Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Phú Lộc giai đoạn 2005 - 2010

Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. Có thể nói, ngày nay phát triển giáo dục được thừa nhận như một tiền đề quan trọng của sự phát triển tất cả các lĩnh vực chính trị - kinh tế - an ninh - quốc phòng, xuất phát từ luận điểm: "Con người được giáo dục tốt và biết tự giáo dục là động lực và mục tiêu của sự phát triển bền vững của đất nước". Giáo dục là một bộ phận hữu cơ, quan trọng nhất trong chiến lược, qui hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, trong đó mục tiêu giáo dục phải được xem là một trong những mục tiêu hàng đầu của sự phát triển "Giáo dục và đào tạo là chìa khoá để mở cửa tiến vào tương lai" (Nghị quyết TW 4 - khoá 7). Để phát triển xã hội điều quan trọng hàng đầu là sự phát triển con người, Đảng ta khẳng định: con người mục tiêu, là động lực của sự phát triển. Giáo dục- đào tạo có chức năng phát triển xã hội chủ yếu thông qua phát triển con người mà con người là giá trị cao nhất, giá trị sáng tạo mọi giá trị. Bởi lẽ đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho một cơ sở hạ tầng xã hội, đó là dạng đầu tư có lãi nhất để chuẩn bị cho xã hội một nền dân trí cao, một đội ngũ nhân lực giỏi, một bộ phận nhân tài có đủ khả năng phát triển đất nước với tốc độ nhanh. Trong khi đó thực tế nhìn nhận được là tiềm năng trí tuệ của người Việt Nam không thua kém các nước, con người Việt Nam thông minh, sáng tạo, dễ đào tạo, có năng lực tiếp thu nhanh trí thức mới, công nghệ mới. Song nguồn lực nước ta vẫn còn bất cập trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức. Phát triển kinh tế tri thức là vận hội lớn cho sự phát triển của nước ta, là thời cơ hội nhập vào thời đại. Để làm được điều đó phải thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông, khâu trọng tâm nhất vẫn là xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo theo Chỉ thị số40/CT-TW của Ban Bí thư. Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, là lực lượng nòng cốt biến mục tiêu giáo dục - đào tạo thành hiện thực. "Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng, đáp ứng nhu cầu vừa tăng qui mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thể hiện vai trò lớn đó, nền giáo dục nước nhà đã không ngừng phát huy, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả. Trong các năm học gần đây, thực hiện quyết định của Chính phủ về chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, ngành giáo dục - đào tạo đã tích cực tiến hành triển khai thực hiện 07 nhóm giải pháp lớn bao gồm: Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình; Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp; Đổi mới quản lý giáo dục; Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, phát triển mạng lưới trường lớp ở các cơ sở; Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất. Đẩy mạnh xã hội hoá và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục. Trong những nhóm giải pháp đó thì nhóm giải pháp đổi mới phương pháp, phát triển đội ngũ nhà giáo và đổi mới quản lý giáo dục là khâu trọng tâm và đột phá nhất. Dù rằng trong thời đại ngày nay, việc xây dựng một xã hội học tập suốt đời đang là mục tiêu của mọi quốc gia với nhiều hình thức tổ chức học tập đa dạng, thích ứng, song hình thức cơ bản nhất và không thể thiếu, đặc biệt đối với đối tượng học nằm ở độ tuổi thanh thiếu niên thì hiệu quả nhất vẫn là hình thức học tập ở trường, ở lớp với sự dẫn dắt của thầy cô giáo. Người cán bộ giáo dục nói chung, người giáo viên nói riêng dù là ở trong hay ngoài Đảng đều là những người của Đảng trong việc nhận thức các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng đến thế hệ trẻ, cung cấp và hướng dẫn học sinh nắm bắt nguồn kiến thức, các kỹ năng cơ bản, hiện đại giúp cho các em tư duy và phát triển nhân cách toàn diện. Ngươi thầy giáo không chỉ dạy cho học sinh bằng những câu chữ, những hành vi ứng xử mà còn bằng cả tâm hồn và đạo lý làm người để các em trở thành những công dân, là nguồn lực cơ bản nhất nhằm thúc đẩy sư phát triển đất nước nhanh và bền vững. Quán triệt tinh thần và quan điểm trên, với trách nhiệm là một giáo viên đang làm công tác quản lý ở một đơn vị trường học, song song với việc triển khai thực hiện đồng bộ những chủ trương của Bộ giáo dục - đào tạo về đổi mới giáo dục cấp trung học phổ thông, bao gồm đổi mới về chương trình, nội dung sách giáo khoa, đổi mới phương pháp, phương tiện dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá thi cử v.v . thì việc đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đang là vấn đề cấp thiết mà nhà trường cần có đề án, chương trình cụ thể để giải quyết được những yêu cầu trước mắt vừa mang tính chiến lược lâu dài của đơn vị mình, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục với mục tiêu đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng đề ra trong Chỉ thị số 40-CT/TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là: "Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Vì thế căn cứ vào những yêu cầu, nội dung cần phải đặt ra đối với đội ngũ giáo viên hiện nay, bản thân tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Phú Lộc giai đoạn 2005 - 2010". Khi nói đến chất lượng đội ngũ giáo viên là nói đến những yêu cầu, nội dung cần phải có ở người thầy, phải được thể hiện ở người thầy để giúp người thầy giáo chủ động làm tốt nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục. Chất lượng đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo, là sự đáp ứng mục tiêu đã được đề ra trong chỉ thị số 40-CT/TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Vì thế chất lượng đội ngũ không đơn thuần chỉ nói đến chuẩn được đào tạo là đủ. Thực tế nhiều giáo viên được đào tạo đúng chuẩn có khi vượt chuẩn (được đào tạo và bồi dưỡng đầy đủ kiến thức từ các trường Sư phạm) song khả năng, hiệu quả giảng dạy chưa tương xứng, vì ngoài chuẩn kiến thức và nghiệp vụ cơ bản, người giáo viên cần phải có một hệ thống phẩm chất và năng lực khác nữa mà cốt lõi là quan điểm chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm, trình độ hiểu biết và năng lực tổ chức vận dụng, thực hiện. Những phẩm chất năng lực này chỉ được hình thành thông qua quá trình nhận thức, học tập và rèn luyện. Hơn nữa trong thời đại ngày nay, những tri thức của nền văn minh hiện đại là vô cùng, không thể thiếu đối với môi con người nhất là đối với người giáo viên giảng dạy ở cấp trung học phổ thông. Cấp học vừa trực tiếp đào tạo nguồn cho bậc cao đẳng, đại học, vừa tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước. Xu thế hội nhập và nền kinh tế thị trường còn đòi hỏi người giáo viên phải có vốn ngoại ngữ để giao tiếp, học tập. Có kiến thức tin học để truy cập và xử lý thông tin, ứng dụng được công nghệ thông tin trong giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả giờ lên lớp, ngay cả trong nhận thức về chính trị xã hội cũng phải thay đổi cho phù hợp với xu thế phát triển mới. Điều đó đòi hỏi người quản lý giáo dục, nhất là người lãnh đạo trường học phải có những giải pháp để giúp đỡ và động viên đội ngũ giáo viên không ngừng học tập, rèn luyện nhằm thích ứng và đáp ứng với nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. 2. Mục đích nghiên cứu. Cụ thể hoá một số giải pháp cần phải được thực hiện nhằm xây dựng và phát huy tốt đội ngũ giáo viên của trường mình (Trường THPT Phú Lộc) trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của người Hiệu trưởng, được quy định ở điều lệ nhà trường phổ thông để tổ chức, quản lý, thực hiện có hiệu quả việc đổi mới giáo dục đang đặt ra hiện nay ở nhà trường trong giai đoạn 2005-2010 cụ thể là: + Xây dựng đội ngũ giáo viên nhà trường đạt được chuẩn đào tạo của ngạch giáo viên Trung học phổ thông, có kế hoạch để có giáo viên vượt chuẩn hàng năm ngay từ năm học 2006-2007 và từng bước tạo sự ổn định để phát triển đến năm 2010. + Đảm bảo cho đội ngũ có đủ những phẩm chất và năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới giáo dục đang đặt ra hiện nay đối với nhà trường. + Chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ. Thể hiện rõ tính Đảng, tính tiến công cách mạng trong nhà trường. Tăng cường công tác phát triển Đảng viên, không để xảy ra các biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội và phạm pháp. Giáo dục để mỗi giáo viên đều có ý thức cầu tiến và toàn tâm toàn ý với nhiệm vụ dạy học. Không mắc bệnh hình thức trong giáo dục. Nâng tỷ lệ Đảng viên trong trường đạt trên 40% vào năm 2010 để xây dựng được Đảng bộ. + Nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và cho đội ngũ. Phấn đấu trong năm học 2006-2007 mọi giáo viên của trường đều biết vi tính và phục vụ tốt vào dạy học từ năm học 2007-2008. + Nâng cao năng lực giảng dạy và giáo dục học sinh, tích cực thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, đảm bảo 100% giáo viên xếp loại khá tốt theo tiêu chuẩn đánh giá của Bộ nội vụ vào năm 2010. + Xây dựng đội ngũ giáo viên đoàn kết, tận tuỵ vơi công việc, gắn bó với trường lớp và cố gắng để có giáo viên ổn định tương đối lâu dài nhằm giảm bớt đi sự biến động hàng năm ở một số bộ môn do giáo viên xin chuyển công tác về gần gia đình. Thực hiện mọi công việc nhà trường có kỷ cương kỷ luật. Quan tâm nhiều hơn những giáo viên có khó khăn, trình độ, khả năng còn hạn chế để tạo sự đồng bộ trong đội ngũ. Cán bộ môn, các mặt hoạt động đều có giáo viên nòng cốt. Xây dựng được đội ngũ kế cận có đầy đủ tiêu chuẩn trước khi bổ nhiệm. + Tham mưu, đề xuất để ngành bổ sung đủ số lượng giáo viên theo quy định, đảm bảo sự cân đối hài hoà khi phân công giảng dạy ở các ban. 3. Đối tượng nghiên cứu. Là đội ngũ giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở đơn vị mình tại thời điểm tháng 9/2005 và chỉ đi vào việc đề ra một số giải pháp tổng thể, không đi sâu vào nội dung, phương pháp. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu là điều tra, khảo sát, đánh giá.

doc18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4746 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Phú Lộc giai đoạn 2005 - 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước. Xu thế hội nhập và nền kinh tế thị trường còn đòi hỏi người giáo viên phải có vốn ngoại ngữ để giao tiếp, học tập. Có kiến thức tin học để truy cập và xử lý thông tin, ứng dụng được công nghệ thông tin trong giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả giờ lên lớp, ngay cả trong nhận thức về chính trị xã hội cũng phải thay đổi cho phù hợp với xu thế phát triển mới. Điều đó đòi hỏi người quản lý giáo dục, nhất là người lãnh đạo trường học phải có những giải pháp để giúp đỡ và động viên đội ngũ giáo viên không ngừng học tập, rèn luyện nhằm thích ứng và đáp ứng với nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. 2. Mục đích nghiên cứu. Cụ thể hoá một số giải pháp cần phải được thực hiện nhằm xây dựng và phát huy tốt đội ngũ giáo viên của trường mình (Trường THPT Phú Lộc) trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của người Hiệu trưởng, được quy định ở điều lệ nhà trường phổ thông để tổ chức, quản lý, thực hiện có hiệu quả việc đổi mới giáo dục đang đặt ra hiện nay ở nhà trường trong giai đoạn 2005-2010 cụ thể là: + Xây dựng đội ngũ giáo viên nhà trường đạt được chuẩn đào tạo của ngạch giáo viên Trung học phổ thông, có kế hoạch để có giáo viên vượt chuẩn hàng năm ngay từ năm học 2006-2007 và từng bước tạo sự ổn định để phát triển đến năm 2010. + Đảm bảo cho đội ngũ có đủ những phẩm chất và năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới giáo dục đang đặt ra hiện nay đối với nhà trường. + Chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ. Thể hiện rõ tính Đảng, tính tiến công cách mạng trong nhà trường. Tăng cường công tác phát triển Đảng viên, không để xảy ra các biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội và phạm pháp. Giáo dục để mỗi giáo viên đều có ý thức cầu tiến và toàn tâm toàn ý với nhiệm vụ dạy học. Không mắc bệnh hình thức trong giáo dục. Nâng tỷ lệ Đảng viên trong trường đạt trên 40% vào năm 2010 để xây dựng được Đảng bộ. + Nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và cho đội ngũ. Phấn đấu trong năm học 2006-2007 mọi giáo viên của trường đều biết vi tính và phục vụ tốt vào dạy học từ năm học 2007-2008. + Nâng cao năng lực giảng dạy và giáo dục học sinh, tích cực thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, đảm bảo 100% giáo viên xếp loại khá tốt theo tiêu chuẩn đánh giá của Bộ nội vụ vào năm 2010. + Xây dựng đội ngũ giáo viên đoàn kết, tận tuỵ vơi công việc, gắn bó với trường lớp và cố gắng để có giáo viên ổn định tương đối lâu dài nhằm giảm bớt đi sự biến động hàng năm ở một số bộ môn do giáo viên xin chuyển công tác về gần gia đình. Thực hiện mọi công việc nhà trường có kỷ cương kỷ luật. Quan tâm nhiều hơn những giáo viên có khó khăn, trình độ, khả năng còn hạn chế để tạo sự đồng bộ trong đội ngũ. Cán bộ môn, các mặt hoạt động đều có giáo viên nòng cốt. Xây dựng được đội ngũ kế cận có đầy đủ tiêu chuẩn trước khi bổ nhiệm. + Tham mưu, đề xuất để ngành bổ sung đủ số lượng giáo viên theo quy định, đảm bảo sự cân đối hài hoà khi phân công giảng dạy ở các ban. 3. Đối tượng nghiên cứu. Là đội ngũ giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở đơn vị mình tại thời điểm tháng 9/2005 và chỉ đi vào việc đề ra một số giải pháp tổng thể, không đi sâu vào nội dung, phương pháp. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu là điều tra, khảo sát, đánh giá. Phần Nội DUNG Chương 1 Cơ sở lý luận và pháp lý của việc quản lý nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THPT 1. Cơ sở lý luận. Nhiệm vụ nhà trường phổ thông là đào tạo ra nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu của thời đại mới, vì thế không được phép tạo ra những "sản phẩm phế phẩm" mà phải là những con người nhân văn, con người công nghệ, có khả năng thích ứng cao phù hợp với những đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Muốn thực hiện được điều đó phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố cấu thành trong đó đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, là lực lượng nòng cốt biến mục tiêu giáo dục thành hiện thực. Hiệu quả và sản phẩm lao động sư phạm của người giáo viên là chất lượng thực hiện mục tiêu đào tạo. Nó được biểu hiện cụ thể ở nhân cách của người học sinh: trình độ được giáo dục, trình độ lĩnh hội các kiến thức khoa học,… Bởi lẽ một tác động của người thầy đến học sinh nhằm hình thành nhân cách và phát triển toàn diện học sinh. Vì vậy giáo viên THPT càng nhận thấy rõ vị trí, vai trò của mình trong nhà trường, là nhân tố quyết định đến việc tạo ra sản phẩm con người trong hoạt động lao động dạy học. Đội ngũ nhà giáo phải có đủ sức, đủ tài để chấn hưng nền giáo dục nước nhà, là những người có năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao. Đội ngũ giáo viên THPT là lực lượng quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục, đảm bảo mọi thành công của chủ trương đổi mới giáo dục, đồng thời là người trực tiếp thực hiện mục tiêu của giáo dục THPT. Xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên không những chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành giáo dục nói chung và nhu cầu phát triển của giáo dục THPT nói riêng, và mỗi trường THPT muốn phát triển trước hết phải có một đội ngũ giáo viên giỏi, còn là sự đáp ứng nhu cầu phát triển của mỗi cá nhân, giáo viên, đáp ứng nhu cầu của học sinh. Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: "Đối với mình: luôn luôn cầu tiến bộ, không tiến bộ tức là ngừng lại", "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời… không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi…". Vì lẽ đó càng khẳng định tầm quan trọng của công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trong trường THPT là khâu trọng tâm trong chiến lược phát triển giáo dục từ 2005 đến 2010. 2. Cơ sở pháp lý. Xây dựng và phát triển đội ngũ là thực hiện quan điểm về "giáo dục là quốc sách" và thực hiện nghị quyết Trung ương IV, khoá 8: "Khâu then chốt đó thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục và chính trị, đạo đức và nâng cao năng lực chuyên môn". Điều lệ trường phổ thông "Nhà giáo phải có trách nhiệm rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng chất lượng và hiệu quả giảng dạy, giáo dục". Quyết định số 6/2006/QĐ-BNV thực hiện qui định về bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo chưa đạt chuẩn. Chỉ thị số 40/CT-TW của Ban Bí thư ra ngày 15/06/2004 "phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là mọt trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng". Muốn nâng cao chất lượng giáo dục trong trường THPT, đội ngũ cán bộ quản lý đặc biệt là hiệu trưởng phải quan tâm tới công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Phải đảm bảo kết hợp hài hoà giữa yêu cầu trước mắt và yêu cầu lâu dài, thực hiện yêu cầu lâu dài là sự đảm bảo vững chắc cho tương lai của từng giáo viên và cả đội ngũ của trường nói riêng, cả ngành học nói chung. Đó cũng chính là vai trò quản lý và ý thức trách nhiệm của người quản lý trong công tác bồi dưỡng. Trên cơ sở đó mỗi cá nhân có kế hoạch bồi dưỡng cho mình, xem đó là mục tiêu phấn đấu, là chương trình hành động, đồng thời là một chỉ tiêu thi đua của các cá nhân. Đó là nhu cầu, mục đích sống của bản thân. Chương 2 thực Trạng Đội Ngũ Giáo VIÊN Của Trường THPT Phú Lộc I. Đặc điểm, tình hình chung Trường THPT Phú Lộc. 1. Tình hình Trường THPT Phú Lộc. Là trường phổ thông công lập được tách ra từ trường cấp 2-3 Phú Lộc vào năm 1999, trường đóng tại trung tâm huyện lỵ Phú Lộc, cách quốc lộ 1A 400m và cách tỉnh lị Thừa Thiên Huế chừng 40km về phía nam. Do xa xôi nên có sự bất cập về chất lượng cũng như số lượng giáo viên, hàng năm mặc dù đã được sự phân bổ của Sở nhưng giáo sinh mới đến nhận nhiệm sở không đủ, nên năm nào trường cũng thiếu. Vào đầu năm học 2005-2006 trường THPT Phú Lộc có 27 lớp với 56 cán bộ giáo viên, trong đó giáo viên có 51, nữ 25. - Về độ tuổi: + Trên 50 : 01 nữ 00 + Từ 45-49 : 03 nữ 02 + Từ 40-44 : 06 nữ 01 + Từ 35-39 : 05 nữ 03 + Từ 30-34 : 10 nữ 04 + Từ 25-29 : 17 nữ 11 + Dưới 25 : 09 nữ 04 - Về trình độ chính trị: + Lí luận trung cấp : 11 (Thông qua việc học từ trường Đại học), không có trên trung cấp, không có đào tạo theo trường lớp, hầu hết là sơ cấp. + Đảng viên 13, đoàn viên TNCS-HCM: 26 - Vê trình độ đào tạo: + Đại học Sư phạm : 46 + Đại học tổng hợp : 03 + Đại học TDTD : 01 + Trung cấp TDTT : 01 - Khả năng tin học: + Đại học Toán Tin : 04 + Tin học văn phòng : 04 + ứng dụng được các phần mềm dạy học, sử dụng PowerPoint, sử dụng được máy tính, mạng Internet : 12 - Khả năng ngoại ngữ: + Đại học anh văn : 05 + Tiếng anh C : 03 + Tiếng anh B : 03 + Tiếng anh A : 05 So với chuẩn hiện còn 04 giáo viên chưa qua đào tạo sư phạm, 01 giáo viên chưa đạt chuẩn. - So với định biên: Trường hiện còn thiếu 06 trong đó chủ yếu là các môn đặc thù như kỹ thuật công nghiệp thiếu 02, thể dục 01, văn 01, toán 01. - Về cuộc sống, hoàn cảnh gia đình: Đảm bảo ổn định về vật chất tinh thần, có 01 trường hợp đặc biệt đang đề xuất Sở giáo dục và đào tạo cho thuyên chuyển. - Mức lương bình quân: 1,35 triệu đồng/người. - Các nguồn thu nhập khác: không. - Về bộ môn: Giáo viên bộ môn Số lượng Tương đối ổn định Số đảng viên Số GV còn thiếu Chất lượng 02 mặt của GV, Theo quyết định 06/2006/QĐ-BNV ngày 21/3/2006 X.sắc Khá TB Kém Toán 10 05 05 01 04 04 02 0 Vật lý 06 03 x 04 02 0 Hoá 04 04 02 02 02 0 Sinh 03 01 x 02 01 0 Văn 08 05 02 01 02 04 02 0 Sử 03 01 x 01 02 0 Địa 03 01 01 01 02 0 Anh văn 05 02 x 01 04 01 0 GDCD 02 01 x 02 00 0 KTNN 01 00 x 01 0 KTCN 00 00 x 01 0 Thể dục 03 01 01 01 01 01 01 0 GDQP 00 00 x 01 0 Tin học 03 02 x 03 0 Cộng 51 26 11 06 10 29 12 0 2. Đánh giá 02 mặt chất lượng: a) Về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống: Theo quyết định Bộ nội vụ số 06/2006/QĐ-BNV ngày 21/3/2006 về đánh giá xếp loại giáo viên phổ thông công lập. Loại tốt: 24; Loại khá: 25; Loại TB: 02; Loại kém: 0. b) Về chuyên môn nghiệp vụ: Theo hướng dẫn của Bộ giáo dục-đào tạo số 3040/BGD&ĐT-TCCB ngày 17/4/2006 về đánh giá xếp loại giáo viên phổ thông công lập. Loại tốt: 12; Loại khá: 35; Loại TB: 04; Loại kém: 0. c) Đánh giá những mặt mạnh về đội ngũ: - Đội ngũ giáo viên hầu hết được đào tạo có bài bản, được bổ sung hàng năm tương đối đồng bộ về cơ cấu bộ môn. Đủ điều kiện và năng lực để đảm nhận công việc, không có dôi dư, không cần phải đào tạo lại, trong đó lực lượng trẻ chiếm khá đông, hầu hết đều có ý thức chấp hành, cầu tiến và hăng hái với công việc. - Tuy ở một số bộ môn kỹ thuật công nghiệp, kỹ thuật nông nghiệp, giáo dục quốc phòng chưa được ngành đào tạo bổ sung, song giáo viên các bộ môn này đã tích cực nghiên cứu, đảm nhận giảng dạy và giảng dạy ngày càng có hiệu quả. Việc cải tiến phương pháp đã được thực hiện cố gắng, tích cực. Hàng năm mọi giáo viên đều có đăng ký giờ dạy tốt học tốt, thao giảng dự giờ để học tập kinh nghiệm, triển khai học tập nhiều chuyên đề về chuyện môn nghiệp vụ thiết thực như các chuyên đề về dạy học thực hành, về ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng các phần mềm dạy học v.v... Tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá cho học sinh và tham gia nhiều hoạt động giáo dục khác như hoạt động xã hội, cứu trợ nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa, văn nghệ, thể dục thể thao, tham gia đầy đủ và đạt thành tích cao các đợt dự thi tìm hiểu, thi giáo viên dạy giỏi, thi tiếng hát hay... do ngành phát động. Các phong trào hiến máu nhân đạo, hoạ động xã hội, công tác tuyên truyền vận động giáo dục quần chúng nhân dân địa phương cũng được đội ngũ hưởng ứng nhiệt tình, đưa nhà trường vươn lên đạt thành tích cao trong các năm học gần đây. - Đã xây dựng được tinh thần đoàn kết, tương thân tương ai, chấp hành kỷ cương kỷ luật. Thực hiện khá đảm bảo mọi quy định, quy chế chuyên môn về soạn, giảng, chấm chữa đánh giá vào điểm cho học sinh kịp thời. Các tổ chuyên môn đã cố gắng thực hiện sinh hoạt đúng định kỳ 02 lần/tuần và đã giải quyết nhiều vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ. Toàn thể giáo viên của trường chưa hề có hành vi tiêu cực, vi phạm Pháp luật. Mối quan hệ thầy trò gần gũi, thân ái, đã chủ động tham gia thường xuyên các buổi học tập chính trị và chuyên môn nghiệp vụ khá tốt. Đặc biệt số giáo viên là học sinh củ của trường trở về công tác chiếm tỷ lệ khá lớn trong những năm gần đây nên đã góp phần tương đối ổn định như ở các bộ môn toán, hoá, văn, tin học và đó cũng là những bộ môn có giáo viên giảng dạy khá vững, chu đáo và có nhiều kinh nghiệm. Phần lớn giáo viên trẻ đều có nguyện vọng muốn được tạo điều kiện để nâng cao kiến thức chuyên môn. Một số giáo viên đã chủ động tự học tin học, ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả công tác. Một sự cố gắng lớn nhất đã thực hiện được trong năm học qua đã có 02 giáo viên thi đậu cao học ở bộ môn Toán và Hoá. - Nhận thức tư tưởng chính trị chưa có những biểu hiện gì sai lệch, hầu hết anh chị em giáo viên trong trường đều thể hiện rõ phẩm chất đạo đức tốt, quan tâm đến học sinh. Kịp thời tham gia phát hiện và giáo dục những học sinh sai phạm. Trong công tác chủ nhiệm đã biết chủ động phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể, chính quyền và hội cha mẹ học sinh, nhất là xây dựng môi trường học tập. - Đội ngũ đoàn kết ưu tú khá phong phú tạo được nguồn kế cận cho Đảng. d) Những tồn tại thiếu sót: - Năng lực tổ chức điều hành các hoạt động ở nhà trường chưa tốt, kể cả việc quản lý học sinh, việc quán xuyến tình hình học sinh, nhà trường, việc giáo dục học sinh ngoài trường ngoài lớp. Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở một bộ phận lớn giáo viên chưa thật hữu hiệu, biện pháp chủ yếu vẫn là hạ bậc hạnh kiểm, đuổi học nhất là những giáo viên trẻ. Tính nhạy bén năng động và khả năng thích ứng cũng đang còn hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của ngành. Chưa đảm bảo thông tin kịp thời, việc thực hiện một số yêu cầu đề ra chưa đồng bộ thống nhất như là các quy định về lề lối làm việc, về việc xây dựng nhà trường có đời sống văn hoá tốt, về việc xây dựng môi trường cảnh quan sư phạm. - ý thức tự học tự rèn chưa cao, chưa trở thành phong trào chung, ít đầu tư thời gian để nghiên cứu khoa học, chỉ một số giáo viên có thành tích mới có sáng kiến kinh nghiệm. Việc nắm bắt thông tin chậm, vốn sống thực tiễn của đội ngũ còn nghèo nên gắn việc giảng dạy kiến thức các môn học với giáo dục, thực hành chưa tốt. Việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế. ở một số bộ môn không có giáo viên địa phương, số giáo viên nơi khác đến sau khi xong tập sự, vài năm sau khi bắt đầu phát huy được thì có nguyện vọng xin chuyển đi, một số trẻ lập gia đình sinh con không đăng ký theo kế hoạch của Công đoàn. - ý thức phấn đấu vào Đảng còn chậm, một số tổ chuyên môn chưa có Đảng viên. Việc đấu tranh để giúp nhau hoàn thiện trong cuộc sống và trong công việc chưa mạnh... Vẫn có những biểu hiện cá nhân bằng mặt nhưng chưa bằng lòng khi giải quyết một số vấn đề liên quan đến quyền lợi. Chưa thật sự chăm lo bồi dưỡng nâng cao kiến thức, đặc biệt là ngoại ngữ - tin học. - Một số bộ môn chất lượng giảng dạy chưa đáp ứng với yêu cầu học sinh khá giỏi, như các môn Anh văn, Vật lý, Sử, Sinh học do đội ngũ giáo viên ở các môn đó chưa ổn định. Vẫn có hiện tượng lơ là kém hiệu quả ở giáo viên dạy một số môn không thi tốt nghiệp như thể dục, giáo dục công dân, kỹ thuật nhất là vào thời gian gần cuối năm học. Các hoạt động ngoài trời, hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề chưa đảm bảo chất lượng. 3. Nguyên nhân: - Chất lượng học tập văn hoá của học sinh còn thấp, không đồng đều, hàng năm đều tuyển hết số học sinh tốt nghiệp THCS trong địa bàn vào lớp 10. Do đó việc đổi mới phương pháp cho giảng dạy của giáo viên gặp không ít khó khăn. Trong khi lớp học quá đông, phòng học bộ môn còn chật hẹp, không tạo được thuận lợi cho đội ngũ khi lên lớp. - Đội ngũ giáo viên của trường tuổi nghề quá trẻ nên chưa có kinh nghiệm giáo dục học sinh. Còn thiếu kiên trì sử dụng các biện pháp tích cực đã đề ra trong nhiệm vụ năm học để nâng cao hiệu quả công tác. Phương pháp truyền thống đã ngự trị lâu đời trong giáo viên, nên khó lòng thay đổi trong một sớm một chiều được. Thực hiện phê và tự phê bình trong mỗi giáo viên còn yếu, còn ngại góp ý trao đổi giúp nhau tiến bộ. - Các cấp quản lý chưa có cơ chế rộng rãi cho mọi giáo viên có nguyện vọng muốn học lên cao học, chưa thật sự dành ưu tiên hơn cho những vùng xa. Nguồn thu nhập chủ yếu của giáo viên là đồng lương, địa bàn công tác lại xa thành phố nên không thể vừa dạy vừa học như giáo viên các trường bạn, trong khi nhiều năm nay trường đều thiếu giáo viên. Do đó một số giáo viên có nguyện vọng muốn nâng cao trình độ học vấn trên chuẩn không thể đáp ứng được. - ý thức khắc phục khó khăn để vươn lên tự học, tự rèn về chuyên môn nghiệp vụ trong đội ngũ chưa cao. - Đầu tư để nâng cao chất lượng ở một giờ dạy học cần nhiều thời gian và công sức, trong khi đó định biên giờ dạy không thay đổi. Nên việc đầu tư vào đổi mới phương pháp dạy học chưa thường xuyên đúng mức. Cũng do cách thi cử nên đã có hiện tượng học lệch, dạy lệch ở trường. - Ngoài việc được đào tạo chuẩn bộ môn giảng dạy, các nội dung giáo dục khác chỉ được tìm hiểu, định hướng, đội ngũ giáo viên đảm nhận lại không ổn định nên có sự chắp vá không vững chắc. - Vai trò của các tổ chức trong nhà trường vẫn chưa thật sự góp mặt trong việc giáo dục, động viên đội ngũ nâng cao ý thức tự học, tự rèn. - Trong quản lý chỉ đạo chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ, chưa đánh giá đúng đắn, đầy đủ và thường xuyên năng lực và phẩm chất của từng giáo viên. Công tác kiểm tra đánh giá chuyên môn của đội ngũ còn thiếu kịp thời. II- Những giải pháp thực hiện. 1. Giải pháp trước mắt (trong năm học 2006 - 2007): - Đảm bảo cho toàn bộ giáo viên của trường đều đạt chuẩn theo quy định của Bộ giáo dục đào tạo bằng cách: Tạo điều kiện để 04 giáo viên chưa qua nghiệp vụ sư phạm được hoàn tất chương trình này trước năm 2007; 01 giáo viên trung cấp thể dục học xong lớp hoàn chỉnh chương trình Đại học TDTT. Cử đủ số giáo viên tham gia đào tạo lớp giáo dục quốc phòng do ngành tổ chức để đưa môn này thực thụ như một môn học vào năm học này. - Tiếp tục động viên để giáo viên dạy bộ môn vật lý và bộ môn sinh học tham gia dạy kỹ thuật công nghiệp và kỹ thuật nông nghiệp khối lớp 11-12. Cử giáo viên các bộ môn này dự tập huấn thay sách bộ môn công nghệ để dạy môn công nghệ khối 10. Bố trí một số giáo viên có khả năng tham gia đào tạo, tập huấn để giảng dạy giáo dục hướng nghiệp, sinh hoạt tập thể, giáo dục quốc phòng, hoạt động ngoài giờ lên lớp theo nội dung chương trình mới áp dụng cho khối 10 từ năm học 2006-2007. - Căn cứ vào năng lực thực tế của đội ngũ bố trí hợp lý giáo viên giảng dạy các lớp phân ban ở khối 10, đặc biệt là giáo viên dạy các môn tự chọn, chuyên đề tự chọn để đảm bảo cân đối hài hoà về mặt chất lượng và đội ngũ. Tiếp tục bồi dưỡng, giúp đỡ để chuẩn bị đội ngũ cho các năm thay sách tiếp theo. Đề đạt 02 trong số giáo viên diện đào tạo nguồn để đề nghị bổ nhiệm làm quản lý trong năm học 2006 - 2007. - Làm tốt việc định hướng nghề nghiệp để vận động những học sinh giỏi lớp 12 của trường thi vào ngành sư phạm. Tham mưu, đề xuất để Sở giáo dục quan tâm hơn việc bổ nhiệm những sinh viên tốt nghiệp sư phạm các bộ môn Anh văn, Vật lý, Công nghệ, Toán là người địa phương về địa phương công tác, hoặc giải quyết việc thuyên chuyển số có nguyện vọng, đủ tiêu chuẩn để tạo sự ổn định lâu dài ở một số bộ môn. 2. Những giải pháp mang tính thường xuyên, lâu dài: 2.1. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ: Để đảm bảo sự ổn định vững chắc và đáp ứng yêu cầu phát triển nhà trường trong đổi mới giáo dục. Công tác quy hoạch, xây dựng đội ngũ cần căn cứ vào trường lớp, số lượng, chất lượng giáo viên giảng dạy các bộ môn qua từng năm. Trong đó cần chú ý hơn việc bồi dưỡng đào tạo số giáo viên trẻ, quan tâm đội ngũ nữa, có khả năng ổn định lâu dài ở địa phương, việc nâng cao trình độ lý luận chính trị, công tác phát triển Đảng, công tác đào tạo đội ngũ kế cận, khả năng thực hiện đổi mới, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Với định hướng đó, căn cứ vào thực trạng đội ngũ. Kế hoạch, quy hoạch xây dựng đội ngũ của nhà trường từ 2005 đến 2010 như sau: Các yêu cầu Hiện có 2005-2006 Năm học 2006-2007 Năm học 2007-2008 Năm học 2008-2009 Năm học 2009-2010 Ghi chú Số lớp 27 28 30 32 34 Số giáo viên cần có 57 59 61 65 69 Còn thiếu (So hiện nay) 06 08 12 16 18 Dự kiến GV chuyển đi, để xin bổ sung 03 Toán, Lý Anh 02 Toán, Anh 02 Toán, Sử 02 GDCD Anh 02 Địa Vật lý Đảng viên 11 17 23 30 35 Chiến sĩ thi đua (Tỉnh và cơ sở) 09 12 15 20 25 Lý luận chính trị trung cấp trở lên 08 01 02 03 03 Học ở trường Đảng tỉnh Sử dụng tin học cơ bản 24 (45%) 90% 100% 100% 100% Trình độ Anh 11 16 20 25 40 Đào tạo Đại học 02 Toán, Hoá 01 Văn 02 Hoá, Địa 01 Toán 02 Sinh, Sử Bồi dưỡng để đạt chuẩn 01 04 Hoàn tất Hoàn tất Hoàn tất - Về giáo viên còn thiếu: Đề nghị Sở giáo dục cho bổ sung đủ ở các bộ môn Toán, Văn, Anh văn, Vật lý, GDCD, Tin học. Chú ý có đội ngũ ổn định hơn ở bộ môn Anh văn, Vật lý để có kế hoạch xây dựng đội ngũ nòng cốt lâu dài ở các bộ môn này. - Làm đúng thủ tục để đề nghị bổ nhiệm mới 02 cán bộ quản lý (trong đó có 01 nữ). Đề cử 01 cán bộ dự học lớp trung cấp chính trị và 01 cán bộ học lớp đào tạo thạc sĩ. Có kế hoạch bố trí cho giáo viên, ưu tiên là cốt cán được đào tạo sau đại học và đội ngũ kế cận dự lớp trung cấp chính trị hàng năm. Tăng cường công tác phát triển Đảng để nhà trường có Đảng bộ trước 2010. - Về nâng chuẩn: Động viên và tạo điều kiện cho một số giáo viên dự thi và học thạc sĩ, trong đó bộ môn Toán 02, Văn 01, Sử 01, Địa 01, Anh văn 01 và Hoá 02. - Về đạo đức, phẩm chất chính trị: Kịp thời phổ biến để đội ngũ quán triệt các quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước thông qua nhiều hình thức như tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị đầu năm học, giữa và cuối năm do Ban tuyên giáo Huyện uỷ về báo cáo hoặc Bí thư Chi bộ triển khai. Tổ chức sinh hoạt có chất lượng trong Chi bộ và các đoàn thể, quan tâm công tác xây dựng tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên và Công đoàn vững mạnh. Có kế hoạch để các tổ chức trong nhà trường đều có Đảng viên và mọi Đảng viên đều đạt trình độ trung cấp lý luận chính trị vào năm 2010. - Về công tác chuyên môn nghiệp vụ: Tập trung xây dựng đội ngũ nòng cốt trong các bộ môn, xây dựng đội ngũ giảng dạy khá tốt đạt 100%. Phấn đấu đến 2010 có 8 tổ chuyên môn gồm tổ Toán, Lý, Hoá Sinh, Văn, Anh văn, Sử Địa, GDCT-TD, Tin học và công nghệ. Tăng cường công tác kiểm tra bằng nhiều hình thức, thận trọng trong việc đánh giá và cụ thể hoá tiêu chí đánh giá của Bộ Nội vụ về đánh giá giáo viên cuối năm đúng phẩm chất và năng lực của họ. Lấy việc giáo dục phẩm chất đạo đức làm trọng, từ đó nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ. 2.2. Thường xuyên giáo dục đội ngũ nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của người giáo viên: Để phát huy được lương tâm nghề nghiệp của người giáo viên. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, hội thảo chủ đề về “Người thầy giáo với công cuộc đổi mới đất nước” làm cho mọi giáo viên nhận thức đúng về vị tí của mình là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chú ý đến tâm của người thầy, vì người giáo viên có tài giỏi bao nhiêu, nếu như không có một tấm lòng nhân ái, yêu thương con người thì không thể làm tròn thiên chức nhà giáo, không thể gọi là kỹ sư tâm hồn được. Vì thế tình thương yêu học sinh là một trong những yêu cầu cần thiết của người giáo viên mà nhà quản lý cần phải khơi dậy, đồng thời đó cũng là điều kiện cần để mọi thầy giáo hoàn thành sứ mệnh của mình. 2.3. Quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán nhà trường: Lực lượng này bao gồm các đồng chí trong cấp uỷ, các uỷ viên trong Ban chấp hành công đoàn, đoàn, tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, giáo viên đảm nhận điều hành các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. Đội ngũ này có một vị trí hết sức quan trọng là cầu nối giữa lãnh đạo trường với đội ngũ giáo viên, là người đầu tiên quán triệt và tổ chức thực hiện mọi chủ trương nhà trường trong phạm vi chức năng của mình, là lực lượng nòng cốt có tác dụng trực tiếp nhất về nâng cao chất lượng của giáo viên.. Vì vậy để xây dựng và phát huy hết khả năng của đội ngũ này. - Trước hết cần xem xét ý thức tinh thần trách nhiệm thông qua những biểu hiện hàng ngày trong công việc và trong cuộc sống. - Tăng cường tìm hiểu, thăm dò, kiểm tra năng lực tổ chức thực hiện công việc. - Làm tốt công tác tư tưởng trước khi bố trí, giao việc. - Bồi dưỡng, cử đi dự các lớp tập huấn đào tạo để họ biết rõ chức năng nhiệm vụ và nâng cao công tác chuyên môn của mình. - Bồi dưỡng công tác xây dựng kế hoạch và kế hoạch hoá công việc của tổ chức mình hàng tháng, hàng kì theo mục tiêu, yêu cầu của Chi bộ bà nhà trường trong từng năm học dựa trên nghị quyết của Chi bộ và kế hoạch nhà trường đã được thông qua. - Tổ chức trực báo định kỳ vào sáng thứ hai tuần đầu mỗi tháng để nghe phản ánh, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đã qua và thống nhất triển khai công tác tháng đến trước khi triển khai rộng rãi trong hội đồng. Qua đó góp phần bồi dưỡng đội ngũ cốt cán về phong cách, phương pháp quản lý. - Thực hiện sự phối hợp, đoàn kết, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để đội ngũ này hoàn thành nhiệm vụ. 2.4. Xây dựng mạng lưới chuyên môn đủ mạnh, đủ năng lực để giải quyết các yêu cầu đặt ra về chuyên môn cho đội ngũ: Mạng lưới chuyên môn trong nhà trường bao gồm: Các tổ trưởng nhóm trưởng chuyên môn là những hạt nhân nòng cốt trong công tác chuyên môn. Vì vậy tổ trưởng, nhóm trưởng bộ môn là những giáo viên thuộc lực lượng cốt cán, có năng lực và đam mê về chuyên môn nghiệp vụ, biết tổ chức điều hành có hiệu quả công việc của tổ. Để nâng cao hiệu quả quản lý của tổ trưởng bộ môn cần: - Phổ biến và cung cấp tài liệu để tổ trưởng nắm và chỉ đạo tổ viên thực hiện đúng đắn các quy định quy chế về soạn, giảng, chấm chữa, kiểm tra, cho điểm, đánh giá học sinh, đánh giá tổ viên. - Triển khai cho tổ trưởng nắm chắc mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ năm học của ngành để cùng với lãnh đạo nhà trường xây dựng kế hoạch hàng năm của đơn vị mình khoa học, đảm bảo tính kế thừa và sự phát triển nhà trường ngày càng cao. Trên cơ sở đó để xây dựng được kế hoạch tổ bộ môn hợp lý với những biện pháp mang tính khả thi trong việc nâng cao chất lượng dạy học. - Cử tổ trưởng, nhóm trưởng tham gia tập huấn các lớp bồi dưỡng đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ để tổ trưởng nắm chắc nội dung, chương trình, phương pháp soạn, giảng, cách thức sử dụng phương tiện giảng dạy bộ môn của mình và triển khai thực hiện thống nhất trong từng bộ môn. - Thống nhất lịch sinh hoạt định kỳ 2 lần/tháng vào 15 giờ chiều thứ năm ở tuần thứ 2 và tuần thứ 3 cho các tổ bộ môn, tạo cho tổ trưởng chủ động trong việc triển khai kế hoạch và giải quyết những vấn đề đặt ra để nâng cao chất lượng tổ viên về chuyên môn như thao giảng, dự giờ, góp ý giờ dạy, kiểm tra hồ sơ sổ sách, đánh giá tổ viên v.v... 2.5. Phải tích cực để xây dựng nhà trường thành một tổ chức học tập: Để thực hiện được giải pháp này: - Nhà trường không ngừng chú ý nâng cao nhận thức để mỗi giáo viên thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập. “Học thường xuyên và suốt đời”: Học ở đây không chỉ để lấy bằng cấp cao hơn mà chính là để giáo viên hiểu, biết và vận dụng, ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, giáo dục đồng thời đáp ứng được những yêu cầu mới trong công tác đội ngũ mà toàn ngành đang đặt ra. Theo UNESCO 04 trụ cột của giáo dục trong thế kỷ XXI là học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình vì thế coi việc giáo dục đội ngũ vươn lên tự học tự rèn là một nhiệm vụ chính trị hết sức cấp bách của chính quyền và mọi tổ chức trong nhà trường, là một tiêu chí thi đua cơ bản để mọi giáo viên có định hướng cụ thể và một thái độ nghiêm túc, một tinh thần cầu thị. Chi bộ Đảng cũng như chi đoàn TNCS Hồ Chí Minh xem đây là một chỉ tiêu phấn đấu của mỗi đảng viên, đoàn viên. - Phải tạo được một môi trường tốt về học tập nhằm cuốn hút mọi thành viên trong nhà trường thi đua tìm tòi học tập và sáng tạo: nhà trường cần xây dựng một cung cách làm việc, học tập nghiêm túc tích cực và chu đáo. Chủ động và đổi mới công tác bồi dưỡng đội ngũ: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng mang tính khả thi, có nội dung toàn diện được tổ chức bằng nhiều hình thức và phương pháp thích hợp: Như tự nghiên cứu, tự triển khai tại chỗ: Thông qua việc tổ chức hội thảo các chủ đề về khoa học, chính trị, thời sự, chuyên môn, nghiệp vụ báo cáo những sáng kiến kinh nghiệm hay, những việc làm tốt hàng năm của giáo viên, thực hiện đầy đủ sinh hoạt chuyên môn 2 lần/tháng có chất lượng, dự học chương trình bồi dưỡng thường xuyên, tự tổ chức các lớp học vi tính, ngoại ngữ vào ban đêm. Xây dựng điểm để nhận diện, cử cán bộ giáo viên tham gia các lớp đào tạo về lí luận chính trị ở trường Chính trị của Tỉnh, đào tạo đạt chuẩn, vượt chuẩn và đào tạo chương trình quản lý giáo dục ở trường quản lý giáo dục trung ương. - Cung cấp cơ sở kiến thức ban đầu để đội ngũ được nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động. Trước khi bước vào năm học, tiếp nhận giáo viên mới, nhà trường sẽ phổ biến để giáo viên nắm chắc các quy định, quy chế chuyên môn. Tạo điều kiện để mọi giáo viên đều được tham gia học tập đầy đủ các lớp bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Có kế hoạch và thời gian cụ thể cho cán bộ giáo viên nắm bắt kịp thời những thông tin về thời sự, chính trị, các quan điểm chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Chỉ đạo tổ chuyên môn triển khai thực hiện đầy đủ các chuyên đề về chuyên môn nghiệp vụ trong từng thời gian cụ thể ở từng bộ môn. Đặc biệt cũng từ năm học này cần quán triệt tốt nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, nghị quyết đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XIII, luật giáo dục sửa đổi, những quan điểm, yêu cầu về đổi mới giáo dục đến mỗi cán bộ giáo viên. Bồi dưỡng đề giáo viên nắm chắc những nội dung cơ bản chương trình và sách giáo khoa mới theo từng bạn học, những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ phương pháp và các hình thức dạy học theo đặc trưng bộ môn do ngành giáo dục đào tạo Tỉnh tổ chức. - Tạo điều kiện về tinh thần và vật chất để giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ trong và ngoài tỉnh: - Trước hết là thực hiện chi trả các khoản công tác phí đi lại kịp thời, đúng chế độ, có bố trí dạy thay dạy thế cho giáo viên đi học và động viên khen thưởng nếu đạt thành tích cao. Tổ chức giao lưu tham quan học tập các đơn vị tiên tiến vào cuối kỳ Y và hè hàng năm. Tăng cường phương tiện học tập chậm nhất là cuối năm học 2006-2007 để có thư viện tiên tiến với đủ số lượng sách báo tối thiểu cần thiết các loại, nhất là các tạp chí chuyên ngành để giáo viên nghiên cứu học tập, trang bị 2 phòng tin học có nối mạng, mua sắm các phương tiện dạy học hiện đại (máy chiếu qua đầu, camera, máy chiếu projecter, moniter) các thiết bị thực hành bộ môn. - Tạo điều kiện để đội ngũ được cập nhật thông tin. Những thông tin cần thiết sẽ được nhà trường trực tiếp thông qua các đợt sinh hoạt hàng tuần hoặc qua bảng thông báo, còn lại được lưu vào kẹp “Công văn cần đọc” đặt ở phòng hội đồng để giáo viên chủ động nghiên cứu, tìm hiểu. Các văn bản quan trọng như nhiệm vụ năm học, kế hoạch hàng năm, lịch công tác đều được in phát cho từng giáo viên. Các bản quy ước thi đua, các quy định về lề lối làm việc, các văn bản về chuyên môn v.v... được phát tận tay cho tổ trường và cốt cán. Để mọi giáo viên đều thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, cần tổ chức hội thảo, hội thi, giảng dạy minh hoạ theo từng loại bài đặc trưng cụ thể nhằm đúc kết kinh nghiệm, có chuyên gia bổ trợ. 2.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học: Đây là mặt còn hạn chế trong đội ngũ. Vì vậy cần tổ chức để cán bộ giáo viên tập được nghiên cứu khoa học, trước hết là tham gia, phổ biến, trao đổi những kinh nghiệm hay về công tác dạy học và giáo dục, mà mỗi cá nhân đã đúc kết được từ thực tế dạy học và giáo dục hoặc từ các tạp chí như nghiên cứu giáo dục, giáo dục thời đại, hoá học, toán học, văn học tuổi trẻ v.v... (Những tạp chí này trường đều có đặt mua và phải cố gắng tiếp nhận kịp thời, tối thiểu 01 số/loại). Động viên giáo viên mạnh dạn trình bày trao đổi những suy nghĩ của mình về các nội dung trên thông qua diễn đàn rộng rãi hơn. Phổ biến cho giáo viên cách trình bày “Sáng kiến kinh nghiệm” và quy trình mỗi khi giáo viên đăng ký thi đua đều có đăng ý tên đề tài “Sáng kiến kinh nghiệm”. Những sáng kiến này hàng năm phải được hội đồng khoa học nhà trường xét duyệt và xếp loại và là một trong những cơ sở để xét đề nghị danh hiệu thi đua cuối năm, những sáng kiến tốt được phổ biến cho đội ngũ học tập vận dụng. Trong nhiều năm qua, một số giáo viên đã trình bày được những kinh nghiệm của mình về dạy học ở một số loại bài, một số bộ môn, về tổ chức các hoạt động tập thể. Song một số mảng nội dung còn ít được đề cập như về giáo dục học sinh, về nâng cao hiệu quả dạy học thực hành thí nghiệm, dạy học ở phòng bộ môn. Vì thế nhà trường sẽ giao từng chủ đề đến từng cá nhân, các nhóm bộ môn tự nghiên cứu và tổ chức báo cáo thảo luận theo kế hoạch cụ thể của chuyên môn, tham gia tháo gỡ những vướng mặt của nhà trường hiện nay về đổi mới phương pháp (đặc biệt là với đối tượng học sinh yếu kém), về gắn giảng dạy với giáo dục, về giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức, rèn các kỹ năng cho học sinh, về công tác quản lý lớp tổ chức các hoạt động tập thể thông qua các cuộc hội thảo, sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn, sinh hoạt chủ nhiệm hàng tháng, hàng tuần. Tập trung đổi mới phương pháp giảng dạy . Xem việc đổi mới phương pháp dạy học là một khâu đột phá đồng thời là bước đi quyết định trong việc nâng cao chất lượng học và là một tiêu chí để đánh giá giáo viên hàng năm. 2.7. Cùng tiếp tục lôi cuốn các tổ chức trong, ngoài nhà trường cùng tham gia vào công tác nâng cao chất lượng đội ngũ: - Với tổ chức Công đoàn: Cuộc vận động: “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” đã đạt được những thành tích cơ bản nhất là việc xây dựng khối đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái và cộng đồng trách nhiệm trong công việc. Nhiều chỉ tiêu trên giao đã vận động đội ngũ thực hiện đạt và vượt như: Cuộc vận động hiến máu, cứu trợ nhân đạo, đóng góp các nguồn quỹ giúp học sinh nghèo và đồng nghiệp gặp khó khăn hoạn nạn. Vận động đoàn viên chấp hành nghiêm túc chủ trương, pháp luật nhà nước... Là một trường học có tỷ lệ nữ chiếm khá lớn lại nằm trong độ tuổi sinh nên cần thường xuyên làm tốt các cuộc vận động “Sinh đẻ có kế hoạch - giỏi việc nước đảm việc nhà”, Công đoàn cần phải quan tâm thường xuyên hơn nữa trong việc xây dựng nếp sống văn hoá. Với tính chất rộng rãi của dân chủ, càng phải gắn tốt hơn với việc thực hiện kỷ cương kỷ luật, tăng cường pháp chế XHCN. Thực hiện thống nhất những quy định về lề lối làm việc ở cơ quan, thể hiện được phẩm chất, đạo đức trong sáng, tinh thần trách nhiệm của người thầy trong công tác giảng dạy và giáo dục. Mặt trái của nền kinh tế thị trường đang có những ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, phẩm chất, tinh thần công tác của đội ngũ. Vì vậy công đoàn cần phải sát cánh tìm hiểu, nắm bắt mọi diễn biến về tâm lý, nguyện vọng, khuynh hướng của đội ngũ để kịp thời tìm cách xử lý. Kiến quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội, quan liêu cửa quyền, xa rời học sinh, vi phạm luật giáo dục, tách biệt nhiệm vụ nhà trường với nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. Kịp thời can thiệp để phân định đúng, sai về những quan điểm và việc làm của đội ngũ, tránh qua quít dĩ hoà vi quý. Không nên coi nặng việc chăm lo đời sống cho đội ngũ mà đòi hỏi quá mức chế độ chính sách, coi nhẹ công tác tham gia quản lý chuyên môn, đồng thời công đoàn cần phải nhận rõ tính chất đặc trưng là công đoàn của một cơ quan trường học, vì vậy không nên đặt tổ chức mình vào vị trí đối trọng với chính quyền mà phải cùng phối hợp với chính quyền để làm tốt công tác giáo dục con em địa phương. Căn cứ vào nhiệm vụ của nhà trường và khả năng của đội ngũ để tham gia với nhà trường xây dựng tiêu chí thi đua hàng năm với tinh thần tiến công cách mạng. Trong đó cần chú ý các khâu đột phá quan trọng như đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng Dạy - Học, ứng dụng công nghệ thông tin, năng lực nghiên cứu, tự học tự rèn. Đánh giá đúng mức độ đóng góp của từng cá nhân, tổ chức, biểu dương khen thưởng kịp thời đối với những cá nhân và tập thể có nhiều thành tích cao. - Với tổ chức Đoàn: Thông qua sinh hoạt Chi đoàn để làm cho mỗi đoàn viên giáo viên không ngừng nâng cao nhận thức trước hết là tư tưởng, lập trường chính trị, xây dựng được niềm tin để an tâm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, có bản lĩnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách, không đứng núi này trông núi nọ. Xây dựng được lối sống, phẩm chất của người giáo viên, tận tuỵ thương yêu học sinh. Đoàn viên giáo viên phải là người xung kích đi đầu trong mọi phong trào nhà trường, khiêm tốn học tập rèn luyện và có ý thức phấn đấu nâng cao năng lực về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực tập hợp, vận động, giáo dục và thuyết phục học sinh. Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cá nhân, bảo thủ, dấu dốt và vi phạm nhân cách học sinh. Để phát huy tốt chức năng của các tổ chức này cần phải có sự lãnh đạo thường xuyên của Chi bộ Đảng, sự hỗ trợ thiết thực của nhà trường. Phải bầu chọn được một ban chấp hành Công đoàn, Ban chấp hành Chi đoàn biết đoàn kết, am hiểu được chức năng công việc, có nhiệt tình, biết tập hợp, sâu sát đội ngũ và xây dựng được chương trình hoạt động thiết thực. - Với các tổ chức ngoài nhà trường: Trước hết là xây dựng BCH/PHHS các lớp, BCH/PHHS nhà trường hoạt động có hiệu quả. Điều này không chỉ tạo thêm sức mạnh trong việc xây dựng nhà trường, nâng cao chất lượng dạy học mà còn góp phần thiết thực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ. Sự quan tâm giúp đỡ của phụ huynh học sinh sẽ buộc người giáo viên phải có suy nghĩ để tìm cách quản lý giáo dục học sinh mình tốt hơn, sự tham gia giám sát của phụ huynh học sinh về các hoạt động giảng dạy của thầy trên lớp cũng buộc người thầy giáo lo lắng và có trách nhiệm hơn. Việc giao tiếp với phụ huynh học sinh cũng giúp cho người giáo viên thông hiểu hơn tình hình thực tế, hoàn cảnh của từng học sinh để vận dụng và có phương pháp giáo dục thích hợp. Là một đơn vị trường học nằm ở trung tâm huyện lỵ, nhà trường cần phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự phối hợp và giúp đỡ của cơ quan, đoàn thể trong huyện như Ban tuyên giáo huyện uỷ, phòng TDTT, phòng y tế, Ban công an Huyện, Ban chỉ huy quân sự Huyện, Huyện Hội chữ thập đỏ, Đài truyền hình Huyện, Phòng kinh tế tổng hợp Huyện, Hội cựu chiến binh Huyện v.v... Điều đó không những chỉ tạo điều kiện giúp nhà trường thực hiện giáo dục toàn diện, làm tốt hơn việc gắn nhiệm vụ dạy học với nhiệm vụ chính trị xã hội ở địa phương mà còn giúp cho đội ngũ giáo viên của trường giao lưu, mở rộng hiểu biết, học hỏi những kiến thức cơ bản cần thiết theo chuyên ngành và góp phần nâng cao tinh thần cộng đồng trách nhiệm theo quan điểm “xã hội hoá”. 2.8. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ thông qua việc xây dựng quy chế dân chủ của cơ quan: Để đội ngũ phát huy hết mọi năng lực của mình, lãnh đạo nhà trường phải triển khai tốt quy chế dân chủ trong trường học nhằm giúp cho cán bộ giáo viên cùng biết, cùng bàn, cùng làm và cùng kiểm tra mọi hoạt động trong nhà trường. Qua đó để phát huy quyền làm chủ, khơi dậy được tiềm năng, trí tuệ sáng tạo của mọi cán bộ giáo viên, tạo được sức mạnh tổng hợp to lớn trong việc tham gia giải quyết những khó khăn đặt ra ở trường. Trong nhiều năm qua nhà trường đã cụ thể hoá quy chế dân chủ của Bộ GD&ĐT vào thực tiễn của trường và đã được đội ngũ tham gia xây dựng, thực hiện ngày càng đồng bộ, đáp ứng được nguyện vọng của cán bộ giáo viên. Dân chủ được thể hiện trước hết là làm cho mỗi cán bộ giáo viên nâng cao nhận thức của mình để phát huy được tính chủ động sáng tạo, dân chủ được biểu hiện qua việc tham gia xây dựng kế hoạch nhà trường, tham gia thảo luận, bàn bạc, hiến kế, hiến công nhằm tháo gỡ những vấn đề đang diễn ra hiện nay nhất là việc đổi mới chương trình Trung học phổ thông. Nhà trường phải tạo điều kiện để Ban thanh tra nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động của quản lý, nhất là việc thực hiện các chế độ chính sách; thu chi tài chính, đồng thời quan tâm thực hiện kịp thời, đầy đủ mọi chế độ chính sách theo đúng pháp luật. Công khai trình bày các quan điểm chủ trương, công khai tài chính. Thực hiện công bằng trong đối xử, phân công công việc. Không nên để có tình trạng nghi ngờ, “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, khiếu tốt, khiếu kiện xảy ra. 2.9. Tăng cường sự lãnh đạo thường xuyên của Chi bộ Đảng: Đây là một trong 6 nhiệm vụ mà Chỉ thị 40 Ban bí thư đã chỉ ra về nâng chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Vì thế Chi bộ nhà trường cần đề ra những chủ trương sát thực với tình hình cho việc xây dựng đội ngũ về cả chính trị, tư tưởng lẫn tổ chức, có kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn về công tác phát triển Đảng. Trên cơ sở nguồn lực dồi dào, Chi bộ phải coi trọng việc kết nạp Đảng viên để đến năm học 2009 - 2010 trường thành lập được Đảng bộ, mỗi tổ chuyên môn là một Chi bộ. Nghiêm túc thực hiện lịch sinh hoạt định kỳ và chuẩn bị thật tốt nội dung để nâng cao chất lượng sinh hoạt của Chi bộ Đảng. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; thường xuyên đẩy mạnh việc tự phê bình và phê bình để nâng cao tính tổ chức, tính chiến đấu của mỗi Đảng viên. Thông qua sinh hoạt phải làm cho Đảng viên thể hiện được tính tiền phong gương mẫu, xung kích trong mọi hoạt động, thể hiện được vai trò, tác dụng của từng Đảng viên trước quần chúng và trước công việc, nhất là giải quyết tốt những vấn đề nóng bỏng trong nhà trường về giáo dục đạo đức học sinh, về công tác nghiên cứu, tự học tự rèn v.v... - Chi bộ và nhà trường cần làm tốt hơn công tác tuyên truyền để nhân dân địa phương thấy rõ nhiệm vụ của nhà trường, mà quan trọng là vai trò của đội ngũ giáo viên để có quan hệ phối hợp, gắn bó, nhằm giúp giáo viên giáo dục con em mình tốt hơn; đồng thời giúp giáo viên nắm bắt thực tế tình hình địa phương. Xây dựng hội phụ huynh học sinh từng lớp, hội phụ huynh học sinh nhà trường hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần giám sát việc làm của đội ngũ, Tranh thủ sự lãnh đạo, giúp đỡ của Huyện uỷ, chính quyền địa phương và các tổ chức Ban ngành trong Huyện trong việc cung cấp những thông tin về thời sự, chính trị, kinh tế xã hội và kiến thức chuyên môn trong từng ngành nghề, từng bước góp phần nâng cao nhận thức và vốn sống thực tiễn cho đội ngũ. 2.10. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và tự đánh giá của đội ngũ bằng nhiều hình thức: Như kiểm tra đột xuất, kiểm tra định kỳ. Kiểm tra nhiều mặt: như hồ sơ sổ sách, dự giờ thăm lớp, kiểm tra việc tổ chức tham gia các hoạt động giáo dục. Đặc biệt là kiểm tra việc dạy thêm học thêm, kiểm tra dạy học các bộ môn chung (Giáo dục công dân, kỹ thuật, thể dục) thăm do khảo sát, nắm tình hình đội ngũ trong học sinh, trong quần chúng nhân dân. Giáo viên tự nhận xét đánh giá cuối năm. Kịp thời góp ý những biểu hiện còn thiếu sót của đội ngũ và thực hiện đúng quy định của luật giáo dục sửa đổi nhất là chương nói về người dạy. Lập hồ sơ cán bộ giáo viên, xây dựng lối sống và phong cách làm việc của lãnh đạo nhà trường. Xây dựng được nguồn quỹ khen thưởng giáo viên ngoài ngân sách nhà nước bằng nguồn vốn tự có của trường. Để các giải pháp mang tính khả thi. Trong các năm qua, đặc biệt là năm học vừa qua: - Nhà trường đã được tham dự chương trình “Giáo dục cho tương lai của Intel” và đã triển khai đợt Y cho 30 giáo viên học tập. - Đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, các trang thiết bị cho dạy học. Đặc biệt là đã xây dựng được thư viện đạt chuẩn, xây dựng 2 phòng vi tính có nối mạng và đã đầu tư một số phương tiện dạy học hiện đại tương đối đảm bảo điều kiện cho giáo viên nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. - Đã thống nhất kế hoạch phát triển giáo dục và con người, bộ môn dự kiến cử đi đào tạo chương trình trung cấp chính trị và sau Đại học hàng năm đến 2010. - Xây dựng được môi trường cảnh quan sư phạm và điều kiện ăn ở làm việc của cán bộ giáo viên (trường có 14 phòng tập thể) tạo được sự ổn định và an tâm công tác. - Đã trồng xong 4ha rừng, để chủ động tạo nguồn quỹ khen thưởng lâu dài. - Trong quản lý chỉ đạo đã tập trung coi trọng việc xây dựng nền nếp kỷ cương kỷ luật. Quy định được một số yêu cầu đã được đội ngũ thống nhất. Tạo được môi trường làm việc thân thiện. Tuy vậy để thực thi được những giải pháp nêu trên, ngoài vai trò của lãnh đạo nhà trường, cần phải thường xuyên nâng cao ý thức trách nhiệm của đổi ngũ, sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền các cấp và đặc biệt là ngành chủ quản trong việc xây dựng cơ chế, tạo điều kiện, sâu sát trong lãnh chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác quan trọng này ở các cơ sở. Phần kết luận 1. Một số kết luận. Trong những năm tới khi toàn Đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển và vươn lên trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đảng ta chú trọng vai trò của giáo dục - đào tạo, khẳng định giáo dục - đào tạo là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chú ý phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể cạnh tranh và góp phần đào tạo nguồn nhân lực hội nhập khu vực và quốc tế. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển chất lượng đội ngũ, xuất phát từ 4 cơ sở thực tiễn của trường THPT và yêu cầu chung của Sở Giáo dục - Đào tạo Thừa Thiên Huế, Bộ Giáo dục - Đào tạo bản thân đưa ra những giải pháp mang tính thường xuyên, lâu dài nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ. 1. Giải pháp trước mắt (năm học 2006 - 2007). 2. Giải pháp thường xuyên, lâu dài. 2.1. Xây dựng kế hoạch, qui hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ. 2.2. Thường xuyên giáo dục đội ngũ nâng cao nhận thức vị trí, vai trò của người giáo viên. 2.3. Quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán nhà trường. 2.4. Xây dựng mạng lưới chuyên môn đủ mạnh, đủ năng lực để giải quyết các yêu cầu đặt ra về chuyên môn cho đội ngũ. 2.5. Tích cực xây dựng nhà trường thành một tổ chức học tập. 2.7. Lôi cuốn các tổ chức trong và ngoài nhà trường cùng tham gia. 2.8. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ thông qua việc xây dựng qui chế dân chủ. 2.9. Tăng cường sự lãnh đạo thường xuyên của chi bộ Đảng. 2.10. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá và tự đánh giá của đội ngũ bằng nhiều hình thức. 2. Một số khuyến nghị. - Cần đổi mới nội dung, phương pháp kiểm tra đánh giá học tập. Môn nào cũng đều có thể coi là môn tốt nghiệp, để tránh chủ quan ở những giáo viên không có môn thi. - Cần có cơ chế tạo cho cơ sở chủ động trong việc lựa chọn, sắp xếp đội ngũ. - Có kế hoạch tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ giáo viên đảm nhận các phần hành trong nhà trường hàng năm. Tài liệu tham khảo 1. Chỉ thị 40 của Ban Bí thư Trung ương về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. 2. Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010. 3. Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án: “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010”. 4. Bộ Nội vụ: Quy chế đánh giá xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông công lập. 5. Bộ giáo dục và đào tạo: Đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. 6. Bộ giáo dục và đào tạo: Hướng dẫn Quy chế đánh giá xếp loại giáo viên mần non và giáo viên phổ thông công lập. 7. Đặng Huỳnh Mai: Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi của Chỉ thị 40 của Ban Bí thư Trung ương. Tạp chí giáo dục số 104 tháng 12/2004. 8. Hoàng Tâm Sơn: “Một vài suy nghĩ vè bồi dưỡng giáo viên của hiệu trưởng” Tạp chí giáo dục số 87 tháng 5/2004. 9. Lê Thị hoa: “Những biện pháp của hiệu trưởng để xây dựng nhà trường thành một tổ chức học tập”. Tạp chí giáo dục số 75 tháng 12/2003. 10. Hoàng Huy Lập: “Chất lượng giáo dục phổ thông. Quan niệm, thực trạng và giải pháp” Tạp chí giáo dục số 92 tháng 7/2004. 11. Nguyễn Thị Xuân Mai: “Thực hiện Quy chế dân chủ ở trường học” Tạp chí giáo dục số 100 tháng 11/2004. 12. Nguyễn Ngọc Hợi, Phạm Minh Hùng, Thái Văn Thành: “Đổi mới công tác bồi dưỡng giáo viên” Tạp chí giáo dục số 110 tháng 3/2005. Mục lục Mở đầu 1 1. Lý do chọn đề tài. 1 2. Mục đích nghiên cứu. 4 3. Đối tượng nghiên cứu. 5 4. Phương pháp nghiên cứu. 5 Phần Nội DUNG 6 Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của việc quản lý nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên 6 1. Cơ sở lý luận. 6 2. Cơ sở pháp lý. 7 Chương 2: thực trạng đội ngũ giáo viên của Trường THPT Phú Lộc 8 I. Đặc điểm, tình hình chung Trường THPT Phú Lộc. 8 1. Tình hình Trường THPT Phú Lộc. 8 2. Đánh giá 02 mặt chất lượng: 10 3. Nguyên nhân: 12 II. Những giải pháp thực hiện. 13 1. Giải pháp trước mắt (trong năm học 2006 - 2007): 13 2. Những giải pháp mang tính thường xuyên, lâu dài: 14 2.1. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ: 14 Các yêu cầu 14 2.2. Thường xuyên giáo dục đội ngũ nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của người giáo viên: 17 2.3. Quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán nhà trường: 17 2.4. Xây dựng mạng lưới chuyên môn đủ mạnh, đủ năng lực để giải quyết các yêu cầu đặt ra về chuyên môn cho đội ngũ: 18 2.5. Phải tích cực để xây dựng nhà trường thành một tổ chức học tập: 18 2.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học: 20 2.7. Cùng tiếp tục lôi cuốn các tổ chức trong, ngoài nhà trường cùng tham gia vào công tác nâng cao chất lượng đội ngũ: 21 2.8. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ thông qua việc xây dựng quy chế dân chủ của cơ quan: 24 2.9. Tăng cường sự lãnh đạo thường xuyên của Chi bộ Đảng: 24 2.10. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và tự đánh giá của đội ngũ bằng nhiều hình thức: 25 Phần kết luận 27 1. Một số kết luận. 27 2. Một số khuyến nghị. 28 Tài liệu tham khảo 29

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Phú Lộc giai đoạn 2005 - 2010.doc