Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 (Lớp 9 - THCS)

Mục lục Trang A. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 4. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6. Ý nghĩa của đề tài . 7. Cấu trúc của bài tập nghiệp vụ sư phạm B. Phần nội dung Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng kênh hìnhđể tạo biểu tượng cho học sinh trong giảng dạy lịch sử ở trường THCS 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Cơ sở xuất phát . 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử nói chung và tạo biểu tượng không gian nói riêng. . 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng không gian nói riêng trong dạy học lịch sử 1.1.4. Quan niệm về địa danh lịch sử và mối quan hệ giữa địa danh và biểu tượng không gian . 1.2. Thực tiễn của việc sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử nói chung, tạo biểu tượng không gian nói riêng ở trường THCS 1.2.1. Đối với giáo viên . 1.2.2. Đối với học sinh . Chương II: Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945( Lớp 9- THCS). 2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản. . 2.1.1. Vị trí . 2.1.2. Mục tiêu 2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của chương trình . 2.2. Những kênh hình trong sách giáo khoa cần khai thác để tạo biểu tượng không gian cho học sinh . 2.2.1. Bảng thống kê kênh hình cần khai thác . 2.2.2. Nội dung kênh hình trong sách giáo khoa . 2.3. Những địa danh lịch sử cần sử dụng để tạo biểu tượng 2.3.1. Bảng thống kê các địa danh lịch sử cần sử dụng 2.3.2. Những địa danh lịch sử cần sử dụng 2.4. Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong dạy học Lịch sử nhằm tạo biểu tượng không gian . 2.4.1. Sử dụng lược đồ kết hợp với tường thuật, miêu tả xen kẽ với đàm thoại để tạo biểu tượng về không gian 2.4.2. Sử dụng tranh ảnh lịch sử kết hợp với miêu tả khái quát và trao đổi đàm thoại nhằm tạo biểu tượng về không gian cho học sinh 2.4.3. Sử dụng tài liệu tham khảo đặc biệt là tài liệu về địa danh nhằm tạo biểu tượng về không gian trong dạy học lịch sử . 2.4.4. Kết hợp việc sử dụng kênh hình với với hệ thống câu hỏi nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử 2.4.5. Sử dụng bài tập về nhà để củng cố biểu tượng không gian cho học sinh . 2.5. Thực nghiệm sư phạm . 2.5.1. Mục đích thực nghiệm. . 2.5.2. Nội dung thực nghiệm . 2.5.3. Phương pháp thực nghiệm 2.5.4. Kết quả thực nghiệm Phần kết luận Tài liệu tham khảo . 3 4 5 5 6 7 7 8 8 8 8 8 9 9 9 19 20 24 24 24 24 25 26 26 28 28 28 28 30 30 31 32 33 35 36 36 39 41 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, một nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp giáo dục được khẳng định trong Nghị quyết Trung Ương II: “ đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, đạo đức, tri thức, sức khoẻ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành nhân cách và bồi dưỡng, phẩm chất năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Cùng với các bộ môn khác, môn lịch sử với chức năng và nhiệm vụ của mình đã góp phần tích cực vào giáo dục con người trong công cuộc đổi mới: “ Bởi vì tri thức lịch sử là một yếu tố của nền văn hoá chung của loài người và không thể coi giáo dục con người hoàn thành đầy đủ nếu không trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết về lịch sử ” Nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường THCS nhằm trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản về tiến trình phát triển hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người và dân tộc, trên cơ sở đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, góp phần phát triển toàn diện học sinh. Do đặc trưng của bộ môn lịch sử, không thể trực tiếp tri giác được các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra, không thể tái hiện lịch sử trong phòng thí ngiệm. Chính vì vậy, việc tái tạo lịch sử bằng cách tạo biểu tượng đúng đắn, sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử vừa là nguyên tắc vừa là một số biện pháp trong việc dạy học lịch sử ở trường THCS giúp cho giờ học thêm sinh động, học sinh hứng thú với môn học. Hiện nay tình trạng học sinh nắm kiến thức về địa danh, không gian xảy ra sự kiện lịch sử một cách mơ hồ, tình trạng nhầm lẫn giữa các địa danh diễn ra phổ biến. Giáo viên ít chú ý đến việc tạo biểu tượng không gian, cung cấp cho học sinh kiến thức về địa danh mà chỉ chú ý trình bày về diễn biến, kết quả của sự kiện. Đó cũng chính là một nguyên nhân khiến cho chất lượng hiệu quả của bài học lịch sử chưa tốt, học sinh ít hứng thú với bài học lịch sử. Để góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử, cần sử dụng nhiều phương pháp dạy học, trong đó có biện pháp sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian cho học sinh trong dạy học lịch sử là điều cần thiết. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi đã chọn đề tài : “ Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945( Lớp 9- THCS)”. Với mong muốn tìm hiểu hệ thống hơn về vai trò của biện pháp sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian cho học sinh, từ đó tích luỹ thêm kinh nghiệm cho quá trình giảng dạy sau này. 2. Lịch sử vấn đề. Vấn đề sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử không còn là vấn đề mới đối với khoa học giáo dục và được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. N. G. Đairi trong cuốn “ Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào”, đã khẳng định “ Tính cụ thể, tính hình ảnh là những sự kiện có giá trị lớn lao, chúng cho phép hình dung lại quá khứ chỉ bằng những chi tiết cụ thể, dễ nhìn mới giúp học sinh hình thành ở học sinh niềm tin vững chắc”. Trong cuốn “ Một số vấn đề địa danh học Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Âu đã đề cập đến một số quan niệm về địa danh, về mặt không gian địa lý tự nhiên và xã hội. Cuốn sách viết nhằm phục vụ cho nghiên cứu địa danh cho nên có thể làm nguồn tư liệu tham khảo giúp tìm hiểu quan niệm về địa danh, địa điểm xảy ra các sự kiện lịch sử một cách khoa học. Trong giáo trình “ Phương pháp dạy học lịch sử” của GS Phan Ngọc Liên chủ biên xuất bản năm 2003. Sách đã nêu khái quát về các biểu tượng, phân loại các biểu tượng và các biện pháp để tạo biểu tượng lịch sử, nhằm góp phần nâng cao nhận thức lí luận của bộ môn, định hướng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên, ở trường THCS. Trong cuốn “ Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử” do GS.TS Nguyễn Thị Côi chủ biên đã trình bày khá chi tiết về kỹ năng xây dựng và sử dụng bản đồ, cách dạy học sinh đọc bản đồ như thế nào Như vậy, vấn đề sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng lịch sử nói chung và tạo biểu tượng không gian nói riêng trong dạy học lịch sử đã được đề cập đến nhiều trong các công trình nghiên cứu. Song đó chỉ là những bài viết, bài nghiên cứu, phản ánh ở một khía cạnh nào đó, ở một mức độ nhất định của vấn đề, chứ chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống nhất là việc sử dung kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian khi dạy phần lịch sử Việt Nam, từ năm 1930 đến năm 1945 ( Lớp 9- THCS).

doc42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6196 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 (Lớp 9 - THCS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p các em biết phân tích các sự kiện lịch sử, so sánh khái quát để rút ra kết luận. Việc sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và kênh hình SGK nói riêng có ý nghĩa rất lớn đối với nhận thức lịch sử, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh. Song kênh hình chỉ tạo nên sự hứng thú, tích cực cho học sinh nếu chúng được tri giác trong tình huống có vấn đề là được khai thác, sử dụng đúng phương pháp. Có như vậy đồ dùng trực quan mới trở thành “ Người dẫn đường”, là “Cầu nối” giữa quá khứ và hiện tại. 1.1.2.3. Phân loại kênh hình trong sách giáo khoa để dạy học Lịch sử Các loại kênh hình trong SGK lịch sử bao gồm tranh ảnh và đồ dùng trực quan quy ước. Cụ thể: a. Tranh ảnh lịch sử Tranh ảnh lịch sử có giá trị như một nguồn tư liệu lịch sử. Nó có khả năng khôi phục lại hình ảnh của con người, đồ vật, biến cố, hiện tượng lịch sử một cách cụ thể, sinh động. Ví dụ: bức ảnh về Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân hay bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945) Tranh ảnh nghệ thuật mang chủ đề lịch sử: là loại tranh ảnh được các hoạ sĩ vẽ khi các sự kiện kịch sử đang diễn ra trong một khoảng thời gian qua cảm xúc và tài năng nghệ thuật nhưng lại chứa đựng nội dung lịch sử sinh động, hấp dẫn. Vì vậy, khi sử dụng giáo viên phải chú ý nguồn gốc, tính hiện thực, tính tư tưởng của nó. Ví dụ: Tranh sơn dầu Xô Viết Nghệ Tĩnh( 1930) … Tranh châm biếm chính tri: Phản ánh lịch sử dưới dạng khái quát, sâu sắc dí dỏm. Khi sử dụng, giáo viên cần lựa chọn những tranh ảnh có nội dung tiến bộ, đảm bảo tính khoa học, liên quan đến bài học và mang ý nghĩa giáo dục đối với học sinh. Tranh ảnh giáo khoa lịch sử: Vừa là một tác phẩm nghệ thuật cho mọi thời đại vừa được tác giả giáo khoa lựa chọn nên nó đạt đến mức chuẩn mực, đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng , tính sư phạm và tính thẩm mỹ. Đây là loại đồ dùng trực quan phục vụ tốt cho việc dạy học lịch sử ở trường THCS trên cả ba mặt: giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. Tranh ảnh giáo khoa lịch sử gồm 3 loại: Tranh thể hiện các sự kiện, hiện tượng lịch sử; tranh thể hiện đời sống văn hoá vật chất của con người; tranh vẽ chân dung nhân vật lịch sử. Tranh vẽ chân dung nhân vật lịch sử: Nội dung tranh chân dung thường phản ánh cuộc đời, những hoạt động tiêu biểu cảu nhân vật lịch sử. Thông qua đó góp phần giáo dục phát triển học sinh. b. Các loại đồ dùng trực quan quy ước Các loại đồ dùng trực quan quy ước như: bản đồ lịch sử, lược đồ lịch sử, niên biểu, đồ thị lịch sử…có giá trị như những tài liệu lịch sử chân thực, chính xác giúp học sinh hình dung được quá khứ, làm phong phú, cụ thể, sinh động cho các em. Bản đồ lịch sử: là đồ dùng trực quan quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường THCS , nó không chỉ minh hoạ, cụ thể hoá kiến thức bổ sung làm phong phú những kiến thức cơ bản trong SGK. Bản đồ lịch sử là một nguồn cung cấp kiến thức mới, củng cố, ôn tập kiến thức đã học, phát triển tư duy khả năng làm việc độc lập của học sinh. Bản đồ – lược đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm, thời gian, không gian, diễn biến của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Đồng thời bản đồ còn giúp các em củng cố, ghi nhớ kiến thức đã học. Bản đồ có thể chia thành hai loại chính: bản đồ tổng hợp và bản đồ chuyên đề. Bản đồ- lược đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước hay nhiều nước có liên quan đến một thời kỳ nhất định trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Ví dụ: Lược đồ Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) Bản đồ chuyên đề nhằm diễn tả những sự kiện riêng hay một mặt của qúa trình lịch sử như diễn biến một trận đánh. Ví dụ: Khởi nghĩa Bắc Sơn(1940)… - Sơ đồ lịch sử: Nhằm cụ thể hoá nội dung sự kiện bằng hình học đơn giản, diễn tả một tổ chức, một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử. Sơ đồ trong SGK có thể dùng để minh hoạ, cụ thể hoá kiến thức cho “kênh chữ” hoặc được dùng như một kênh thông tin độc lập nhằm đa dạng hoá nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Ví dụ: Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước của thực dân Pháp ở Đông Dương. - Niên biểu lịch sử dùng để hệ thống hoá các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện của một nước hay nhiều nước trong một thời kỳ. Niên biểu được chia làm 3 loại chính: Niên biểu tổng hợp, niên biểu chuyên đề, niên biểu so sánh. - Đồ thị lịch sử miêu tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Đồ thị có thể biểu diễn bằng mũi tên để minh hoạ sự vận động đi lên, sự phát triển của một hiện tượng lịch sử. Việc phân loại kênh hình trong SGK có ý nghĩa rất quan trọng, nó định hướng cho giáo viên xác định những biện pháp để hướng dẫn học sinhlĩnh hội kiến thức qua kênh hình. 1.1.2.4. Các yêu cầu khi sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Muốn khai thác tốt và sử dụng có hiệu quả hệ thống kênh hình trong SGK, giáo viên phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: - Trước hết giáo viên phải hiểu rõ và có quan niệm đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của hệ thống kênh hình trong SGK. Phải coi kênh hình như một nguồn cung cấp kiến thức quan trọng, là chỗ dựa để học sinh “làm việc” với SGK trên cơ sở phát huy tính tích cực. Mặt khác, kênh hình còn là cơ sở để giáo viên dựa vào đó tổ chức các hoạt động học tập độc lập của học sinh cũng như phối hợp các phương pháp dạy học khác nhau trong quá trình day học. Từ quan niệm đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của kênh hình giáo viên sẽ xác định cách khai thác và sử dụng kênh hình một cách khoa học mang lại hiệu quả cao. - Phải đảm bảo tính tư tưởng: Đây là một trong những nguyên tắc hàng đầu của việc dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Điều này thể hiện ở tính mục đích của nền giáo dục của mỗi chế độ giáo dục khác nhau. Mục đích của trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện, đáp ứng những yêu cầu phát triển của đất nước. Bộ môn lịch sử với đặc trưng và nội dung của mình phải góp phần đắc lực vào thực hiện mục đích này. Dạy học lịch sử ở trường THCS phải khơi dậy ở học sinh lòng tự hào dân tộc, lòng yêu quý biết ơn quần chúng nhân dân, lòng yêu chuộng hoà bình, yêu chủ nghĩa xã hội, căm gét chiến tranh… Từ đó các em thấy được trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc hiện nay. Kênh hình trong SGK là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh, vì vậy khai thác và sử dung chúng góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cho học sinh. - Phải đảm bảo tính chính xác, khoa học: Tính khoa học của kênh hình được xác định bởi độ chính xác về tỷ lệ, về vị trí địa lý, về phân bố, cách trình bày, phải có sự phối hợp giữa đặc điểm nội dung của sự kiện, hiện tượng lịch sử với nội dung thể hiện trên kênh hình và phương pháp truyền đạt của giáo viên. Nội dung thể hiện trên kênh hình phải hợp lý, chính xác, phản ánh đúng sự kiện, hiện tượng lịch sử quá khứ. Tính khoa học còn được xác định bởi độ thông tin thích hợp. Yêu cầu đối với giáo viên khi sử dụng kênh hình, tránh xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử. Như vậy, giáo viên phải năm chắc nội dung kênh hình mà mình sẽ sử dụng. Tính khoa học còn phải gắn liền với tính vừa sức đối với việc lĩnh hội kiến thức vừa đủ, trình bày ngắn gọn, súc tích, không rườm rà, không quá sức tiếp thu của học sinh. - Phải đảm bảo tính trực quan: có giá trị truyền cảm, lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh. Tính trực quan đòi hỏi phải có nội dung rõ ràng, chính xác, cụ thể, dễ hiểu và có cơ sở khoa học. Để đảm bảo tính trực quan, nội dung kênh hình còn phải được thể hiện bằng màu sắc, ký hiệu, kích thước, bố cục hợp lý. Kênh hình được trình bày đẹp, chính xác, rõ ràng, cụ thể kết hợp với lời nói sinh động giàu hình ảnh của giáo viên sẽ có tác dụng to lớn trong việc tạo sức hấp dẫn, hứng thú học tập, góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. - Phải đảm bảo tính sư phạm: Đây là một yêu cầu quan trọng đòi hỏi người giáo viên tuân thủ khi khai thác nội dung “ kênh hình” được thể hiện trên nhiều mặt. Việc khai thác nội dung và phương pháp sử dụng phù hợp với trình độ của học sinh. Nội dung “kênh hình” không quá khó hoặc không quá dễ, bởi nó sẽ gây khó khăn hoặc làm giảm hứng thú, sự tò mò của học sinh trong học tập. Việc khai thác nội dung và phương pháp sử dụng phải phù hợp với từng thể loại kênh hình, nội dung bài học từng trường hợp sử dụng mà có cách khai thác sử dụng hợp lý nhằm đem lại hiệu quả bài học lịch sử. Việc sử dụng kênh hình phải đúng thời điểm. Giáo viên chỉ đưa kênh hình ra sử dụng khi trình bày phần nội dung có liên quan và cần thiết phải sử dụng kênh hình. Không được đưa ra quá sớm làm phân tán sự chú ý của học sinh cũng không được đưa ra quá muộn sẽ không gây được sự chú ý, hứng thú khiến các em khó khăn trong việc đối chiếu, so sánh, tìm ra mối liên hệ giữa nội dung “ kênh hình” và “kênh chữ”. Việc sử dụng kênh hình phải phát triển tính tích cực nhận thức độc lập của học sinh, đặc biệt là tư duy độc lập. Giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động học tập độc lập của học sinh, kết hợp sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học khác nhau nhằm hướng dẫn học sinh thông qua các hoạt động học tập độc lập, để học sinh rút ra kết luận từ SGK. Khi sử dụng kênh hình trong SGK, giáo viên phải kết hợp các phương pháp dạy học khác nhau: dùng lời, nêu vấn đề, nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan để làm cho việc sử dụng “ kênh hình” cũng như trình bày bài giảng được khoa học, hấp dẫn phong phú. Để đem lại hiệu quả bài học lịch sử cũng như chất lượng dạy học bộ môn, trong đó quá trình sử dụng “kênh hình” trong SGK, đòi hỏi người giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu trên. 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng lịch sử nói chung và biểu tượng không gian nói riêng trong dạy học lịch sử Theo các nhà tâm lý học, trong quá trình tri giác thế giới bên ngoài con người phản ánh sự vật và hiện tượng xung quanh mình dưới dạng hình ảnh của các vật thể đó. Các hình ảnh này được phản ánh và lưu giữ một thời gian đáng kể trong ý thức con người. Hình ảnh đó được gọi là biểu tượng. Biểu tượng là “ Hình ảnh của sự vật, hiện tượng thế giới xung quanh được lưu giữ lại trong ý thức và hình thành trên cơ sở cảm giác và tri giác xảy ra trước đó”. Các hình ảnh của sự vật hiện tượng được lưu giữ trong biểu tượng luôn mang tính trực quan cụ thể, chúng phản ánh mặt ngoài của sự vật, hiện tượng. Do đặc điểm của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không phải bắt đầu từ trực quan sinh động mà từ nắm sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tuy vậy, việc học tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận thức: qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và lý tính. Có thể nói tạo biểu tượng là giai đoạn nhận thức cảm tính của quá trình học tập lịch sử. Từ nhận thức chung về biểu tượng, chúng ta có thể hiểu rằng: “ Biểu tượng trong lịch sử là hình ảnh những sự kiện, nhân vật, điều kiện địa lý… được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất”. Như vậy, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức thông qua việc tạo nên hình ảnh về quá khứ, bằng những hoạt động của những giác quan: thị giác tạo nên hình ảnh trực quan, thính giác đem lại những hình ảnh về quá khứ thông qua lời giảng của giáo viên. Việc tạo biểu tượng cho học sinh là một vấn đề khó khăn vì yêu cầu của dạy học lịch sử là phải tái tạo những hình ảnh về các sự lkiện đúng như nó tồn tại, mà những sự kiện đó học sinh không được trực tiếp quan sát, xa lạ với đời sống hiện nay, với kinh nghiệm hiểu biết của các em. Vì vậy, trong việc tạo biểu tượng, giáo viên phải làm cho các sự kiện lịch sử khách quan xích lại gần với khả năng hiểu biết của học sinh. Trên cơ sở khái niệm về biểu tượng lịch sử nêu trên và ý nghĩa cần thiết về phương pháp luận cũng như phương pháp dạy học, các nhà phương pháp đã phân loại biểu tượng lịch sử, với các loại biểu tượng đó là: Biểu tượng không gian, biểu tượng về thời gian, biểu tượng về nền văn hoá vật chất, biểu tượng về nhân vật lịch sử. Và trong đó biểu tượng không gian là một bộ phân của biểu tượng lịch sử và bên cạnh những nét chung còn có những nét riêng để tạo nên bức tranh trọn vẹn của lịch sử quá khứ. Như chúng ta đã biết bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều diễn ra ở một địa điểm, không gian xác định. Từ đó có thể khẳng định rằng: biểu tượng không gian là hình ảnh về địa lý, địa điểm nơi diễn ra một sự kiện lịch sử nào đó được tái hiện một cách cụ thể, riêng biệt và được tái hiện trong óc của học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất. Ví dụ khi dạy bài 19- lịch sử 9: “ Phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935”, giáo viên kết hợp giữa tường thuật, miêu tả với lược đồ. Việc kết hợp với lời nói và đồ dung trực quan như trên sẽ khắc sâu trong tâm trí học sinh biểu tượng về Phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm 1930-1935 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, giúp học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức. -Về giáo dục: Việc tạo biểu tượng lịch sử có ý nghĩa giáo dục đối với học sinh, vì chỉ thông qua hình ảnh cụ thể, sinh động có sức gợi cảm mới tác động mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của các em. - Về phát triển: Cùng với việc hình thành tri thức, giáo dục tư tưởng tình cảm, tạo biểu tượng lịch sử còn góp phần phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ đồ dùng trực quan nào học sinh cũng có thể nhận xét, phán đoán hình dung về qua khứ lịch sử được phản ánh. Ví dụ: khi giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ cuộc khởi nghĩa nghĩa Nam Kỳ trong SGK lịch sử 9, học sinh sẽ trả lời được câu hỏi: Quy mô của cuộc khởi nghĩa như thế nào? Lực lượng cuộc khởi nghĩa này gồm những ai? Em hãy chỉ ra những địa điểm chính của cuộc khởi nghĩa… Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan nhằm tạo biểu tượng, giáo viên đã giúp học sinh phát triển óc quan sát, khả năng tư duy và ngôn ngữ trình bày, diễn đạt. 1.1.4. Quan niệm về địa danh lịch sử và mối quan hệ giữa địa danh và biểu tượng không gian *- Khái niệm về địa danh lịch sử: Bất cứ một vùng đát nào dù lớn hay nhỏ đều có các địa danh, các tên gọi khác nhau. Địa danh bao gồm địa danh địa lý, địa danh lịch sử, địa danh văn hoá. Theo thuật ngữ lịch sử phổ thông thì “địa danh” là tên gọi của một địa phương, một quốc gia hay một châu lục. Địa danh thường phản ánh quá trình hình thành các yếu tố về địa lý, xã hội, lịch sử của một vùng lãnh thổ. Địa danh có rất nhiều, nhưng không phải địa danh nào cũng trở thành địa danh lịch sử. Chỉ có những vùng đất trực tiếp gắn với các sự kiện, biến cố trong lịch sử nhân loại, dân tộc và địa phương, thì tên gọi của vùng đất đó mới được gọi là địa danh lịch sử. Có thể hiểu “Địa danh lịch sử là những tên gọi của những vùng đất, những địa phương đã diễn ra những sự kiện, hiện tượng và biến cố trong lịch sử nhân loại, dân tộc và lịch sử địa phương. Ví dụ : Khu giải phóng Việt Bắc, Quảng trường Ba Đình… *- Mối quan hệ giữa địa danh lịch sử và biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử Trong dạy học lịch sử, giáo viên không thể cung cấp mọi kiến thức của khoa học lịch sử cho học sinh mà chỉ có thể giúp các em nắm vững các sự kiện cơ bản của bài học. Kiến thức cơ bản là kiến thức tối ưu, cần thiết cho việc hiểu biết của học sinh về lịch sử thế giới cũng như lịch sử dân tộc. Nó bao gồm các yếu tố: sự kiện lịch sử, địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, các biểu tượng khái niệm lịch sử… Như vậy, địa danh lịch sử là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu được trong lượng kiến thức cần cung cấp và làm rõ cho học sinh hiểu. Mặt khác, sự kiện lịch sử bao giờ cũng mang tính cụ thể bất cứ một sự kiện, hiện tượng nào xảy ra trong một không gian, thời gian nhất định, gắn với những nhân vật lịch sử nhất định. Nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì không phải là sự kiện lịch sử và chúng ta không có khả năng nhận thức nó. Trong ba yếu tố cấu thành sự kiện lịch sử, thì địa danh là yếu tố không gian, là yếu tố không thể thiếu trong lịch sử và dạy học lịch sử. Đối với dạy học lịch sử, những kiến thức về địa danh được coi như nguồn kiến thức quan trọng trong việc đảm bảo tính cụ thể, hệ thống toàn diện của sự kiện lịch sử, trên cơ sở đó phần hình thành khái niệm cho học sinh. Như vậy, muốn tạo biểu tượng không gian cho học sinh trong dạy học lịch sử giáo viên cần có những kiến thức về địa danh. Kiến thức về địa danh sẽ là nền tảng cơ sở cho việc tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử. Ví dụ: Khi dạy bài 21- Việt Nam trong những năm 1939-1945, nói về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn( 27/9/1940) để giúp học sinh nắm vững diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Xác định nơi diễn ra khởi nghĩa. Giáo viên sử dụng phương pháp dạy học như sử dụng đồ dùng trực quan miêu tả, tường thuật ... với việc sử dụng kiến thức về địa danh lịch sử trong phần này. Giáo viên sử dụng kiến thức về vùng đất Lạng Sơn – một tỉnh sát với biên giới Trung Quốc , cũng là biên giới Đông Dương và đặt vào hoàn cảnh lúc đó Nhật đang âm mưu xâm lược Đông Dương. Có thể nói, cung cấp kiến thức về địa danh trong dạy học lịch sử là một trong những biện pháp, là nguồn kiến thức quan trọng trong việc góp phần tạo nên tính hình ảnh và gây xúc cảm lịch sử cho học sinh, qua đó nâng cao hiệu quả bài học lịch sử trong nhà trương THCS. 1.2. Thực tiễn của việc sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử nói chung, tạo biểu tượng không gian nói riêng ở trường THCS Qua công tác giảng dạy bộ môn ở nhà trường THCS trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và việc sử dụng kênh hình nói riêng trong dạy học lịch sử, tôi nhận thấy: 1.2.1. Đối với giáo viên: *- Ưu điểm: - Đại đa số đều đã có sự thay đổi trong nhận thứcvề sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực qua, phương pháp giải quyết vấn đề , phương pháp trường hợp, phương pháp vấn đáp và thảo luận nhóm thông qua sự tổ chức hướng dẫn, trình bày sinh động của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, sử dụng đồ dùng trực quan…tạo được sự hứng thú, tích cực trong học tập của học sinh. - Thông qua việc tổ chức học tập lĩnh hội kiến thức của giáo viên, bước đầu tạo được hiệu quả trong học tập đối với học sinh đại trà, bên cạnh đó giảm tỷ lệ lớn học sinh học yếu kém hoặc ngại học tập bộ môn và giúp học sinh khá giỏi nâng cao độc lập trong học tập nghiên cứu. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã kết hợp nhuần nhuyễn đồ dùng thiết bị dạy học, khai thác triệt để ưu thế của các loại đồ dùng này như; sử dụng tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, sa bàn và các thiết bị như đèn chiếu, phim video… từng bước ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với những yêu cầu đổi mới trong giai đoan hiện nay. Trong đó việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian lịch sử đạt được nhiều kết quả, thể hiện được sự tâm huyết của giáo viên trong nghề nghiệp. *- Hạn chế: Còn số ít giáo viên chưa hiểu được vai trò và ý nghĩa của kênh hình, đặc biệt là việc sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa để tạo biểu tượng không gian trong quá trình dạy học lịch sử. Do đó không phát huy được tính tích cực của học sinh khi tìm hiểu và nêu nội dung kênh hình.Điều đó còn cho thấy vẫn tồn tại phương pháp dạy học cũ trong giảng dạy “ thầy đọc trò chép”. Từ thực trạng trên, chúng tôi thấy việc khai thác kênh hình để tạo biểu tượng không gian ở trường THCS là chưa tốt và hiệu quả mang lại chưa cao. 1.2.2. Đối với học sinh *- Tích cực: - Đa số học sinh có sự tập trung hơn trong học tập , ý thức học bài và chuẩn bị bài cũng được tốt hơn. Khả năng tự học và phán đoán nội dung kiến thức bài học thông qua tranh ảnh, bản đồ trong sách giáo khoa của học sinh có sự tiến bộ. - Các em rất hào hứng tham gia các hoạt động học tập như tự nghiên cứu, thảo luận nhóm, vấn đáp, nhằm chiếm lĩnh kiến thức bài học được chủ động hơn. Trong quá trình học tập việc khai thác nội dung bài học, kỹ năng trình bày nội dung kênh hình có sự tiến bộ rõ rệt hơn. Học sinh nhận thức đúng đắn về sự kiện, hiện tượng lịch sử đặc biệt là không gian lịch sử trong giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, phát triển nhân cách của học sinh. *- Hạn chế: - Qua kiểm tra thực tế trên lớp với 10 đối tượng trong một tiết bài tập lịch sử khi sử dụng bản đồ và diễn đạt nội dung sơ đồ vẫn có tới 3 em( 30%) trình bày chưa rõ hoặc không trình bày được nội dung yêu cầu cơ bản của bài. Từ thực tế đó dẫn đến việc tiếp thu kiến thức lịch sử còn nhiều hạn chế, khi được hỏi về các địa danh diễn ra các sự kiện học sinh trả lời còn nhầm lẫn, nhớ kiến thức một cách mơ màng, việc học tập kênh hình của các em còn quá ít, gần như những kênh hình đó không có tác dụng nhiều với các em trong quá trình học tập lịch sử. Ví dụ: Khi học sinh được hỏi địa bàn của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nay thuộc tỉnh nào? Rất ít các em trả lời đúng, có trường hợp còn không nắm được sự kiện này điễn ra như thế nào. Kết quả trên phản ánh một tình trạng đáng quan tâm về dạy và học ở trương THCS hiện nay. Muốn giải quyết tình trạng này phải xuất phát từ thái độ tích cực, chủ động, độc lập sáng tạo của người dạy và người học. Từ thực tiễn trên chúng ta thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học, với việc sử dụng một cách hiệu quả nhằm tạo biểu tượng lịch sử đặc biệt là biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử là điều kiện hết sức cần thiết. *- Nguyên nhân thực trạng Qua quá trình giảng dạy thực tế những năm qua, tôi rút ra một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế nêu trên: +Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng hệ thống kênh hình nói riêng và đồ dùng trực quan nói chung để tạo biểu tượng cho học sinh. Nhiều thầy cô chưa phát huy tính tích cực của học sinh qua hệ thống kênh hình trên lớp. Giáo viên chưa tự giác, chưa tập trung sưu tầm kênh hình để phục vụ cho bài giảng. Trong khi đó hệ thống kênh hình của trường học lại chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, còn quá ít so với nhu cầu của bài giảng. Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa thực sự tiến hành đầu tư thời gian cũng như tâm huyết vào việc chuẩn bị bài giảng. Đã có nhiều giáo viên tự ý thức được vai trò nên đã chủ động sáng tạo trong quá trình dạy học nhưng còn ít và chưa có phương pháp sử dụng kênh hìnhđể tạo biểu tượng không gian lịch sử sao cho tối ưu. Do một nguyên nhân cơ bản nữa là không thay đổi được đường lối dạy truyền thống của không ít giáo viên lâu năm với cách dạy học “ thầy đọc trò chép” làm cho môn lịch sử vốn ít thu hút được sự quan tâm của học sinh so với môn học khác nay càng trở nên buồn tẻ, nên không phát huy được tinh thần học tập tích cực của học sinh. + Về phía học sinh: Đa số học sinh còn quan niệm chưa đúng về vai trò, vị trí của bộ môn Lịch sử. Quan niệm Lịch sử là môn học phụ, không cần đòi hỏi đầu tư về thời gian và sức lực vẫn tồn tại phổ biến trong tâm lý của đa số học sinh. Do tác động của nền kinh tế thị trường cũng như những tư tưởng phiến diện trong tâm lý của nhân dân ta mà các em học sinh hiện nay chỉ chú ý tới những môn học như Toán, Lý, Hoá…mà vô tình quên đi một môn học gắn với truyền thống quý báu hàng ngàn đời của dân tộc- môn Lịch sử. Trong giờ học Lịch sử, các em thường học trong tâm lý “ gượng ép”, buồn chán thậm chí một số học sinh mang bài tập của các môn học khác ra học thay cho việc học và chép bài môn lịch sử. Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của việc dạy học Lịch sử ở trường THCS, việc đổi mới nội dung và phương pháp daỵ học Lịch sử là một điều tất yếu trong đó việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian trong dạy học là một trong những giải pháp vô cùng đúng đắn và hiệu quả để có thể nâng cao hiệu quả của mỗi bài học lịch sử. Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn vừa phân tích , tôi cho rằng: Nếu giáo viên truyền đạt kiến thức Lịch sử một cách sinh động, dễ hiểu sẽ thu hút được sự quan tâm, yêu thích của rất nhiều em học sinh. Những tiết học sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng sẽ giúp các em hiểu bài nhanh, ghi nhớ kiến thức một cách chắc chắn, thu hút các em tích cực xây dựng bài, đặc biệt việc sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian giúp học sinh nhớ lâu kiến thức về địa danh xảy ra sự kiện lịch sử. Để khắc phục tình trạng thiếu kênh hình trong dạy học, giáo viên và học sinh có thể tự làm một số kênh hình dễ tạo, đơn giản. Đây là một việc làm có nhiều ý nghĩa do vừa giảm tải sự khó khăn về cơ sở vật chất của nhà trường, vừa giúp các em rèn luyện khả năng tực chế tạo đồ dùng học tập, khả năng sáng tạo và kỹ năng thực hành cũng như tinh thần yêu thích bộ môn. Xuất phát từ những yêu cầu bức thiết cuả việc dạy học Lịch sử ở các trường THCS, tôi thấy rằng việc nâng cao hiệu quả dạy học phaỉ dựa trên cả 3 mặt: giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. Việc sử dụng kênh hình là một giải pháp đúng đắn và hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả đó. CHƯƠNG II MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỂ TẠO BIỂU TƯỢNG KHÔNG GIAN CHO HỌC SINH KHI DẠY PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM TƯ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945( LỚP 9- THCS). 2.1. Vị trí, mục tiêu và nội dung cơ bản của phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945. 2.1.1. Vị trí Trong chương trình Lịch sử lớp 9, bao gồm hai nội dung: Phần I- Lịch sử thế giới hiện đại từ thế năm 1945 đến nay; Phần II- Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay, Trong phần lịch sử Việt Nam hiện đại giai đoạn từ năm 1930-1945 là giai đoạn phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa cách mạng đi đến thắng lợi giành độc lập cho dân tộc, đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là nội dung tiếp nối chương trình lịch sử Việt Nam từ 1919-19 29, qua đó đánh dấu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, qua các chặng đường đấu tranh: 1930-1935, 1936- 1939, 1939- 1945... giúp học sinh nắm vững hệ thống kiến thức, hiểu và đánh giá khách quan về giai đoạn này đối với lịch sử dân tộc. 2.1.2. Mục tiêu *- Giáo dưỡng: Thông qua những bài học cụ thể của 2 chương( 6 bài) với những sự kiện, hiện tượng lịch sử cụ thể giúp học sinh thấy được bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam trong giai đoạn này trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế văn hoá xã hội…Đây là thời kỳ tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển nên phong trào cách mạng Việt Nam cũng có những bước phát triển mới, nội dung cơ bản gồm: - Sự ra đời của Đảng CSVN và phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm 1930-1935: Hoàn cảnh nội dung , ý nghĩa của việc thành lập Đảng; Nội dung Luận cương chính trị ( tháng 10/1930). Nguyên nhân diễn biến kết quả , ý nghĩa của phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh. - Sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam từ năm 1936-1939: Do hoàn cảnh quốc tế và trong nước thay đổi phong trào chách mạng chuyển mục tiêu đấu tranh sang đòi tự do dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh; diễn biến, kết quả, ý nghĩa của phong trào. - Sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam từ năm 1939-1945: Xuất phát từ bối cảnh thực tế nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra: KN Bắc Sơn, KN Nam Kỳ, Binh biến Đô Lương... báo hiệu một giai đoạn mới trong phong trào cách mạng Việt Nam, Mặt trận Việt Minh ra đời(1941) đã chuẩn bị về mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa, tháng 8 năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng đã nổ ra và nhanh chóng giành được thắng lợi trên phạm vi cả nước, đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà- mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. *- Giáo dục Thông qua phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930- 1945, giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, sự tin tưởng và lòng biết ơn đối với sự lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, học sinh thấy được tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng; nhận thức sâu sắc ý nghĩa lớn lao của sự kiện thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. *- Phát triển Rèn luyện cho học sinh khả năng làm việc với SGk, tri giác tài liệu, nghiên cứu tài liệu. Đặc biệt với kỹ năng làm việc với đồ dùng trực quan, xác định vị trí địa danh và trình bày các sự kiện trên biểu đồ và bản đồ. 2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của chương trình Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945( Lớp 9- THCS). Lịch sử Việt Nam từ 1930 đến năm 1945( Lịch sử lớp 9- THCS có thể chia làm 2 giai đoạn với nội dung cơ bản sau: - Từ 1930 đến năm 1939: Từ khi Đảng ta ra đời, đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng Việt Nam đã giành những thắng lợi to lớn chuẩn bị thế và lực cho các giai đoạn cách mạng về sau. - Từ năm 1939 đến năm 1945: Xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã đưa ra những chủ trương đúng đắn nhằm chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho cách mạng Việt Nam, với Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đánh dấu sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. 2.2. Những kênh hình trong sách giáo khoa cần khai thác để tạo biểu tượng không gian cho học sinh. Trong quá trình dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, cần phải sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Trong đó hệ thống kênh hình trong SGK có nhiều ưu thế để giúp học sinh tạo biểu tượng lịch sử nói chung và tạo biểu tượng không gian nói riêng. Để dạy học chương này, theo tôi cần sử dụng những kênh hình để tạo biểu tượng không gian sau: 2.2.1. Bảng thống kê kênh hình cần khai thác để tạo biểu tượng không gian khi dạy học- phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945. STT Tên bài Kênh hình Tạo biểu tượng 1 Bài 18: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Bức hình : Trần Phú( 1930). - Hình ảnh về đồng chí Trần Phú- Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta. 2 Bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935. - Lược đồ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh(1930-1931). - Cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ An- HàTĩnh. 3 Bài 20: Cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936-1939. - Bức hình: cuộc mít tinh ở khu Đấu Xảo( Hà Nội). - Không khí tưng bừng của cuộc mít tinh ở khu Đấu Xảo. 4 Bài 21: Việt Nam trong những năm 1939-1945 - Lược đồ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Lược đồ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ - Lược đồ Binh biến Đô Lương - Cuộc nổi dậy của quần chúng Bắc Sơn –Nam Kỳ - Sự phản kháng của binh lính đồn Đô Lương. 5 Bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. - Bức hình Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. - Lược đồ Khu giải phóng Việt Bắc. -Hình ảnh về đội quân vũ trang đầu tiên của cách mạng Việt Nam. - Biểu tượng hình ảnh nước Việt Nam thu nhỏ. 6 Bài 23: tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. - Bức ảnh: Cuộc mít tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội( 19/8/1945). - Bức ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc lập ( 2/9/1945). -Không khí giành chính quyền trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám. - Không khí trang nghiêm trong ngày lễ độc lập. 2.2.2. Nội dung kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử 9- THCS, phần lịch sử Việt Nam, từ năm 1930-1945. *- Hình 31: Trần Phú(1930). *- Hình 32: Lược đồ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh( 1930-1931) *- Hình 33: Cuộc mít tinh ở Khu Đấu Xảo( Hà Nội). *- Hình 34: Lược đồ khởi nghĩa Bắc Sơn. *- Hình 35: Lược đồ Khởi nghĩa Nam Kỳ. *- Hình 36: Lược đồ Binh biến Đô Lương. *- Hình 37: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. *- Hình 38:Khu Giải phóng Việt Bắc. *- Hình 39: Cuộc mít tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội(19/8/1945). *- Hình 40: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập( 2/9/1945). 2.3. Những địa danh lịch sử cần sử dụng để tạo biểu tượng cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm1945, lớp 9 - THCS. STT Tên bài Sự kiện Địa danh 1 Bài 18: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Ngày 3/2/1930. 2 Bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935. - Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh - Nghệ An- HàTĩnh. 3 Bài 20: Cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936-1939. - Phong trào Đông Dương Đại hội - 1/5/1938. - Khu Đấu Xảo – Hà Nội. 4 Bài 21: Việt Nam trong những năm 1939-1945 - Khởi nghĩa Bắc Sơn( 27/9/1940). - Khởi nghĩa Nam Kỳ(23/11/1940) - Binh biến Đô Lương(13/1/1941) - Bắc Sơn –Nam Kỳ- Đô Lương 5 Bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. - Mặt trận Việt Minh ra đời(19/5/1941). - Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân( 22/12/1944) - Khu giải phóng Việt Bắc. 6 Bài 23: tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cuộc mít tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội( 19/8/1945). Giành chính quyền ở Huế( 23/8/1945) Giành chính quyền ở Sài Gòn(25/8/1945) - Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc lập ( 2/9/1945). - Hà Nội, Huế, Sài Gòn. 2.4. Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong dạy học Lịch sử nhằm tạo biểu tượng không gian 2.4.1. Sử dụng lược đồ kết hợp với tường thuật, miêu tả xen kẽ với đàm thoại để tạo biểu tượng về không gian Tường thuật là trình bày có chủ đề về một biến cố hay một quá trình lịch sử, những hoạt động cụ thể của quần chúng hay một nhân vật lịch sử. Tường thuật bao giờ cũng có chủ đề, tình tiết nhất định nhằm kích thích trí tưởng tượng của học sinh về những hình ảnh của quá khứ. Miêu tả là cách trình bày những đặc trưng của một sự vật, một sự kiện lịch sử để nêu lên những nét bản chất chủ yếu, cấu tạo bên trong cũng như hình dáng bên ngoài của chúng. Khác với tường thuật, miêu tả không có chủ đề mà chỉ có đối tượng cụ thể cần phải trình bày. Ví dụ khi miêu tả về đặc điểm khu giải phóng Việt Bắc… Tường thuật và miêu tả là một cách trình bày miệng quan trọng thường sử dụng kết hợp với bản đồ, lược đồ để cụ thể hoá các sự kiện lịch sử nhằm đảm bảo tính khoa học, chân thực cũng như sinh động của bức tranh quá khứ, học sinh nắm vững kến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành bộ môn, phát triển năng lực nhân thức. Bản đồ, lược đồ là loại bản đồ trực quan quy ước, nhằm xác định địa điểm, diễn biến của sự kiện trong thời gian và không gian nhất định hoặc thể hiện tình hình chính trị, kinh tế, điều kiện tự nhiên. Do vậy bản đồ, lược đồ giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình lịch sử, giúp các em củng cố kiến thức đã học. Khi khai thác bản đồ phản ánh một biến cố, một cuộc chiến tranh nào đó không thể thiếu việc tường thuật, miêu tả của giáo viên hoặc học sinh khiến cho bài học lịch sử không còn khô khan, năng nề mà trở nên hấp dẫn gần gũi, chân thực, khơi dậy những cảm xúc lịch sử cho người học. Trước hết những sự kiện lịch sử được miêu tả, tường thuật lại giúp học sinh có cảm giác như chính mình đang được tham gia, hay đang chứng kiến diễn biến vậy. Ví dụ: Địa danh Nam Kỳ được nhắc đến trong bài cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873( lớp 8) một lần nữa được nhắc đến trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ( 23/11/1940) Để giúp học sinh hình dung được địa điểm không gian, vị trí, vai trò quan trọng của cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, giáo viên kết hợp sử dụng lược đồ với việc miêu tả tường thuật tạo một biểu tượng không gian chân thực và sinh động. 2.4.2. Sử dụng tranh ảnh kết hợp với miêu tả khái quát có phân tích trao đổi, đàm thoại nhằm tạo biểu tượng không gian cho học sinh. Tranh ảnh lịch sử mang tính hình tượng, góp phần cụ thể hoá kiến thức, có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ, khiến học sinh thêm yêu thích môn lịch sử. Vì vậy, trong dạy học lịch sử cần kết hợp ngôn ngữ phù hợp với tranh ảnh làm sống dậy các sự kiện với không gian, diễn biến chân thực sinh động, các nhân vật lịch sử, làm sáng tỏ nội dung tranh ảnh. Đặc biệt với việc sử dụng tranh ảnh lịch sử kết hợp miêu tả khái quát có phân tích và đàm thoại có tác dụng lớn trong việc tạo biểu tượng không gian lịch sử. Có hai loại miêu tả: miêu tả toàn cảnh và miêu tả có khái quát phân tích. Miêu tả toàn cảnh nhằm khắc hoạ bức tranh trọn vẹn về đối tượng được trình bày. Miêu tả có phân tích tập trung vào một điểm chủ yếu, để nó đi sâu vào phân tích cơ cấu bên trong của sự vật. Trao đổi đàm thoại trước hết là biện pháp mà giáo viên nêu ra câu hỏi để học sinh lần lượt trả lời, đồng thời các em có thể trao đổi với nhau, dưới sự chỉ đạo của thầy, qua đó đạt được mục đích dạy học “ Trao đổi, đàm thoại rất có ưu thế trong việc hình thành kiến thức trên cơ sở hoạt động tư duy tích cực. độc lập của học sinh. Hơn nữa trao đổi đàm thoại tạo không khí lớp học sôi nổi, cuốn hút hứng thú học tập của học sinh. Vì vậy, học sinh lĩnh hội kiến thức sâu sác và vững chắc hơn”. Do vậy, để tạo biểu tương không gian lịch sử cho học sinh, giáo viên cần tiến hành miêu tả khái quát có phân tích tranh ảnh kết hợp với trao đổi đàm thoại, hướng dẫn học sinh tham gia thảo luận. Ví dụ: Khi dạy bài 19, phần Phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh, trước hết giáo viên giới thiệu kênh hình: lược đồ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931)và hướng dẫn học sinh quan sát theo trình tự chú giải rồi gợi mở cho học sinh dể các em thảo luận: - Quan sát lược đồ em thấy có đặc điểm nổi bật nào? - Trung tâm phong trào ở đâu? - Quy mô của phong trào như thế nào? Những địa phương nào đã thành lập chính quyền Xô Viết? Học sinh trao đổi đàm thoại qua câu hỏi gợi mở, qua trình này giúp các em có biểu tượng ban đầu về cuộc khởi nghĩa và vị trí của Nghệ An – Hà Tĩnh, biểu tượng của tinh thần quật khởi của nhân dân ta. Bằng sự dẫn dắt hợp lý của giáo viên qua các câu hỏi và quá trình đàm thoại, nội dung miêu tả phong phú, hấp dẫn, lời nói truyền cảm của giáo viên, học sinh sẽ khắc sâu biểu tượng về căn cứ Ba Đình, tạo biểu tượng không gian lịch sử. 2.4.3. Sử dụng tài liêu tham khảo đặc biệt là tài liệu về địa danh nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử Bên cạnh SGK, tài liêu tham khảo cho giáo viên và học sinh cũng có vị trí và ý nghĩa quan trọng. Do đặc trưng của việc học tập lịch sử, các loại tài liệu tham khảo, góp phần nhất định vào việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Các loại tài liệu này là căn cứ khoa học, bằng chứng chính xác, cụ thể, phong phú của sự kiện lịch sử mà học sinh cần thu nhận. Việc sử dụng tài liệu tham khảo còn giúp học sinh có thêm cơ sở để nắm vững bản chất của sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật, bài học quan trọng của lịch sử, rèn luyện cho học sinh thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy lịch sử. Tài liệu tham khảo là phương tiện có hiệu quả để hiểu rõ hơn SGK, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Địa điểm xảy ra sự kiện là một trong những yếu tố cần phải cụ thể hoá trong dạy học lịch sử, vì nhờ đó các sự kiện lịch sử được biểu hiện một cách sinh động. Hiện nay tình trạng học sinh nhầm lẫn địa danh xảy ra các sự kiện lịch sử vẫn tồn tại. Ví dụ: Khi được hỏi khi phát xít Nhật đã chọn địa điểm nào làm nơi mở đầu quá trình xâm lược Đông Dương? Vẫn còn học sinh chọn Sài Gòn là nơi phát xít Nhật mở đầu quá trình xâm lược. Hay Tuyên ngôn Độc lập được đọc ở đâu? Vẫn có học sinh chọn Huế hoặc Cao Bằng. Để khắc phục tình trạng trên, sử dụng tài liệu tham khảo đặc biệt là tài liệu về địa danh là một trong những biện pháp rất quan trọng góp phần tích cức tạo biểu tượng không gian lịch sử cho học sinh, nhằm cụ thể hoá địa điểm diễn ra sự kiện lịch sử. Ví dụ:Khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ 1930-1945, ta có thể sử dụng thêm các tư liệu tham khảo: Đại cương lịch sử Việt Nam –tập II- Trương Hữu Quýnh; Dưới lá cờ vẻ vang… Bên cạnh, những tài liệu lịch sử các tài liệu tham khảo là các tác phẩm văn học cũng có vai trò quan trọng giúp học sinh nhận thức một cách cụ thể, sâu sắc về sự kiện, hiện tượng lịch sử. 2.4.4. Kết hợp việc sử dụng kênh hình với hệ thống câu hỏi nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử Kênh hình là một nguồn kiến thức quan trọng trong dạy học lịch sử. Tự bản thân học sinh không thể nói lên nội dung, mà cần phải sự gợi mở, hướng dẫn của giáo viên. Qua thực tiễn giảng dạy, chúng ta thấy rằng sử dụng câu hỏi nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử có hai loại cơ bản là: Thứ nhất: là câu hỏi nêu vấn đề thường được đặt vào đầu giờ học, hay một tiểu mục trước khi giảng về sự kiện liên quan đến biểu tượng không gian. Loại câu hỏi này được đặt ra để định hướng nội dung kiến thức cơ bản phản ánh trong không gian. Thứ hai: là những câu hỏi gợi mở được đặt ra trong quá trình tiến hành bài giảng giúp học sinh giải quyết những nội dung kiến thức cơ bản của câu hỏi nêu vấn đề. Một trong những biện pháp phát triển tư duy độc lập cho học sinh trong học tập lịch sử là sử dụng các câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi mang tính chất gợi mở nhằm tạo điều kiện giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản “ do đó câu hỏi trong dạy học mang yếu tố gợi mở, yếu tố nhận biết, khám phá hoặc khám phá dưới dạng một thông tin khác bằng cách cho học sinh tìm ra mối quan hệ, các quy tắc, con đường tạo ra một câu hỏi hoặc một cách giải quyết mới”. Câu hỏi gợi mở chính là một loại phương tiện tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá kết quả nhận thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo bộ môn của học sinh. Qua câu hỏi gợi mở của giáo viên, những tri thức học sinh tìm được sẽ khắc sâu trong trí nhớ của các em, hiệu quả bài học được nâng lên rõ rệt. Đồng thời nhờ tích cực suy nghĩ, trả lời các câu hỏi gợi mở, khả năng tri giác và tư duy của học sinh được phát triển, tôi luyện. Giáo viên kích thích trí tò mò, ham thích tìm hiểu lịch sử, sáng tạo trong suy nghĩ, giúp bài học lịch sử không còn khô khan, khó tiếp thu nữa và làm sáng tỏ kiến thức “ chìm” trong kênh hình SGK. Khi đặt câu hỏi gợi mở giáo viên cần lưu ý: hệ thống câu hỏi phải đảm bảo tính vừa sức với từng đối tượng học sinh và trình độ nhận thức của các em, góp phần từng bước sáng tỏ dần nội dung kênh hình để cuối cùng học sinh có thể tìm ra nội dung lịch sử mà kênh hình phản ánh. Ví dụ: Khi dạy về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn(27/9/1940), giáo viên đặt ra câu hỏi nêu vấn đề: Vì sao khởi nghĩa nổ ra ở Bắc Sơn – Lạng Sơn?. Nhằm hướng học sinh giải quyết vấn đề giáo viên nêu những câu hỏi gợi mở cho học sinh: - Vị trí và đặc điểm tự nhiên của Bắc Sơn- Lạng Sơn? - Hệ thống chính quyền Pháp và tay sai ở đây như thế nào? Thông qua việc quan sát kênh hình, suy nghĩ, trao đổi kết hợp với kiến thức SGK để trả lời câu hỏi của học sinh có biểu tượng cụ thể và nhớ lâu kiến thức… Xây dựng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung kênh hình, tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức là một biện pháp không thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử nói chung. 2.4.5. Sử dụng bài tập về nhà để củng cố biểu tượng không gian cho học sinh Bài tập về nhà có vai trò quan trọng đối với việc học tập của học sinh nói chung và tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử nói riêng. Nó không chỉ có tác dụng giúp học sinh nắm vững và hiểu sâu kiến thức cơ bản mà còn nâng cao hiểu biết của các em về kiến thức địa danh lịch sử, nắm vững nội dung kiến thức biểu tượng không gian trong quá trình học tập; rèn luyện kỹ năng cần thiết và phát triển tư duy sáng tạo, hứng thú học tập của học sinh. Ví dụ: khi dạy bài 21 “ Việt Nam trong những năm 1939-1945”, lớp 9 THCS, phần khởi nghĩa Nam Kỳ, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà vẽ lược đồ hình 35- trang84 vào vở ghi với tỉ lệ 1/1để bài học sau kiểm tra và chấm điểm. Dạng bài tập này có tác dụng giúp học sinh củng cố bài học sâu hơn và trong quá trình các em tự vẽ khiến cho các em ghi nhớ địa danh Nam Kỳ nhanh chóng đồng thời rèn luyện kỹ năng vẽ bản đồ cho học sinh. Hay giáo viên có thể cho học sinh bài tập về nhà với nội dung:“ Em hãy sưu tầm tư liệu về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ?” Yêu cầu mỗi học sinh tự sưu tầm và viết ra những gì mình sưu tầm được vào vở, buổi học hôm sau giáo viên dành thời gian kiểm tra việc làm bài tập của các em. Việc ra bài tập sưu tầm tư liệu sẽ giúp học sinh rèn luyện tính chuyên cần trong học tập, khả năng tự học. Cách này giúp các em hiểu sự kiện, nhớ lâu và hiểu sâu kiến thức. Tóm lại: Khi giảng dạy lịch sử nói chung cũng như khi giảng dạy về địa danh lịch sử, giáo viên cần sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian làm cho bài tập thêm sinh động, giàu hình ảnh học sinh hiểu biết sâu sắc quá khứ và nắm vững nội dung bài học. Tuy nhiên việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian cần được tiến hành căn cứ vào đối tượng học sinh và lý luận bộ môn để đảm bảo tính chính xác khoa học và tính trực quan. 2.5. Thực nghiệm sư phạm 2.5.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm Để kiểm tra tính khả thi của việc sử dung kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử trong dạy học phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, Lịch sử lớp 9- THCS, tôi tiến hành khảo sát nhằm đánh giá hiệu quả thực tế khi áp dụng đề tài. Qua phần vận dụng này, tôi hy vọng phát hiện được ưu điểm, nhược điểm của các đề xuất, trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung và rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình giảng dạy sau này. 2.5.2. Nội dung thực nghiệm Nội dung tiến hành thực nghiệm sư phạm qua tiết 23 bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935(lớp 9- THCS). Đây là bài có nhiều địa danh lịch sử, gắn với sự kiện, hiện tượng lịch sử tiêu biểu trong phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1935, giáo viên cần tạo biểu tượng không gian cho học sinh. 2.5.3. Phương pháp thực nghiệm Để thấy rõ tính khả thi của đề tài, sau khi áp dụng các giải pháp trong việc sử dụng kênh hình tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử trong suốt một năm học 2008-2009, qua tiết dạy tôi tiến hành kiểm tra khảo sát 15 phút cuối giờ, nhằm kiểm tra mức độ nhận thức của học sinh đặc biệt là hiệu quả của biện pháp sư phạm theo hướng đổi mới phương pháp dạy học được đưa ra trong đề tài. 2.5.4. Kết quả thực nghiệm Với nội dung kiểm tra trắc nghiệm khách quan, được tiến hành với kết quả. Lớp Sĩ số Kết quả thực nghiệm Giỏi Khá Trung bình Yếu, Kém SL % SL % SL % SL % Lớp 9A ( Lớp thực nghiệm) 30 8 26,6 14 46,6 8 26,6 0 0 Lớp 9B ( Lớp đối chứng) 30 3 15,5 11 36,6 14 46,6 2 4,7 Qua kết quả thực nghiệm cho thấy: Điểm số của lớp thực nghiệm cao hơn đáng kể. Điểm giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng, số lượng điểm khá tăng lên khá nhiều, số lượng điểm trung bình giảm. tỷ lệ điểm yếu yếu kém đã không còn trong khi lớp đối chứng là 2 em. Điều đó cho thấy tính khả thi của đề tài. Trước khi tiến hành thực nghiệm, tôi có tiến hành điều tra về tình hình học tập chung của lớp làm thực nghiệm và đối chứng, được biệt tình hình học tập môn lịch sử của hai lớp thì tôi thấy rằng chất lượng học tập môn lịch sử của hai lớp là tương đương nhau. Sau khi tiến hành thực nghiệm và điều tra tôi thấy rằng việc nắm kiến thức của học sinh hai lớp có sự khác nhau: Điểm khá-giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn rất nhiều so với lớp đối chứng. Điểm yếu kém không còn . Từ kết quả trên chúng tôi thấy rằng việc sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian cho học sinh trong giờ học lịch sử là rất cần thiết và góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Nếu như không có nhữn biện pháp sư phạm theo hướng đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, đặc bịiệt là việc sử dụng đồ dùng trực quan nhằm tạo biểu tượng về không gian, địa danh diễn ra các sự kiện, hiện tượng lịch sử thì học sinh vẫn hiểu bài nhớ vài nội dung quan trọng song các em vẫn chưa có kiến thức về địa danh, không gian lịch sử nên có sự nhầm lẫn giữa các địa danh, học sinh chưa hiểu bài sâu sắc. Trên cơ sở điều tra tình hình thực tiễn chúng tội rút ra một số kết luận: - Tôi nhận thấy tính hiệu quả của việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử là cần thiết để nâng cao chất lượng dạy học. - Trong việc tạo biểu tượng không gian giáo viên cần chú ý sử dụng tài liệu địa danh lịch sử nhằm giúp học sinh ghi nhớ sâu sắc kiên thức, kích thích hứng thú học tập của học sinh. Giáo viên cần chú ý đến tính vừa sức đối với học sinh, kích thích và phát huy năng lực nhận thức của các em qua bài học. C. PHẦN KẾT LUẬN 1..Hiện nay, vẫn còn những sai lầm cho rằng môn lịch sử là “môn học phụ”, chính vì thế đa số người dạy và người học chưa thực sự quan tâm đến môn học này. Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng của bộ môn Lịch sử trường THCS, chúng ta cần phải đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, đổi mới quan niệm, nhận thức về bộ môn… Việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay phải theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động trong nhận thức, tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, phải dạy lấy “ học sinh làm trung tâm”, nhưng vẫn đề cao vai trò của người dạy. Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử đòi hỏi mỗi người giáo viên phải tìm tòi, sáng tạo những phương pháp dạy học mới, kết hợp với những phương pháp dạy học truyền thống còn giá trị tích cực để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. 2. Chương trình SGK lịch sử hiện nay không chỉ đổi mới về nội dung mà còn đổi mới cả cách biên soạn. Số lượng kênh hình tăng lên đáng kể, kênh chữ giảm xuống giúp cho học sinh có những biểu tượng sinh động, cụ thể về không gian , thời gian diễn ra sự kiện. Đối với lịch sử, thời gian, không gian, nhân vật là ba yếu tố cơ bản tạo nên sự kiện lịch sử. Thiếu một trong ba yếu tố trên thì sự kiện lịch sử không còn là chính nó nữa. Vì vậy, việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử là vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc về sự kiện, hiện tượng lịch sử, tránh “ hiện đại hoá” lịch sử, mà còn góp phần giáo dục học sinh về tư tưởng, tình cảm và phát triển toàn diện ở các em khi học tập bộ môn. 3. Có nhiều biện pháp để tao biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử, song biện pháp thông dụng và mang lại hiệu quả cao nhất đó là sử dụng kênh hình. Tuy nhiên để sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử, giáo viên cần nắm vững một số yêu cầu cơ bản của việc sử dụng kênh hình đó là: phải đảm bảo tính tư tưởng; tính khoa học, chính xác; đòi hỏi tính hình ảnh, trực quan sinh động; phải đảm bảo tính mục đích giáo dục lịch sử cho học sinh; phải quan tâm đến phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh. Tuy vậy, dù biện pháp đưa ra có công phu bao nhiêu thì vẫn phụ thuộc vào người giáo viên thực hiện: lòng nhiệt tình và tâm huyết với nghề, ý thức tìm tòi trao đổi kinh nghiệm của giáo viên. Vì vậy qua đề tài này, tôi hy vọng đã đưa ra một số vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn cũng như một số biện pháp sư phạm đẻ tham khảo khi sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đế.doc