Luận văn Hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015

“Hạnh phúc“ (H.43, tr.83) của tác giả Phạm Hào, hình tượng con người được quy vào khối ê líp, diễn tả một cô gái sức sống tràn trề bằng những khối căn tròn trên cơ thể. Hay tác phẩm “Xiếc“ (H.47, tr.85) của Nguyễn Văn Hàm, “Tự tình” (H.47, tr.85) NĐK Bùi Nam, tất cả đều lược giản khối, khái quát chung hình tượng con người qua mà sắc, hình khối đan xen vào nhau là cho người xem suy nghỉ và thích thú với nghệ thuật trừu tượng. “Thiếu nữ” (H.48, tr.86) của Phạm Minh Tuấn, “Bóng nắng” (H.52, tr.88) tác giả Phan Thanh Quang, càng thấy rõ đơn giản hình tượng con người trong những hình khối, đường nét. Sự thành công xu hướng trừu tượng chính là sự sáng tạo tự do, không ràn buộc về tỷ lệ, tìm kiếm không gian trong tượng bằng những khối thủng, nhưng vân gỗ không mất đi tính hàn lâm trong tác phẩm và một phần đã tạo hiệu quả thị giác mới lạ cho người xem.

pdf96 trang | Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác phẩm điêu khắc theo xu hướng biểu hiện dần dần xuất hiện, những tác phẩm như: “Tượng Võ Thị Sáu và Phú Lợi căm thù” của nhà điêu khắc Diệp Minh Châu đã cho thấy sự biểu hiện các nhân vật mà ông tạo ra trong giai đoạn đó, cho dù với chất liệu nào xu hướng biểu hiện cũng là đề tài được khai thác, tạo hình rõ nét và khái quát nhất. Sau sự thành công của các thế hệ đi trước, điêu khắc Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2015, xu hướng biểu hiện về hình tượng con người trong điêu khắc gỗ đã có phần nổi trội hơn, các chủ đề tập trung vào những đặc điểm hình thể, khối, ngôn ngữ và nội dung tư tưởng trong tác phẩm. Có thể nói xu hướng biểu hiện trong giai đoạn 2000 - 2015 chủ yếu khai thác hai chủ đề chính. Chủ đề về hình tượng con người trong ký ức về chiến tranh và chủ đề hình tượng con người trong đời sống hàng ngày. Tác phẩm “Đuốc sống” của tác giả Nguyễn Chí Đức (H.23, tr.72) đã thể hiện nhân vật đang chạy về một hướng, nhìn vào tác phẩm người xem nhận ra đó là anh hùng thiếu niên “Lê Văn Tám”, với ngọn lửa đang bốc cháy quanh cơ thể. Tác giả chọn lựa chọn chất liệu gỗ để xây dựng hình tượng anh hùng, bản thân của gỗ là chất liệu bền vững tượng trưng cho sự trường tồn, sức mạnh của tuổi trẻ. Qua hình khối, diễn tả sắc thái nhân vật, bước chạy nhẹ nhàn, đôi chân như có thêm sức mạnh của ý chí, kết hợp màu đỏ là gam nóng rất phù hợp với nhân vật. Tác phẩm là sự kết nối giữa hiện tại và quá khứ, trong đó tư tưởng nghệ thuật biểu hiện qua vẻ đẹp chuẩn mực của con người, vẻ đẹp của hình thể, vẻ đẹp tư tưởng của tác giả. Ngôn ngữ vừa mang tính hàn lâm, hình khối căn tròn của lứa tuổi thiếu niên sức sống mãnh liệt Qua tác phẩm “Nỗi đau sau” của Nhà điêu khắc Đinh Rú, có rất nhiều nỗi đau của con người, nỗi đau về cuộc chiến tranh dân tộc, nỗi đau gia đình nhưng “Nỗi đau sau” lại thể hiện nỗi đau của người mẹ, người vợ, hai 36 tây ôm đầu như tuyệt vọng trong cuộc sống, tuyệt vọng trong chờ đợi, nỗi đau của người mẹ trong lúc hai con thơ vẫn nô đùa không hề hay biết chuyện gì đang xảy ra. Nỗi buồn tăng thêm khi tác giả dùng ngôn ngữ biểu hiện, các khối đều đặn, mái tóc thành một khối chạy dài xuống lưng, tất cả đều buôn thả, hai đứa trẻ không được người mẹ quan tâm, màu tối pha một ít màu đỏ của vùng đất Tây Nguyên khô cằn. Hình ảnh người đàn bà đang che mặt khóc trong khi đứa bé không còn sức sống, toàn thân mềm oặt thả dài xuống người mẹ lại gợi lên trong người xem một niềm đau xót trước nghịch cảnh của chiến tranh, người mẹ mất con trong chiến tranh và một người mẹ đói kém trong thời bình. Đến với “Tổ đặc công vượt rào” của Lê Duy Ứng”, “Hiểm họa bom mìn” của NĐK Đinh Rú thì xu hướng biểu hiện trong hai tác trên càng thể hiện nội dung các đề tài, ý tưởng và ngôn ngữ tạo hình về các hình tượng con người trong điêu khắc gỗ mang lại giá trị nhân văn, giá trị tinh thần trong giai đoạn này. “Cầu mưa” của Minh Tuấn (H.28, tr.74) từ xa xưa tộc lệ cầu mưa của người dân tộc Tây Nguyên đã gắn với lịch sử con người, một giá tri văn hóa phi vật thể. Cầu mưa cho đất tươi tốt, cho cuộc sống ấm no mà tác giả đã gói gọn trong tác phẩm. Bố cục ba nhân vật được tái hiện lễ hội cầu mưa, sự vui mừng thể hiện trên khuôn mặt, đôi mắt của nhân vật, tiếng cồng chiên báo hiệu tin tốt lành và cảm nhận được những hạt mưa qua hai bàn tay của già làng. Đoàn kết mang lại niềm tin, ba con người đại diện cho ba thế hệ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Niềm vui của người Bà biểu hiện trên khuôn mặt trong tác phẩm “ Niềm vui của bà” của Huỳnh Đan Viên (H.33, tr.77). Cái tuổi xế chiều, niềm hạnh phúc được có con đàn, cháu đông là một niềm vui vô cùng to lớn của những người già, một cuộc sống thực tế mà tác giả đã bắt gặp và đã tái hiện giây 37 phút hạnh phúc của người bà khi chơi đùa cùng con cháu qua ngôn ngữ điêu khắc trên chất liệu gỗ. Có con là niềm tự hào, hạnh phúc của những người là cha, làm mẹ, hy sinh cho con những điều nhỏ nhất. Tác phẩm “Theo mẹ” của Quách Hùng (H.31, tr.76), “Che chở” tác giả Đinh Rú (H.35, tr.78), “Ru con” của Nguyễn Lương (H.36, tr 78) và “Đón mẹ về” NĐK Phan Hùng (H.38, tr.80). Mỗi tác phẩm đều có một đặc điểm riêng, lấy hình tượng người phụ nữ để tạo hình ảnh đẹp, biết chịu khổ, thương con, che chở cho con mình, các nhân vật được biểu cảm trên khuôn mặt, tay ôm con vào lòng cho con có giấc ngủ yên bình. Nguyễn Hồng Dương lại chọn cho mình cách biểu đạt riêng, tác phẩm “Tấm áo miền xuôi,” sự thiếu thốn về đời sống của các dân tộc vùng xa xôi hẻo lánh, một tấm áo, niềm vui người mẹ sắp đón đứa con sắp chào đời được biểu hiện trên khuôn mặt nhân vật. Tóm lại xu hướng biểu hiện giai đoạn này khá phát triển, phát triển về chất liệu, tìm tòi trong bố cục, hình tượng con người biểu lộ được cảm xúc, các chi tiết, màu sắc trong tượng được đầu tư có chất lượng và mang tính hàn lâm trong tác phẩm. 2.2.4. Xu hướng trừu tượng hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Trừu tượng là một phong trào nghệ thuật Mỹ thời hậu Chiến tranh Thế giới II. Đó là phong trào đặc biệt đầu tiên của Mỹ để đạt được ảnh hưởng quốc tế và đưa thành phố New York là trung tâm của thế giới nghệ thuật Tây phương, vai trò trước đây là lấp đầy bởi Paris. Mặc dù thuật ngữ "ấn tượng trừu tượng" lần đầu tiên được áp dụng cho nghệ thuật Mỹ vào năm 1946 bởi các nhà phê bình nghệ thuật, Robert Coates, nó đã được sử dụng đầu tiên ở Đức vào năm 1919 trong tạp chí Der Sturm, liên quan đến biểu hiện Đức. Tại Hoa Kỳ, Alfred Barr là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này vào năm 1929 liên quan đến tác phẩm của Wassily Kandinsky. 38 Về phong cách, mặt kỹ thuật, trường phái trừu tượng một người tiền nhiệm quan trọng là chủ nghĩa siêu thực, với sự nhấn mạnh vào tự phát, tự động tạo ra hoặc tiềm thức. Nhỏ giọt sơn Jackson Pollock vào một khung đặt trên sàn nhà là một kỹ thuật mà có nguồn gốc từ các tác phẩm của André Masson, Max Ernst và David Alfaro Siqueiros. Một biểu hiện khác đầu quan trọng của những gì đã đến được biểu hiện trừu tượng là công việc của nghệ sĩ Mark Tobey, đặc biệt là những tác phẩm "viết trắng" bức tranh sơn dầu, trong đó, mặc dù nói chung không lớn về quy mô, dự đoán là "tất cả trong" cái nhìn của bức tranh nhỏ giọt Pollock. Ở giai đoạn này họa sĩ Pablo Picasso là bước ngoặc, sự sáng tạo ra những của bức tranh và tác phẩm điêu khắc gần thế kỷ qua chủ nghĩa Lập thể và tác phẩm điêu khắc được xây dựng, với những ảnh hưởng khác nhau như Navaho bức tranh cát, chủ nghĩa siêu thực, phân tích Jungian, và nghệ thuật vẽ tranh tường Mexico, Pollock định nghĩa lại những gì nó đã được sản xuất nghệ thuật. Trường phái trừu tượng nói chung mở rộng và phát triển các định nghĩa và khả năng của các họa sĩ, nhà điêu khắc có sẵn để tạo ra các tác phẩm mới của nghệ thuật. Trường phái trừu tượng biểu hiện giá trị hơn sự hoàn hảo, sức sống hơn kết thúc, biến động trên nghỉ ngơi, không biết trong tiếng, che khuất hơn rõ ràng, cá nhân đối với xã hội và các bên trong bên ngoài. Trong điêu khắc giai đoạn cuối TK XVIII đầu TK XIX các xu hướng như biểu hiện, Pop Art, Installation, Contemporary Arts, Composition, đặc biệt xu hướn trừu tượng xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam với những thử nghiệm mới trong sáng tác, chất liệu khác để tạo ra tác phẩm. Đặc biệt xu hướng trừu tượng giai đoanh 2000 - 2015 lại được sử dụng nhiều trong tạo hình điêu khắc hiện đại, so với những năm về trước, do tác động của xã hội, các nghệ sĩ, nhà điêu khắc phải thay đổi quan điểm trong tư duy bố cục. Hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt nam giai đoạn 2000 - 2015, 39 cũng đã vận động, thay đổi để hòa nhập kịp với xu hướng hiện tại, hình tượng con người không còn mang tính hàn lâm, diễn tả nội tâm, hay biểu hiện tình cảm của tác giả vào trong tác phẩm. Phải nói rằng, xu hướng trừu tượng trong điêu khắc hình tượng con người gỗ có phần phức tạp trong cách diễn giải. Không chỉ chất liệu gỗ mà cò các chất liệu khác, hình thức, kỹ thuật và khái niệm của điêu khắc đã, đang và sẽ không ngừng biến đổi, không còn tuân theo những qui định, ràng buộc cụ thể. Nhiều tác phẩm điêu khắc gỗ về hình tượng con người chỉ còn những dạng khối, như khối vuông, khối tròn, nhường như nhà điêu khắc giai đoạn này chú trọng vào không gian trong tác phẩm, và những gì bắt gặp, ngẫu hứng tưởng chừng rất phi lý rồi tạo ra tác phẩm mà người xem chưa hiểu được ý diễn đạt của tác giả. Tác phẩm “Người phương đông” (H.42, tr.83) của nhà điêu khắc Trần Ngọc Anh là một minh chứng trong trào lưu xu hướng trừu tượng. Khi nói con người, bất cứ người nào cũng hình dung cấu tạo một cơ thể con người hoàn chỉnh, nhưng với tác giả con người chỉ là hình tượng con người trong bố cục rỗng và đặc trong suy nghỉ của tác giả. Tác phẩm “Hạnh phúc” (H.45, tr.84) của tác giả Hồ Thu, “Mẹ con” (H.44, tr.84) của tác giả Vũ Quang Sáng, hai tác phẩm đều có chung một niềm hạnh phúc của người mẹ, hình tượng con người của Hồ Thu là những đường thẳng có kích cở khác nhau trên mặt phẳng được bố trí hợp lý. Vũ Quang Sáng gia đình được tạo hình thành những khối vuôn mạnh mẽ, kết hợp những đường âm để diễn tả cơ thể. Nhiều dạng hình thức thể hiện trong sáng tác, điều này do sự đổi thay của xã hội, khi có những bước đột phá, phát minh về khoa học kỹ thuật, cũng như việc ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu này vào trong cuộc sống. Những biến đổi nhanh chóng đó đã tác động ngược lại đời sống khiến con 40 người dần thay đổi cách thức tư duy về chính bản thân cũng như các khái niệm về chất liệu, không gian. Yếu tố không gian tinh thần đã xuất hiện mạnh mẽ trong sáng tạo điêu khắc và nhà điêu khắc không còn ràng buộc vào không gian vật lý. Ngoài ra, cách thức mà nhà điêu khắc đưa tác phẩm của mình đến với công chúng cũng đã thay đổi về hình tượng con người Việt Nam giai đoạn 200 đến 2015. “Hạnh phúc“ (H.43, tr.83) của tác giả Phạm Hào, hình tượng con người được quy vào khối ê líp, diễn tả một cô gái sức sống tràn trề bằng những khối căn tròn trên cơ thể. Hay tác phẩm “Xiếc“ (H.47, tr.85) của Nguyễn Văn Hàm, “Tự tình” (H.47, tr.85) NĐK Bùi Nam, tất cả đều lược giản khối, khái quát chung hình tượng con người qua mà sắc, hình khối đan xen vào nhau là cho người xem suy nghỉ và thích thú với nghệ thuật trừu tượng. “Thiếu nữ” (H.48, tr.86) của Phạm Minh Tuấn, “Bóng nắng” (H.52, tr.88) tác giả Phan Thanh Quang, càng thấy rõ đơn giản hình tượng con người trong những hình khối, đường nét. Sự thành công xu hướng trừu tượng chính là sự sáng tạo tự do, không ràn buộc về tỷ lệ, tìm kiếm không gian trong tượng bằng những khối thủng, nhưng vân gỗ không mất đi tính hàn lâm trong tác phẩm và một phần đã tạo hiệu quả thị giác mới lạ cho người xem. Tiểu kết Chương hai làm rõ những nội dung phản ánh hình tượng con người trong điêu khắc gỗ giai đoạn 2000 - 2015. Chương này đi tìm hiểu các chủ đề tạo hình mà các nghệ sĩ bắt gặp trong cuộc sống. Cụ thể phân tích hình tượng con người trong xã hội hiện đại, nội dung, hình thức, ngôn ngữ thể hiện trong tác phẩm. 41 Phân tích các xu hướng sáng tác thể hiện qua ngôn ngữ tạo hình, bố cục, phong cách, hình thức mà điêu khắc gỗ mang lại đã góp phần vào giá trị nhân văn, giá trị về tư tưởng. Nói tóm lại, qua chương hai cho chúng ta hiểu rõ hơn về nội dung phản ánh tư tưởng con người trong tác phẩm cũng như tưởng của nghệ sĩ, các xu hướng tạo hình giai đoạn này đa dạng trong điêu khắc gỗ, sự linh hoạt trong hội nhập nghệ thuật hiện đại, tuy duy về hình tượng lạc quan qua biểu cảm nhân vật, không gian mà chất liệu gỗ mang lại. 42 Chương 3 THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015 TRONG THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI 3.1. Thành công nghệ thuật điêu khắc gỗ về hình tượng con người Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 Cũng như các chất liệu khác, gỗ là một trong chất liệu quan trọng nhất hiện nay, trong tượng tròn hay phù điêu đã có truyền thống lâu đời. Ở Việt Nam rừng là tài nguyên vô tận, đất rừng chiếm khoản 40 % diện tích cả nước, ban đầu nghệ sĩ tìm đến chất liệu phù hợp trước khi tạo hình, bản thân chất liệu thường có trong tự nhiên, gỗ với đường vân tùy thộc vào tuổi thọ của gỗ. Trên cơ sở đó người nghệ sĩ đục đẻo để tạo những tác phẩm có cảm xúc chân thật, biểu đạt suy nghỉ gửi vào tác phẩm. Xem xét một cách tổng quan, ta thấy rằng, điêu khắc từ chất liệu gỗ có một vai trò quan trọng trong nghệ thuật đương đại, đặc biệt trong tạo hình nghệ thuật nói chung. Chính vì vậy điêu khắc hình tượng con người trong gỗ gây dấu ấn với những đặc điểm riêng của mình đối với trào lưu nghệ thuật hay nghệ thuật tạo hình khác với những thế mạnh mà chất liệu mang lại. Hình con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 có những thành công nhất định về mặt nghệ thuật và xã hội. Về mặt nghệ thuật, các tác phẩm thể hiện trong giai đoạn 2000 - 2015 rất phong phú về nội dung, chủ đề gần gũi với cuộc sống, mỗi tác phẩm đều có ý nghĩa, hình thức, ngôn ngữ biểu hiện khác nhau, diễn tả nhân vật mang đậm tính dân tộc, tác phẩm ‘Vui vẻ” (H.10, tr.64) tác giả Huỳnh Đan Viên, thể hiện phong cách tả thực, tỷ lệ cân đối, cấu trúc của những đứa trẻ con có cái đầu to, chân tay tròn trịa mủm mỉm. Hà Mạnh Chiến với tác phẩm “Tuổi thơ” (H.2, tr.60) thể hiện hài hòa hơn, các chi tiết trên cơ thể nhân vật đúng theo 43 giải phẩu tạo hình, sự khác nhau giữa hai đứa trẻ về trang phục một bên là khối mềm mại của bé gái đối lập những nét thô cứng trên áo quần bé trai đều này đã làm cho tác phẩm sinh động và nghe thấy được cuộc trò chuyện của nhân vật. Trong nghệ thuật tạo hình điêu khắc 10 năm trở lại đây, nhiều tác phẩm điêu khắc gỗ được đánh giá cao về mặt nội dung và hình thức biểu đạt. Tác phẩm “Chuyện quê” (H.24, tr.72) của tác giả Kù Kao Khải, tái hiện lại một câu chuyện miền quê, cuộc sống của những người dân lao động, cần cù chất phác, với làn da đen sạm của cái nắng của biển, nét mặt khắc khổ. Dù trong cuộc sống họ phải chịu nhiều khổ cực, trước bão gió nắng mưa, sống cùng sóng, ăn bằng nước biển. Hình tượng con người trong tác phẩm chỉ thể hiện câu chuyện, nhưng về cấu trúc, tỷ lệ lại không được làm tỉ mỉ, những khối tròn, các chi tiết tay chân đều quy vào hình khối, trái lại tác phẩm đã để lại những giá trị nhân văn và giá trị tinh thần của người lao động vùng biển. Các tác phẩm điêu khắc hình tượng con người trên gỗ ngoài ngôn ngữ biểu đạt, thì màu sắc đóng góp tạo hiệu ứng cho tác phẩm, nhờ có màu sắc nên các trạng thái nhân vật càng thể hiện rõ nội dung. Tác phẩm “Mùa gặt” (H h.32, tr.76) của Nguyễn Hữu Thiện, mùa vàng đất trên cơ thể nhân vật, màu vàng của lúa chín pha lẫn ít màu nâu của đất bùn, nhịp điệu trong bố cục tạo cho người thưởng ngoạn thêm thích thú. Bên cạnh đó nhiều nghệ sĩ đã tìm tòi, mạnh dạng bức phá, trăn trở để có được bố cục đẹp, hình đẹp mà không trùng lặp như tác phẩm “Bóng nắng” của Phan Thanh Quang là một điển hình. Tác phẩm nói về hai nhân vật nam và nữ đứng dưới ánh nắng, tác giả không thể hiện hình tượng con người theo lối hàn lâm thay vào đó là những đường cong, uốn lượng và tối giản khối. Bố cục, ý tưởng hình thành tác phẩm mới lạ, tác giả đã mạnh dạng đục thủng để tạo độ sâu cho tác phẩm. Đến với “Khoảng trống” của tác giả Huỳnh Thanh phú, ba khuôn mặt thể thể hiện tâm trạng khác nhau, mỗi khoảng trống là một hoài niệm, khoảng 44 trống vừa tĩnh, vừa động. Nghệ thuật tạo hình độc đáo, sự thay đổi trên khuôn mặt, chuyển động của nhân vật đã tạo ra một khoảng trống của thời gian, khoảng trống tâm hồn của nhân vật. Qua đó, các tác phẩm hình tượng con người trong điêu khắc gỗ giai đoạn 2000 - 2015 đã góp phần làm phong phú thêm về chất liệu, chủ đề, ngôn ngữ, và định hình phong cách của từng tác giả. Về mặt xã hội, các tác phẩm hình tượng con người trong điêu khắc gỗ giai đoạn 2000 - 2015 có tác động trực tiếp đến đời sống con người, các tác phẩm phản ánh nhiều mặt của xã hội hiện đại, tiếng ồn ào của những công nhân đào cống hay niềm vui khi đón mẹ vềTác phẩm “Hiểm họa bom mìn” (H.31, tr.69) của NĐK Đinh Rú, tác phẩm không dừng lại ở tạo hình nhân vật, nội dung, đó chính là sự tàn phá của các đế quốc xâm lược để lại hậu quả tàn dư của chiến tranh mà con người phải đối mặt hàng ngày với bom mìn còn sót lại, tác phẩm đã tạo hiệu ứng cho người xem trở lại quá khứ chiến tranh. Chủ đề hình tượng người phụ nữ trong giai đoạn 2000 - 2015 được thể hiện rất nhiều, đa dạng về chủ đề, phong phú về nội dung. Phải chăng điều đó là do bản tính của người phụ nữ là hiền lành, cam chịu cuộc sống cực khổ nhưng lại đại diện cho cái đẹp, cái cao quí. Tác phẩm “Ru con” (H.36, tr.78) của tác giả Nguyễn Lương hay “Đón mẹ về” (H.38, tr.80) của Phan Hùng, là những hình ảnh thường gặp trong cuộc sống, thể hiện sự sự đùm bọc, che chở, hy sinh tất cả cho con của mình. Về mặt bố cục, trong điêu khắc bố cục là phần quan trọng nhất cho thành công của tác phẩm, “Bám biển” (H.20, tr.70) , “Khoảng trống” (H.29, tr.75), “Bóng nắng” (h.52, tr.80), qua những tác phẩm đã thể hiện vai trò của bố cục trong điêu khắc, ý tưởng chỉ góp một phần vào thành công của tác phẩm. Nếu không tìm ra một bố cục đẹp, hình tượng tạo ra sẽ không hiệu quả trên chất liệu gỗ. 45 Về mặt thời gian, tác phẩm điêu khắc làm từ chất liệu gỗ, không chỉ mang lại giá trị nghệ thuật cho xã hội mà còn yếu tố về không gian và thời gian của tác phẩm. Những tác phẩm ấy thường được các Nhà điêu khắc, khắc họa dấu ấn một thời gian, gian đoạn cụ thể của một nhân vật hoặc phản ánh thực trạng môi trường, cuộc sống thường ngày, hay sự dằn vặt con người trong thế giới hiện tại. Mỗi tác phẩm là nội dung khác nhau, làm cho người xem cảm nhận giá trị làm bằng chất liệu gỗ, một phần đóng góp vào sáng tạo nghệ thuật lên tầm cao mới để chất liệu gỗ tưởng chừng như khô cứng, không còn những vật vô tri vô giác. Chính bản thân của chất liệu vận động trong vòng xoáy của nghệ thuật, tác phẩm hình tượng con người trong tạo hình điêu khắc còn mang lại cho tác giả có cảm xúc thăng hoa với chất liệu đó. Tác phẩm làm từ chất liệu gỗ là tượng trưng cho sự chắc chắn, khỏe mạnh, cho nên chất liệu không làm mất đi yếu tố thẩm mĩ mặt khác cò mang lại giá trị về thời gian. Về mặt nghệ thuật tạo hình, bản chất của gỗ có nhiều hình dáng khác nhau, màu sắc, kích cỡ phong phú, đây chính là điểm mạnh của chất liệu. Nhà điêu khắc tự do sáng tạo, khám phá tạo hình tác phẩm đẹp nhất thỏa mãn nhu cầu nội tại của cá nhân người nghệ sĩ. “Tấm áo miền xuôi” (H.37, tr.79), “Theo mẹ” (H.30, tr.76), từ đó hình tượng con người trong điêu khắc gỗ không giới hạn về kích cỡ, bó hẹp chủ đề đã tạo hiệu ứng của khoảng trống ở nhiều góc độ khác nhau. Trong giai đoạn 2000 – 2015 ngoài thành công của nghệ thuật tạo hình điêu khắc hình tượng con người trên gỗ, nghệ thuật điêu khắc Việt Nam cũng đánh dấu sự kết hợp của màu trong điêu khắc. Với nhiều tác phẩm điêu khắc sử dụng màu (xanh đậm, màu đỏ, màu vàng) “Cái chữ vùng cao” (H.41, tr.82), NĐK Trần Đức, màu vàng đỏ của rừng núi phần nào đã mang lại kết quả tốt cho tác phẩm. Bên cạnh thành công về màu sắc thì tác phẩm “Mùa gió biển” (H.54, tr.89) NĐK Giang Minh Hoàng lại mang đến cho điêu khắc thể 46 loại mới đó là kết hợp gỗ và nhựa (Composite), đây là tín hiệu mới cho nghệ thuật Việt Nam về sự sáng tạo và tận dụng những miếng gỗ nhỏ làm nên tác phẩm. Vì thế nghệ thuật chính là tư duy sáng tạo, tư duy trong cách làm việc và tư duy về chất liệu, không chỉ tìm ra hướng đi trong sáng tác mà còn mang thông điệp bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên từ rừng. Ngoài tính thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật thì ưu tư lớn nhất của các nghệ sỹ đối với các tác phẩm mỹ thuật chủ yếu là ý tưởng. Từ đó mới dẫn đến các quan niệm, giải pháp tạo hình. Rồi từ giải pháp tạo hình mới đi đến việc nghiên cứu để tìm ra chất liệu biểu đạt. Ngày nay, tuổi thọ của tác phẩm phải nhường chỗ cho tư duy tạo hình mới lạ cũng như việc tạo cảm xúc bề mặt của tác phẩm. Xuất phát từ khát vọng giải phóng tư duy cố hữu về chất liệu như: Đất, thạch cao, đá, poly, kim loại... thì ngày nay, chất liệu gỗ đã chiếm chổ trong tạo hình, từ đó dung mạo nghệ thuật điêu khắc hậu hiện đại đã góp phần làm phong phú cho kho tàng mỹ thuật. Nói tóm lại hình tượng con người trong điêu khắc gỗ giai đoạn 2000 - 2015 góp phần quan trọng trong việc tìm ra ưu điểm chất liệu, phong cách, ngôn ngữ điêu khắc gỗ, nội dung phản ánh hình tượng con người, các xu hướng sáng tác làm tăng sự đa dạng của cách tạo hình. Điêu khắc từ chất liệu gỗ cũng góp phần tạo nên hiệu quả về mặt không gian và thời gia của tác phẩm. Hình tượng con người trong điêu khắc gỗ giai đoạn này còn là sự kết hợp giữa nghệ thuật hiện đại và hơi thở truyền thống. Thể hiện tác trên chất liệu đã tạo nên phá cách về không gian, những ý tưởng mới trong cách thể hiện tác phẩm của tác giả. 47 3.2. Hạn chế sự thể hiện hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 với giai đoạn trước đó Bên cạnh những thành công đạt đươc về hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015, các tác phẩm hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam còn nhiều hạn chế. Thứ nhất, gỗ bị hạn chế về kích thước, không làm được với kích thước lớn và khó để được ngoài trời, vì gỗ là chất liệu hút ẩm, nên việc trưng bày ngoài trời thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến tuổi thọ của tác phẩm. Trong nghệ thuật, việc giới thiệu, tổ chức cuộc triển lãm ngoài trời tác phẩm đến với công chúng là rất cần thiết, tác phẩm có thể tác động trực tiếp vào thị giác của người xem không chỉ mang lại giá trị về nghệ thuật mà còn giá trị về thời gian. Trong giai đoạn hiện nay, do biến đổi khí hậu, tác động của con người vào môi trường cũng phần nào làm ảnh hưởng đến rừng Việt Nam, gỗ ngày càng hiếm về số lượng và kích thước. Do đó trong sáng tác nghệ thuật cũng một phần hạn chế như tác phẩm “Bám biển” (H.20, tr.70) NĐK Trần Thanh Long. Tác phẩm “Mẹ con” (H.44, tr.84) của Vũ Quang Sáng và “Hạnh phúc” (H.45, tr.84) của NĐK Nguyễn Hoài Huyền Vũ, tận dụng, lắp ghép nên tính thẩm mĩ chưa đạt như mong đợi Thứ hai, về mặt không gian, trong tạo hình điêu khắc không gian là một phần tất yếu tạo nên thành công cho tác phẩm. Thí dụ, chủ đề về ô nhiễm môi trường hay nghệ thuật sắp đặt, cần có không gian rộng, ngoài trời để trưng bày tác phẩm sẽ tương tác với người xem cách nhanh nhất và hiệu quả thông điệp của người nghệ sĩ. Đó là không gian ngoài trời, còn tìm kiếm không gian trong tượng ở giai đoạn này chưa được chú trọng, thay vào đó sử dụng khối đặc và đơn giản khối khá phổ biến. 48 Về mặt thời gian của gỗ, nhược điểm của gỗ không giống các chất liệu khắc như sắt, nhôm, đồng, xi măng nếu bảo quản không tốt, dễ bị nứt, nơi có độ ẩm cao thì tác phẩm sẽ bị mục và mối mọt. Thứ ba, hiệu ứng ánh sáng tác động đến tác phẩm, bản thân ban đầu của chất liệu gỗ là chưa tạo ra màu sắc phù hợp với nội dung, nên việc tạo màu kết hợp không gian trong tượng sẽ mang lại nhiều chiều sâu khi áng sáng tác động vào, từ ánh sáng tự nhiên và ánh sáng điện. Ngôn ngữ thể hiện hình tượng con người giai đoạn 2000 – 2015 cũng còn nhiều điểm hạn chế về tạo hình. Tác phẩm “Mẹ con” (H.36, tr.78) NĐK Vũ Quang Sáng, “Hạnh phúc” (H.49, tr.86) của NĐK Nguyễn Hoài Huyền Vũ. Tác phẩm “Hội tây nguyên” (H.51, tr.87) của Đoàn Xuân Hồng. Qua những tác phẩm đó, sự thể hiện về giải phẩu tạo hình, tỷ lệ không cơ bản, sáng tác theo ngẫu hứng, chủ yếu chú trọng chơi khối, bóp hình, lắp ghép các khối lại với nhau, gợi tả những đường nét kỷ hà. Do đó hiệu quả tác phẩm và tính mới trong nội dung chưa đạt đến thẩm mỹ như mong đợi. Về mặt nghệ thuật tạo hình, hình tượng con người trong điêu khắc gỗ giai đoạn 2000 – 2015 chưa thật sự được đánh giá cao. Hình tượng con người chỉ mang tính chất khái quát, biểu hiện tình cảm nhân vật còn thô cứng, diễn đạt đặc điểm nhân vật thiếu tình cảm, hầu hết không có tác phẩm diễn tả nhân vật đạt đến tính hiện thực hay cực thực, từ đó làm cho người xem không tương tác với chất liệu. Tiếp đến là bố cục trong tác phẩm điêu khắc gỗ về hình tượng con người giai đoạn 2000 - 2015 cũng chưa thực sự bứt phá, các nghệ sĩ vẫn còn quanh quẩn với những bố cục đơn giản tượng tự, chưa xác định được phong cách, sáng tác theo ngẫu hứng, chưa khai thác hết thế mạnh của chất liệu gỗ. Một sự thật khi đánh giá điêu khắc gỗ trong giai đoạn này khi nhìn vào và phân tích tác phẩm điêu khắc gỗ tại triển lãm của các tỉnh, khu vực và toàn 49 quốc. Trong thông báo điều kiện tham gia, định hướng sáng tạo, hổ trợ sáng tác và xét duyệt tác phẩm tham dự triển lãm đã làm hạn chế sức sáng tạo của người nghệ sỹ. Các tác phẩm mang tính đặt hàng với số lượng lớn về các đề tài mang dấu ấn cổ động, tuyên truyền làm mai một sức sáng tạo khi tác giả cần công bố tác phẩm. Đánh giá một giai đoạn sáng tạo cũng không nằm ngoài những cuộc triển lãm này vì vậy để phản ánh thực sự ta cần có những đánh giá nhiều chiều từ địa phương cho đến hội nhập, giao lưu quốc tế. Một vấn đề liên quan đến môi trường, gỗ hiện nay là chất liệu hạn chế khai thác nên việc lựa gỗ làm tác phẩm là điểm yếu trong sáng tác giai đoạn hiện nay. Điêu khắc gỗ giai đoạn này còn hạn chế về chủ đề, hình tượng con người chưa phong phú, chủ yếu hình tượng người phụ nữ chiếm ưu thế, các chủ đề bảo vệ tổ quốc, biển đảo, phản ánh mặt trái của xã hội không được chú trọng đã làm cho nghệ thuật điêu khắc gỗ còn thiếu sự linh hoạt trong tư duy sáng tạo. Gỗ là chất liệu thật, như đá, việc tạo hình trên chất liệu thật là một nhược điểm so với các chất liệu trung gian. Tạo hình trên đất sét là phương pháp tối ưu nhất, đất sét dễ chỉnh sửa, hoàn thiện tác phẩm theo ý tưởng của tác giả, đối với gỗ là không thể. Đặc biệt thể hiện hình tượng con người, diễn tả những chi tiết trên cơ thể còn nhiều khuyết điểm về tạo hình. Cuối cùng do yếu tố khách quan và chủ quan của con người là sự khai thác vô tội vạ đáp ứng nhu cầu của con người và xã hội, những cây gỗ to, quý kích thước dài đã dần dần biến mất, gỗ công nghiệp đang dần thay thế. Vì vậy đây cũng là một hạn chế nhất định khi thực hiện tác phẩm, trong cách lựa chọn đề tài và hình tượng nhân vật. Vấn đề này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách thể hiện, đề tài và lớn hơn nữa là đã phản ánh rõ xã hội hiện tại vào lúc này. 50 3.3. Đóng góp của nghệ thuật điêu khắc gỗ hình tượng con người giai đoạn 2000 -2015 đối với nghệ thuật điêu khắc đương đại Việt Nam Như chúng ta đã biết, nghệ thuật phản ánh xã hội. Điêu khắc là một hình thái nghệ thuật biểu hiện mang tính toàn diện và sâu rộng. Hình tượng con người trong giai đoạn này liên quan đến công cuộc đổi mới, mở cửa trong nghệ thuật vào nửa cuối 30 năm đổi mới đó. Hình tượng con người trong điêu khắc gỗ bên cạnh những giá trị đạt trong các thời kỳ vẫn còn được kế thừa trong giai đoạn này, Bên cạnh đó với yếu tố hội nhập đã tạo ra hình tượng con người trong điêu khắc gỗ một diện mạo hoàn toàn mới. Các đề tài, chủ đề được phán ánh đa diện hơn hình tượng con người trong điêu khắc gỗ được khai thác ở nhiều góc độ phóng khoáng hơn không còn bó buộc bời mặc định kích thước, hình dạng mà còn được khai thác đúng theo sự thăng hoa của tác giả bởi các kỹ thuật ghép, nối, tạo màu, tả chất tính đương đại phản ánh rõ nét hơn, sự kết hợp hài hòa giữa tính truền thống và tính đương đại tạo được một giá trị riêng biệt khi hội nhập, tạo được sự thú vị khi khám phá nền điêu khắc gỗ Việt Nam trong giai đoạn chuyển hóa giá trị truyền thống và đương đại trong thời gian này. Với yếu tố con người là chủ thể trong sáng tạo, yếu tố cơ bản của nền văn hoá, giá trị con người được thông qua hình thức và nội dung ở tác phẩm điêu khắc gỗ có một vị trí đặc biệt trong nền điêu khắc trước đây và hiện nay. Nhận thức toàn diện và sâu sắc về vai trò, hình thức, nội dung, qui luật vận động của sự phát triển điêu khắc, vì vậy trong giai đoạn này hình tượng con người được sáng tạo mang tính mới, tính hội nhập nhưng cũng đề cao vai trò cá nhân vì nghệ thuật phải xuất phát từ chính tác giả và cũng từ cái riêng đó đã tạo được một diện mạo mới cho tổng thể điêu khắc gỗ của Việt Nam trong thời gian 2000 - 2015. Qua nhiều giai đoạn phát triển, nghệ thuật điêu khắc hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 đã thay đổi cả về 51 diện mạo, nội dung và phương thức thể hiện. Chính là bởi điều kiện xã hội, kinh tế và con người thay đổi trong những hoàn cảnh lịch sử mới. Bối cảnh khởi đầu cho sự thay đổi về mặt tư tưởng, phong cách tác giả, ngôn ngữ thể hiện định hình xu hướng sáng tác tại thời điển nhất định. Hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam đã định hình, một lối đi riêng, mang đặc trưng của vùng miền, dân tộc, phản ánh những chủ đề mới, bắt kịp trào lưu cùng thời đại, một số tác phẩm có lối tạo hình chân thật, gần gũi dễ hiểu đối với đại bộ phận người dân để phản ánh chủ đề tư tưởng. Tác phẩm điêu khắc thời kỳ này là sự kết hợp giữa chủ nghĩa hàn lâm và chủ nghĩa tự nhiên, chú trọng nhiều đến sắc thái biểu cảm cho khối, vận dụng khối hiện đại để thể hiện ý tưởng một số nhà điêu khắc đã có những tác phẩm tạo nên sự khác biệt trong mặt bằng chung của nền mỹ thuật Việt Nam thời kỳ này. Hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 góp phần quan trọng trong việc tăng tính thẩm mĩ về sự đa dạng của các chất liệu khi phối với nhau: Cũng như vậy, trên bề mặt chất liệu, cảm giác trơn nhẵn, sần sùi hay thô nhám gây nên được những ấn tượng riêng biệt, như bề mặt trơn mang tới cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái. Bề mặt thô nhám thì cho cảm xúc về chất, sự mạnh mẽ trong cách biểu hiện. Minh chứng cho điều này, ta thấy tác phẩm ”Tây bắc” của NĐK Vũ Văn Hợp (H.13, tr.62) đã thể hiện bề mặt nhân vật sần sùi đã đạt được hiệu quả về tạo chất, nội dung tư tưởng xuất phát con người vùng Tây Bắc, vẻ đẹp mộc mạc của chất liệu và ngôn ngữ thể hiện chân thực đã mang lại hiệu quả cảm xúc thị giác cho người xem. Trái ngược với bề mặt thô cứng của tác phẩm “Tây Bắc”, tác phẩm “Người thổi kèn” (H.15, tr.63) tác giả Nguyễn Văn Linh, hình tượng con người được thể hiện khối căng tròn, bề mặt trơn để phù hợp với ý dồn nén khi lấy hơi thổi kèn. Cả hai tác phẩm đều thành công trong tạo hình, tư duy về kỹ 52 thuật tạo chất đã mang lại biểu cảm chất liệu khi thể hiện hình tượng con người ở từng thời gian và không gian cụ thể. Bên cạnh những đóng góp về mặt nghệ thuật tạo hình việc phản ánh hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam, đã đem lại cho điêu khắc đương đại những ý tưởng mới, những bố cục phá cách, đồng thời góp phần làm phong phú đa dạng chất liệu, hình thức, ngôn ngữ biểu đạt mà chất liệu mang lại. Suy nghĩ về hướng đi của điêu khắc gỗ trong thời gian tới vẫn không nằm trong quy luật của sự vận động, hình tượng con người vẫn là trung tâm của chủ thể sáng tạo. một hướng đi hoàn toàn dựa trên những yêu cầu và đề tài có sẵn, tác giả chỉ việc thay đổi hình dạng và kết hợp đúng bố cục của đề tài và cho ra một tác phẩm mới mà chẳng có gì mới. Xu hướng thứ hai, do ảnh hưởng xu thế hội nhập, tác giả choáng ngợp trước những cái mới của thế giới do tiếp cận cái cũ ở trong nước quá nhiều cho nên nhữn tác giả này chỉ cho ra những tác phẩm mang tính mô phỏng và ảnh hưởng đậm đặc các trào lưu sáng tạo ở nước ngoài. Dự báo một xu hướng nữa, tác giả được đào tạo cơ bản, có kiến thức vững vàng, cơ sở tạo hình chắc chắn, lĩnh hội được nền điêu khắc truyền thống Việt Nam, có bản lĩnh trong sáng tạo. Như vậy chắc chắn tác phẩm sẽ đưa ra thể hiện được cái tôi và tạo dấu ấn nền tảng tốt trong sáng tạo và từ đó sẽ tìm kiếm được cái mới cho điêu khắc việt nam và nhân loại trên cơ sở chọn lọc những gì tốt đẹp thuộc về tư tưởng, chuẩn mực cuộc sống, được kế thừa qua nhiều thế hệ để sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị tác động tích cực vào xã hội. Những giá trị là ý tưởng tạo nên chất liệu sáng tạo không phải là định luật, tiên đề hay thước đo mà nó luôn biến động, để bổ sung tích lũy tạo nên những giá trị mới phù hợp từng giai đoạn phát triển mỹ thuật của nước nhà ngay trong khi hội nhập vào giai đoạn đương đại của dòng chảy mỹ thuật nhân loại. 53 Nhưng nói đến cùng, ba xu hướng trên vẫn tồn tại do nhiều yếu tố chính trị, tôn giáo và nghệ thuật vì vậy đến với nghệ thuật đích thực chúng ta là những nghệ sỹ sáng tạo cần biết chắc chắn rằng cái gì tồn tại với thời gian, cái gì tồn tại trong một giai đoạn và con người trong tác phẩm chính là nội dung cần phản ánh một cách hiệu quả nhất thông qua hình thức biểu cảm và chất liệu mang lại. cụ thể là chất liệu gỗ trong luận văn này cũng đã nói lên một phần của sự sáng tạo trong giai đoạn 2000 - 2015 này. Tiểu kết Hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 đã góp phần tăng thêm nhiều giá trị về mặt nhận thức, tư tưởng, tư duy biểu hiện hình tượng con người phóng khoán thời đại trong đất nước hòa bình. Về mặt nghệ thuật: Nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 đã đạt nhiều hiệu qủa nghệ thuật cao. Đó là sự đa dạng về mặt hình thức đã mang đến cho người tham quan những cảm nhận khác nhau. Bên cạnh đó, hình tượng con người giai đoạn này là sự thống nhất về tạo hình khai thác thế mạnh của chất liệu gỗ. Nghệ thuật điêu khắc đã góp phần đem đến cho nền mỹ thuật một vẻ đẹp cân đối, hài hòa. Và điều đặc biệt, nó còn là sự tổng hòa của yếu tố chất liệu trong không gian nghệ thuật đương đại. Nếu xét về mặt văn hóa, ta thấy các đề tài và những hình tượng con người trong điêu khắc gỗ đều mang tính biểu tượng cao. Đã phản ánh những xu hướng sáng tác, kịp thời nắm bắt được nhịp sống ở giai đoạn cụ thể. Tuy nhiên nhiều đề tài chưa thật sự sâu sắc đúng với cuộc sống xã hội. Đặc biệt, vào thế kỷ XX trước sự giao lưu nghệ thuật phương Tây phát triển mạnh mẽ, hình tượng con người trong điêu khắc cũng ít nhiều ảnh hưởng về phong cách tạo hình cũng như tư tưởng sáng tác. 54 Chương ba đã cho chúng ta thấy những thành công và hạn chế hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015. Thành công và hạn chế của hình tượng con người mang tính biểu tượng cao, phản ánh tư tưởng sáng tác, phản ánh ước vọng của người Việt trong việc hướng đến một cuộc sống yên bình, ấm no và hạnh phúc. Những chủ đề trong đời sống, lao động, tình mẫu tửvà hình thành phong cách hiện thực, mang lại giá trị nghệ thuật hình tượng con người trong điêu khắc gỗ tác động đến người xem. Thể hiện chủ đề nội dung, hình thức, bố cục, xử lý khối, màu sắc, ngôn ngữ tính biểu cảm và cảm xúc chất liệu gỗ. Qua đó cho ta thấy được giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mỹ, giá trị nhân văn và những đóng góp của nghệ thuật điêu khắc gỗ vào việc làm phong phú đời sống văn hóa của nhân dân ta hiện nay. 55 KẾT LUẬN Hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 đạt được những giá trị về mặt thời gian nằm trong quy luật phản ánh cái chung nhất trong xã hội và được điển hình hóa bởi tài năng người sáng tạo. Sáng tạo là một quá trình tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm tạo ra tác phẩm đạt được hiệu quả hay không, đó là mục tiêu hướng đến của nghiên cứu đề tài này. Tác phẩm điêu khắc từ chất liệu gỗ dựa nền tảng đào tạo, các kiến thức cơ bản và nâng cao về mỹ thuật tạo hình nói chung, trong điêu khắc nói riêng cùng các kỹ năng lựa chọn chất liệu cho tác phẩm và cách sử dụng thuần thục các kỹ thuật về chất liệu, định hướng phát triển ý tưởng và tư duy từ ban đầu cho đến khi hoàn thiện tác phẩm, những yêu cầu kỹ thuật, hiểu biết từng chất liệu cụ thể khi thể hiện tác phẩm để khai thác tối đa thế mạnh của chất liệu. Chủ đề hình tượng con người trong điêu khắc Việt Nam mang nhiều tính mới trong sáng tạo, chất liệu thể hiện nội dung và khai thác có hiệu quả về mặt hình thức, mang giá trị thẩm mĩ của chất liệu thể hiện tác phẩm. Nguồn cảm hứng sáng tạo tác phẩm được hình thành từ cảm xúc cuộc sống và cảm xúc của chất liệu. Nội dung trong tác phẩm là cơ sở cho hoạt động đánh giá, giúp con người khám phá, khẳng định, sáng tạo, loại bỏ những cái xấu. Người nghệ sỹ đã tác động trước những cái đẹp cũng như cái xấu, biến cái có thể thành có thể qua lăng kính cuộc sống bằng tài năng của người nghệ sĩ mà chất liệu gỗ tưởng chừng khô cứng đã và đang mang đến cho nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam và thế giới những giá trị tinh thần cho cuộc sống. Đề tài nghiên cứu cũng đã chứng minh được mối liên hệ giữa con người với chất liệu, người nghệ sĩ tác động của chất liệu để phản ánh cuộc sống môi trường, ký ức lich sử trong đề tài nghiên cứu. Sử dụng chất liệu gỗ làm tác phẩm điêu khắc mang lại nhiều kết quả tốt, phản ánh giai đoạn, xu hướng sáng tác. 56 Thành công hình tượng con người trong tạo hình điêu khắc gỗ chính là phản ánh các chủ đề bắt gặp trong cuộc sống và truyền tải nội dung qua ngôn ngữ điêu khắc, ngôn ngữ hiện thực, ngôn ngữ biểu hiện... mang đến cho người xem nhiều cảm xúc khác nhau của hình tượng con người được tạo hình trên chất liệu gỗ, đó chính là nghệ thuật phục vụ chính trị và phản ánh đời sống xã hội. Sự mạnh dạng trong tư duy hiện đại, mở rộng các chủ đề là nguồn động lực cho sự phát triển và kế thừa những tinh hoa nghệ thuật điêu khắc hình tượng con người Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 mang nhiều màu sắc sáng tạo trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam thời đại công nghiệp hóa. Như vậy, lịch sử của nghệ thuật điêu khắc giai đoạn 2000 – 2015, hình tượng con người xuất hiện một cách thường xuyên và chủ đạo trong các tác phẩm không phải là sự ngẩu nhiên mà đó vừa là ý muốn chủ quan của những người nghệ sĩ vừa là yêu cầu của xã hội trong tất cả mọi thời đại. Bởi thế nghệ thuật vị nhân sinh, con người làm nghệ thuật và dùng nghệ thuật để phục vụ cho con người, mà không phải là cái gì khác đó chính con người là đối tượng nghiên cứu hàng đầu của nghệ thuật tạo hình nói chung và nghệ thuật điêu khắc hình tượng con người trong điêu khắc gỗ nói riêng. Những giá trị nghệ thuật cũng như giá trị nhân văn của hình tượng con người được nói lên trong từng tác phẩm cụ thể bởi người nghệ sĩ tạo ra tác phẩm là để gửi gắm vào đó tư tưởng, tình cảm, tâm hồn và thế giới xung quanh của mình. 57 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Phan Thế Bính (1995) Điêu khắc tượng tròn thời Nguyễn, Đề tài nghiên cứu khoa học, Đại Học Nghệ Thuật Huế. 2. Phạm Thị Chỉnh – Trần Tiểu Lâm (2008), Giáo trình Mỹ thuật học, Nxb. Đại học Sư Phạm. 3. Nguyễn Ngọc Dũng (5/2013), Tìm hiểu về ngôn ngữ điêu khắc, Tạp chí mỹ thuật-Nhiếp ảnh 4. Đại học Mỹ thuật Việt Nam – Viện Mỹ thuật (2008), Nghệ thuật Việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí nghiên cứu, Nxb.Mỹ thuật. 5. Hội Khoa học – Xã hội – Nhân văn (2014), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin. 6. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, NXB TPHCM, TP HCM. 7. Đặng Thị Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ Mĩ thuật phổ thông, Nxb.Giáo dục 8. Nghiêm Thị Thanh Nhã, (2011) Vài nét về hình tượng con người trong điêu khắc, tạp chí nghiên cứu văn hóa, Trường Đại Học Văn Hóa. 9. Nhóm tác giả, Triển lãm mỹ thuật khu vực VI lần thứ 15 (2010), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 10. Nguyễn Quân – Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20 (2010) NXB Tri thức. 11. Nguyễn Quân, Nguyễn Trân (1995), Những kiến thức cơ bản về nghệ thuật tạo hình, Đại học Mỹ Thuật Hà Nội. 12. Văn Tân (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Khoa học – Xã hội. 13. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1989), Mỹ thuật của người Việt, NXB Mỹ Thuật, Hà Nội. 14. Phan Cẩm Thượng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật. 58 15. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (2013), Đình làng vùng châu thổ bắc bộ - NXB thế giới. 16. Mai Thu Vân, Màu trong nghệ thuật điêu khắc, Luận văn thạc sĩ mỹ thuật chuyên ngành điêu khắc 2000 – 2003 17. Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 – 2003), Bộ văn hóa – Thông tin hội mỹ thuật Việt Nam. 18. Vựng tập triển lãm 10 năm điêu khắc toàn quốc lần thứ V ( 2003 – 2013 ), Bộ văn hóa – Thể thao và du lịch – Cục mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm Hội mỹ thuật Việt Nam. 19. Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc 2001 - 2005, Bộ văn hóa – Thông tin, Hội mỹ thuật Việt Nam. 20. Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc 2006 - 2010, Bộ văn hóa – Thông tin, Hội mỹ thuật Việt Nam. 21.Viện ngôn ngữ học (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Trung tâm từ điển học. Tài liệu internet 22. 23. 24. van-hoa/hinh-tuong-con-nguoi-trong-dieu-khac-kien-truc-dinh-lang-viet-the- ky-xvii.html. 25. xu-huong-hien-dai-cua-dieu-khac-viet-nam.html BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM NGUYỄN VĂN THỌ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình ( Điêu khắc ) Mã số: 60210102 Khóa 18 ( 2015 – 2017 ) PHỤ LỤC ẢNH GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN PGS. TS. Bùi Văn Tiến Hà Nội, năm 2017 DANH MỤC PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Xu hướng hiện thực hình tượng con người trong điêu khắc gỗ .......................................................................................................... 59 PHỤ LỤC 2: Xu hướng bán trừu tượng hình tượng con người trong điêu khắc gỗ .................................................................................................. 68 PHỤ LỤC 3: Xu hướng biểu hiện hình tượng con người trong điêu khắc gỗ .......................................................................................................... 72 PHỤ LỤC 4: Xu hướng trừu tượng hình tượng con người trong điêu khắc gỗ .......................................................................................................... 83 59 PHỤ LỤC 1 Xu hướng hiện thực Hình 1. Nguyễn Hồng Phong Mưa rào (2013) Chất liệu gỗ, kích thước: 70cm x 22cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 – 2013), Hà Nội 60 Hình 2. Hà Mạnh Chiến Tuổi thơ ( 2013) Chất liệu gỗ, kích thước: 130cm x 120cm, nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 – 2013), Hà Nội 61 Hình 3. Quách Hùng Tình Mẹ (2002) Hình 4. Vũ Bạch Hoa Thôn Nữ (2000) Chất liệu gỗ, kích thước 150cm Chất liệu gỗ, kích thước150cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 – 2003), Hà Nội 62 Hình 5. Nguyễn Lương Hình 6. Nguyễn Man Em tập làm bộ đội (2003) Đến hẹn (2003) Chất liệu gỗ, kích thước 90cm Chất liệu gỗ, kích thước130cm x 40cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội 63 Hình 7. Nguyễn Quang Hình 8.Nguyễn Hữu Thiện Tình anh em (2000) Công nhân vét cống (2010) Chất liệu gỗ, kích thước 70cm Chất liệu gỗ, kích thước70cm x 60cm x 60cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội 64 Hình 9. Lương Văn Nghĩa Dưới lòng thành phố (2005) Chất liệu gỗ, kích thước 41cm x 70cm Hình 10. Huỳnh Đang Viên Vui vẻ (2005) Chất liệu gỗ, kích thước 120cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V ( 2003 – 2013), Hà Nội 65 Hình 11. Nguyễn Văn Nhâm Em đi hội làng (2002) Chất liệu gỗ, kích thước90cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV ( 1993 - 2003 ), Hà Nội Hình 12. Nguyễn Mạnh Hùng Nhớ rừng (2005) Chất liệu gỗ, kích thước 90cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 – 2013), Hà Nội 66 Hình 13. Vũ Văn Hợp Tây Bắc (2010) Chất liệu gỗ, kích thước 80cm x 130cm Hình 14. Trần Quang Vinh Chiều về (2010) Chất liệu gỗ, kích thước 80cm x 80cm x 163cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc (2006 – 2010), Hà Nội 67 Hình 15: Nguyễn Văn Linh Hình 16: Quách Mạnh Hùng Người thổi kèn (2001) Nơi chợ tình (2004) Chất liệu gỗ, kích thước 90cm chất liệu gỗ, kích thước120cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc (2001 – 2005), Hà Nội 68 PHỤ LỤC 2 Xu hướng bán trừu tượng Hình 17. Nguyễn Minh Thùy Ba cô gái đồng lộc (2003) Chất liệu gỗ, kích thước 150cm x 100cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 – 2013), Hà Nội 69 Hình 18. Trần Văn Đức Hình 19. Nguyễn Văn Hàm Lặng thầm (2006) Âm vang (2001) Chất liệu gỗ, kích thước 68cm chất liệu gỗ, kích thước 170 cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (2003 - 2013), Hà Nội (1993 - 2003), Hà Nội 70 Hình 20. Trần Thanh Long Bám biển (2012) Chất liệu gỗ, kích thước 83cm x 120cm x 40cm Hình 21. Lê Quốc Tiến Mùa gặt (2012) Chất liệu gỗ, kích thước 40cm x 95cm x 30cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 – 2013), Hà Nội 71 Hình 22. Vương Học Báo Bố cục (2003), chất liệu gỗ, kích thước 90cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội 72 PHỤ LỤC 3 Xu hướng biểu hiện Hình 23. Nguyễn Chí Đức Đuốc sống (2002), chất liệu gỗ, kích thước 100cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội Hình 24. Kù Kao Khải Chuyện quê (2013) Chất liệu gỗ, kích thước 120cm x 240cm x 160cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 – 2013), Hà Nội 73 Hình 25. Lê Duy Ứng Hình 26. Đinh Rú Tổ đặc công vượt rào (2000) Nỗi đau sau ( 2000) Chất liệu gỗ, kích thước 200cm Chất liệu gỗ, kích thước145cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội 74 Hình 27. Vũ Văn Đạo Kéo co (2003) Chất liệu gỗ, kích thước155cm x 100cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội Hình 28. Minh Tuấn Cầu mưa (2002), chất liệu gỗ, Kích thước120cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội 75 Hình 29. Huỳnh Thanh Phú Khoảng trống (2009), chất liệu gỗ Kích thước195cm x55cm x 60cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 - 2013), Hà Nội 76 Hình 30. Quách Hùng Hình 31. Đinh Rú Theo mẹ ( 2004 ), chất liệu gỗ Hiểm họa bom mìn ( 2003), chất liệu gỗ Kích thước 145cm kích thước 136cm x 63cm x 36cm Hình 32. Nguyễn Hữu Thiện Mùa gặt (2008) Chất liệu gỗ, kích thước 50cm x 140cm x 45cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc ( 2006 – 2010), Hà Nội lần thứ V (2003 - 2013), Hà Nội 77 Hình 33. Huỳnh Đang Viên Niềm vui của bà (2000) Chất liệu gỗ, kích thước 55cm x 120cm x 40cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV (1993 - 2003), Hà Nội Hình: 34. Nguyễn Quang Huy Hai thế hệ ( 2007 ) Chất liệu gỗ, kích thước 40cm x 130cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc (2006 - 2010), Hà Nội 78 Hình 35. Đinh Rú Che chở (2002) Hình 36. Nguyễn Lương Ru con (2005) Chất liệu gỗ, kích thước150cm Chất liệu gỗ, kích thước 30cm x 35cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ IV toàn quốc lần thứ V (1993 - 2003), Hà Nội (2003 - 2013), Hà Nội 79 Hình 37. Nguyễn Hồng Dương Tấm áo miền xuôi (2005) Chất liệu gỗ, kích thước 115cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc (2001 - 2006), Hà Nội 80 Hình 38. Phan Hùng Đón mẹ về (2005) Chất liệu gỗ, kích thước 46cm x 88cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc lần thứ V (2003 – 2013), Hà Nội 81 Hình 39. Lê Phạm Hiền Ơn Đảng Ơn Bác Hồ ( 2010 ) Chất liệu gỗ, kích thước 130cm Hình 40: Đinh Rú Trăm năm trồng người ( 2009 ) Chất liệu gỗ, kích thước 85cm x 80cm x 22cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc (2006 - 2010), Hà Nội 82 Hình 41: Trần Đức Cái chữ vùng cao ( 2009) Chất liệu gỗ, kích thước 155cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm mỹ thuật toàn quốc (2006 - 2010), Hà Nội 83 PHỤ LỤC 4 Xu hướng trừu tượng Hình 42. Trần Ngọc Anh Hình 43. Phạm Hào Người phương đông (2000) Hạnh Phúc (2003) Chất liệu gỗ, kích thước 160cm Chất liệu gỗ, kích thước 90cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc (1993 – 2003), Hà Nội 84 Hình 44. Vũ Quang Sáng Mẹ con (2013) Chất liệu gỗ, kích thước 50cm x 40cm x 20cm Hình 45. Hồ Thu Hạnh Phúc (2007) Chất liệu gỗ, kích thước 130 cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc (1993 – 2003), Hà Nội 85 Hình 46. Nguyễn Văn Hàm Xiếc (2002) Hình 47. Bùi Nam Tự tình (2001) Chất liệu gỗ, kích thước 85cm Chất liệu gỗ, kích thước 200cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc (1993 – 2003), Hà Nội 86 Hình 48. Phạm Minh Tuấn Hình 49. Nguyễn Hoài Huyền Vũ Thiếu nữ (2003) Hạnh phúc (2002) Chất liệu gỗ, kích thước 110cm Chất liệu gỗ, kích thước 110cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc (1993 – 2003), Hà Nội 87 HÌnh 50.Nguyễn Hoài Huyền Vũ Hình 51. Đoàn Xuân Hồng Mùa xuân ( 2002) Hội tây nguyên (2000) Chất liệu gỗ, kích thước 130cm x 140cm Chất liệu gỗ, kích thước 180cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc (1993 – 2003), Hà Nội 88 Hình 52. Phan Thanh Quang Hình Hình 53: Nguyễn Thái Quảng Bóng nắng ( 2011) Trương chi (2006) Chất liệu gỗ, kích thước 150cm Chất liệu gỗ, kích thước 160cm x 50cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc (2003 - 2013), Hà Nội 89 Hình 54: Giang Minh Hoàng Mùa gió biển ( 2013 ) Chất liệu gỗ nhựa, kích thước 125cm x110cm x 50cm Nguồn ảnh: Vựng tập triển lãm điêu khắc toàn quốc (2003 - 2013), Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhinh_tuong_con_nguoi_trong_nghe_thuat_dieu_khac_go_viet_nam_giai_doan_2000_2015_6931_2075326.pdf
Luận văn liên quan