Pháp luật Việt Nam với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại – một số những kiến nghị

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Một số các vấn đề liên quan. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài chính[1] quốc gia. Nếu đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia, nguồn vốn được xem như là máu trong một cơ thể sống thì hệ thống các ngân hàng thương mại là các mao mạch chính. Hoạt động của các ngân hàng thương mại là những thể hiện sâu sắc nhất những diễn biến của thị trường tiền tệ[2] nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại, chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia trong từng thời kì cũng như sự hưng thịnh hay trên đà suy vong của nền kinh tế kinh tế quốc gia đó. Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên hoàn toàn khác với các loại hình doanh nghiệp thông thường khác, các ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật chuyên ngành[3] với những nguyên tắc điều chỉnh hết sức khắc khe. Vậy nguyên nhân nào tạo nên yêu cầu khác biệt đó? Có thể lí giải từ nhiều góc độ: vị trí, vai trò của các ngân hàng thương mại, yêu cầu an toàn cho nền kinh tế, tính chất rủi ro trong bản chất hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, các đặc tính trên đều xuất phát từ một yếu tố duy nhất, đó là đối tượng kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này: tiền tệ. Theo khoản 1 điều 9 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam[4] “Tiền tệ là phương tiện thanh toán, bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá như tiền”. Xuất phát từ bản chất của tiền tệ là loại tài sản vô hình với giá trị của nó không liên quan gì đến hình thức vật lí của nó mà dựa vào trái quyền hợp pháp trên một lợi ích tương lai nào đó. Tiền tệ, hiều theo nghĩa hẹp là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế, chính vì vậy, tiền tệ còn được gọi là “tiền lưu thông”. Từ góc độ này, tiền tệ có thể mang hình [1] Thị trường tài chính (financial market) được đề cập trong đề tài này có thể được định nghĩa: là thị trường giao dịch về các loại tài sản tài chính, vốn tài chính và các sản phẩm tài chính hay công cụ biểu thị vốn phát sinh theo từng phương thức giao dịch trên thị trường thị trường tài chính được hình thành và phát triển trong một nền kinh tế đều dựa trên hai cơ sở chủ yếu là nhu cầu giao lưu vốn cùng với sự xuất hiện các công cụ vốn. Thị trường tài chính được hợp thành bởi thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Gs.Ts Lê Văn Tư, Pgs.Ts Phạm Văn Năng, Thị Trường Tài Chính, Nxb Thống Kê Hà Nội, năm 2003) [2] Thị trường tiền tệ (money market) là thị trường nơi các công cụ nợ ngắn hạn (thường dưới một năm) được mua bán với số lượng lớn. Các công cụ nợ ngắn hạn lưu hành trên thị trường tiền tệ thường do nhà nước, các ngân hàng và các doanh nghiệp lớn phát hành, đặc biệt là có tính thanh khoản cao, và rủi ro không thanh toán thấp. (Gs.Ts Lê Văn Tư, Pgs.Ts Phạm Văn Năng, Thị Trường Tài Chính, Nxb Thống Kê Hà Nội, năm 2003) [3] Luật Các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ngày 12/12/1997 (sắp được thay thế bới Luật Các tổ chức tín dụng mới vào cuối năm 2009 – trong quá trình phân tích các vấn đề liên quan đến các quy định của pháp luật, tác giả cũng sẽ phân tích các quy định mới của dự thảo luật này); Nghị định số 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/09/200 về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại. [4] Đã được sửa đổi bổ sung. CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI – MỘT SỐ NHỮNG KIẾN NGHỊ Những quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Những quy định chung về hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại Trong các văn bản pháp luật hiện hành, không có nhiều các quy định về hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. So với các nghiệp vụ khác của ngân hàng, chẳng hạn như các hoạt động tín dụng, thì số lượng các quy phạm trong mảng này còn khá hạn chế. Có thể nói nó chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà lập pháp. Các quy định nhìn chung còn khá sơ sài, tuy nhiên, trong giai đoạn từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cũng đã có những bổ sung đáng kể. Trong các văn bản có quy định liên quan đến hoạt động huy động huy động vốn của các ngân hàng thương mại, không có bất cứ một văn bản nào đưa ra một định nghĩa pháp lí về hoạt động huy động vốn, Luật Các tổ chức tín dụng và Nghị định 49/2000/ND-CP chỉ liệt kê những loại hình được coi là hoạt động huy động vốn. Các hoạt động của các ngân hàng là khá đa dạng và hình thức của nó biến đổi không ngừng, chính vì vậy, việc đưa ra một khái niệm mang tính liệt kê như vậy rõ ràng không đáp ứng được yêu cầu thay đổi của thực tiễn, những quy định đó sẽ nhanh chóng bị lạc hậu. Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, hoạt động huy động vốn nói chung của các tổ chức tín dụng bao gồm bốn hoạt động cơ bản được quy định tại một chương riêng của luật này: 1)hoạt động nhận tiền gửi (điều 45); 2) hoạt động phát hành giấy tờ có giá (điều 46); 3) hoạt động vay vốn giữa các tổ chức tín dụng (điều 47); 4) hoạt động vay vốn của Ngân hàng nhà nước (điều 48). Nhìn chung, Luật Các tổ chức tín dụng chỉ nêu một cách khái quát nhất về các hình thức huy động vốn của các tổ chức tín dụng (trong đó có các ngân hàng thương mại) mà không có bất cứ quy định gì thêm. Vấn đề này một lần nữa được quy định tại Nghị định số 49/200/ND-CP về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, tại điều 3 Nghị định này quy định:

doc58 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3807 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật Việt Nam với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại – một số những kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng chiếm số lượng lớn nhất trong các quan hệ vay vốn nói chung cả về mặt số lượng và quy mô, và nó cũng đóng vai trò trung tâm Quyết định đến lãi suất thực trên mặt bằng lãi suất của các quan hệ vay vốn khác trong thực tế. Nếu giả định lãi suất huy động vốn và cho vay của các ngân hàng và các loại hình vay vốn khác được điều chỉnh bằng hai cơ chế điều chỉnh khác nhau thì thật sự nhà lập pháp đã đi trái với các nguyên tắc thực tiễn. Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam có thể nói là một Quyết định đúng đắn để sửa chửa những sai lầm của mình. Theo giải trình của Ngân hàng nhà nước Việt Nam việc ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN dựa trên cơ sở pháp lý: Luật NHNN, Điều 9 và 18 quy định “NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn” và “Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh”; Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự quy định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại vay tương ứng”. Lãi suất cơ bản do NHNN công bố là công cụ để điều hành chính sách tiền tệ, thực hiện các chức năng: Một là, làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Hai là, có tác dụng định hướng và điều tiết lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng. Theo đó, lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của TCTD và xu hướng biến động cung - cầu vốn, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn hạn Ngân hàng nhà nước việt nam, Thông báo về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Điều 476 Bộ luật Dân sự và điều chỉnh cơ chế lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu (Tài liệu họp báo ngày 17 tháng 5 năm 2008). . Tuy nhiên, đây cũng là một Quyết định mang tính tạm thời để đối phó với tình huống hiện tại (ổn định thị trường tài chính, thực hiện mục tiêu thắt chặt tiền tệ trong giai đoạn nền kinh tế lạm phát, hệ thống tài chính thế giới sụp đổ). Như đã được đề cập ở trên, với sự ra đời của Bộ luật Dân sự (sửa đổi), luật Ngân hàng nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng mới, nhà nước ta sẽ lựa chọn được một cơ chế điều chỉnh thích hợp ca về mặt pháp lí và tài chính. Vấn đề thứ hai: Lãi suất cơ bản. Nếu như vấn đề trên thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như báo giới thì vấn đề này chưa hệ thấy được đề cập. Đây là vấn đề xuất hiện trên cơ sở vai trò của lãi suất cơ bản. Theo khoản 12 Điều 9 luật Ngân hàng nhà nước 1997: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”. Ở cả hai cơ chế điều hành theo lãi suất thỏa thuận hay lãi suất trần đều có sự xuất hiện của lãi suất cơ bản. Như vậy, căn cứ vào quy định này, vai trò luật định của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố luôn là cơ sở bắt buộc cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đối với trường hợp áp dụng lãi suất thỏa thuận, trong Quyết định 546/ 2002/QD-NHNN của thống đốc Ngân hàng nhà nước lại quy định: “Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo .... để tham khảo và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam”. Nhìn vào quy định này có thể dễ dàng nhận thấy theo cách quy định của Quyết định số 546/2002/QD-NHNN thì vai trò của lãi suất cơ bản được quy định tại luật Ngân hàng nhà nước bị thay đổi hoàn toàn. Rõ ràng, với trường hợp này không cần thiết xét đến các nguyên tắc phức tạp trong việc xác định văn bản có hiệu lực ưu tiên, Quyết định 546 với vai trò là văn bản quy định chi tiết đã quy định trái với văn bản mà nó hướng dẫn, vậy về nguyên tắc, nên bị bãi bỏ. Tuy nhiên, rất ngạc nhiên là từ trước đến nay chưa có bài nghiên cứu nào lên tiếng về vấn đế này. Tuy nhiên, nhân đây cũng nhắc đến xu hướng mới của Dự thảo Luật Ngân hàng nhà nước đang được soạn thảo. Cụ thể, khoản 1 Điều 15 của Dự thảo 3 Luật Ngân hàng nhà nước quy định: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng nhà nước xác định và công bố để định hướng lãi suất thị trường”. Đây có thể là sự mở đầu cho xu hướng tự do hóa lãi suất trong tương lai. VỀ TÍNH PHÙ HỢP, TÌNH HIỆU QUẢ. Những diễn biến tốt hay xấu của thị trường tiền tệ, sự thành công hay thất bại của một chính sách tài chính không thể đươc đánh giá chính xác một cách tuyệt đối, càng không thể chỉ dựa vào một hay một vài thành tố trong đó. Bởi sự vận hành của thị trường này chịu tác động bởi rất nhiều các thành tố, mà trong chừng mực nhất định nào đó, chúng ta không hoàn toàn quản lí đượcVí dụ, kinh tế học cho rằng nền kinh tế luôn diễn biến theo biểu đồ hình sin, khi nó phát triển đến một chùng mực nhất định thì buộc sẽ phải rơi vào thời kì suy thoái, và sau đó sẽ diễn biến theo hướng lạc quan, khôi phục lại với một tình trạng tôt hơn ban đầu. Các quốc gia chỉ có thể tác động theo hướng hạn chế tối đa những tác động tiêu cực mà không có khả năng ngăn chặn nó. Thị trường tài chính cũng vậy, nó luôn hàm chứa những yếu tố vô hình mà không một tổ chức nào có thể dự báo một cách chính xác. . Chính vì vậy, không thể căn cứ vào những diễn biến của thị trường tiền tệ nước ta trong thời gian qua để đánh giá tính hiệu quả của các cơ chế điều hành lãi suất đã được đề cặp ở trên, chỉ có thể dùng nó như một sự tham khảo. Tuy nhiên, đối với nước ta, có thể nói công cụ lãi suất thực sự đã tác động rất lớn đến hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại nói riêng và đối với thị trường vốn Việt Nam nói chung. Đó cũng là lí do mà tác giả chọn vấn đề điều hành lãi suất để phân tích về tác động của pháp luật đến hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Theo những phân tích ở trên, có thể thấy, dù được thực hiện dưới những phương thức điều chỉnh khác nhau nhưng về cơ bản chỉ có hai cơ chế điều chỉnh chính xuất phát từ sự khác biệt về vai trò của lãi suất cơ bản đối với việc xác định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cấp tín dụng) của các ngân hàng thương mại. Đó là phương thức lãi suất thỏa thuận và phương thức lãi suất trần. Lãi suất trần: Được áp dụng vào hai giai đoạn (tình kể từ khi Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực 1/1/1998 đến nay), giai đoạn 1 Thực ra, Việt Nam áp dụng cơ chế trần lãi suất bắt đầu từ năm 1991. từ trước khi Luật Các tổ chức tín dụng 1997 có hiệu lực đến ngày có hiệu lực của Quyết định số 546, và giai đoạn 2 từ sau khi Quyết định số 16 có hiệu lực vào thành 5 năm 2008. Thực ra lãi suất trần thường không tác động trực tiếp đến lãi suất huy động vốn nhưng dễ dàng nhận ra mối liên hệ giữa chúng, lãi suất trần buộc các ngân hàng cho vay với một lãi suất dưới mức ấn định, chính vì thế, để đảm bảo lợi nhuận, họ cũng phải ấn định một mức lãi suất huy động nào đó. Bằng phương thức này, trần lãi suất Quyết định đến lãi suất huy động của các các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn đầu của quá trình ứng dụng cơ chế này, vào những năm thập niên 90, khi chúng ta bước đầu thiết lập nền kinh tế thị trường, theo quan điểm của tác giả, với một nhận thức khá mơ hồ về những gì là cơ chế kinh tế thị trường, những giới hạn của thị trường và những khiếm khuyết của nó. Với tâm lí muốn bức phá, quá độ một cách nhanh chóng, đánh giá về cơ chế điều hành này, đa số đều có chung một qua điểm đó là một phương thức điều hành mang nặng tính hành chính, không phù hợp với nền kinh tế thị trường đang được thiết lập. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, với một nền kinh tế non nớt như nước ta, bước đầu thiết lập nền kinh tế hàng hóa, chưa thể nhanh chóng thích ứng với những quy luật nội tại của nó, và quan trọng hơn hết, ngân hàng trung ương chưa hề có bất cứ kinh nghiệm nào với nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, một thị trường tài chính sơ khai, thì công cụ lãi suất tuy mang nặng tính hành chính nhưng là công cụ hiêu quả nhất đối với giai đoạn bấy giờ. Và thật sự trên thực tế, nó đã đạt được những thành tựu nhất định. Cũng là cơ chế lãi suất trần nhưng phương thức vận hành cũng có một vài sự chuyển biến trong giai đoạn này theo hướng nới lỏng sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Trong giai đoạn đầu, mặc dù nước ta đã xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ đầu những năm 90 thế kỉ XX (sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986), nhưng vì những nguyên chủ quan và khách quan, đến trước ngày 05 tháng 08 năm 2000, Ngân hàng nhà nước vẫn thực hiện cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam và đô la Mỹ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Ngay cả khi điều kiện đã thuận lợi, Ngân hàng nhà nước vẫn chưa trao ngay quyền tự xác định lãi suất cho vay cho các ngân hàng mà chỉ giảm bớt sự can thiệp vào việc xác định lãi suất cho vay của các ngân hàng bằng cách thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Sự thận trọng của Ngân hàng nhà nước bảo đảm cho Nhà nước quản lý và kiểm soát được hoạt động cho vay của các ngân hàng trên thị trường Nguyễn Phương Linh, Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, “Cần sửa đổi quy định về lãi suất vay trong Bộ luật Dân sự 2005”, Tạp Chí Ngân Hàng, số 23/2006. . Với cơ chế điều hành lãi suất mới nói trên, ngân hàng được ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố nhưng không vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ do Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định từng thời kỳ. Cơ chế lãi suất thỏa thuận: Được áp dụng từ năm 2002 sau Quyết định 546 và kết thúc sau Quyết định 26 vào giữa năm 2008 Thật sự, theo quan điểm của tác giả, với những gì được phân tích ở trên, cơ chế lãi suất thoả thuận thực chất kết thúc vào đầu năm 2006 vào thời điểm Bộ Luật Dân Sự 2005 có hiệu lực. . Ngay từ lúc mới ra đời, trong giới chuyên môn đã có nhiều ý kiến băn khoăn về sự ra đỏi sớm của cơ chế này vì kinh tế – xã hội Việt Nam còn nhiều yếu tố cản trở tính hiệu quả của nó; đặc biệt là còn có sự khác biệt không nhỏ giữa các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước vẫn phải giữ vai trò chủ đạo (nhưng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, thường bị thua lỗ…). Ngoài ra, lúc bấy giờ kinh tế nước ta vẫn đang là một nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ do còn những bất hợp lý, thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật; sự pha trộn, đan xen giữa hai cung cách làm ăn cũ và mới vẫn là những trở lực rất lớn cho tính năng động sáng tạo của người lao động trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng như trong các doanh nghiệp. Những băn khoăn về sự ra đời “sớm” của cơ chế lãi suất thoả thuận như đã nói trên là có cơ sở thực tế. Một số tác giả Tác giả Châu Đình Phương trong bài viết “Lãi suất: ôn cố tri tân”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 17 (433) tháng 9/2008; tác giả Minh Tâm, trong bài viết “Quan niệm về lãi suất trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 20 tháng 10/2008. cho rằng đây là nguyên nhân chính về sự gia tăng chỉ số hàng hoá-dịch vụ tiêu dùng và góp phần làm cho lạm phát tiền tệ của Việt Nam ngày càng một nặng nề thêm. Năm 1999, mức lạm phát chỉ là 0,1%; 2 năm sau đó mức lạm phát đều âm (2000: -0,6%; 2001: -0,2%); nhưng sang năm 2002, con số này đã là 4% và đến năm 2004 là 8,4%. Từ năm 2004, nhiều ngân hàng thương mại đã sử dụng lãi suất với tư cách là một trong những công cụ chủ yếu để cạnh tranh, để thu hút vốn và cho vay, để nâng thị phần hoạt động, để phát triển quy mô hoạt động của mình. Với mục đích đó, chính sách lãi suất của một số ngân hàng thương mại lúc bấy giờ được xây dựng trên nguyên tắc “tín hiệu thị trường”. Điều này có nghĩa là, sự tăng giảm lãi suất huy động vốn và cho vay hoàn toàn phụ thuộc vào diễn biến của quan hệ cung – cầu trên thị trường. Nhìn lại cơ chế này sau gần sáu năm vận hành, đa phần các quan niệm đều cho rằng, “cơ chế lãi suất thỏa thuận năm 2002 là sư khởi đầu cho trào lưu tự do hóa, tự do hóa tỉ giá hối đoái không muốn có một sự can thiệp, một sự kiểm soát nào từ phía các nhà chức trách. Tức là Nhà nước thả nổi hoàn toàn giá cả; mọi biến động của giá cả cần phải để thị trường Quyết định. Giới nhà khoa học Việt Nam gọi đây là quan điểm của trường phái “cấp tiến”, muốn “đốt cháy” giai đoạn, “chạm ngõ” với kinh tế thị trường đầy đủ. Trong nền kinh tế thị trường một điều không nên bỏ qua đó là cần có khả năng điều tiết những khuyết tật của nó. Tại những nước công nghiệp hàng đầu thế giới, có hàng mấy trăm năm kinh tế thị trường, trong khi thực hiện tự do hoá lãi suất, các nhà chức trách của đất nước vẫn có những can thiệp cần thiết khi xuất hiện những dấu hiệu bất thường trong biến động của lãi suất có thể gây hại cho hoạt động kinh doanh và đời sống của dân chúng. Có lẻ vì không quán triệt tư tưởng này nên chúng ta đã thất bại trong việc điều tiết chính sách tiền tệ trong giai đoạn này, hiện tượng các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn, đẩy vốn cho vay lên cao ngất ngưởng, các doanh nghiệp lao đao vì lãi suất, các ngân hàng buộc phải hi sinh lợi nhuận, bù lỗ để giữ khách,… và lạm phát. Có thể nói để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại, điều đầu tiên là cần phải tìm kiếm được một cơ chế điều chỉnh lĩa suất thích hợp. Giai đoạn 2 của cơ chế trần lãi suất: Từ sau Quyết định 16/2008/QD-NHNN đến nay. Quyết định 16 được xem là Quyết định đúng đắn phù hợp giải quyết những hầu quả của cơ chế lãi suất thỏa thuận và là phương thức tối ưu để bảo vệ thị trường tài chính Việt Nam trước cơn khủng hoảng toàn cầu. Cuối năm 2007, lạm phát trong nước có dấu hiệu gia tăng, nếu để cho thị trường tiếp tục vận hành, nguy cơ siêu lạm phát rất có khả năng xảy rả. sự can thiệp của nhà nước trong trường hợp này là một yêu cầu bức thiết để thị trường đi đúng hướng. Đặc biệt, ngăn chặn được một lần nữa các ngân hàng thương mại bị cuốn vào vòng đua cạnh tranh lãi suất không có điểm dừng. Công cụ lãi suất rõ ràng là một lựa chọn hợp lí đối với những hoàn cảnh như thế này dù mang nặng tính cưỡng chế hành chính. Lãi suất cơ bản trước đây chỉ mang tính định hướng và tham khảo nhưng khi lạm phát tăng đột biến, cơn bão giá đã tác động đến mọi ngành trong nền kinh tế, an sinh xã hội bị ảnh hưởng càng làm tăng sức ép lên các nhà điều hành trong chính sách quản lý. Lãi suất cơ bản giờ đã được sử dụng như một thông điệp có tác động nhanh, mạnh đến cả nền kinh tế, là cơ sở để ấn định lãi suất kinh doanh, tính toán trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Sau những giải pháp mạnh của chính sách thắt chặt tiền tệ thì việc điều hành bằng công cụ lãi suất cơ bản ấn định trần lãi suất cho vay thay đổi linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đã góp phần hạ nhiệt lãi suất huy động lúc đầu, giúp nền kinh tế dần trở lại nhịp độ phát triển Trong thời điểm này, sự sụp đổ hệ thống tài chính khổng lồ của Mỹ là một cú sốc mạnh cho cả nước Mỹ và ảnh hưởng lan truyền đến phần còn lại, nhất là khối liên minh Châu Âu và các nước phát triển khác. Suy thoái kinh tế bao trùm làm nền kinh tế thế giới quay đầu đột ngột từ nỗ lực chống lạm phát sang nỗ lực chặn đà giảm phát. Cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tạo ra thiếu hụt thanh khoản nghiêm trọng. Các khoản dự báo trước đây đều phải thay đổi, giá dầu tuột dốc không phanh khi dự báo nhu cầu sử dụng năng lượng của Mỹ giảm mạnh. . Trong khoảng thời gian 6 tháng, từ 16/5/2008 đến 3/12/2008, Ngân hàng nhà nước đã 10 lần đưa ra quyết định thay đổi lãi suất cơ bản, cho thấy sự sâu sát và tính nhất quán trong điều hành lĩnh vực nhạy cảm của thị trường tài chính tiền tệ. Như vậy, lãi suất cơ bản đã được trở lại bản chất của chính nó nhưng ở một cách nhìn khác – theo sát diễn biến thị trường. Với chính sách tiền tệ thắt chặt nghiêm ngặt này, tác dụng của nó khá nhanh, đây được xem là một trong những thành công của việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Lạm phát đang giảm dần, thị trường dần đi vào ổn định, sự biến động qua lại tiền gửi của khách hàng giữa các ngân hàng giảm hẳn. Thay vào đó là khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài hơn, đường cong lãi suất huy động cũng trở lại hình dáng hợp lý. Kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao, khác với tính bất hợp lý của thời gian trước đó kỳ hạn càng ngắn, lãi suất càng cao. Việc giảm lãi suất cơ bản, kéo theo việc hạ lãi suất cho vay là tín hiệu tốt cho nền kinh tế, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng có kiểm soát. Với mức lãi suất chấp nhận được, doanh nghiệp tiến hành vay vốn kinh doanh, qua đó giải phóng đầu ra cho ngân hàng. Nhưng trong thời gian ngắn, nhất là các ngân hàng có quy mô vốn còn nhỏ, chưa thể giảm nhanh lãi suất cho vay vì phải còn gánh số vốn huy động cao từ nhiều tháng trước. Tuy nhiên, áp dụng trần lãi suất trong giai đoạn này cũng có những mặt trái của nó. Thứ nhất, từng ngân hàng khó có thể dự đoán xu hướng thị trường để chủ động điều chỉnh lãi suất. Khi lãi suất cơ bản hạ, việc áp dụng nghiêm ngặt trần lãi suất chỉ trong ngày một, ngày hai nên các NHTM cũng không chủ động giảm được cho các khoản huy động trước đó. Thứ hai, trong nước có nhiều ngân hàng có quy mô còn nhỏ, việc cạnh tranh lãi suất huy động cao nên chỉ có những ngân hàng thực sự mạnh về tài chính, tạo được lợi thế khác biệt mới có chủ trương đi đầu trong việc giảm lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay. Lợi nhuận của cả hệ thống ngân hàng cũng bị ảnh hưởng do hệ quả của những hợp đồng huy động vốn dài hạn được thiết lập trước đó với mức lãi suất cao ngất ngưởng. Một vấn đề nữa là quy định trần lãi suất như nhau cho mọi loại hình kinh tế là điều chưa hợp lý Nguyễn Phương Linh, Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, “Cần sửa đổi quy định về lãi suất vay trong Bộ Luật Dân Sự 2005”, Tạp chí Ngân hàng, số 23/2006. . Và theo nhận định chung hiện nay, việc áp dụng cơ chế trần lãi suất đã đạt được nhiều thành công trong thời gian qua, nhưng khi thị trường tài chính đã hạ nhiệt và trở lai đúng quỹ đạo của nó, không cần thiết đến sự can thiệp của nhà nước thì nên gở bỏ lãi suất trần và hướng đến cơ chế lãi suất thỏa thuận. Đây có thể cũng là xu hướng của nước ta trong tương lai khi mà Dự thảo Luật Ngân hàng nhà nước thay đổi vai trò của lãi suất cơ bản (Điều 15 khoản 1 dự thảo 3 luật Ngân hàng nhà nước: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng nhà nước xác định và công bố để định hướng lãi suất thị trường”). Lãi suất nên để thị trường quyết định. Lãi suất thị trường sẽ đảm bảo cả tính công bằng lẫn tính hiệu quả trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Tham khảo: Bảng thống kê lãi suất cơ bản được công bố bởi Ngân hàng nhà nước trong thời gian qua (xem phần phụ lục đính kèm). CÁC VẤN ĐỀ VỀ NGHIỆP VỤ Như đã được phân tích ở trên, hoạt động huy động vốn của ngân hàng được điều chỉnh bởi các nhóm quy phạm khác nhau, các vấn đề về lãi suất huy động vốn được phân tích ở trên là nhóm các quy phạm thiên về hoạt động điêu phối của Ngân hàng nhà nước nhằm mục đích quản lí hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Các vấn đề sẽ được trình bày trong phần này sẽ là các quy phạm thiên về tính nghiệp vụ trong việc kí kết các hoạp đồng huy động vốn cụ thể (bản chất là các hợp đồng vay vốn). ở đây, tác giả sẽ chỉ trình bày những vấn đề mà tác giả cho là còn vướn mắc, các vấn đề thiên về tính hình thức và thủ tục của việc thực hiện các hoạt động này trên thực tế hoặc là được quy định khá cụ thể trong các quy chế do ngân hàng nhà nước công bố, theo thông lệ chung trong lĩnh vực này hoặc là thuộc về nghiệp vụ của từng ngân hàng riêng lẻ, chính vì vậy, sẽ không được đề cập. Vấn đề pháp lí liên quan đến hợp đồng vay: Quyền yêu cầu rút tiền trước thời hạn. Như đã được nhắc đến ở phần trước, mang bản chất là một hợp đồng dân sự, chính vì vậy các hoạt động huy động vốn mà cụ thể là các hợp đồng tiền gửi không chỉ được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật chuyên ngành mà còn được điều chỉnh bởi rất nhiều quy phạm của các văn bản pháp luật khác, mà cụ thể nhất là Bộ luật Dân sự 2005. Đặc biệt, đối với các hợp đồng tiền gửi, các vấn đề được các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định chỉ chủ yếu tập trung vào các quy định thiên về tính thủ tục và xác định phương thức thực hiện một loại hình nghiệp vụ như thế nào. Hình thức và đặc trưng của từng loại tiền gửi thường được xác lập phù hợp với thông lệ chung trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Riêng về các vấn đề pháp lí như xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong hợp đồng tiền gửi, vấn đề giải quyết các hệ quả pháp lí liên quan đến hợp đồng thường được điều chỉnh trực tiếp bởi các quy phạm của luật chung – Bộ luật Dân sự 2005. Những phân tích dưới đây chủ yếu tập trung vào các vấn đề pháp lí liên quan đến hợp đồng vay, tác giả sẽ phân tích một số điểm có sự mâu thuẩn giữa các văn bản quy định quy chế thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn với các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến hợp đồng. Theo thông lệ trong hoạt động các ngân hàng từ trước đến nay, để tạo điều kiện cho khách hàng, khuyến khích các đối tượng này gửi tiền tại ngân hàng hàng mình, các ngân hàng đều đưa ra các quy chế cho phép khách hàng có thể rút tiền trước thời hạn (đối với các hợp đồng tiền gửi có kì hạn) hoặc rút tiền gửi không kì hạn mà không phải báo trước (thường với một số tiền không quá lớn). Các văn bản pháp luật thuộc chuyên ngành này cũng có những quy định tương tự, chẳng hạn, Điều 16 Quy chế tiền gửi tiết kiệm Quy chế về tiền gửi tiết kiệm, ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước (đã được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 47/2006/QD-NHNN ngày 15 tháng 09 năm 2006 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) quy định về vấn đề này như sau: “Rút tiền gửi tiết kiệm trước hạn 1. Người gửi tiền được rút tiền gửi tiết kiệm trước hạn nếu có thoả thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm khi gửi tiền và phải thông báo trước yêu cầu rút tiền trước hạn theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. 2. Trường hợp người gửi tiền có nhu cầu rút tiền gửi tiết kiệm trước hạn đáp ứng đủ quy định tại Khoản 1 Điều 16, thì người gửi tiền được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. 3. Trường hợp người gửi tiền có nhu cầu rút tiền gửi tiết kiệm trước hạn nhưng không đáp ứng đủ quy định tại Khoản 1 Điều 16, thì tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm có thể cho phép người gửi tiền rút tiền trước thời hạn. Trong trường hợp này, người gửi tiền được hưởng lãi theo quy định tại Khoản 2 Điều 16; tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm được quyền quy định mức phí đối với khoản tiền gửi tiết kiệm rút trước thời hạn. …. 5. Tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm quy định thời hạn tối thiểu người gửi tiền phải thông báo trước yêu cầu rút tiền trước hạn, lãi suất và mức phí áp dụng đối với tiền gửi tiết kiệm rút trước hạn”. Căn cứ vào quy định được trích dẫn trên có thể thấy khách hàng gửi tiền tại tổ chức tín dụng có quyền rút tiền trước thời hạn, đây là quyền pháp định, trên thực tế như đã được nhắc đến ở trên, đây là thông lệ chung, không chỉ ở nước ta. Tuy nhiên, tại Bộ luật Dân sự 2005 lại có một quy định hoàn toàn khác. Cụ thể, khoản 3 Điều 473 quy định: “Bên cho vay có nghĩa vụ sau:...không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 478 của bộ luật này Điều 478 Bộ Luật Dân Sự 2005: Thực hiện hợp đồng vay có kỳ hạn 1. Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý, còn bên cho vay chỉ được đòi lại tài sản trước kỳ hạn, nếu được bên vay đồng ý. 2. Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản trước kỳ hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thoả thuận khác. ” Như vậy, có thể nhận thấy sự mâu thuẩn khá rõ rệt trong quy định của pháp luật chuyên ngành và Bộ luật Dân sự. Có lẻ, khi xây dựng Bộ luật Dân sự, tuy quy định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự là mở rộng ra tất cả các quan hệ thuộc cả lĩnh vực kinh daonh thương mại,… nhưng ý chí nhà lập pháp vẫn không bao quát được những lĩnh vực đó mà chỉ dừng lại ở phạm vi các quan hệ dân sự theo nghĩa hẹp. Ở đây, quy định của quy chế tiền gửi tiết kiệm là văn bản pháp luật chuyên ngành và là văn bản dưới luật nên sẽ phải chịu ràng buộc các quy định của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, xem xét nội dung các quy định, rõ ràng các quy phạm thuộc Bộ luật Dân sự thật sự không hợp lí, không phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Suy cho cùng, đó là hệ quả của những hạn chế về trình độ lập pháp của nước ta Thực tế, trong bản thân quy định của điều 478 của bộ luật dân sự 2005 cũng đã mâu thuẩn nhau, thực tế, quy định về vấn đề dòi lại tài sản vay của bên cho vay còn có hai điều luật nữa, đó là điều 245, đối với trường hợp sử dụng tài sản avy không đúng mục đích và điều 477 đối với trường hợp đòi tài sản vay trong hợp đồng vay không kì hạn. . Vấn đề 2: Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN và việc xác định lãi suất huy động bằng đô la Mỹ. Ngoài vai trò là công cụ điều tiết chính sách vĩ mô, lãi suất còn được sử dụng để ngân hàng cân đối nguồn vốn huy động và vốn cho vay trong từng thời kỳ. Luật Các tổ chức tín dụng quy định việc cho vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng, trong đó phải có các nội dung chủ yếu như: điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất… Đối với khoản huy động vốn, cho vay bằng đồng Việt Nam, lãi suất cho vay do ngân hàng và khách hàng thỏa thuận, nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, đối với khoản huy động vốn, cho vay bằng đô la Mỹ có phải tuân theo quy định của Quyết định số 16 hay không? Dưới góc độ pháp lý, lãi suất huy động vốn, cho vay bằng đô la Mỹ do các ngân hàng ấn định đối với khách hàng không bị khống chế bởi lãi suất trần theo cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản được quy định tại Quyết định số 16 vì các lý do sau đây: Thứ nhất, theo quy định tại Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005, thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận, nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng. Thực tế, cho đến nay, NHNN chỉ quy định lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, chứ chưa quy định lãi suất cơ bản bằng đô la Mỹ hoặc ngoại tệ khác. Thứ hai, Quyết định số 16 chỉ quy định việc điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Do đó, các ngân hàng không có nghĩa vụ phải ấn định lãi suất kinh doanh bằng đô la Mỹ đối với khách hàng theo quy định của Quyết định số 16. Thứ ba, Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN ngày 29/5/2001 của Thống đốc NHNN quy định về cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Quyết định số 718) cho đến nay chưa bị sửa đổi, bổ sung hoặc bị thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác. Cho nên, Quyết định số 718 vẫn còn hiệu lực và là cơ sở pháp lý để các ngân hàng ấn định lãi suất kinh doanh bằng đô la Mỹ đối với khách hàng vay. Thứ tư, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật không cấm(2). Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp, nên ngân hàng cũng có quyền kinh doanh theo quy định này. Vì vậy, nếu pháp luật không cấm các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ vượt quá 150% lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam do NHNN công bố để áp dụng trong từng thời kỳ, thì ngân hàng và khách hàng vay có quyền thỏa thuận lãi suất cho vay cụ thể. Chính vì lẽ trên, các ngân hàng có quyền ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ đối với khách hàng vay dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước Nguyễn Cao Khôi – Vietcombank, “Một số vấn đề pháp lí liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất cơ bản”, Trích dẫn từ: . Trên đây, chỉ là một vài vấn đề còn vướn mắc trong quá trình thực hiện hoạt động huy động vốn của các ngân hàng cần thiết có sự sửa đổi bổ sung cho thật hợp lí và minh bạch, tránh có những cách hiểu không đúng, gây ra sự thiếu thống nhất cho việc áp dụng pháp luật. Hoạt động phát hành giấy tờ có giá: Những vấn đề pháp lí liên quan đến việc phát hành giấy tờ có giá được quy định khá cụ thể tại quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng được ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước. Phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch huy động vốn khá thông dụng của các tổ chức tín dụng và thường được quy định một cách rõ ràng, cụ thể trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng (cụ thể hơn là trái phiếu ngân hàng) được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sau đó, văn bản này được cụ thể hoá bằng các Quyết định số 212/QĐ-NH1 ngày 22/9/1994; Quyết định số 214/QĐ-NH1 ngày 23/9/1994; Quyết định số 243/QĐ-NH1 ngày 30/3/1994 và Quyết định số 247/QĐ-NH1 ngày 05/10/1994 về việc cho phép các tổ chức tín dụng, ngân hàng đầu tư phát triển được phát hành trái phiếu ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam để huy động vốn trung hạn và dài hạn trên thị trường vốn. Gần đây, giao dịch phát hành trái phiếu ngân hàng và các giấy tờ có giá khác lại tiếp tục được quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng ban hành ngày 12/12/1997 (đạo luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2004) và được cụ thể hoá bằng các văn bản dưới luật như Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại (khoản 2 Điều 3); Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam (khoản 2 Điều 30); Quyết định số 1287/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước. Sau đó, văn bản này đã bị thay thế bởi Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước (sau đây gọi tắt: Quyết định số 02). Gần đây nhất, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng (sau đây gọi tắt: Quyết định số 07) để thay thế cho Quyết định số 02. Đây được đánh giá là một nỗ lực đáng kể của Ngân hàng nhà nước trong việc kết nối hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng với thị trường chứng khoán, thông qua đó góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, vốn đang gặp nhiều khó khăn trong thời điểm hiện nay. Có thể nói, việc ban hành Quyết định số 07 là cần thiết và đúng hướng. Văn bản này, đã từng bước thiết lập sự đồng bộ giữa các quy định về phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với các quy định của Luật chứng khoán năm 2006 về phát hành chứng khoán ra công chúng. Đặc biệt, văn bản này đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các văn bản bị thay thế chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, chẳng hạn như: quyền phát hành trái phiếu chuyển đổi và chứng quyền của tổ chức tín dụng cổ phần; việc áp dụng cơ chế phát hành thông qua phương thức đấu thầu, thông qua tổ chức làm đại lý hoặc tổ chức trung gian bảo lãnh phát hành chứng khoán… Theo quan điểm của tác giả, các quy định về phát hành giấy tờ có giá của Quyết định 07 có khá nhiều điểm bức phá, một trong những điểm nhấn quan trọng nhất đó là việc mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng. chẳng hạn, nếu như trước đây, bất cứ hoạt động phát hành giấy tờ có giá nào của các tổ chức tín dụng cũng phải được phép của Ngân hàng nhà nước thì với Quyết định 07, yêu cầu đó đã được hạn chế cách hợp lí hơn. Cụ thể, đối với việc phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, các tổ chức tín dụng chỉ cần thông bào với Ngân hàng nhà nước mà không cần phải xin giấy phép: “Điều 19. Tổ chức phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn: Tổ chức tín dụng chủ động tổ chức các đợt phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong năm. Trước thời điểm phát hành từng đợt ít nhất là 3 ngày làm việc, tổ chức tín dụng phải gửi Thông báo phát hành của đợt phát hành dự kiến về Ngân hàng nhà nước (Vụ Chính sách tiền tệ).” Và chỉ cần thực hiện thủ tục cấp phép đối với việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn. một ví dụ khác thể hiện cho sự mở rộng khả năng lựa chọn, quyền tự chủ của các tổ chức tín dụng trong loại hình nghiệp vụ huy động vốn này chính là việc mở rộng phương thức phát hành giấy tờ có giá, phù hợp với nhu cầu của thị trường. cụ thể, theo quy chế phát hành giấy tờ có giá quy định trong Quyết định 02/2005/QD-NHNN, chỉ có 2 phương thức phát hành giấy tờ có giá, đó là: 1) trực tiếp phát hành giấy tờ có giá; 2) phát hành qua tổ chức tín dụng làm đại lí hoặc ủy thác phát hành giấy tờ có giá. Trong Quyết định 07, các hình thức phong phú hơn, cụ thể: “Điều 34. Phương thức phát hành giấy tờ có giá Các tổ chức tín dụng có thể thực hiện phát hành giấy tờ có giá theo các phương thức: 1. Trực tiếp phát hành giấy tờ có giá 2. Bảo lãnh phát hành 3. Đại lý phát hành 4. Đấu thầu giấy tờ có giá.” Tuy nhiên, nhìn từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, Quyết định số 07 vẫn còn một số điểm bất cập, hạn chế sau đây: Thứ nhất, về bản chất pháp lý của quan hệ phát hành giấy tờ có giá. Trên nguyên tắc, việc phát hành các giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng chính là những thoả thuận vay nợ giữa tổ chức tín dụng với khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì, thực chất các giấy tờ có giá được phát hành theo Quy chế này đều là những phiếu nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để cam kết hoàn trả một số tiền nhất định ghi trên giấy tờ có giá đó cho người sở hữu vào một ngày nhất định trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng: khi phát hành giấy tờ có giá cho người đầu tư là các tổ chức, cá nhân, tổ chức tín dụng không phải là “người bán” giấy tờ có giá mà chỉ là người tiếp nhận vốn đầu tư (người vay), còn khách hàng là tổ chức, cá nhân cũng không phải là “người mua” giấy tờ có giá theo đúng nghĩa của từ này mà chỉ là người đầu tư gián tiếp vào tổ chức tín dụng bằng cách cho vay đối với chủ thể này để được nhận một khoản lãi cho vay theo thoả thuận. Tuy nhiên, các quy định hiện hành trong Quyết định số 07 lại thể hiện quan điểm coi giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng như là một giao dịch “mua bán” giấy tờ có giá, chứ không khẳng định và thừa nhận bản chất là giao dịch cho vay của quan hệ phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng. Thứ hai, mặc dù Quyết định số 07 đã đặt nền móng cho việc nhất thể hoá các quy chế về phát hành các loại giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng, nhưng nét nổi bật dễ nhận thấy trong văn bản pháp quy này là nhà làm luật vẫn chủ trương tách bạch giữa hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng với hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng. Điều này thể hiện ở chỗ, hiện tại, việc phát hành các giấy tờ có giá của các chủ thể không phải là tổ chức tín dụng đang được thực hiện theo quy định của Luật chứng khoán năm 2006, còn việc phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng để huy động vốn (trong đó chủ yếu là các trái phiếu ngân hàng) thì vẫn được thực hiện theo quy định riêng tại Quy chế ban hành kèm theo Quyết định này. Theo thiển nghĩ của người viết, quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lẽ trái phiếu ngân hàng thực chất cũng là một loại chứng khoán dài hạn nên về nguyên tắc cần phải được phát hành và lưu thông trên thị trường chứng khoán, giống như cổ phiếu và trái phiếu công ty hay trái phiếu chính phủ. Đặc biệt, việc phát hành Hối phiếu nhận nợ của các tổ chức tín dụng cho khách hàng (người cho vay), với ý nghĩa là một loại giấy tờ có giá ngắn hạn để huy động vốn, đồng thời tạo thêm “hàng hoá” cho thị trường tiền tệ, cũng chưa được đề cập đến trong Quy chế này, dù chỉ là một quy định mang tính dẫn chiếu đến Luật các công cụ chuyển nhượng. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyến, “Bàn về giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng”, Tạp chí Ngân hàng số 9/2008. Nhìn chung, Quyết định 07 thật sự đã đưa ra những bước đột phá mới, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại, góp phần quan trọng cho việc tạo một môi trường pháp lí thông thoáng cho hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Một số kiến nghị hoàn thiện. Lựa chọn một cơ chế điều chỉnh lãi suất phù hợp với thị trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Căn cứ vào những phân tích được trình bày ở trên có thể thấy vao trò quan trọng của cơ chế điều hành lãi suất đối với sự vận hành và tính hiệu quả của hoạt động huy động vốn nói riêng và các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại nói chung. Một cơ chế điều hành phù hợp sẽ tạo lập được một môi trường pháp lí thông thoáng, an tâm cho các ngân hàng, đồng thời dựa vào đó Ngân hàng nhà nước cũng có thể đưa ra những chính sách điều phối phù hợp với diễn biến của tình hình kinh tế thực. Và quan trọng nhất là tránh được những quyết định mang tính cưỡng chế, hành chính, cái mà có thể gây ra những tác động ngược chiều, gây ra những hiệu ứng không tốt cho việc thực thi chính sách tiền tệ và hạn chế quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Để đạt được những yêu cầu trên, cần tìm kiếm một cơ chế điều hành lãi suất phù hợp. Có nên tiếp tục duy trì cơ chế trần lãi suất? Như đã được phân tích cụ thể ở trên về các ưu và nhược điểm của từng cơ chế điều hành lãi suất. Có thể khái quát một cách cơ bản như sau: Cơ chế lãi suất thỏa thuận thể hiện tình tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, với việc thực thi cơ chế này, lãi suất được thiết lập là sự thể hiện xác thực động thái của thị trường, đây cũng là xu hướng được các quốc gia có nền kinh tế thị trường ủng hộ. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương thức này cũng chính là một khi thiếu sự can thiệp của nhà nước, các yếu điểm của thị trường dễ dàng bị bộc lộ, các phần tử của nó không tự điều chỉnh được những nguy cơ tiềm tàng này, chính vì vậy rất dễ gây ra sự biến động đối với thị trường tài chính Vấn đề này đã xảy ra đối với nước ta trong giai đoạn vừa qua, việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong những năm 2002 đến 2008 đã gây ra rất nhiều những biến động, các ngân hàng bị cuốn vào vòng đua tăng lãi suất huy động mà không thể dừng lại được. lãi suất huy động được đưa lên mức kỉ lục (đã có ngân hàng huy động lãi suất lên đến 17,8%/năm, nó được xem là phương thức cạnh tranh, tranh giành thị trường của nhiều ngân hàng mà không tính đến nguy cơ thua lỗ do lãi suất huy động tăng nhanh nhưng lãi suất cấp tín dụng tăng chậm. Hiệu ứng này còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế khi tác động của nó làm cho tỉ lệ lạm phát gia tăng một cách nhanh chóng, lãi suất tín dụng tăng cao làm cho đầu vào nguồn vốn sản xuất bị đình trệ, doanh nghiệp không tiếp cận được với nguồn vốn, nền kinh tế đình đốn. , có thể gây sụp đổ hệ thống. Yêu cầu cơ bản cho sự vận hành cơ chế điều hành lãi suất này là một thị trường tài chính phát triển hoàn thiện, minh bạch về thông tin và đa dạng về các công cụ tài chính. Có như vậy, lãi suất được phản ánh từ thị trường mới thể hiện đúng bản chất, là hệ quả của quan hệ cung cầu về tiền tệ. Mặt khác, tuy lựa chọn cơ chế lãi suất thỏa thuận, nhưng ngân hàng trung ương vẫn phải đảm nhận vai trò điều tiết thị trường của mình. Chính vì vậy, tuy không sử dụng lãi suất như một công cụ điều tiết trực tiếp, nhưng để thị trường phát triển theo đúng quỹ đạo mà mình mong muốn, ngân hàng trung ương vẫn phải sử dụng các công cụ khác, gián tiếp tác động vào lãi suất. tuy nhiên, muốn thực hiện được điều này, thứ nhất, ngân hàng trung ương phải có kinh nghiệm cũng như một trình độ nhất định để vận hành, phối hợp một cách hài hòa, uyển chuyển những công cụ của mình, thứ hai, thị trường tài chính phải phát triển một cách hoàn chỉnh đề có thể tiếp nhận và phản ánh đúng những tác động đó từ ngân hàng trung ương. Cơ chế trần lãi suất vẫn luôn được xem là một biện pháp, một công cụ mang nặng tính hành chính, trong một vài trường hợp nó còn bị quy kết là sự can thiệp thái quá của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Cho dù vậy, nó vẫn được một số quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển sử dụng, và là một cơ chế được xem là hữu hiệu khi ngân hàng trung ương muốn gia tăng sự kiểm soát đối với thị trường tài chính trong nước đặc biệt là khi nhà nước muốn thực hiện chính sách thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát,… Ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là tác động nhanh chóng của nó, chỉ cần với một quyết định của Ngân hàng nhà nước được phát ra, ngay lập tức sẽ tác động tới mọi động thái của toàn thị trường, thậm chí là trên toàn thế giới đối với những quốc gia có đồng tiền mạnh như mỹ chẳng hạn. Và hơn nữa, phương thức thực hiện nó cũng không có những yêu cầu khắc khe như đối với “cơ chế lãi suất thỏa thuận”, không nhất thiết cần đến sự phối hợp của nhiều công cụ khác, không yêu cầu đến một sự phát triển đồng bộ của thị trường, … Tuy nhiên, đó có thể chỉ là những tác động nhất thời, vì thế những hiệu ứng trái chiều của nó rất khó dự đoán, hơn nữa, một vướng mắc thường gặp phải khi sử dụng cơ chế này là lãi suất được ấn định đôi khi là những con số mang nặng tính chủ quan của nhà cầm quyền mà không thể hiện được bản chất thực của nó – nhu cầu thực của thị trường, nó có khả năng gây ra những xáo trộn bất thường đối với thị trường tài chính. Vậy với những ưu và nhược điểm được khái quát ở trên, lựa chọn nào là thích hợp cho Việt Nam? Có thể khái quát hóa những đặc điểm của thị trường tài chính nước ta như sau: Việt Nam là một quốc gia đang trong quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường, với một thị trường tài chính đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, đa phần các loại thị đã hình thành nhưng còn non nớt, các mối tương quan giữa chúng tuy đã được thiết lập nhưng còn chưa thật sự thông suốt. Mặt khác, ngân hàng trung ương của chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc điều phối và thực thi chính sách tài chính tiền tệ, hệ thống các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và những định chế tài chính khác có quy mô còn khá nhỏ lẻ. Vì vậy, có thể nói, chúng ta chưa thật sự có đủ các điều kiện cần thiết để thực thi cơ chế thỏa thuận trong việc điều hành lãi suất. Tuy nhiên, chúng ta chịu sự ràng buộc của những nhu cầu thực tiễn khác, gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, chúng ta buộc phải thực hiện những cam kết như hạn chế tối đa những can thiệp mang tính hành chính của nhà nước vào nền kinh tế, thực hiện tư do hóa kinh doanh, thiết lập những cơ chế cho sự phát triển đồng bộ của thị trường,… Mặt khác, để đạt được sự công nhận của các quốc gia thành viên trong WTO về một nền kinh tế thị trường, chúng ta cũng chịu những sức ép nhất đinh. Hơn nữa, có thể nói, cơ chế lãi suất thỏa thuận là một xu hướng tất yếu của sự phát triển. Vì vậy, theo quan điểm của tác giả, lựa chọn của chúng ta nên là cơ chế lãi suất thỏa thuận, tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có thời gian để chuẩn bị. Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình kinh tế thế giới chưa thật sự ổn định, những nguy cơ về sự kéo dài của khủng hoảng kinh tế vẫn còn, lạm phát trong nước chưa hoàn toàn bị khống chế, chúng ta chưa nên tiếp tục duy trì cơ chế trần lãi suất, dĩ nhiên là nên dần nới lỏng theo những động thái tích cực của thị trường, tạo không gian cho các ngân hàng có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình. Để không vấp phải những vấn đề như trong giai đoạn vừa qua, thiết nghĩ chúng ta nên thận trọng hơn, và đặc biệt, chúng ta nên có một kế hoạch dài hạn ngay từ hôm nay cho việc hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương và hoàn thiện những hạn chế của thị trường tài chính trong nước. Đồng thời, gia tăng sự liên kết của thị trường trong nước và quốc tế Tránh tình trạng như trong giai đoạn vừa qua, chiều biến động của lãi suất trong nước ngược chiều với thế giới. . Hướng đi của các Dự thảo luật. Tuy nhiên, nhà nước ta gần như đã có sự lựa chọn cho vấn đề này. Theo Dự thảo số 3 Luật Ngân hàng nhà nước xác định: “Điều 15. Lãi suất 1. Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng nhà nước xác định và công bố để định hướng lãi suất thị trường. ….. 3. Ngân hàng nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa tổ chức tín dụng đối với các khách hàng theo quy định của Luật này và Luật Các tổ chức tín dụng.” Nếu như trước đây, lãi suất cơ bản được xem là “cơ sở để ấn định lãi suất kinh doanh” của các ngân hàng thì nay chỉ là cơ sở để định hướng cho lãi suất của thị trường. Theo quan điểm của tác giả đây là một hướng đi phù hợp với xu hướng chung. Và khi lãi suất cơ bản không phải là cơ sở ràng buộc có lẽ khả năng lựa chọn phương thức lãi suất thỏa thuận là rất lớn. Sửa đổi một số quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay vốn. Một là, sửa đổi quy định của Bộ luật Dân sự liên quan đến nghĩa vụ của bên cho vay. Như đã được phân tích ở trên, quy định tại khoản 3 Điều 473 Bộ luật Dân sự: “Bên cho vay không được yêu cầu bên vay trả tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 478 bộ luật này”. Quy định này thứ nhất đã không kể đến hai trường hợp khác mà người cho vay có quyền đòi lại tài sản tại Điều 475 của bộ luật trong trường hợp sử dụng tài sản sai mục đích vay và quy định tại Điều 477 đối với trường hợp đòi lại tài sản trong hợp đồng không kì hạn. Thứ hai, quy định này không tương thích với quy định của các văn bản chuyên ngành về hoạt động huy động vốn (Quy chế tiền gửi tiết kiệm). Và quan trọng, nó không phù hợp với thông lệ chung của hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Thiết nghĩ, chúng ta nên bỏ quy định này, vì những lí do sau: Thứ nhất, một khi hợp đồng vay đã được xác lập, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt (ví dụ như trường hợp quy định tại Điều 475) thì trách nhiệm trả nợ của bên vay chỉ phát sinh khi hợp đồng kết thúc, các quy định liên quan đến việc bảo vệ quyền này của bên vay đã được quy định trong nhiều các quy định khác. Chính vì vậy, có cho hay không cho phép bên cho vay quyền được yêu cầu trả lại tài sản trước thời hạn là quyền của bên vay. Nói tóm lại, nó nên thuộc về ý chí của các bên trong hợp đồng, nhà lập pháp không cần thiết phải can thiệp vào vấn đề này. Thứ hai, xét thực tiễn các quan hệ huy động vốn trong thực tiễn hiện nay của các ngân hàng thương mại ở cả Việt Nam và trên thế giới, nhằm khuyến khích khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, đa phần các ngân hàng đều cho quy định cho phép khách hàng có thể rút tiền trước thời hạn (dĩ nhiên, sẽ phải chấp nhận một chút thiệt thòi). Rõ ràng, sự can thiệp của ý chí lập pháp trong trường hợp này là không cần thiết và thực tế đã hạn chế quyền tự do dân sự của các chủ thể tham gia quan hệ mà không mang lại bất cứ sự thuận tiện nào cho việc đảm bảo tính an toàn của giao dịch hay vì một mục tiêu nào khác. Hai là, đối với vấn đề về xác định lãi suất huy động bằng đô la Mỹ được đề cập ở trên, Ngân hàng nhà nước nên có một động thái rõ ràng hơn trong việc xác định loại lãi suất này. Nhìn vào các phân tích trên, có thể thấy, hoàn toàn ngân hàng nhà nước không chủ định để cho Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN ngày 29/5/2001 của Thống đốc NHNN quy định về cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ điều hành lãi suất này trong một khoản thời gian dài như vậy, đây là một sự bỏ ngõ không chủ định. Sự tiếp tục tồn tại của quy định này sẽ rất vô lí vì các lí do sau: Thứ nhất, khoản 1 Điều 1của quyết định này quy định: “Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng Đô la Mỹ dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung- cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước”, mà theo quy định của Điều 476 Bộ luật Dân sự, “lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Trong quyết định này cũng không quy định về việc thiết lập lãi suất cơ bản đối với lãi suất vay bằng ngoại tệ, vì thế, nếu tiếp tục áp dụng hiệu lực của văn bản này, đồng nghĩa với một mảng lớn trong hoạt động cho vay (không có sự tham gia của ngân hàng) sẽ không có bất cứ sự ràng buộc nào về lãi suất (vì thật sự, không tồn tại lãi suất cơ bản ngoại tệ để làm căn cứ thực hiện quy định của bộ luật dân sự) – một “lỗ hổng” của pháp luật. Thứ hai, quyết định này thực sự trái với quy định tại Điều 476 của Bộ luật Dân sự, Điều 476 của Bộ luật Dân sự thật sự đã thiết lập cơ chế trần lãi suất để khống chế lãi suất vay, lãi suất huy động của tất cả các hợp đồng vay vốn (cả nội tệ và ngoại tệ), nhưng rõ ràng văn bản này đang thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với các hợp đồng huy động vốn, cho vay bằng đô la Mỹ. Vì vậy, rõ ràng Ngân hàng nhà nước nên bãi bỏ hiệu lực của văn bản này và ban hành một văn bản mới phù hợp với các quy định hiện hành và thực tiễn tình hình thị trường vốn ngoại tệ nước ta hiện nay. KẾT LUẬN Huy động vốn của các ngân hàng thương mại là một hoạt động tương đối phong phú và đa dạng, để hiểu biết một cách sâu sắc hơn về các hoạt động này cần thiết có những công trình nghiên cứu mang tầm vóc lớn hơn. Với việc tiếp cận các hoạt động huy động vốn từ nguồn gốc, bản chất kinh tế và đặc tính pháp lí, đề tài mang lại cái nhìn toàn diện và sâu sắc về từng nghiệp vụ huy động vốn. Ngoài ra, đề tài cũng đưa ra những phân tích bình luận về pháp luật về huy động vốn của nước ta trong giai đoạn vừa qua làm nền cho những định hướng cơ bản nhất trong việc hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này trong tương lai. Sau giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu, thị trường tài chính thế giới chắc chắn sẽ có những chuyển biến mới, để theo kịp những thay đổi đó và tạo lập sự tương thích với pháp luật thế giới, chúng ta nên sớm có những kế hoạch dài hạn cho vấn đề này, bắt đầu từ việc hoàn thiện pháp luật về huy động vốn, điều kiện cần cho một môi trường hoạt động thông thoáng và năng động của các ngân hàng thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPháp luật việt nam với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại – một số những kiến nghị.doc
Luận văn liên quan