cảnh quốc tế đến phát triển đào tạo NT-TDTT Trên thế giới những năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học-công nghệ tiếp tục có những bƣớc tiến nhảy vọt, thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển, tác động tới tất cả các lĩnh vực và các nƣớc, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng hơn, cuốn hút tất cả các quốc gia, dân tộc tham gia trong thế vừa hợp tác vừa phải cạnh tranh, vừa tạo ra cơ hội, vừa đƣa lại nhiều thách thức đối với sự phát triển giáo dục đào tạo về NT-TDTT. Nền kinh tế tri thức phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu và sự phát triển kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia vào phân công lao động toàn cầu; đồng thời mỗi biến động của nền kinh tế thế giới đều tác động đến nền kinh tế của các quốc gia, nhiều hay ít tùy thuộc vào mức độ hội nhập và trình độ thích ứng của nền kinh tế mỗi nƣớc. Những hoạt động mang tính kinh tế trong lĩnh vực nghệ thuật (công nghiệp điện ảnh, nghe nhìn; công nghiệp phát thanh, truyền hình; công nghiệp vui chơi giải trí...), trong TDTT (kinh tế dịch vụ thể dục, thể thao giải trí; môi giới, truyền thông thể dục, thể thao) không nằm ngoài những tác động đó. Yếu tố này tác động nhiều mặt đến nhu cầu đào tạo phát triển lĩnh vực NT-TDTT ở nƣớc ta. Các quốc gia hiện nay đều nhận thức rằng văn hóa NT-TDTT trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội, do đó cần lấy phát triển nguồn lực con ngƣời làm mục tiêu trung tâm trong phát triển đất nƣớc. Phát triển NT-TDTT đƣợc gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng lối sống, nhân cách, tính nhân văn, bản lĩnh, trí tuệ, lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc của mỗi cá nhân. Quan hệ song phƣơng, đa phƣơng giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế và VHNT, thể thao... Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế với việc hình thành các khối, các tổ chức hợp tác đa phƣơng, song phƣơng đã thúc đẩy sự di chuyển lao động quốc tế phát triển mạnh, trong đó có các tổ chức mà Việt Nam chính thức tham gia. Sự hợp tác và liên kết giữa các nƣớc trong khối ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác ngày chặt chẽ và toàn diện Mối quan hệ Á-Âu ngày càng phát triển và sự hợp tác giữa hai khối sẽ đảm bảo cho sự ổn định, an ninh và phát triển kinh tế. Châu Á-Thái Bình Dƣơng vẫn là khu vực phát triển năng động, có vai trò ngày càng lớn. Để đáp ứng yêu Pl.77 cầu hợp tác chung và hợp tác VHNT, TDTT đòi hỏi Việt Nam phải có nhân lực chất lƣợng cao. Nó cũng đòi hỏi công tác đào tạo phát triển nhân lực NT-TDTT phải đƣợc quốc tế hóa, đa phƣơng, đa chiều để hội nhập. Trong xu thế phát triển chung, hoạt động giao lƣu và hội nhập quốc tế về NT- TDTT sẽ tiếp tục diễn ra thuận lợi và nhanh chóng. Quá trình giao lƣu, hội nhập quốc tế về NT-TDTT có khả năng tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại hình NT-TDTT; đồng thời, sự bùng nổ của các phƣơng tiện truyền bá sản phẩm nghệ thuật, công nghệ giải trí, TDTT hiện đại cũng tạo nên những tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội và công chúng. Yếu tố này thúc đẩy, đòi hỏi phải nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình GDĐT về NT-TDTT giữa Việt Nam và các nƣớc. Trong thế giới vừa hợp tác, vừa cạnh tranh gay gắt, bắt buộc các quốc gia vƣơn tới chiếm lĩnh càng nhiều càng tốt công nghệ nguồn và thông tin kinh tế. Việc mở cửa thị trƣờng lao động tạo sự dịch chuyển lao động giữa các nƣớc đòi hỏi các quốc gia phải nâng cao chất lƣợng nhân lực của mình. Để làm đƣợc những việc này, đòi hỏi phải có nhân lực chất lƣợng cao, yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Do đó ngành giáo dục đào tạo có yêu cầu đẩy mạnh đổi mới giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ trong phát triển nhân lực NT-TDTT để có thể đáp ứng năng động hơn, hiệu quả hơn và trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nƣớc. 2. Xu hướng và yêu cầu phát triển lĩnh vực giáo dục, đào tạo NT-TDTT Văn hóa NT-TDTT là những yếu tố quan trọng để tạo nên bản sắc, sức mạnh tinh thần và vật chất phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Các quốc gia hiện nay đều coi việc giáo dục, đào tạo nhân lực nhằm bảo vệ và giữ gìn đƣợc bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ sống còn của mỗi quốc gia. Là một đất nƣớc có kho tàng nghệ thuật phong phú và rất độc đáo, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc GDĐT nhằm bảo tồn những giá trị truyền thống, phát huy sự đa dạng văn hóa trong khi phải ƣu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế. Xu thế cạnh tranh và phát triển trong các lĩnh vực đào tạo nghệ thuật, thể thao sẽ dựa trên tính độc đáo và sáng tạo của sản phẩm, dịch vụ; giá trị độc đáo của bản sắc văn hóa và chất lƣợng môi trƣờng thay vì dựa trên các yếu tố đầu vào hay vốn đầu tƣ nhƣ thời kỳ trƣớc. Những giá trị mới đƣợc thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá dân tộc (tính độc đáo, nguyên bản), giá trị tự nhiên (tính nguyên sơ), giá trị sáng tạo và công nghệ cao (tính hiện đại) là những xu hƣớng lựa chọn trong nhu cầu cuộc sống. Pl.78 Khi tham gia nền kinh tế thị trƣờng, NT-TDTT đƣợc coi nhƣ những sản phẩm hàng hóa đặc thù và tất yếu bị đẩy vào quá trình thƣơng mại hóa. Quá trình thƣơng mại hóa ấy sẽ tạo ra những thay đổi nhất định đối với sự phát triển các loại hình NT- TDTT của đất nƣớc cũng nhƣ nhu cầu giáo dục, đào tạo NT-TDTT nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng, của xã hội. Nó cũng giúp hình thành những nhu cầu đào tạo các loại hình, bộ môn NT-TDTT hiện đại và đi kèm với các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ hiện đại. Quan niệm nghệ thuật, thể thao thuần túy ngày càng nhanh chóng thay đổi theo hƣớng nghệ thuật, thể thao kinh doanh; nghệ thuật, thể thao chuyên nghiệp, đặc biệt ở những môn nghệ thuật và thể thao có khán giả, có thị trƣờng. Bên cạnh đó, xu hƣớng thƣơng mại hóa sẽ gây nên sự mất cân đối trong cạnh tranh phát triển một số bộ môn nghệ thuật và thể thao "truyền thống". Ngành công nghiệp dịch vụ văn hoá nghệ thuật, thể thao ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng cả về quy mô và công nghệ. Cũng vì thế sự cạnh tranh về sản phẩm văn hoá nghệ thuật càng trở nên khốc liệt hơn, không chỉ là cạnh tranh giữa các sản phẩm trong cùng một ngành, mà còn cạnh tranh với các sản phẩm bổ sung và thay thế. Mức đóng góp của tri thức, nghệ thuật, thể thao đối với tăng trƣởng kinh tế ngày càng lớn. Do đó, cơ cấu đầu tƣ để phát triển lực lƣợng sản xuất, yếu tố con ngƣời đòi hỏi phải có những thay đổi rất lớn về công tác giáo dục, đào tạo nhằm tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho xã hội. Với tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, đô thị hoá hiện nay, Việt Nam đang diễn ra những thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu văn hoá NT-TDTT. Quá trình thay đổi nghề nghiệp, môi trƣờng sống của các cộng đồng dân cƣ dẫn đến những thay đổi về thị hiếu, lối sống, hệ giá trị, chuẩn mực đòi hỏi các lĩnh vực hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể thao phải đƣợc xây dựng và phát triển phù hợp. Việt Nam phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển khu vực đô thị, khu công nghiệp và nông thôn; giữa vùng trung tâm và vùng ngoại vi; giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Quá trình hiện đại hoá các trang thiết bị và phƣơng tiện đào tạo nghệ thuật, thể thao đã làm cho chất lƣợng đào tạo đƣợc nâng cao và kết quả đào tạo đƣợc phổ biến nhanh chóng hơn. Quá trình liên kết và phổ biến thông tin, viễn thông, kỹ thuật số là xu hƣớng lớn của thời đại, góp phần thúc đẩy trao đổi hoạt động đào tạo NT-TDTT giữa các quốc gia. Hàm lƣợng khoa học công nghệ không ngừng tăng lên, trở thành nhân tố quan trọng để nâng cao thành tích. Việt Nam sẽ phải cố gắng thay đổi phƣơng thức tổ Pl.79 chức tuyển chọn và đào tạo, huấn luyện SV để có thể ứng dụng rộng rãi khoa học - công nghệ, đặc biệt khoa học, công nghệ tổng hợp liên ngành nhƣ sinh lý, sinh hóa, khoa học quân sự, khoa học vật liệu, khoa học phục hồi chức năng, khoa học dinh dƣỡng, khoa học chế tạo thiết bị... Sự tranh đua giành thứ hạng cao trong các giải đấu quốc gia, khu vực và châu lục ngày càng gay gắt. Các quốc gia đều coi trọng thành tích, xếp hạng trong Thế vận hội, trong các Đại hội thể thao khu vực, vì vậy đều tăng cƣờng đầu tƣ. Các nƣớc đều chọn nhóm môn thể thao có ƣu thế tập trung phát triển. Hầu hết các quốc gia đều chú trọng phƣơng thức huấn luyện tập trung cao độ và đều thành lập số ít trung tâm huấn luyện đa chức năng. Sự trao đổi giao lƣu vận động viên xuất sắc ngày càng mở rộng ở những môn thể thao có thị trƣờng. Huấn luyện viên tài năng thƣờng thay đổi hợp đồng huấn luyện ở nhiều quốc gia khác nhau. Sự thay đổi môn thi đấu trong Thế vận hội, tăng các môn thể thao cho nữ giới cũng sẽ tạo nên sự biến động về thành tích và thứ hạng của các quốc gia. Luật thi đấu của các môn thay đổi cũng sẽ ảnh hƣởng tới thành tích thi đấu. Các quốc gia đều phải thay đổi hệ thống, chế độ thi đấu. Mật độ thi đấu tăng cao làm thay đổi quan điểm huấn luyện truyền thống, chu kỳ huấn luyện. Sắp sếp chu kỳ huấn luyện mới ra đời (chu kỳ ngắn), coi thi đấu là một bộ phận cấu thành của huấn luyện, hình thành những thủ đoạn, phƣơng pháp huấn luyện gắn liền với năng lực thi đấu thực tế. Việt Nam sẽ từng bƣớc đăng cai tổ chức các hoạt động thể thao mang tầm quốc tế. Một số tỉnh, thành phố, ban ngành trong toàn quốc chú trọng, tăng cƣờng đầu tƣ cho TDTT, tạo sự cạnh tranh quyết liệt vừa là động lực, vừa là thách thức đối với TDTT vùng miền. Nhu cầu đào tạo các môn thể thao thành tích cao, có tính quốc tế hóa cao dẫn đến sự thay đổi trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, huấn luyện thể thao tại các trƣờng TDTT. TDTT trƣờng học đƣợc đặc biệt coi trọng. Việt Nam cũng nhƣ nhiều quốc gia trên thế giới tiếp tục tăng cƣờng đầu tƣ cho TDTT trƣờng học, đƣa ra những chỉ tiêu cụ thể cho TDTT trƣờng học. Nội dung TDTT quần chúng sẽ phát triển phong phú hơn, đặc biệt là thể thao giải trí, TDTT đối với ngƣời cao tuổi. Thể thao giải trí, thể dục vì sức khỏe đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy chính thức của nhiều trƣờng Đại học TDTT trên thế giới, ngay cả châu Á. Do sự phát triển mạnh mẽ của thể thao giải trí, thể dục vì sức khỏe, thể thao ở ngƣời cao tuổi, các hình thức tổ chức TDTT quần chúng có nhiều sự thay đổi. Bên cạnh duy trì các hình thức tổ chức cơ sở TDTT Pl.80 phúc lợi truyền thống, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh dịch vụ thể thao giải trí, thể dục vì sức khỏe, mở ra thị trƣờng dịch vụ thể thao lớn. Để đáp ứng nguồn nhân lực cho xu hƣớng phát triển này, các trƣờng TDTT buộc phải đổi mới hệ thống chƣơng trình, phƣơng pháp đào tạo các môn TDTT. Hệ thống quản lý tổ chức và đào tạo thể thao thành tích cao ở nƣớc ta sẽ có sự cải thiện rõ rệt theo hƣớng phát triển một cách cơ bản, tập trung hơn. Các cơ sở huấn luyện thể thao tập trung ở quốc gia và ở một số tỉnh thành sẽ cải thiện rõ rệt, mở ra những khả năng mới để ứng dụng khoa học công nghệ cao, chuẩn bị cho bƣớc phát triển mới sau năm 2020. Có thể dự báo từ nay đến 10-20 năm tới là giai đoạn xây dựng cơ bản của thể thao thành tích cao gắn liền với nền tảng TDTT trƣờng học, một số ít mặt có sự phát triển đột biến trong ASIAD và Olympic. Các cơ sở phúc lợi TDTT vẫn tiếp tục đƣợc mở rộng, nhƣng đặc biệt các cơ sở dịch vụ TDTT sẽ tăng lên rõ rệt do nhận thức của xã hội đối với TDTT và đời sống nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Nhờ chƣơng trình nâng cao thể lực và tầm vóc ngƣời Việt Nam bằng giải pháp dinh dƣỡng và TDTT của Chính phủ, TDTT trƣờng học đƣợc cải thiện rõ rệt. Các bộ môn nghệ thuật, thể thao thành tích cao tiếp tục phát triển theo hƣớng kinh doanh chuyên nghiệp hoá; các môn nghẹ thuật, thể thao có khán giả, có thị trƣờng sẽ có sự phát triển mới; các loại hình ngày càng có sự gắn kết tƣơng hỗ với nhau phát triển. Hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng sẽ phát triển mạnh mẽ trong những năm tới theo hƣớng mở rộng nhu cầu hoạt động vận động và giải trí của nhân dân, tạo nên nguồn cầu mạnh mẽ về đào tạo. Xu hƣớng phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo NT-TDTT tiếp tục nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Nhà nƣớc tập trung nguồn lực đầu tƣ xây dựng hệ thống các trƣờng trọng điểm; dành nguồn ngân sách hỗ trợ phát triển các lĩnh vực đào tạo NT-TDTT bên cạnh quá trình tăng cƣờng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đào tạo lĩnh vực này. Nhà nƣớc sẽ điều chỉnh cơ chế học phí cho phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy quá trình phân quyền cho các trƣờng, giảm dần vai trò của Nhà nƣớc trong việc điều hành công tác giáo dục đào tạo. Xác định xây dựng và phát triển nghệ thuật, TDTT là sự nghiệp của toàn dân, Đảng và Nhà nƣớc ta tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hoá về các lĩnh vực này; coi đây là một Pl.81 giải pháp lớn của trong việc huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển nghệ thuật, thể thao. Các giải pháp xã hội hóa các mô nghệ thuật hiện đại, thể thao thành tích cao, đặc biệt đối với các môn thể thao có khán giả, có thị trƣờng sẽ có tác dụng tốt hơn. Do đó, ngày càng có nhiều tầng lớp xã hội, thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình phát triển giáo dục, đào tạo NT-TDTT. Sự đóng góp của các thành phần này tất yếu sẽ đem lại những tác động tích cực trong việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lƣợng hoạt động đào tạo của các lĩnh vực NT-TDTT trên địa bàn cả nƣớc. Mạng lƣới giáo dục, đào tạo NT-TDTT công lập liên quan từ bậc phổ thông đến đến đại học và sau đại học đƣợc thiết lập những năm trƣớc đây tiếp tục khẳng định vai trò cung cấp nhân lực đƣợc giáo dục hƣớng nghiệp VHNT, giáo dục thể chất, đào tạo chuyên sâu để từng bƣớc đáp ứng nhu cầu nhân lực cho đất nƣớc. Hệ thống cơ sở đào tạo tiếp tục đƣợc tăng cƣờng cả về số lƣợng và năng lực. Tỷ lệ nhân lực đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn ngày càng cao; chất lƣợng đào tạo đƣợc cải thiện thể hiện ở tỷ lệ tìm đƣợc việc làm đúng chuyên ngành sau tốt nghiệp ngày càng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, đặc biệt là đào tạo kỹ năng tại các cơ sở chuyên nghiệp đào tạo NT-TDTT tiếp tục nằm trong nhiệm vụ trọng tâm phát triển của ngành VHTTDL. Hệ thống chƣơng trình khung các ngành, chuyên ngành ở các trình độ đƣợc xây dựng và áp dụng thống nhất sẽ đẩy nhanh quá trình đào tạo. Yêu cầu đặc thù trong đào tạo NT-TDTT từng bƣớc đƣợc đáp ứng. Đội ngũ giáo viên, GV, huấn luyện viên ngày càng tăng về số lƣợng và trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kiến thức, kỹ năng hội nhập, tâm huyết và trách nghiệm với nghề. Liên kết trong nƣớc và quốc tế, các chƣơng trình mục tiêu quốc gia, các diễn đàn trao đổi chuyên môn liên tục đƣợc tiến hành để xây dựng đội ngũ giáo viên, GV, huấn luyện viên lớn mạnh cả về lƣợng và chất. Sự đam mê cống hiến của các thế hệ giáo viên, GV, huấn luyện viên, nghệ sĩ, nghệ nhân, vận động viên (cả khi đã nghỉ hƣu) trong đào tạo, bồi dƣỡng NT-TDTT, đặc biệt là đào tạo năng khiếu, huấn luyện thành tích cao là yếu tố mang tính quyết định đến chất lƣợng đào tạo. Đào tạo, phát triển tài năng trẻ, đào tạo năng khiếu, phát triển nhân tài và huấn luyện thành tích cao tiếp tục đƣợc quan tâm. Nhiều thành tích, kết quả kiệt xuất, huân huy chƣơng, danh hiệu cao quí trong NT-TDTT đều có dấu ấn vai trò của phát hiện, bồi dƣỡng, đào tạo, huấn luyện gieo mầm ngay từ tuổi thơ khi phát hiện tài năng và trong suốt quá trình đào tạo, huấn luyện. Sự quyết tâm của thầy và trò trong đào tạo Pl.82 năng khiếu và huấn luyện thành tích cao là một trong những điểm mạnh nổi bật, truyền thống cao quí tiếp tục đƣợc các nhà trƣờng phát huy. Sự năng động và đa dạng hóa các hình thức đào tạo, quá trình thúc đẩy xã hội hóa nhằm huy động nhiều nguồn lực cho đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực NT-TDTT, đặc biệt là đào tạo tại chỗ, tự đào tạo và truyền nghề sẽ giúp khắc phục đáng kể sự hẫng hụt, yếu kém về kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp ở một số lĩnh vực và các vùng, miền. Nhân dân tiếp tục quan tâm đầu tƣ nhiều mặt cho con em đi học về NT-TDTT nhất là những loại hình, bộ môn có ƣu thế phát triển trong nền kinh tế thị trƣờng. Kinh nghiệm phát triển nhân lực trong nƣớc và quốc tế đƣợc chuyển giao và tiếp thu có chọn lọc, nhanh chóng thông qua nhiều dự án phát triển mà ngành VHTTDL đang thực hiện hoặc thông qua dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài; khả năng tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật, cộng nghệ, kiến thức của ngƣời Việt Nam nói chung và sự đóng góp, cống hiến của kiều bào ta ở nƣớc ngoài vào sự nghiệp phát triển NT- TDTT và đào tạo NT-TDTT ngày càng thể hiện rõ nét khi Việt Nam hội nhập sâu và toàn diện với khu vực và thế giới. Trong giai đoạn vừa qua, Đảng và Nhà nƣớc đã xây dựng và ban hành khá đồng bộ hệ thống quan điểm, đƣờng lối, chiến lƣợc, quy hoạch, chƣơng trình, đề án, cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giáo dục, đào tạo về NT-TDTT. Trong đ : - Các văn bản đề cập về chủ trƣờng, quan điểm, đƣờng lối của Đảng đáng chú ý có Nghị quyết Hội Nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VIII (năm 1998) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Kết luận Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ 10 khoá IX (năm 2004); Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 01/12/2011, của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa XI) về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, tạo bƣớc phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020. - Các bộ Luật có liên quan đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo NT-TDTT đáng chú ý có Luật giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật TDTT... kèm theo các Nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật. - Các chiến lƣợc, quy hoạch, chƣơng trình, đề án có liên quan đến nội dung đào Pl.83 tạo NT-TDTT nhƣ Chiến lƣợc phát triển Văn hóa đến năm 2020, Chiến lƣợc phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2020; Chiến lƣợc phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020; Quy hoạch phát triển nhân lực nhóm ngành văn hóa, thể thao giai đoạn 2011-2020; Quy hoạch mạng lƣới trƣờng đại học và cao đẳng giai đoạn 2011-2020; Quy hoạch mạng lƣới các trƣờng đào tạo chuyên nghiệp về VHNT giai đoạn 2011-2020. - Các văn bản pháp luật liên quan đến cơ chế, chính sách đặc thù, nâng cao quyền tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính và xã hội hóa có liên quan đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo NT-TDTT nhƣ Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tƣ liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ Giáo dục – Đào tạo và Bộ Nội vụ hƣớng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập GDĐT; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trƣờng; Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công; Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015... Những quan điểm, đƣờng lối, chính sách, pháp luật trên đây đã xác định đƣợc tính chất, mục tiêu cơ bản phát triển lĩnh vực NT-TDTT; tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc triển khai mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo về NT-TDTT của đất nƣớc. Đây cũng là những căn cứ quan trọng để các trƣờng NT-TDTT đẩy mạnh xây dựng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về đào tạo NT-TDTT trong thời gian tới. Trong giai đoạn sắp tới, đất nƣớc tiếp tục thực hiện cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, xã hội hóa, đặc thù trong lĩnh vực đào tạo, phát triển nhân lực NT-TDTT. Chú trọng chính sách phát triển giáo dục, đào tạo ƣu tiên cho các đối tƣợng chính sách, có hoàn cảnh khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số; trong quá trình thực hiện cơ chế, chính sách phát triển giáo dục, đào tạo NT-TDTT cần chú ý có sự phân biệt về nhu cầu sử dụng, mục tiêu đào tạo, lộ trình, mức độ tự chủ giữa các trƣờng, các bộ Pl.84 môn, loại hình đào tạo nhằm đảm bảo tính khả thi. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc tập trung hoàn thiện một số cơ chế, chính sách của Nhà nƣớc chƣa thực sự phù hợp yêu cầu thực tiễn, đặc biệt là các cơ chế, chính sách đối với đào tạo NT-TDTT. Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ đào tạo NT-TDTT mặc dù đƣợc đầu tƣ những vấn còn còn kém phát triển, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu đào tạo nhân lực NT-TDTT của đất nƣớc. Do đó, yêu cầu xây dựng nâng cấp cơ sở vật chất là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, công tác xã hội hóa đào tạo NT-TDTT cần phải đẩy mạnh hơn để huy động nguồn lực toàn xã hội, nhằm bù đắp và hỗ trợ nguồn lực đầu tƣ của Nhà nƣớc về đào tạo NT-TDTT vốn hết sức khó khăn. Do nhu cầu đào tạo NT-TDTT có xu hƣớng tăng về số lƣợng và chất lƣơng nên các trƣờng cần tập trung thực hiện giải pháp nhằm bổ sung, nâng cao tiêu chuẩn nguồn cán bộ GV có trình độ, đồng thời đẩy mạnh quốc tế hóa đào tạo NT-TDTT. Cùng với những thay đổi chính sách giáo dục đào tạo đại học, Nhà nƣớc tiếp tục cải thiện các thủ tục đầu tƣ, quản lý NT-TDTT nhằm tạo ra môi trƣờng kinh doanh dịch vụ theo hƣớng lành mạnh, hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực của cơ chế thị trƣờng dẫn tới thƣơng mại hóa trong hoạt động sáng tạo và phát triển tài năng cũng nhƣ lĩnh vực đào tạo NT-TDTT. PL17: Quan điểm, định hƣớng của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính các trƣờng đại học công lập 1. Nhà nước cần giao quyền tự chủ tài chính ở mức độ cao cho trường đại học công lập Ở phạm vi quốc gia cũng nhƣ quốc tế thì sự tồn tại của một trƣờng ĐH sẽ có ba nhiệm vụ chính, đó là: 1) cung cấp các khóa đào tạo; 2) thực hiện NCKH; 3) cung cấp cho cộng đồng, cho xã hội các dịch vụ khoa học, tƣ vấn về KHCN. Sau đổi mới, nền kinh tế nƣớc ta đã có những chuyển biến rất tích cực, đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, trong đó, GDĐH đã không ngừng phát triển về qui mô, loại hình đào tạo. Nhƣng một bất cập lớn nảy sinh khi đại chúng hóa GDĐH là sự giảm sút về chất lƣợng. Nguyên nhân là do nguồn NSNN đầu tƣ cho GDĐH tăng không đáng kể, dẫn tới nhiều trƣờng không có đủ nguồn lực tài chính để duy trì, nâng cao chất lƣợng và sức cạnh tranh với các trƣờng ĐH khác trong khu vực và quốc tế. Để cải thiện tình hình trên, đòi hỏi Nhà nƣớc ta cần đổi mới cơ chế quản lý, giao quyền TCTC ở mức độ cao cho các trƣờng ĐHCL. Có nhƣ vậy, các trƣờng mới nâng Pl.85 cao quyền tự chủ một cách đầy đủ để quản lý nhà trƣờng tốt hơn. Các khoản thu chi trong nhà trƣờng sẽ đƣợc công khai, dân chủ hóa hơn, thực hành tiết kiệm chi tiêu, chống lãng phí, nâng cao đời sống vật chất cho đội ngũ CBVC, thúc đẩy nâng cao chất lƣợng toàn diện của nhà trƣờng. Ở góc độ trách nhiệm của trƣờng ĐH đƣợc giao quyền TCTC là phải chủ động tìm kiếm, sử dụng nguồn tài chính hợp lý; sắp xếp lại biên chế, bố trí tổ chức lao động một cách khoa học; mở rộng hoặc sắp xếp lại cơ cấu đào tạo, NCKH và các hoạt động khác cho phù hợp với khả năng, năng lực của nhà trƣờng [29]. 2. Đổi mới nhận thức về vai trò, địa vị pháp lý, môi trường hoạt động của trường đại học công lập trong nền kinh tế thị trường định hướng x hội chủ nghĩa Từ năm 1986, nền kinh tế nƣớc ta chuyển sang hoạt động theo nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, mọi hoạt động đào tạo, NCKH của các trƣờng ĐHCL không chỉ phục vụ cho các cơ quan, thành phần kinh tế nhà nƣớc mà còn đáp ứng nhu cầu của tất cả các thành phần kinh tế khác. Nó đóng vai trò cung cấp dịch vụ về tri thức ở bậc ĐH cho cá nhân và cả xã hội. Nó chính là lực lƣợng sản xuất trực tiếp trong quá trình tạo ra một hàng hoá đặc biệt là con ngƣời có trình độ tri thức cao. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, các trƣờng ĐHCL thực sự là những “trạm dịch vụ XH”, có sứ mạng phục vụ cả nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhu cầu của xã hội trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế. Vì vậy, các trƣờng ĐHCL luôn luôn chịu sự tác động, chi phối của 5 loại qui luật, nguyên tắc khác nhau, bao gồm: quy luật, nguyên tắc sƣ phạm; quy luật, nguyên tắc quản lý hệ thống xã hội; quy luật hài hoà lợi ích trong xã hội; các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trƣờng; các quy luật, nguyên tắc của hoạt động KHCN [31]. Dƣới góc độ quản lý và môi trƣờng phát triển KT-XH của một quốc gia và cả thế giới cho thấy nếu chúng ta xem xét trƣờng ĐHCL nhƣ một đơn vị sự nghiệp có thu thì đây là cách hiểu giản đơn nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị mà chƣa coi trọng nhiệm vụ cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu XH. Chính điều này đã vô tình thu hẹp các hoạt động của các nhà trƣờng trong thời kỳ hội nhập quốc tế về GDĐH. Bởi vì, khi các trƣờng ĐHCL cung cấp dịch vụ GDĐH cho cả khu vực tƣ nhân trong nƣớc và nhu cầu của quốc tế dẫn tới tỷ trọng thu nhập từ các nguồn kinh phí ngoài NSNN cấp ngày càng tăng. điều này đã làm cho các trƣờng phải cạnh tranh gay gắt với các trƣờng ĐH khác trong nƣớc, ngoài nƣớc để giành các nguồn lực Pl.86 tài chính. Vì thế, Nhà nƣớc phải căn cứ vào cả tính “lợi ích” hay “lợi nhuận” để có cơ chế quản lý phù hợp (nếu trƣờng ĐHCL hoạt động chỉ vì “lợi ích” của mình thì nhànƣớc không cần phải đầu tƣ ngân sách). Những kết luận trên đã đƣợc minh chứng qua ý kiến trả lời của 132 nhà quản lý GDĐH (bảng 12). “85% ý kiến (giá trị trung bình M=3,13)” rất đồng ý và đồng ý cho rằng trong phạm vi quản lý nhà nƣớc thì cần phải cân nhắc yếu tố phi lợi nhuận của trƣờng ĐH; 96% ý kiến (M=3,37) cho rằng sự cạnh tranh giữa bản thân các trƣờng ĐH trong nƣớc và với các trƣờng ĐH nƣớc ngoài ngày càng tăng; 98% ý kiến (M=3,26) cho rằng các trƣờng ĐH Việt Nam chịu tác động của thị trƣờng. Bảng 4.2: Tầm nhìn về quản lý giáo dục đại học Mục khảo sát Kết quả Trung bình (M) Độ lệch chu n (SD) Tần xuất trả lời (%) 4 3 2 1 Quản lý nhà nƣớc cần cân nhắc đến yếu tố lợi nhuận của trƣờng Đại học Đ 3.13 0.71 30 55 12 3 Cạnh tranh giữa các trƣờng trong nƣớc và giữa các trƣờng Việt Nam và các trƣờng nƣớc ngoài đến 2019 G 3.37 0.56 41 55 4 0 Tác động của thị trƣờng đến các trƣờng đến 2019 G 3.26 0.47 27 71 2 0 Nguồn: [23, tr. 139]; kiểu trả lời, (đ) là đồng ý; G: Gia tăng, (F): Tần suất trả lời, trong đó: 4 là tích cực nhất, 1 là không tích cực nhất Hiện nay, trên thế giới nhiều nƣớc coi hoạt động của trƣờng ĐH nhƣ hoạt động của một công ty. Ở ĐH quốc gia Seoul (Hàn Quốc), khi hỏi ý kiến về biện pháp cải thiện tính cạnh tranh quốc tế thì 96% giáo sƣ đã đồng tình chuyển hoạt động của trƣờng theo mô hình công ty. Năm 1999, nội các Nhật xác định việc chuyển đổi ĐH quốc gia thành công ty quản trị độc lập là một yêu cầu tất yếu. ĐH Queensland Australia (UQ) - năm 2007 xếp hạng 33 thế giới, là trƣờng ĐH nghiên cứu hàng đầu của Australia luôn khẳng định mình là DN 1 tỷ Úc kim [62]. Nhƣ vậy, ở khía cạnh thị trƣờng cũng nhƣ ở lĩnh vực tài chính cho thấy hoạt động của các trƣờng giống nhƣ hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất là làm ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính trị, KT-XH. điều này đồng nghĩa với việc các trƣờng ĐHCL phải TCTC, tự chịu trách nhiệm, phải cạnh tranh về chất lƣợng và chi phí đào tạo đối với các sản phẩm của nhà trƣờng tƣơng tự nhƣ việc các DN phải tự chủ, tự Pl.87 chịu trách nhiệm về mọi hoạt động SXKD của mình. Ở nƣớc ta, về luật pháp, bƣớc đầu trƣờng ĐHCL có vai trò nhƣ DN đã đƣợc thừa nhận. 3. Nhận thức lại vai trò Nhà nước trong việc tạo nguồn tài chính cho các trường ĐHCL hoạt động và nâng cao chất lượng đào tạo. Thế kỷ XXI, kỷ nguyên của tri thức và toàn cầu hóa, GDĐH có vai trò rất to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển KT-XH của một quốc gia và cả thế giới. Vì vậy, Chính phủ các nƣớc thƣờng xuyên đầu tƣ NS và rất quan tâm tới việc tạo ra những trƣờng ĐH đỉnh cao, có uy tín về chất lƣợng đào tạo và NCKH. Theo Salmi (2008), có 3 nhân tố tạo ra sự thành công của các trƣờng ĐH đẳng cấp quốc tế, đó là: “nguồn lực dồi dào, tập trung tài năng, và cơ chế quản trị thuận lợi”. điều này có nghĩa muốn tạo ra một trƣờng ĐH có chất lƣợng, có thƣơng hiệu thì phải có cơ chế đảm bảo cho nhà trƣờng đó có một nguồn lực “rất lớn” và chúng ta cần loại bỏ quan điểm “chi phí thấp, chất lƣợng cao”; muốn có “chất lƣợng cao thì phải bỏ chi phí cao”. Ví dụ, ngân sách hoạt động hàng năm của ĐH Harvard (Mỹ) là 3,464 tỷ USD; ĐH quốc gia Seoul (hàn Quốc) là gần 1 tỷ USD [27]. Vì vậy, Nhà nƣớc cần giao quyền TCTC ở mức độ cao để các trƣờng có đƣợc sự bình đẳng, chủ động tham gia vào các hoạt động cung cấp dịch vụ GDĐH cho xã hội. Nhà nƣớc chỉ nên giữ vai trò tạo môi trƣờng, khuôn khổ pháp lý, vai trò giám sát (oversee), quản lý các trƣờng ở tầm vĩ mô mà không trực tiếp tham gia vào việc thực hiện chính sách, không làm thay chức năng, nghiệp vụ của các trƣờng. Việc giao quyền TCTC ở mức độ cao không có nghĩa buông lỏng quản lý mà phải gắn với trách nhiệm giải trình; đảm bảo công bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ thực hiện, buộc các trƣờng phải tồn tại bằng chất lƣợng. 4. Hoàn thiện cơ chế TCTC theo hướng tạo lập môi trường, thúc đẩy đào tạo theo nhu cầu XH và hội nhập quốc tế Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, nguồn nhân lực là tài sản chung, ngƣời lao động có thể làm bất kỳ công việc nào, ở bất kỳ đâu nếu họ có đủ tiêu chuẩn yêu cầu. Xu hƣớng quốc tế hoá GDĐH là một tất yếu khách quan không loại trừ bất cứ một nƣớc nào trên thế giới. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế TCTC các trƣờng ĐHCL cần tiếp cận với các tiêu chuẩn của thế giới. Ngoài ra, Nhà nƣớc cần phải tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các trƣờng trong nƣớc và nƣớc ngoài. Hiện nay, các trƣờng nƣớc ngoài đƣợc ƣu tiên, đƣợc tự do tổ chức hoạt động đào tạo mà không chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Bộ GDĐT về chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp giảng dạy... trong khi đó các trƣờng trong nƣớc Pl.88 phải thực hiện theo khung chƣơng trình có sẵn và bị khống chế về chế độ chi tiêu, tuyển dụng, đầu tƣ. Thực tiễn cho thấy trong XH có nhiều thành phần kinh tế, nhiều đối tƣợng có nhu cầu lĩnh vực, bậc học và các mô hình, thời gian, chất lƣợng khác nhau. Do vậy, các trƣờng ĐHCL phải đƣợc quyền trong việc đáp ứng các nhu cầu học tập đa dạng của xã hội. Ví dụ, các trƣờng có thể xây dựng chƣơng trình và mở lớp đào tạo MBA với thời gian đào tạo 1 năm giống nhƣ mô hình đang áp dụng tại các nƣớc tiên tiến nhƣ Australia, Singapore trong khi đó, ở nƣớc ta hiện nay vẫn là 2 năm. 5. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nhằm đổi mới nhận thức, tạo sự đồng thuận x hội, xác định chi cho GDĐH là chi đầu tư phát triển. Cuộc cách mạng KHCN đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên thế giới đã làm đảo lộn vai trò của các yếu tố truyền thống trong sản xuất và cạnh tranh. KHCN trở thành "lực lƣợng sản xuất trực tiếp", trí tuệ là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển của một quốc gia. Vì vậy, ở nƣớc ta cần nâng cao chất lƣợng các trƣờng ĐHCL. đảm bảo mỗi nhà trƣờng thực sự là một trung tâm sản sinh ra tri thức mới đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của đất nƣớc. Song tri thức của một nhà trƣờng không ngẫu nhiên mà có, nó chỉ đƣợc tạo ra khi giải quyết đƣợc đồng thời ba vấn đề: đội ngũ cán bộ, GV phải vừa hồng vừa chuyên? Phƣơng pháp đào tạo, CSVC; giáo trình, giáo án, bài giảng phải cập nhật những công nghệ, kiến thức mới đáp ứng yêu cầu của các đơn vị, DN sử dụng sản phẩm đào tạo? tuyển ngƣời học có đủ trình độ, năng lực và say mê với ngành nghề đƣợc đào tạo? Ba vấn đề trên có sự gắn kết hữu cơ với nhau, nó đƣợc giải quyết khi nhà trƣờng có đủ nguồn lực tài chính, đặc biệt là có cơ chế TCTC linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm cụ thể Trong điều kiện Nhà nƣớc còn khó khăn về NS đầu tƣ cho GDĐH thì XHH là một yêu cầu khách quan, đảm bảo GDĐH có cơ hội phát triển, hội nhập quốc tế. Ở cấp độ vĩ mô, Nhà nƣớc cần tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trên các phƣơng tiện thông tin truyền thông để thay đổi nhận thức của toàn thể cộng đồng là đầu tƣ GDĐH là đầu tƣ cho sự phát triển. 6. Đổi mới cơ chế TCTC phải g n với thúc đẩy tạo ra nhiều cơ hội cho người học. Đổi mới cơ chế TCTC các trƣờng ĐHCL phải theo hƣớng có nhiều con đƣờng học khác nhau cho ngƣời học. Ví dụ nhƣ mô hình của Úc đƣợc xây dựng giữa các bậc học có sự liên thông theo chiều dọc, chiều ngang, thậm chí liên thông chéo với nhiều Pl.89 cách thức khác nhau. đào tạo từ trình độ công nhân cho phép học thẳng lên trình độ tiến sĩ. Mặc dù tỷ lệ này chỉ chiếm vài %, nhƣng đây cũng là cách thức để giải phóng nhu cầu cá nhân, khuyến khích ngƣời học tự lựa chọn mô hình, con đƣờng đi thích hợp với khả năng, điều kiện của riêng mình. Xuất phát từ những lý do trên, đòi hỏi cơ chế TCTC trƣờng ĐHCL phải đảm bảo tính mềm dẻo, linh hoạt trong cách thu, chi; mức thu học phí cho các đối tƣợng không bị ràng buộc, không bị khống chế theo trần mà nƣớc ta đang thực hiện. 7. Đổi mới cơ chế TCTC cần tiến hành đồng bộ, song hành với đổi mới các qui trình khác để tạo ra tính hiệu quả, tính khả thi Một là, gắn TCTC với tự chủ đại học và tự chịu trách nhiệm, có nhƣ vậy mới tạo môi trƣờng, điều kiện để các trƣờng chủ động giải trình trách nhiệm về chất lƣợng đào tạo, NCKH trong quá trình tìm kiếm, khai thác nguồn tài chính. Hai là, công tác quản lý, tuyển dụng, nâng bậc lƣơng của CBVC... nên giao hoàn toàn cho nhà trƣờng thực hiện; khoa chuyên môn có thể ký hợp đồng, gửi giấy mời giảng, trả tiền công cho mỗi GV khi thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao. Ba là, thay đổi cơ chế quản lý NCKH, các trƣờng có quyền lựa chọn, tự chịu trách nhiệm về lĩnh vực, đề tài; đƣợc tự do lựa chọn hợp đồng NCKH, chuyển giao công nghệ trên nguyên tắc hiệu quả. ốn là, trong hợp tác quốc tế, giao quyền chủ động cho các trƣờng. Chẳng hạn nhà trƣờng và khoa chuyên môn đƣợc phép gửi thƣ mời trực tiếp tới giáo sƣ, nhà khoa học nƣớc ngoài đến làm việc và trả lƣơng... không cần qua nhiều cấp quản lý xét duyệt, kiểm soát, tránh làm cản trở việc giao lƣu, học hỏi và tự do học thuật. Năm là, cần đổi mới cơ chế quản lý đầu tƣ XDCB nên phân quyền cho các trƣờng đƣợc xây dựng qui hoạch tổng thể và phê duyệt các dự án đầu tƣ theo yêu cầu nhiệm vụ phát triển nhà trƣờng trên cơ sở chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc. 8. Đẩy mạnh việc xây dựng, thành lập doanh nghiệp và tiến hành cổ phần hóa một số bộ phận phục vụ trong nhà trường. Xây dựng, thành lập DN là nhằm đổi mới chức năng, nhiệm vụ của trƣờng ĐHCL, đó là vừa đào tạo, vừa NCKH và tham gia phục vụ SXKD. Thành lập các DN sẽ là cầu nối thúc đẩy việc chuyển giao các công trình nghiên cứu vào cuộc sống, nó làm cho các trƣờng trở nên năng động hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu của XH. Ở nƣớc ngoài, việc thành lập DN trong nhà trƣờng là một tất yếu nhƣng ở nƣớc ta nó vẫn Pl.90 là một khái niệm xa lạ. Vì vậy, về phía các trƣờng cần mạnh dạnh thành lập DN với nhiệm vụ tƣ vấn, chuyển giao KHCN, SXKD các sản phẩm phục vụ đời sống XH. Về phía Nhà nƣớc cần có chính sách hỗ trợ nhƣ miễn, giảm thuế cho các DN trong nhà trƣờng. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các trƣờng tập trung vào nhiệm vụ chính là đào tạo, NCKH thì Nhà nƣớc nên cho phép cổ phần hoá một số khâu cung cấp dịch vụ nhƣ bộ phận ký túc xá, in ấn, thƣ viện, đào tạo ngắn hạn... trong đó, CBVC đƣợc ƣu tiên mua cổ phần... nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản lý thúc đẩy CBVC tận tuỵ với sự phát triển của nhà trƣờng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_co_che_tu_chu_tai_chinh_trong_giao_duc_dai_hoc_o_vie.pdf
  • pdfQD_NguyenKieuDuyen.pdf
  • docxTrichyeu_NguyenKieuDuyen.docx
  • pdfTT Eng NguyenKieuDuyen.pdf
  • pdfTT NguyenKieuDuyen.pdf
Luận văn liên quan