Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 là một trong những văn bản quan trọng có ý nghĩa to lớn đối với việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật tố tụng dân sự vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, chưa đảm bảo được nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Bởi vậy, để hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây bài viết sẽ đi vào tìm hiểu “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự”.

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7020 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 là một trong những văn bản quan trọng có ý nghĩa to lớn đối với việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật tố tụng dân sự vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, chưa đảm bảo được nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Bởi vậy, để hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây bài viết sẽ đi vào tìm hiểu “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự”. I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1 Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự (sau đây viết tắt là QTĐĐCĐS) trong TTDS là nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam, theo đó đương sự (ĐS) được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm cho ĐS thực hiện được quyền tự định đoạt của họ trong TTDS. 1.2 Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 1.2.1 Cơ sở lí luận của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thoả thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể. Theo quan điểm của PGS. TS Phạm Hữu Nghị thì “quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong mối quan hệ dân sự”. Trong TTDS, nguyên tắc QTĐĐCĐS thể hiện ở khả năng những người tham gia tố tụng tự do định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Có thể thấy rằng nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS chính là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh bởi các nguyên tắc trong giao lưu dân sự do pháp luật nội dung quy định. Mặt khác nguyên tắc QTĐĐCĐS được đặt ra do yêu cầu bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Theo như quy định tại Điều 9 BLTTDS thì đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của BLTTDS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. TA có trách nhiệm bảo đảm cho ĐS thực hiện quyền bảo vệ của họ. Pháp luật cho phép ĐS có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và để bảo đảm cho ĐS bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì pháp luật phải có những quy định nhằm giúp ĐS thực hiện tốt quyền này. ĐS sẽ có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu TA giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc khởi kiện và yêu cầu này hoàn toàn dựa trên sự tự do ý chí của ĐS. Hơn nữa, để bảo đảm được quyền bảo vệ của ĐS, pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các ĐS được quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu, được quyền tham gia phiên toà… Nếu không có những quy định về QTĐĐCĐS trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được việc thực thi nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của ĐS. Chính vì vậy mà pháp luật TTDS đã đưa ra quy định về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS tại Điều 5 BLTTDS. ĐS được quyền tự mình quyết định việc khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của ĐS, nhờ vào quyền tự định đoạt này mà ĐS được quyền chủ động trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, các vụ việc dân sự sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, đúng đắn và khách quan hơn. Cho nên, việc ghi nhận QTĐĐCĐS trong tố tụng dân sự là một vấn đề cấp thiết. 1.2.2 Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Khi các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống xã hội, bên nào nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì phải tiến hành khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự. Nếu người có quyền và lợi ích bị xâm phạm không yêu cầu TA giải quyết thì TA không được quyền giải quyết. Việc khởi kiện, hoặc yêu cầu nêu trên hoàn toàn dựa trên sự tự do ý chí của họ. Một khi đã nhận được yêu cầu của ĐS thì TA phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc để đảm bảo quyền lợi cho người có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này còn rất nhiều bất cập. Một mặt, người dân không có hiểu biết về pháp luật, nên không biết là mình có quyền yêu cầu TA giải quyết khi nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Hoặc có trường hợp có yêu cầu nhưng ĐS lại hiểu sai quy định của pháp luật nên yêu cầu đó là trái pháp luật và đạo đức xã hội. Và còn nhiều trường hợp, ĐS đưa ra yêu cầu không đầy đủ. Vì vậy, cần phải quy định ĐS hoàn toàn có quyền chấm dứt, thay đổi, hoặc bổ sung yêu cầu. Mặt khác, bên cạnh đó, từ phía TA cũng còn tồn tại nhiều sai sót. Có trường hợp, nhận được yêu cầu của ĐS mà TA vẫn không tiến hành giải quyết hoặc là TA giải quyết không đúng, vượt quá phạm vi yêu cầu của ĐS. Vì vậy mà việc quy định QTĐĐCĐS trong TTDS trong đó ghi nhận trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm QTĐĐCĐS là một yêu cầu cấp thiết. Cho nên BLTTDS năm 2004 đã đưa ra quy định về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS (Điều 5). Việc quy định QTĐĐCĐS là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khách quan. Góp phần bảo đảm được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS, tăng cường pháp chế XHCN. II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2004 ĐS có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Và theo Điều 61 BLTTDS người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên đơn, bị đơn. 2.1.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự Thứ nhất, về QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án DS. Tại Điều 161 BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Và theo Điều 162 BLTTDS quy định cụ thể về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Với các quy định đó, Nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện vụ án DS của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của các chủ thể khác như cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ, công đoàn… trong việc khởi kiện yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng, khi họ cho rằng quyền lợi của họ bị xâm phạm. Việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự, trước hết cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm hại hoặc có tranh chấp yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện quyền khởi kiện chính là một trong những biểu hiện của nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. Theo đó, ĐS được quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự, nộp đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong các việc dân sự, không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Thông thường trong các việc DS một bên công nhận hay bác bỏ một quyền lợi hay thực hiện một trách nhiệm DS nào đó nên không xuất hiện khái niệm bị đơn và nguyên đơn DS mà được thay thế bằng thuật ngữ người yêu cầu và người bị yêu cầu. Người yêu cầu trong việc DS là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu việc DS cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án DS. Người yêu cầu trong vụ việc DS có lợi ích pháp lý độc lập nên được đưa ra yêu cầu cho TA giải quyết như nguyên đơn trong VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu TA công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc DS là một trong những quyền cơ bản của ĐS trong TTDS. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của ĐS đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS thực tế. Từ các phân tích trên cho thấy quyền khởi kiện vụ án DS và quyền yêu cầu giải quyết việc DS là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật TTDS, không có hành vi khởi kiện, hành vi yêu cầu giải quyết vụ việc DS thì cũng không có quá trình TTDS cho các giai đoạn tiếp theo. Quy định này xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp trong xã hội, thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với cá nhân con người. Tuy nhiên, để việc thực hiện trách nhiệm của xã hội không làm xâm phạm đến những vấn đề riêng tư mang tính chất cá nhân, chỉ một số những vụ án nhất định thì pháp luật mới quy định những người không phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm hoặc người đại diện hợp pháp của các chủ thể này mới có quyền khởi kiện. Đây là phương thức đặc trưng trong việc thực hiện quyền tự định đoạt trong TTDS được thể hiện bằng việc ĐS có thể hành động ngay tức khắc để tự bảo vệ các quyền DS của mình tránh nguy cơ xâm phạm xảy ra như khởi kiện đòi lại tài sản hoặc khởi kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật… 2.1.2 Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong TTDS, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn, nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi kiện. BLTTDS năm 2004 đã dành một số điều luật quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn trong TTDS, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Ngoài ra BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung và bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng. Sự bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung là sự giải thích và lập luận của bị đơn về tính không có căn cứ của yêu cầu khởi kiện về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tế. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và chứng minh của bị đơn về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là về sự vi phạm thủ tục tố tụng trong việc thụ lý và giải quyết vụ án. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với QTĐĐCĐS. 2.1.3 Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trong TTDS, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng vào vụ án DS đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Việc tham gia tố tụng của họ trong vụ án DS là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến VADS. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quant ham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn. Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây: Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ liên của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn, bị đơn hay nói cách khác người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa những người kahcs để bảo vệ quyền, lợi ích độc lập của mình đối với đối tượng tranh chấp mà TA đang xem xét và giải quyết. Trong vụ án DS lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống cả nguyên đơn, bị đơn. Có thể thấy rằng việc quyết định có tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn hay không phải tuỳ thuộc vào sự lựa chọn và tự định đoạt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập. Còn người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị đơn, lợi ích pháp lý của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn, bị đơn nên việc tham gia tố tụng của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn và họ không có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, bị đơn được. Tuy vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập cũng có quyền cùng nguyên đơn hoặc bị đơn thoả thuận với bên đương sự kia được, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự kia. Đối với người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Việc tham gia tố tụng của họ cũng giống như việc tham gia tố tụng của người có liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của TA. 2.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. 2.2.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu Bằng phương thức khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, người yêu cầu đã thực hiện việc yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi ĐS thực hiện hành vi khởi kiện, yêu cầu thì họ hoàn toàn có quyền quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo của mình. ĐS có quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu của mình. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được TA chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên toà thì quyền này là quyền tuyệt đối của ĐS, theo đó ĐS có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu tuỳ ý. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì tại phiên toà việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trước khi mở phiên toà xét xử sơ thẩm, BLTTDS không có quy định giới hạn phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, nguyên đơn có thể thay đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện, thay đổi, bổ sung những yêu cầu mới đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo quy định tại Mục 6 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS thì tại phiên toà xét xử sơ thẩm, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu cầu ban đầu. Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được TA chấp nhận. Theo nguyên tắc chung việc rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là hành vi định đoạt của nguyên đơn, người yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ yêu cầu (dựa trên luật nội dung) và là sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng (thông qua TA). Nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (điểm b khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 193, khoản 2 Điều 269 của BLTTDS thì việc TA ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện không làm mất quyền của nguyên đơn được khởi kiện yêu cầu TA giải quyết lại vụ án DS đó nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của ĐS là những quyền tố tụng rất quan trọng của ĐS. Tuy nhiên việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu phải dựa vào ý chí tự nguyện của ĐS và TA sẽ không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu do ĐS bị ép buộc. 2.2.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thoả thuận giải quyết vụ việc dân sự Trong quá trình TA giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương lượng, hoà giải với nhau việc giải quyết vụ việc. Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự được giải quyết trong vụ việc, theo đó các bên bình đẳng với nhau, được tự do cam kết, xác lập thoả thuận các quyền, nghĩa vụ dân sự không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Điểm a Khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định việc hoà giải được tiến hành theo nguyên tắc sau: “Tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các ĐS, không được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các ĐS phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình”. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của ĐS đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Cơ sở hoà giải là QTĐĐCĐS. Điều 10 BLTTDS quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Nguyên tắc QTĐĐCĐS trong việc hoà giải thể hiện ở quyền tự thoả thuận của ĐS. Theo đó các ĐS có quyền tự thoả thuận, dàn xếp, thương lượng với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án mà không thông qua TA, trong trường hợp này TA không phải là người chủ động đưa vụ án ra hoà giải mà các ĐS tự thoả thuận với nhau. Với ý nghĩa là một nội dung cơ bản của QTĐĐCĐS, quyền thoả thuận giải quyết vụ việc DS của ĐS là một quyền tố tụng rất quan trọng của ĐS được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm trừ những trường hợp BLTTDS quy định không được tiến hành hoà giải. 2.3 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của toà án 2.3.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình Xét trên phương diện tố tụng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì quyền cử người đại diện, quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cũng thuộc nội dung QTĐĐCĐS. Khoản 3 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người …tố tụng”. Việc cử người đại diện theo uỷ quyền hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của ĐS. Theo điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ĐS có quyền nhờ Luật sư hoặc người khác được TA chấp nhận tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS. Quyền nhờ người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình là biểu hiện của nguyên tắc QTĐĐCĐS được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐS khi tham gia tố tụng phải bảo đảm được các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 63 BLTTDS. Việc tham gia tố tụng vào vụ việc dân sự của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐS có ý nghĩa lớn trong việc thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc QTĐĐCĐS trong quá trình tố tụng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS tham gia tố tụng theo yêu cầu của ĐS nên việc thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ĐS của họ do hai bên quyết định. Đây cũng là một quy định thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. 2.3.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết định của toà án Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của ĐS được quy định tại Điểm o khoản 2 Điều 58 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì ĐS được tự quyết định việc thực hiện quyền này nên theo nghĩa rộng quyền kháng cáo cũng thuộc nội dung QTĐĐCĐS. Ngoài việc quy định ĐS có quyền kháng cáo thì pháp luật cũng quy định ĐS có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 BLTTDS thì ĐS có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết và TA cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần rút kháng cáo. Có thể thấy rằng, quyền kháng cáo là một phương tiện pháp lý để ĐS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua việc kháng cáo hay không kháng cáo ĐS thể hiện ý chí của mình đối với bản án, quyết định của TA một cách công khai, độc lập. Trong kháng cáo bản án, quyết định của TA ĐS được quyền tự định đoạt nội dung kháng cáo. Như vậy, kháng cáo cũng là một trong những nội dung của QTĐĐCĐS khi tham gia vào quá trình tố tụng. 2.4 Một số quyền khác thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 2.4.1 Quyền yêu cầu Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Về nguyên tắc TA chỉ được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) khi có đơn yêu cầu của ĐS và người đại diện của ĐS, cơ quan, tổ chức khởi kiện. Quy định này thể hiện việc tôn trọng nguyên tắc QTĐĐCĐS. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS, TA cũng có quyền tự mình áp dụng một số BPKCTT theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 102 BLTTDS 2004. ĐS có thể yêu cầu TA áp dụng BPKCTT ngay trong quá trình TA giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời trong trường hợp cấp bách thì ĐS có thể yêu cầu TA áp dụng BPKCTT ngay tại thời điểm nộp đơn khởi kiện đến TA (khoản 2 Điều 99 BLTTDS 2004) 2.4.2 Quyền tham gia phiên toà, tham gia phiên họp của đương sự Việc tham gia phiên toà, tham gia phiên họp giải quyết các vụ việc dân sự có ý nghĩa rất quan trọng để các ĐS có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại phiên toà, phiên họp. Vì vậy, theo quy định tại các Điều 199, 200, 201, 202, 221, 222, 232, 264, 271, 272, 292, 295, 313, 314 BLTTDS 2004, ĐS có quyền tham gia các phiên toà, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm vụ việc dân sự, một số trường hợp tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu TA xét thấy cần thiết cho việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm). Quyền tham gia phiên toà, tham gia phiên họp giải quyết vụ việc dân sự nhằm bảo đảm cho ĐS có cơ hội và điều kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Quy định này thể hiện rõ và tạo điều kiện cho ĐS thực hiện quyền tự định đoạt của mình. 2.4.3 Quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật Pháp luật TTDS hiện hành quy định ĐS có quyền khiếu nại đối với các quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật. Theo đó, ĐS có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp thực hiện việc khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trên cơ sở khiếu nại của ĐS, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết chính xác, kịp thời các khiếu nại của ĐS, xử lý nghiêm minh người vi phạm, thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định giải quyết khiếu nại của mình. Như vậy, các quy định từ Điều 291 đến Điều 397, Điều 402, Điều 403 BLTTDS năm 2004 là cơ sở pháp lý để ĐS có thể thực hiện được quyền khiếu nại trong tố tụng nhằm giúp ĐS có thể bảo vệ được tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời hạn chế, khắc phục những vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong TTDS. Tuy nhiên, BLTTDS 2004 lại không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết và trả lời khiếu nại của ĐS đối với các bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật đã dẫn đến trong thực tiễn việc giải quyết khiếu nại không kịp thời hoặc không được giải quyết, không có trả lời đã dẫn đến khiếu nại tràn lan, vượt cấp. Vì vậy, cần quy định trong BLTTDS một trình tự, thủ tục để giải quyết khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là rất cần thiết để bảo đảm quyền cho đương sự. 2.5 Trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Bên cạnh quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham gia tố tụng, quyết định quyền và lợi ích của mình trong TTDS thì BLTTDS cũng quy định rõ về trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Điều 5 BLTTDS quy định “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu đó”. Quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là một quyền tố tụng quan trọng, đương sự là người tự định đoạt về việc khởi kiện, yêu cầu của mình. Toà án chỉ được quyền thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và giải quyết vụ việc dân sự dựa trên khởi kiện, yêu cầu của đương sự. Nếu như không có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự thì TA không được phép thụ lý, giải quyết bất kỳ vụ việc nào. Quy định trên đã chứng tỏ pháp luật tố tụng luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, việc thụ lý giải quyết vụ việc dân sự hoàn toàn dựa trên sự định đoạt của đương sự. TA chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu đó. Đây là quy định xác định cụ thể về trách nhiệm của TA trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự. TA chỉ giải quyết vụ việc trong phạm vi yêu cầu của đương sự, không được giải quyết thiếu hay vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự. Trách nhiệm của TA là đảm bảo việc giải quyết đúng và đầy đủ yêu cầu của đương sự. III. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Thực tiễn xét xử những năm gần đây cho thấy nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS ngày càng được quan tâm và được tạo điều kiện thuận lợi bảo đảm thực hiện trong thực tế. Qua đó, có thể thấy TA đã thực sự phát huy được vai trò của mình đối với việc thực hiện nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. Các vấn đề về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS được quy định ngày càng cụ thể, các loại hình dịch vụ để tạo điều kiện cho các ĐS chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được thực hiện và phát triển. Việc thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định cả trong hoạt động TTDS của các ĐS và TA. Về phía ĐS do không hiểu biết đầy đủ các quy định của pháp luật nên không thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ TTDS của mình. Trên thực tế, đã có không ít trường hợp ĐS khởi kiện yêu cầu TA giải quyết vụ việc dân sự khi đã hết thời hiệu khởi kiện nên đã bị trả lại đơn khởi kiện. Ngoài ra, ĐS còn thực hiện quyền kháng cáo, đối với bản án, quyết định của TA trong nhiều trường hợp cũng không đúng, vượt quá thời hạn do pháp luật quy định nhưng ĐS vẫn kháng cáo. Mặt khác, hiện nay, đội ngũ Thẩm phán nói riêng và cán bộ TA nói chung còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp làm cho việc thực hiện QTĐĐCĐS trong TTDS không được đảm bảo. Chẳng hạn như, khi viết bản án Thẩm phán đã không đảm bảo QTĐĐCĐS trong TTDS, nhiều trường hợp quyết định của bản án vượt khỏi phạm vi yêu cầu của đương sự. Ví dụ, trong vụ án tranh chấp lao động cá nhân về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động bị người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, họ chỉ yêu cầu Tòa án buộc người sử dụng lao động nhận họ trở lại làm việc, bồi thường những ngày không được làm việc, không yêu cầu người sử dụng lao động bồi thường tiền lương những ngày không báo trước, tiền vi phạm do việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Những yêu cầu này đã được xác định cụ thể trong đơn khởi kiện và các bản tự khai của đương sự nhưng nhiều quyết định của bản án vẫn buộc người sử dụng lao động bồi thường tiền lương những ngày không báo trước theo khoản 3 Điều 38 BLLĐ, tiền phạt vi phạm do việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Cá biệt có trường hợp khi đọc bản án thấy đương sự chỉ yêu cầu đòi nhà ở do cho mượn nhưng bản án lại tuyên phải trả luôn cả nhà ở và phần diện tích phụ tách rời nhà ở không nằm trong đối tượng mà đương sự yêu cầu. Việc vi phạm Điều 5 BLTTDS còn thể hiện ở một số bản án có những quyết định mà đương sự không yêu cầu và quyết định đó không làm phát sinh một nghĩa vụ pháp lý nào đối với các đương sự. Bên cạnh đó,cách thể hiện các tình tiết của vụ án trong bản án chưa thể hiện được sự định đoạt của đương sự. Rất nhiều bản án là sao chụp nguyên si lời khai của đương sự, trong đó có rất nhiều những tình tiết không liên quan đến việc giải quyết vụ án, làm cho bản án dài dòng, lủng củng, nhưng lại có những tình tiết rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự, mà đương sự hoặc luật sư của đương sự bổ sung tại phiên tòa thì phần nhận thấy của bản án lại không đưa vào. Do đó, bản án phải trình bày để cho mọi người khi đọc bản án nhận biết được đó là những tình tiết, căn của nguyên đơn hay bị đơn hay người có quyền lợi độc lập đưa ra. 3.2 Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Một là sửa đổi, bổ sung các quy định về khái niệm đương sự trong vụ việc dân sự. Bộ luật TTDS mới chỉ quy định ĐS trong vụ án dân sự, chưa có quy định về ĐS trong việc dân sự. Đương sự trong một vụ việc là những người có quyền, lợi ích được xem xét trong vụ việc nên việc bộ luật TTDS không quy định người yêu cầu, người bị yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc dân sự là ĐS là chưa thoả đáng và đã hạn chế việc thực hiện quyền tự định đoạt của họ. Bởi Bộ luật TTDS không quy định về ĐS của việc dân sự sẽ dẫn đến không quy định quyền, nghĩa vụ cụ thể của họ nên đã ảnh hưởng đến việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Điều 56 Bộ luật TTDS theo hướng quy định bổ sung các đương sự trong việc dân sự cũng như quy định các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ như các ĐS trong vụ án dân sự. Hai là, quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập bởi khi tham gia tố tụng với những quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau. Nghiên cứu BLTTDS năm 2004 cho thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập không thể có địa vị tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, bị đơn được, họ không có yêu cầu độc lập về đối tượng tranh chấp của vụ kiện nên họ không có quyền độc lập thoả thuận với bên ĐS kia được, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên ĐS kia, không có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của vụ kiện trong khi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có địa vị tố tụng giống như là nguyên đơn. Ba là, không nên quy định về trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 269 BLTTDS hiện nay đã vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự bởi lẽ trong các tranh chấp dân sự các ĐS được quyền tự mình quyết định tranh chấp hay không tranh chấp để yêu cầu TA giải quyết và như vậy thì họ cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của mình ở các giai đoạn tố tụng. Với việc quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện ở giai đoạn phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn đã hạn chế QTĐĐCĐS trong TTDS và mâu thuẫn với quy định tại Điều 5. Do vậy, cần sửa đổi Điều 269 theo hướng cho ĐS thực hiện tốt nhất quyền tự định đoạt của mình trong TTDS. Nếu bị đơn thấy việc nguyên đơn có đơn khởi kiện rồi lại rút đơn khởi kiện mà gây thiệt hại cho họ về danh dự, nhân phẩm hoặc với tài sản thì họ có quyền khởi kiện nguyên đơn bồi thường thiệt hại. Bốn là, Nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật Thứ nhất, hiện nay, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của nhiều Thẩm phán còn thiếu nên còn có những sai sót trong việc giải quyết các vụ việc ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của đương sự. Vì vậy về đội ngũ cán bộ Toà án cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao năng lực xét xử; tăng cường công tác quản lí, giáo dục chính trị, phẩm chất đạo đức của cán bộ xét xử cho các Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác để tránh được những tác động tiêu cực của xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Từ đó tránh tình trạng vì một số lí do khách quan, chủ quan mà Toà án xét xử sai, không bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO với yêu cầu khi gia nhập là phải công khai bản án thì việc hoàn thiện cách viết bản án dân sự trong sự chú trọng đến nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một sự đòi hỏi cần thiết. Để làm được điều này phụ thuộc rất lớn vào khả năng của người Thẩm phán. Yêu cầu và phạm vi khởi kiện của đương sự không chỉ “bó hẹp” trong đơn khởi kiện, mà yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được bổ sung, thay đổi trong suốt giai đoạn chuẩn bị xét xử và ngay tại phiên toà nếu đủ điều kiện. Thẩm phán cần phải chú trọng đến việc xác định yêu cầu khởi kiện, phạm vi khởi kiện của đương sự, từ đó mới có thể viết bản án được chính xác. Thứ hai, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến pháp luật. Đương sự là người có quyền tự định đoạt về việc tham gia tố tụng, về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS có thực sự phát huy được hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn vào sự hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của đương sự. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải được tiến hành rộng rãi, sâu rộng trong quần chúng nhân dân như tổ chức các lớp học về pháp luật tố tụng dân sự ở các địa phương, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, có các khẩu hiệu, tài liệu sách báo tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về pháp luật tố tụng dân sự cho nhân dân… Ngoài ra, cần tích cực đào tạo và phát triển đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật làm nòng cốt cho công cuộc tuyên truyền pháp luật tới nhân dân, làm cho dân hiểu và thực hiện luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình, thực hiện tốt quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Để đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình một cách triệt để đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ về xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật TTDS và việc thực hiện chúng trên thực tế. KẾT LUẬN Nền kinh tế càng phát triển thì pháp luật ngày càng có vai trò quan trọng. Chính vì vậy, việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng là một đòi hỏi tất yếu. Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam thì phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự, thực hiện đồng bộ các giải pháp kiện toàn hệ thống Toà án, nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất của đội ngũ cán bộ. Từ đó thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển nói riêng và nền kinh tế xã hội nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb, CAND, Hà Nội, 2009. 2. Học viện tư pháp, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007. 3. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. 4. Bộ luật dân sự năm 2005. 5. Nguyễn Nữ Giang Anh, “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, 2010 6. Nguyễn Triều Dương, “Đương sự trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2010 7. Trần Minh Tiến, “Bản án dân sự sơ thẩm với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự”, Tạp chí nghề Luật, số 5/2006 8. Nguyễn Ngọc Khánh, “Những nguyên tắc tố tụng đặc trưng trong BLTTDS”, Tạp chí kiểm sát, số 1/2005, tr.19-23 9. Nguyễn Ngọc Khánh, “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong BLTTDS”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 5/2005, tr.64-66

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự.doc
Luận văn liên quan