So sánh phật giáo 3 nước: Trung Quốc Nhật Bản, Hàn Quốc

Tóm lại, từ khi Đạo Phật ra đời cho đến ngày nay đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài và có những biến đổi thăng trầm. Nhưng cho đến ngày nay, Đạo Phật là một trong những tôn giáo khá phát triển và có ảnh hưởng nhất định đến nền văn hóa đặc trưng của mỗi Quốc gia: Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc. Có thể nói Phật giáo đã tạo nên nền nghệ thuật đẹp nhất của mỗi nước. Mặc dù cách thức truyền đạt Phật giáo ở ba quốc gia trên có những cách thức khác nhau. Tuy nhiên nhở sự kết hợp khéo léo giữa nền văn hóa bản địa, tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy và tín ngưỡng triết học Phật Giáo, tạo ra một tín ngưỡng Phật giáo hoàn thiện hơn và phù hợp với truyền thống tư tưởng riêng của mỗi dân tộc. Tín ngưỡng Phật giáo không thể thiếu trong đồi sống tinh thần và tạo nên những bản tôn giáo sắc đặc trưng riêng của mỗi quốc gia.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3694 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu So sánh phật giáo 3 nước: Trung Quốc Nhật Bản, Hàn Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị) thiết lập Mạc Phủ ở Kyōtō, từ đó nhóm 5 núi Thiền Tông mà tầng lớp võ sĩ luôn mong ước từ trước được lập ra, dòng thiền Lâm Tế được Mạc phủ chính thức bảo hộ. Vào đầu thời Muromachi, các đền chùa Thiền Tông như chùa Nanzenji (Nam Thiền Tự) đối lập với các thế lực Phật giáo cũ như Thiên Thai Tông ở chùa Enryakuji và trở thành vấn nạn chính trị So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 14 thực sự. Mặc khác, thiền sư Musō Soseki (Mộng Song Sơ Thạch) hợp tác phái đi với phía chùa Tenryūji (Thiên Long Tự) của Takauji cùng với đệ tử Shun’oku Myōha (Xuân Ốc Diệu Ba) đều có ảnh hưởng chính trị khá lớn. Đệ tử của họ đến đời Tướng quân thứ 3 là Ashikaga Yoshimitsu (Túc Lợi Nghĩa Mãn) đã bắt đầu mối quan hệ hữu nghị với nhà Minh (Trung Quốc) và khai thác mậu dịch với nhà Minh và nhà Thanh. Đây cũng là một vấn đề ngoại giao. Sự tiếp cận giữa võ sĩ và giới Phật giáo như thế đã ảnh hưởng đến văn hóa quý tộc và văn hóa võ sĩ, có thể thấy dấu vết sự dung hợp của văn hóa vùng núi phía bắc như chùa Rokuonji (Lộc Uyển Tự, còn gọi là Kinkakuji (Kim Các Tự)) thời Yoshimitsu và văn hóa vùng núi phía đông như chùa Jishōji (Từ Chiếu Tự, còn gọi là Ginkakuji (Ngân Các Tự)) thời Ashikaga Yoshimasa (Túc Lợi Nghĩa Chính). Văn hóa thời Muromachi nổi bật với các loại hình nghệ thuật mang ảnh hưởng Phật giáo như tranh thủy mặc, kiến trúc, trà đạo, hoa đạo, vườn đá... để lại nhiều tác phẩm cho đời sau. Ngoài ra, để đảm bảo nguồn thu nhập ổn định trong các đền chùa có nơi đẩy mạnh nghiệp vụ tài chính tạo vốn ở các khoản thu trợ cấp của lãnh địa hoặc tiền cúng dường. Mặt khác, ở những đền chùa được “thành trì hóa” thì cũng có những người đóng góp tư sản làm vốn. Tuy nhiên nhiều người không thể chịu được do lãi suất trở nên quá cao, đã phát động phong trào Tokusei Ikki (Đức Chính Nhất Quỹ) lấy thế lực đền chùa làm đối tượng công kích. Dòng thiền Tào Động có sức ảnh hưởng lớn ở địa phương và tầng lớp bình dân.Đối với tầng lớp công thương nghiệp thành thị ở Kyōtō thì Nhật Liên Tông lại phổ biến hơn cả.Nói về các nhà truyền giáo thì trong thời kỳ này, Rennyo (Liên Như) của Tịnh Độ Chân Tông và Nisshin (Nhật Thân) của Nhật Liên Tông là 2 tên tuổi nổi tiếng. Về sau, Rennyo của Tịnh Độ Chân Tông đã vượt qua các chướng ngại như ở núi Hieizan và lập giáo đoàn hùng mạnh ở chùa Honganji (Bản Nguyện Tự) thu hút số tín đồ rất lớn và sau Loạn Onin đã đạt đến danh vị Lãnh chúa Thủ hộ, ngang bằng với các lãnh chúa thời Chiến quốc. Cũng gọi là Nhất Hướng Tông, thế lực này cố kết chặt chẽ dưới danh nghĩa tôn giáo và uy hiếp thế lực của các lãnh chúa thủ hộ hiện hữu. Trong số đó, phong trào Ikkō Ikki (Nhất Hướng Nhất Quỹ) ở Kaga (Gia Hạ) là tiêu biểu nhất, đã trấn áp nhiều lãnh chúa thủ hộ và lan rộng quyền tự trị (chủ yếu về thuế quan và tài phán). Vì vậy các lãnh chúa thời Chiến quốc muốn bành trướng thế lực của mình buộc phải chọn hoặc phải thỏa hiệp hoặc phải đối đầu với các thế lực này mà đa số đều đã chọn con đường thỏa hiệp. Trong số các phong trào Ikkō Ikki ở các nơi, phong trào ở chùa Ganshōji (Nguyện Chứng Tự) ở Nagashima (Trường Đảo) Ise (Y Thế) đã ngoan cường chống lại lãnh chúa Oda Nobunaga (Chức Điền Tín Trường) rồi sau đó bị Oda Nobunga dẫn quân thảm sát So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 15 đến diệt vong. Chùa Ishiyama Honganji (Thạch Sơn Bản Nguyện Tự), tổng đà của toàn bộ môn đồ Ikkō cả nước, cũng thành lập tổ chức mạnh mẽ như các lãnh chúa thời Chiến quốc, vào thời của Kennyo (Hiển Như) cũng chống lại lãnh chúa Oda Nobunaga, sau cuộc khổ chiến kéo dài trước sau cả 10 năm gọi là Trận chiến Ishiyama đã phải rút lui khỏi núi Ishiyama. Ngay cả ở Mikawa (Tam Hà) là nơi thế lực Ikkō khá mạnh, sau khi bị Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang) mới lên đàn áp, nội bộ cũng phân rã làm hai. Một câu chuyện cũng khá nổi tiếng thời này là lãnh chúa Oda Nobunaga đã cho tăng lữ Nhật Liên Tông và Tịnh Độ Tông tranh luận tôn giáo với nhau rồi tuyên bố Tịnh Độ Tông là bên thắng cuộc. Người ta nói rằng để kìm hãm Nhật Liên Tông đối lập với tông phái khác nên Tịnh Độ Tông đã nhận được phán quyết có lợi. Thời Azuchi Momoyama (1573-1600) Lãnh chúa Toyotomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát) cho xây dựng thành Ōsakajō (Đại Phản Thành) trên nền chùa Ishiyama Honganji nhưng về cơ bản ông ta luôn tìm kiếm đồng minh nơi các thế lực tự viện. Trong suốt quá trình sự nghiệp của ông cũng không ít lần vì chiến loạn mà phá hoại đền chùa nhưng để thu xếp mĩ mãn ông đã phái người em là Toyotomi Hidenaga (Phong Thần Tú Trường) đến vùng Yamato nơi có lực lượng tăng binh hùng mạnh. Ngoài ra, việc triển khai trưng thu vũ khí với mục tiêu không chỉ là nông dân mà còn có cả đền chùa đã góp phần nhất định vào việc giải trừ quân bị các đền chùa. Việc thống nhất, quản lý và giải trừ quân bị đền chùa còn tiếp diễn đến thời Mạc phủ Edo với nhiều vấn đề lớn. Thời Edo (or Tokugawa)(1600-1868) Sau cái chết của Toyotomi Hideyoshi, Tokugawa Ieyasu lên nắm quyền đã quy định “Chế độ quản lý tự viện” và đặt chức quan phụ trách đền thần, đình chùa, nhờ đó mà đã đặt Phật giáo dưới sự quản lý của Mạc phủ. Ngoài ra ông còn cho thi hành chế độ đăng ký hộ tịch dân chúng nơi đền chùa. Năm 1654, sư Ingen (Ẩn Nguyên) nhà Minh (Trung Quốc) đã sang Nhật truyền bá dòng thiền Hoàng Bách. Thế lực Phật giáo lớn nhất bấy giờ là Tịnh Độ Chân Tông do có nội loạn nên phân liệt thành 2 nhánh Đông và Tây, kết quả là tự suy yếu đi. Thời Meiji Meiji Restoration (1868-1912) Từ nửa sau thời Edo, sự phát triển của phong trào Quốc học do Motoori Norinaga (Bản Cư Tuyên Trường) đã dẫn đến cuộc Duy tân Minh trị, thành lập chính quyền Minh Trị theo đường lối Quốc học với bộ phận lớn là những người ở phiên quốc Chōshū (Trường Châu). Chính quyền được trao lại cho Thiên hoàng với kết quả là đối sách Chú trọng Thần Đạo của chính phủ mới, cả nước thi hành “Phế Phật hủy Thích” khiến cho số lượng So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 16 đền chùa Phật giáo giảm đáng kể. Năm 1871 (năm Meiji (Minh Trị) thứ 4), chính phủ đã đặt dấu chấm hết đối với thiền phái Phổ Hóa của sư Hư Vô.Chính phủ cũng cấm truyền đạo đối với Bất Thụ Bất Thi Phái và Ki-tô Giáo.Các tông phái đã tiến đến hiện đại hóa Phật giáo, tham gia các hoạt động phúc lợi xã hội và giáo dục như mở trường đại học tôn giáo. Thời kỳ đầu Shōwa Qua các sự kiện như ban hành Pháp lệnh Thần Phật phân ly... về mặt hành chính tôn giáo đã nằm trong sự quản lý của chính phủ tuy nhiên phải đến năm 1939 (năm Shōwa (Chiêu Hòa) thứ 14) mới lần đầu tiên có văn bản chính thức là “Luật Đoàn thể Tôn giáo”. Trong quá trình xác lập Thể chế Thần Đạo toàn quốc, trên pháp luật Thần Đạo không phải là tôn giáo nhưng còn các đoàn thể tôn giáo khác như Phật giáo, các giáo phái Thần Đạo, Ki-tô giáo thì vẫn chưa được xem xét, áp dụng thích đáng. Sự cần thiết phải có pháp luật về tôn giáo cũng được chính giới nhận thức từ sớm nên từ năm 1899 (năm Minh Trị thứ 32) đã có Dự thảo Luật Tôn giáo lần 1 do Viện Quý tộc đệ trình nhưng đã bị phủ quyết. Vào năm 1927 (năm Chiêu Hòa thứ 2) và năm 1929 (năm Chiêu Hòa thứ 4) lại có Dự thảo Tôn giáo được đưa ra ở Nghị viện nhưng sau quá trình thẩm lý đã không đi đến quyết định gì... Nhờ vào Luật Đoàn thể Tôn giáo, phần lớn đoàn thể tôn giáo lần đầu tiên trở thành pháp nhân theo luật định, ngay cả Ki-tô giáo cũng lần đầu tiên đạt được địa vị pháp lý. Tuy vậy đây là đạo luật còn mang nặng tính giám sát, quản lý. Thời kỳ nửa sau Shōwa đến nay Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, năm 1945 (năm Chiêu Hoà thứ 20), ngày 28 tháng 12, Pháp lệnh Pháp nhân Tôn giáo được ban hành và thực thi, những định chế đối với các đoàn thể tôn giáo bị bãi bỏ. Năm 1951, Pháp lệnh Pháp nhân Tôn giáo cũng bị bãi bỏ, thay vào đó là Luật Pháp nhân Tôn giáo với chế độ chứng nhận tư cách.Nhân sự kiện đánh hơi độc hệ thống điện ngầm của Giáo phái Aum vào năm 1995 (năm Bình Thành thứ 7), Luật Pháp nhân Tôn giáo được cải chính lại một phần. 1.4.2. Các Hình Thức Phật Giáo Nhật Bản Phật giáo Nhật Bản có rất nhiều tông phái khác nhau thường được nhắc đến phổ biến hơn cả là hệ “Thập tam tông thập lục phái” (13 tông phái) - Phật giáo Nara (“Nam đô lục tông”: 6 tông phái kinh đô phương nam, thời Nara) 1. Hoa Nghiêm Tông (bản địa): khai tổ là Shinshō (Thẩm Tường), đặt cơ sở tại chùa Tōdaiji (Đông Đại Tự): (Kegon) Dựa vào kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) để lập So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 17 Tông phái. Chủ trương của phái này tôn thờ và thực hành pháp hạnh của đức Phật Tỳ Lô Xá Na. 2. Pháp Tướng Tông: khai tổ là Dōshō (Đạo Chiêu), đặt cơ sở tại chùa Kōfukuji (Hưng Phúc Tự), Yakushiji (Dược Sư Tự),...Tông này bắt nguồn từ tư tưởng phái Yoga của Ấn Độ, một Tông phái Phật Giáo phát triển có mặt từ năm 167 tại Ấn. 3. Luật Tông: khai tổ là hòa thượng Ganjin (Giám Chân), đặt cơ sở tại chùa Tōshōdaiji (Đường Chiêu Đề Tự) Luật Tông (Ritsu): Luật Tông là 1 trong 13 tông phái Phật Giáo chính của Trung Hoa. Tông phái này theo khuynh hướng bảo thủ, giống như truyền thống ởcác nước vùng Nam Á, được ngài Đạo Tuyên (Tao Hsuan, 596 - 667) dựa vào bộ kinh Đại Thừa Luật (Mahayana Vinaya) là thành lập vào thời đại nhà Đường. Chủ trương của Luật Tông là nghiêm trì giới luât để tiến đến Phật quả. Tông phái này được Ngài Giám Chân (Ganjin) giới thiệu đến Nhật vào năm 754. - Phật giáo Heian (“Bình An nhị tông”: 2 tông phái thời Heian) và Mật Tông 4. Chân Ngôn Tông (Đông Mật): khai tổ là Kūkai (Không Hải – sư Hoằng Pháp), đặt cơ sở tại chùa Tōji (Đông Tự) núi Hachiman'yama (Bát Phiên Sơn), chùa Kongōbuji (Kim Cương Phong Tự) núi Kōyasan (Cao Dã Sơn),... 5. Thiên Thai Tông (Tây Mật): khai tổ là Saichō (Tối Trừng – sư Truyền Giáo), đặt cơ sở tại chùa Enryakuji (Duyên Lịch Tự) núi Hieizan (Tỉ Duệ Sơn),... - Pháp Hoa (hệ Phật giáo Pháp Hoa thời Kamakura) 6. Nhật Liên Tông: khai tổ là Nichiren (Nhật Liên – sư Lập Chính), đặt cơ sở tại chùa Kuonji (Cửu Viễn Tự) núi Minobusan (Thân Duyên Sơn),... Tông này lấy tư tưởng trong Kinh Pháp Hoa làm chỗ nương tựa chính. Ngài Nhật Liên sinh năm 1222 con của một gia đình nghèo nàn tại Kaminato. Ngài xuất gia vào thuở thiếu thời; lúc đầu học theo Chân Ngôn Tông, rồi chuyển sang Thiên Thai Tông. Cuối cùng Ngài kếtluận rằng: Chỉ có Kinh Pháp Hoa (Saddharma Punsirika Sutra) mớilà cứu cánh và có thể đưa nước Nhật ra khỏi những biến loạn trong thời kỳ đó. Hành giả theo Tông này thường thọ trì Kinh Pháp Hoa và niệm danh hiệu Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Tông này có 4 ngôi chùa lớn tại Nhật: chùa Diệu Hiền, chùa Bản Môn, chùa Bản Quốc và chùa Pháp Hoa. Sau Thế chiến thứ nhất, Tông này lại phát triển thêm nhiều chi nhánh khác như Soka Gakkai, Rissho Koseikai, Reitykai... mà tất cả đều nhằm vào việc xiển dương giáo nghĩa của Kinh Pháp Hoa. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 18 Tổ chức Phật Giào Nikkyo Koseikai thành lập năm 1938 đến nay vẫn được xem là một trong những tổ chức Phật Giáo rất mạnh tại Nhật với tín đồ lên đến 6 triệu. - Tịnh Độ (hệ Phật giáo Tịnh Độ thời Kamakura): 7. Tịnh Độ Tông: khai tổ là Hōnen (Pháp Nhiên – sư Viên Quang), đặt cơ sở tại chùa Chi'on'in (Tri Ân Viện) núi Kachōzan (Hoa Đỉnh Sơn), chùa Kōmyōji (Quang Minh Tự) núi Hōkokuzan (Báo Quốc Sơn), chùa Zenrinji (Thiền Lâm Tự) núi Shōjuraigōsan (Thánh Chúng Lai Nghênh Sơn),... 8. Tịnh Độ Chân Tông (cũng gọi là Chân Tông, Nhất Hướng Tông): khai tổ là Shinran (Thân Loan – sư Kiến Chân), đặt cơ sở tại chùa Nishihonganji (Tây Bản Nguyện Tự) núi Ryūkokuzan (Long Cốc Sơn), chùa Higashihonganji (Đông Bản Nguyện Tự),... 9. Dung Thông Niệm Phật Tông: khai tổ là Ryōnin (Lương Nhẫn – sư Thánh Ứng), đặt cơ sở tại chùa Dainenbutsuji (Đại Niệm Phật Tự) 10. Thời Tông: khai tổ là Ippen (Nhất Biến – sư Viên Chiếu), đặt cơ sở tại chùa Shōjōkōji (Thanh Tịnh Quang Tự) núi Fujisawayama (Đằng Trạch Sơn) Thiền (hệ Phật giáo Thiền thời Kamakura) và Thiền tông 11. Tào Động: khai tổ là Dōgen (Đạo Nguyên – sư Thừa Dương), đặt cơ sở tại chùa Eiheiji (Vĩnh Bình Tự) núi Kisshōzan (Cát Tường Sơn), chùa Sōjiji (Tổng Trì Tự) núi Shogakusan (Chư Nhạc Sơn) - Thiền Tào Độnglà một trong năm Thiền phái chính của Trung Quốcvà là một trong 13 tông phái chính của Phật Giáo Nhật Bản. Đây là một Thiền phái kiểu mẫu như để so sánh với Thiền Lâm tế, cuối cùng nó dường như phổ biến hơn nhưng hơi khác ở Nhật. Thiền Tào Động được Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen - 1200 - 1253) khai sáng. Đạo Nguyên vốn là đệ tử của Ngài Vĩnh Tây, sau đó ông sang Trung Hoa du học và trở về Nhật Bản xây dựng Thiền phái này. Người kế thừa và phát triển sâu rộng thêm dòng Thiền phái này là Thiền sư Suzuki Shogan (1579 - 1653). Hiện nay ngôi chùa già lam chính của Thiền phái này là chùa Tổg Trì (Soji-ji) ở Yokohama do Thiền sư Hành Cơ (Gyogi 666 - 749) tạo dựng năm 1321. 12. Lâm Tế(bản địa): khai tổ là Eisai (Vinh Tây – Thiên Quang quốc sư), đặt cơ sở tại chùa Kenninji (Kiến Nhân Tự), Engakuji (Viên Giác Tự), Myōshinji (Diệu Tâm Tự), Tōfukuji (Đông Phúc Tự),... Dòng Thiền này do công khai sáng của Thiền sư người Nhật – Vinh Tây (Eisai -1141 - 1215). Ngài xuất gia từ năm 13 tuởi ở chùa An Dưỡng (Annyo) ở Kibitsu). Ngài đã So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 19 tìmđường đến Trung Hoa để học đạo trong hai lần vào những năm 1168 và 1187. Lần sau cùng Ngài về đến Nhật vào năm 1191 và kiến tạo ngôi chùa Shofuku ở Hakata. Ngôi chùa này được xem là Thiền viện đầu tiên trên đất nước này. Năm 1215, triều đình Nhật xây dựng chùa Kiến Nhân (Kennin -ji) tại Kyoto, Ngài được thỉnh về làm chứng minh đạo sư cho ngôi già lam này. Ngài cũng được xem là người có công trong văn hoá Trà Đạo tại Nhật. Ngài đã mang giống trà từ Trung Hoa về trồng tại Nhật. Vị Thiền sư nổi tiếng của Thiền Phái này về sau là ngài Bạch Ẩn (Hakui Ekaku - 1685 - 1786) với những tác phẩm nổi tiếng. Ngày nay ở Nhật có 14 chi phái thuộc dòng Thiền này tuy không hợp nhất về tổ chức, nhưng vẫn đeo đuổi lý tưởng ban đầu của Tổ sư Vĩnh Tây. 13. Hoàng Bách: khai tổ là Ingen (Ẩn Nguyên – sư Chân Không), đặt cơ sở là chùa Manbukuji (Vạn Phúc Tự) núi Ōbaku (Hoàng Bách). Đây là Thiền phái thứ ba của người Nhật, có tầm ảnh hưởng ít hơn hai Thiền phái kể trên, do Thiền sư người Trung Hoa Ẩn Nguyên (Yin Yuan 1592 - 1673) khai sáng. Sau nhiều năm tu học tại quê nhà, ông sang Nhật Bản để hoằng pháp vào năm 1654 và tiến hành thành lập Thiền phái này tại chùa Vạn Phước (Mampuku-ji) ở tỉnh Yamato. ông đã được Nhật Hoàng ban cho danh hiệu Quốc Sư (Daik Fusho Kokushi) ông đã lưu lại nhiều tác phẩm Phật học giá trị. Hiện nay có hơn 600 ngôi chùa là chi nhánh của Thiền pháinày. Nhìn chung lại cả 3 Thiền phái trên đã phát triển mãnh tại Nhật và có tầm ảnh hưởng câu rộng trong đời sống tâm linh của người Nhật. Cả ba đều có nhiều trường đại học, nhà xuất bản kinh sách riêng, cơ quan từ thiện, xã hội... Không những thế. Thiền đã ăn sâu vào tiềm thức của người Nhật: Trà đạo, Nghê thuật cắm Hoa, nghệ thuật Suiseki, Hoa đạo, Thư pháp... Một trong những ảnh hưởng lớn với nền văn hoá này là Thiền Tông. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 20 2. SO SÁNH PHẬT GIÁO PHẬT GIÁO Ở TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN 2.1. Nguồn gốc: TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Theo nhiều nguồn sử liệu, hai thế kỷ đầu sau ngày đức Phật Niết-bàn, Phật giáo chỉ giới hạn quanh lưu vực sông Hằng của Ấn Độ, trị vì đất nước Ấn Độ khoảng từ năm 274 đến 236. T.CN. Sau đó truyền sang Trung Quốc bằng cả đường bộ lẫn đường thủy. Vào cuối thế kỷ thứ II. T.CN, Trung Quốc đã chinh phục được một số nước thuộc vùng Trung Á và có mối quan hệ với Bactria, Parthia và Ấn Độ. Vào thời điểm này, vua chúa của triều đại Kushan thường phái sứ giả đến các xứ ấy. Giới thương nhân cũng mang ngọc, thảm xứ đến Trung Hoa sau đó họ lại mua hàng tơ lụa của Trung Quốc và vận chuyển về đất nước mình bằng con đường này. Trong đoàn của giới thương nhân thường có các nhà truyền giáo của đạo Phật tháp tùng để cầu nguyện và đem sự bình yên đến cho họ trong suốt cuộc hành trình. Nhưng khả năng có thể tin cậy nhất là Phật giáo được truyền vào Trung Hoa bằng con đường Trung Á. Có vài tài liệu cho rằng, Phật giáo du nhập trực tiếp vào Hàn Quốc từ thế kỷ thứ 3 TCN. Nhưng phần lớn nhiều học giả đồng tình rằng Phật giáo truyền từ Trung Quốc sang bán đảo Hàn Quốc, do đó Phật giáo Hàn Quốc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi đạo Phật theo hệ phái Đại thừa Trung Quốc Lịch sử Phật giáo Nhật Bản người ta có chia thành Lịch sử Phật giáo Cổ đại, Trung thế, Cận thế... nhưng trong đó lại phân nhỏ thành các mảng như cơ sở kinh tế tự viện, cơ cấu tổ chức giáo đoàn, tư tưởng của một tông phái, học phái của ngôi chùa hay thậm chí là tư tưởng của một nhà sư chưa được ai biết đến... 1.Phật Giáo cổ đại … 2. Trung thế … 3. Cận thế Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, năm 1945 (năm Chiêu Hoà thứ 20), ngày 28 tháng 12, Pháp lệnh Pháp nhân Tôn giáo được ban hành và thực thi, những định chế đối với các đoàn thể tôn giáo bị bãi bỏ. Năm 1951, Pháp lệnh Pháp nhân Tôn giáo cũng bị bãi bỏ, thay vào đó là Luật Pháp nhân Tôn giáo với chế độ chứng nhận tư cách. Nhân sự kiện đánh hơi độc hệ thống điện ngầm của Giáo phái Aum vào năm 1995 (năm Bình Thành thứ 7), Luật Pháp nhân Tôn giáo được cải chính lại một phần. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 21 2.2. Thời gian xuất hiện: TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Phật giáo du nhập vào Trung Hoa chính xác vào thời điểm nào vẫn còn là một ẩn số. Nhiều giả thuyết liên quan đến sự kiện quan trọng và ý nghĩa trên cho rằng Phật giáo có thể đã hiện diện ở Trung Quốc vào thời Hán Võ đế (140-86 T.CN) thông qua việc viên tướng Ch'ang-k'ien (Trương Khiên) đem về Trung Quốc một tượng Phật bằng vàng vào năm 126 T.CN. Theo "Bách Khoa Phật Học", truyền thống ghi lại sự du nhập của Phật giáo có thể xảy ra vào năm 217 T.CN khi các phái đoàn truyền giáo do vua Asoka gửi đi trải dài khắp khu vực phía Nam và Đông Nam châu Á. Do đó, người ta có lý do để tin rằng có thể Phật giáo được truyền vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ III T.CN, nhưng sau đó tôn giáo này không thể tồn tại được qua sự kiện xây dựng Vạn Lý Trường Thành và thiêu đốt kinh sách của Tần Thủy Hoàng thuộc triều đại nhà Tần. Phật giáo được truyền sang Hàn Quốc trong thế kỉ thứ 6 từ Trung Quốc qua sự tiếp xúc với những bộ tộc thảo nguyên tại Trung Á và Bắc Á. Ban đầu, nghệ thuật Phật giáo Hàn Quốc chịu ảnh hưởng Trung Quốc cũng như ảnh hưởng của nghệ thuật truyền thống bản xứ: hình dạng trừu tượng nhưng đồng thời mang nhiều trang vật truyền thống. Tuy nhiên, khác với những những hình tượng mang nhiều trang vật sặc sỡ của nghệ nhân Trung Quốc, người Hàn chuộng phong cách đơn giản, rõ ràng hơn như có thể thấy được ở phong cách biểu hiện các vị Phật siêu việt như Đại Nhật Phật. Truyền thống nghệ thuật này sau cũng có ảnh hưởng lớn tới nền Phật giáo Nhật Bản. Phật giáo chính thức được truyền sang Nhật Bản vào thế kỉ thứ 6 qua các tăng sĩ Hàn Quốc và Trung Quốc và đã được phổ biến trong thế kỉ 7. Vì địa thế ốc đảo đặc biệt, là miền cực Đông của Con đường tơ lụa nên nhiều truyền thống Phật giáo cũng như nghệ thuật Phật giáo vẫn được lưu tồn ở đây trong khi bị đàn áp và suy tàn ở những khu vực phương Tây khác như Ấn Độ, Trung Á và Trung Quốc. Trong lĩnh vực nghệ thuật thì ban đầu, phong cách Hàn Quốc được tiếp nối và có phần bị ảnh hưởng bởi phong cách nghệ thuật truyền thống Nhật Bản thời Minh Nhật (明日, ja. asuka, 593- 710). Hai trung tâm Phật giáo tại đây là cố đô Nara, Kyoto, và Tokyo ... So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 22 2.3. Quá trình phát triển (những giai đoạn/thời kì phát triển, đặc điểm nổi bật nhất của từng giai đoạn) TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Thời kỳ hình thành: Phật giáo đã thành hình và đã truyền bá rộng rãi trong dân chúng Trung Hoa dưới triều đại nhà Hán, nhưng Phật giáo trong thời kỳ này mang màu sắc pha tạp của Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian. Từ vua chúa đến thần dân đều tin và phụng thờ Phật Thích Ca và Lão Tử trên cùng một bàn thờ. Thời kỳ phát triển: - Từ Tam Quốc đến Tây Tấn (thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ IV T.L). sau khi nhà Ðông Hán mất ngôi, nước Tàu bị chia làm ba khối, tức là thời Tam Quốc: Ngụy, Thục, Ngô. Mặc dù phân chia như thế, trong những nước ấy, từ vua chúa đến dân gian đều quy ngưỡng theo đạo Phật, và mỗi nước đều có những vị cao tăng từ Tây Vức sang truyền đạo. Đến đời Tây Tấn, Phật Giáo Trung hoa mới thấy được cái vẽ rực rỡ của thời kỳ thịnh phát thứ nhất. Chính trong giai đoạn này, Trung hoa bắt đầu có những tôn phái mới là Tam luận tôn và thành Thời kì ba Vương quốc (57 TCN – 668 CN): Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát- mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp hợp nhất những bộ lạc khác nhau thành những vương quốc thống nhất. Phật giáo Hàn Quốc đã Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp thích ứng với tín ngưỡng bản địa bằng cách thiết lập Phật giáo Hộ quốc. Thời kì Vương triều Silla hợp nhất (668-935) - Vương triều Silla có sự am hiểu và tôn sùng Phật giáo nên quần chúng nhân dân sẵn sàng theo họ. Do đó, Phật giáo đã tăng cường tình đoàn kết trong xã hội Silla. - Quan niệm duy tâm làm thỏa mãn sự khao khát chung về một vùng đất hạnh phúc, không có khổ đau và khuyến khích người dân đồng nhất quốc vương của họ hay những vị anh hùng dân tộc với vị thần Phật giáo. Với sự giúp đỡ của Phật giáo, Vương triều Silla đã thành công trong việc Thời kỳ hình thành (538-794): Phật giáo chính thức được truyền đến Nhật từ Triều Tiên (Korea) vào năm 552 Tây lịch (có chỗ ghi nhận là năm 538). Lúc bấy giờ vua nước Bách Tế (Triều Tiên) đã gởi một phái đoàn truyền giáo đến Nhật. Phái đoàn này đã được nhà vua Nhật Bản tiếp đón một cách nồng hậu. Thời kỳ phát triển (Heian/BìnhAn/794-1184): -Triều đại Nara (710 - 794) qua sự ủng hộ Phật Pháp của Hoàng đế Thánh Võ (Shomu 701 - 756), vị vua thứ 45 của Nhật Bản) Phật Giáo đã trở thành quốc giáo của đất nước Phù Tang. Năm 741, vua Thánh Võ đã ban hành một quốc lệnh rằng mỗi làng và mỗi tỉnh phải xây dựng một ngôi chùa và dân chúng phải thành tâm thọ trì Phật Pháp. Để làm gương cho mọi người, chính vua Thánh Võ đã đích thân xây chùa Đông Đại (Todai) tại kinh đô vào cuối năm 741.Sáu tông phái Phật giáo được truyền đến Nhật từ So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 23 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN thật tôn. - Thời kỳ vàng son của Phật giáoTrung Hoa tập trung vào triều đại nhà Tùy (Sui, 581-618). Trong thời kỳ này nhiều vị cao tăng đã gây thêm uy thế cho đạo Phật cả trong dân gian lẫn cả triều đình, như Ngài Hệ Lâm được tham dự triều chín. - Dưới đời nhà đường(thế kỷ thứ VII- IX ), vào khoảng đầu thế kỷ thứ bảy, dưới đời vua Ðường Thái Tôn(ông vua thứ hai đời đường),sau một thời gian bị phân tán vì giặc giã, đạo phập ở Trung hoa bắt đầu thịnh phát lại. Vị cao tăng đã mở đầu cho giai đoạn hưng thịnh này là Ngài Huyền- Trang, thường được gọi là Ðường Tam-Tạng pháp sư. Ngài Huyền-Trang tự phát đại nguyện sang Ấn Ðộ, tìm học đạo với những bậc minh-sư, và đi chu du khắp Ấn Ðộ. Sau 15 năm, Ngài trở về Trung hoa, đem rất nhiều kinh tạng bằng Phạm-Văn và tổ chức cuộc phiên dịch sang Hán- Văn có trên 1.500 quyển. Thời kỳ này là thời kỳ hưng thịng lừng lẫy nhất của Phật Giáo Trung Hoa. - Từ khi nhà Ðường mất thiên hạ, đến nhà Minh, trải chuyển đổi từ chế độ thị tộc sang nhà nước quân chủtập quyền với tính thống nhất quốc gia mạnh mẽ. - Vương triều đặc biệt coi trọng và nghiên cứu sâu bộ kinh Phật Đại thừa: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp. - Phật học viện có ảnh hưởng nhất trong Phật giáo Hàn Quốc được ra đời với công lao của nhà tư tưởng Phật giáo bậc thầy Uisang. - Cuối thời kì Silla hợp nhất, Phật giáo Seon (Thiền tông) được du nhập vào Hàn Quốc. Thời kì Goryeo (918- 1392) - Phật giáo dưới triều đại Goryeo cũng giữ vai trò là nguồn cảm hứng chủ đạo cho sáng tác nghệ thuật và nghiên cứu chuyên môn học thuật sâu. - Một trong những thành tựu to lớn nhất là nghệ thuật chạm khắc Tripitaka Koreana (Tam Tạng kinh Hàn bản). Đây là Bộ Kinh Phật được thực hiện vào đầu thế kỉ 13 trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh với người Mông Cổ. Bộ Kinh này bao gồm hơn 80.000 mộc bản. Đây là một công trình quốc gia được tạo nên không chỉ bởi công sức của chính quyền mà còn Trung Hoa và phong trào nghiên cứu và tu Phật tại Nhật đã bắt đầu: Luật Tông (Ritsu); Câu Xá Tông (Kusha); Thành Thật Tông (Jojitsu); Tam Luận Tông (Sanron); Pháp Tướng Tông (Hosso); Hoa Nghiêm Tông(Kegon). -Triều đại Heian (794 - 1185)được xem là thời hoàng kim củaPhật giáo Nhật; - Thời kỳ Kiếm Thương (Kamakura1185-1333): Đây là thời kỳ khủng hoảng, vì cả nước bị đe dọa trầm trọng bởi tàn phá khốc liệt từ sự phân hóa nội bộ và bạo lực dưới những tổ chức quân sự được thành lập năm 1185 của bộ tộc Minamoto, ngoại ô Kyoto, đã làm cho việc tu tập và nghiên cứu Phật Đà bị khựng lại một lúc lâu. Tuy nhiên, cuối cùng mọi việc cũng đâu vào đấy và Phật giáo vẫn tiếp tục công việc của mình.Nhật Liên Tông (Nichiren) và Tịnh Độ Tông (Jodo) cũng lần lượt xuất hiện và được truyền bá rộng rãi trên toàn nước Nhật. - Thời kì Nam Bắc Triều và Thất Đinh (Nambokushou- Muromachi, 1333 - 1600), Thiền tông nhờ có sự quy y của triều đình và tướng quân So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 24 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN qua mấy trăm năm trước Trung Hoa tuần tự trải qua các đời: Ngũ Ðại (hậu Lương, hậu Ðường, hậu Tấn, hậu Hán, hậu Chu). Nhà Tống, rồi đến nhà Nguyên. Nhưng phải đợi đến đời vua Thái-Tổ nhà Minh (ChuNguyên Chương) đạo Phật mới lấy lại được cái vẽ huy hoàng của những thời hưng thịnh trước. Minh Thái- Tổ, nguyên lúc nhỏ là một vị Sa-Di, nên khi lên ngôi, Ngài hết sức ủng hộ Phật Giáo. - Phải đợi đến cuộc cách- mạng Tam-dân chủ-nghĩa (1912), đạo Phật mới trổi dậy bằng hình thức nghiên cứu Phật học và sự thành lập các hội Phật Giáo khắp trong nước. Thời kỳ suy vi và chấn hưng: Một số triều đại vui chúa hạ lệnh cấm Phật Giáo truyền bá, từ đó tạo thành trên lịch sử Phật giáo 2 chữ “Pháp nạn”. Nỗi bậc nhất là 4 lần pháp nạn phát sinh vào thời kỳ Bắc Ngụy Thái Võ Ðế, Bắc Châu Võ Ðế, Ðường Võ Tông và Ngũ Ðại Hậu Châu Thế Tông. Sau cuộc đàn áp dã man dưới triều đại vua Võ Tôn vào năm 845. Cả Thiên Thai Tông toàn thể dân chúng, là sự kết tinh của một nền văn hóa dân tộc bắt nguồn từ đức tin Phật giáo. - Tới cuối triều đại Goryeo Phật giáo đã phải chịu đựng những tổn thất nặng nề, do: sự chiếm hữu đất xây dựng chùa thờ Phật gia tăng hàng năm, việc miễn thuế và các nghi lễ quốc gia được tổ chức trên diện rộng đã trở thành gánh nặng lớn đối với ngân sách nhà nước. Hơn nữa, những vụ việc các nhà sư tham nhũng, cùng với sự dính líu của họ tới những cuộc tranh giành quyền lực chính trị, tiền tệ hay những vụ bê bối khác đã diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng Thời kì Joseon (1392- 1910) -500 năm triều đại Joseon là kỉ nguyên tối tăm đối với Phật giáo. Vì Tân Khổng giáo nổi bật lên như một thế lực mới, đàn áp Phật giáo một cách có hệ thống. -Sự quản lí nhà nước đối với Phật giáo ngày càng trở nên căng thẳng hơn, và lên đến đỉnh điểm khi có lời tuyên bố rằng các nhà sư là thành phần bị xã hội ruồng bỏ nên không được phép bước vào khu vực thủ đô. Nhà nước đưa ra lệnh nên rất thịnh vượng.  Thời kỳ suy vi: - Thời kì Edo (1600 - 1868), nhìn chung Phật giáo có phần sa sút về tư tưởng và trở thành một loại Phật giáo đọc kinh, do thời kì này Nho học bột phát. - Kể từ cuối thế kỉ XIX, nhất là từ thời kì Minh Trị Duy Tân, Phật giáo suy thoái nghiêm trọng. Phật giáo buộc phải phát triển theo hướng tăng tính thế tục. Nhiều tăng lữ tham gia chính trị. Phật giáo dần dần hướng về hoạt động xã hội. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 25 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN và Hoa Nghiêm Tông đều bị tàn lụi vì sự đơn độc của hai tông phái này. Thiền và Tịnh Độ tông với nhiều tín đồ, được sống sót, phục hồi và tìm lại chỗ đứng trong xã hội Khổng Mạnh. Triều đại nhà Nguyên (1215-1368):Mật giáo của Phật giáo Tây Tạng được giới thiệu đến miền Bắc Trung Hoa nơi được sự đở đầu của hoàng gia sau khi Mông cổ xâm lăng TH. Phật giáotiếp tục phát triển, nhất là Mật tông của Tây Tạng được hoàng gia bảo trợ nên có nhiều ưu thế hơn. Các hoàng đế Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long là những ông vua hết lòng hộ trì Phật pháp và bảo trợ nhiều công trình Phật sự để đời như cho khắc in ba Đại Tạng Kinh Trung Hoa. Tuy nhiên cuộc nổi loạn vào các năm 1851-64 ở miền Nam Trung Hoa do vua Manchu của nhà Thanh cầm đầu, đã tạo ra một cuộc khủng bố khốc liệt đối với Phật Giáo, kết quả nhiều tự viện bị hủy diệt và tịch thu. Sau đó, Phật giáo Trung Hoaphải cầu viện Phật giáo Nhật bản trợ giúp để phục hồi. cấm xây dựng các đền thờ gần thị trấn và nhiều đền thờ đã bị phá hủy. Những tu viện đã tồn tại phải ẩn sâu trong núi. Do đó, Phật giáo đã mất đi địa vị của mình trong nền văn hóa xã hội Hàn Quốc. Giới Phật giáo gần như rất thất vọng và mang tư tưởng chủ bại. Thời kỳ cận đại -Nhật Bản thôn tính Hàn Quốc vào năm 1910 và thực hiện có hệ thống chính sách Nhật hoá nền văn hoá Hàn Quốc -Các nhà sư Hàn Quốc được ủng hộ kết hôn, từ bỏ truyền thống sống độc thân, như các nhà sư Tân Tăng Nhật Bản đã và đang làm. -Sau khi Hàn Quốc được giải phóng khỏi ách thống trị Nhật Bản năm 1945, những nhà tu hành còn độc thân của Hàn Quốc muốn xua đuổi những nhà sư đã kết hôn ra khỏi cộng đồng Phật giáo. Sau vài thập kỉ đấu tranh gay gắt, hai phe phái Jogye và Taego, tiêu biểu cho hai chủ trương nhà tu hành phải sống độc thân hay được kết hôn, thỏa thuận cùng chung sống như hai dòng Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 26 2.4. Đặc điểm TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN - Phật giáo được truyền vào Trung Quốc hiển nhiên là Phật giáo Đại thừa, tiêu biểu cho chân lý của Đức Phật, còn Tiểu thừa chỉ được coi là phương tiện quyền xảo mà thôi. Trong mười ba phái dưới thời Tùy, Đưòng chỉ có Tỳ Đàm Tôn (sau là Cấu Xá Tôn) có thể nói là chân chính Đại thừa, còn tất cả các phái khác, trên bản chất thì thuộc Tiểu thừa, nhưng đều coi mình là Đại thừa, bởi thế mà địa vị của Đại thừa được thành lập. - Tại Trung Quốc, ngoài triều đình và các vị tăng già ẩn tuẫn trong các nơi thâm sơn u tịch ra, đối với nhân gian, Phật giáo chỉ phụ thuộc cho nên tinh thần Phật giáo có vẻ bạc nhược. - Phật giáo Hàn Quốc là hợp nhất các quan điểm khác nhau kết thành một hệ thống tư tưởng. - Phật giáo là nền tảng tư tưởng của giai cấp thống trị trong quá khứ; đóng vai trò là tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân. - Phật giáo Nhật Bản phát huy đặc chất của Đại thừa, coi nhẹ phần ẩn dật mà thiên trọng phần hoạt động, coi nhẹ phần học vấn mà coi trọng phần thực hành. Thái tử Thánh Đức chú thích kinh Pháp Hoa đến đoạn nói “nên ở những nơi núi rừng u tịch mà tu luyện” thì ông chua thêm là: “không nên, vì mục đích của đạo Phật là lấy sự hoạt động ngay giữa xã hội thực tiễn để phát huy cơ năng của mình” - Phật giáo lại từ chỗ sinh hoạt quốc gia tiến đến chỗ lấy sinh hoạt cá nhân làm trung tâm, lấy sự an tâm lập mệnh cá nhân làm cơ năng cao nhất, đến đây thì tinh thần Phật giáo đã thật sự thu hút toàn bộ sinh hoạt quốc gia, và trên thực tế, điểm này có thể nói đã trở nên thiết yếu nhất của Phật giáo Nhật Bản. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 27 2.5. Tông phái chính TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Thiền Tông: là một tông phái đặc biệt và thành tựu nhất của Phật giáo Trung Hoa. Tại Trung Hoa lúc đầu thiền bị ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Lão và Khổng. Thiền chỉ độc lập và nổi tiếng từ thế kỷ thứ bảy, tức phải đợi đến đời tổ Huệ Năng (Hiu Neng, 638-713, tổ thứ sáu) thì tông này mới được truyền bá rộng rãi và đã trở thành một tông phái chính cho tới ngày nay. Thiền (ch’an) là pháp môn huấn luyện tâm linh nhắm đến việc trực nghiệm thực tại của vạn hữu, còn gọi là tâm hay Phật tánh, hiện hữu ở mọi chúng sanh. Theo Thiền tông, thực tại này là vô ngã (sùnya), không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ, và cũng không thể nhận thức bằng tư tưởng. Do vì không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ và nhận biết bằng tư tưởng, thực tại này, tức chân tâm hay Phật tánh, chỉ có thể liễu hội (hay nắm bắt) bằng trực giác tức thời. Để đạt đến cấp độ này, hành giả phải gột rửa tất cả tư tưởng để tâm được an tịnh, bởi vì trong mọi ý niệm đều có ngã tính, tạo ra sự phân biệt giữa chủ thể và Hiện tại Hàn Quốc có tất cả là 18 tông phái Phật giáo khác nhau xuất phát từ bốn tông phái chính là Thiền tông, Mật tông, Pháp Hoa tông và Hoa Nghiêm tông. Trong các tông phái, nổi bật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất là Thiền phái Tào Khê được thiền sư Tri Nột (Chinul, 1158-1210), thành lập với ước nguyện sẽ dung hòa không những, các chi phái của Thiền Tông Trung Hoa, mà còn dung hòa tất cả Tông phái khác đang hiện hữu tại Hàn Quốc. Ngài thiết lập ba phương pháp hành trì, phản ánh trực tiếp từ những kinh nghiệm thiền quán của Ngài: “Thực hành dung hòa giữa (Thiền) Định và (Trí) Tuệ”; “Thực hành dung hợp Tín và Trí”; “Hành trình Công án của Nam Thiền Đốn ngộ Trung Hoa”. Những bộ kinh căn bản của thiền phái này là Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Hoa NghiêmẨ có khoảng 1632 ngôi chùa là chi nhánhở khắp trong và ngoài Triều Tiên, và có khoảng 18.000 tăng ni và khoảng 6.000.000 tín đồ qui y theo Cho đến thế kỷ mười ba, tất cả những tông phái chính đều có mặt tại Nhật, bao gồm Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Nhật Liên Tông... Thiền được giới thiệu đến Nhật vào khoảng thế kỷ thứ 9 từ Trung Hoa qua hai Thiền phái Lâm tế và Tào Động, cả hai phái này đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng cửa Lục Tổ Huệ Năng ở thế kỷ thứ 8. Hiện nay ở Nhật có ba Thiền phái như sau : *Thiền Lâm Tế (Rinzai Sect):thường la hét, quát mắng, đánh đập hoặc áp dụng hình thức “công án” để khai thị đệ tử.Do công khai sáng của thiền sư người Nhật Vinh Tây (Eisai, 1141-1215).Ngài đã tìm đường đến Trung Hoa để học đạo trong hai lần, vào những năm 1168 và 1187.. Ngôi chùa Shofuku ở Hakatađược xem là thiền viện đầu tiên trên đất nước này. Ngài cũng được xem là người có công trong văn hóa uống trà của Nhật, Ngài đã mang giống trà từ Trung Hoa về trồng ở Nhật. * Thiền Tào Động So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 28 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN đối tượng. Đây là ngọn nguồn của mọi nghiệp báo khiến người ta rơi vào vòng sinh tử luân hồi. Khi liễu hội được chân tâm, người ta cảm nghiệm một trạng thái mà thiền gọi là ngộ, nghĩa là sự nhận biết như thật về nhất như của mọi hiện hữu. Ý chỉ của Tổ về pháp tu của Thiền tông được thâu gọn trong bốn câu kệ : "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật." (Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Theo triết học đại từ điển, nội dung của Thiền tông bao gồm 6 điểm: *Thuyết tâm tính tạo ra vạn vật: vạn vật từ tâm mà ra. *Thuyết Phật tính: mọi người đều có Phật tính và đều có thể thành Phật. *Thuyết tự ngộ: Phật tính là tự tính, nhận thức tự tính sẽ thành Phật. *Thuyết đốn ngộ:không tu hành là người bình thường, nếu tu hành sẽ thành Phật. *Thuyết vô niệm:tu hành không để bên ngoài làm ảnh hưởng. phái này. (Soto/Tsao-tung): là một trong năm Thiền phái chính của Trung Hoa, chú trọng đến phương pháp nội quán, hay ngồi thiền dưới sự hướng dẫn của vị thiền sư, nghĩa là thiền sinh được vị thầy chỉ dạy trực tiếp và riêng rẽ. Đây là một Thiền phái kiểu mẫu phổ biến hơn những Thiền phái khác ở Nhật. Nếu Lâm tế thích ứng với giới thượng lưu trí thức, thì Tào Động lại gần gũi với tầng lớp bình dân. Thiền Tào Động được Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen, 1200-1253) khai sáng. Hiện nay ngôi già lam chính của Thiền phái này là Chùa Tổng Trì (Soji-ji) ở Yokohama do thiền sư Hành Cơ (Gyogi, 666-749) tạo dựng năm 1321. * Thiền Hoàng Bá (Obaku sect): đây là Thiền phái thứ ba của người Nhật, có tầm ảnh hưởng ít hơn hai Thiền phái trên, do thiền sư người Trung Hoa Ẩn Nguyên (Yin-Yuan, 1592-1673) khai sáng. Sau nhiều năm tu học tại quê nhà, ông đến Nhật Bản để hoằng Pháp vào năm 1654 và tiến hành thành lập Thiền phái này tại chùa Vạn Phước (Mampuku-ji) ở tỉnh Yamato. Ông đã được vua Nhật ban So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 29 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN *Thuyết Phật pháp không xa lìa thế gian:Phật pháp tại thế gian, khônng giác ngộ khi xa lìa thế gian, xa rời thế gian để tìm giác ngộ cũng tựa như đi tìm sừng thỏ. cho danh hiệu là Quốc sư (Daiko-Fusho-Kokushi), ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Hiện tại có hơn 600 ngôi chùa là chi nhánh của Thiền phái này. Nhìn chung cả ba Thiền phái trên đã phát triển mạnh ở Nhật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của người dân Nhật. Cả ba đều có nhiều trường đại học, nhà xuất bản kinh sách riêng, cơ quan từ thiện... Không những thế Thiền đã ăn sâu vào tiềm thức của người Nhật, thiền đã đi vào hoa, vào trà, vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân và cuối cùng nó nâng lên thành Đạo, trà đạo, hoa đạo... 2.6. Phật giáo ngày nay TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Trong cách mạng văn hoá những gì được cho là sản phẩm của chế độ phong kiến đều phải bị tiêu diệt. Phật Giáo với nền tảng giáo lý và di tích kiến trúc văn hoá của nó cũng chịu chung số phận như vậy. Một điều quan trọng hơn nữa là Cách mạng Văn hoá (1966- 1976)đã triệt tiêu phần lớn niềm tin Tôn giáo trong người Với truyền thống lâu đời, Phật giáo Hàn Quốc đã đẩy mạnh các công tác giáo dục xã hội, tham gia và đáp ứng các nhu cầu quần chúng hiện nay. Hầu hết các ngôi chùa đều có xây dựng nhà trẻ và trường tiểu học. Các tăng sĩ Hàn Quốc đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực giáo dục phổ cập. Hiện tại Phật giáo Hàn Quốc có rất Đại đa số người dân Nhật dường như thờ ơ với vấn đề tôn giáo, ngoại trừ trong những trường hợp đặc biệt như những ngày lễ hội hay tang lễ. Đặc biệt khi hỏi giới trẻ về niềm tin tín ngưỡng của họ hay sự hứa khả, họ có khuynh hướng trả lời với sự biểu lộ ngạc nhiên hoặc mỉm cười không hiểu. Thế hệ già thì hiểu chủ yếu tôn giáo So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 30 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN dân Trung Quốc hiện nay đa phần dân số Trung Quốc (hơn hai phần ba dân số) không có niềm tin Tôn giáo kể cả Phật Giáo. Khi các Phật Tử Việt Nam đến hành hương ở các chùa ở Trung Quốc đều bán vé vào cổng, có chùa còn bán nhiều lớp vé, như ngoài vé vào cổng ra khi vào bên trong muốn tham quan hay lễ bái một chỗ nào đó lại phải mua thêm vé nữa, nhiều tầng lớp vé như vậy. Từ năm 1976 đến nay, tuy chính phủ Trung Hoa có nhiều chính sách cởi mở hơn để khôi phục lại Phật giáo, nhưng nhìn chung, Phật giáo Trung Hoa vẫn chưa lấy lại được sinh khí của mình như thuở nào. Tất cả phải đợi chờ đến một cuộc đổi mới khác trong một tương lai gần. nhiều trường sơ, trung, cao đẳng, đại học trên toàn quốc. Trường Đại học Phật giáo ở Dong-Guk đã mở thêm chi nhánh ở Seoul và Kyongju, đặc biệt chú trọng đến đào tạo những thế hệ Tăng ni kế thừa làm rường cột cho giáo hội. Đặc biệt, có rất nhiều chương trình thuyết giảng, tu học đáp ứng cho nhu cầu của nhiều giới, nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Những ngày lễ lớn, các ngã tư trên khắp đường phố đều treo cờ hoa. Điển hình là ngày Lễ Phật Đản, được tổ chức long trọng, về đêm bầu trời tràn ngập pháo hoa đón mừng Khánh Đản. Tuy khoảng cách của giới trẻ với sinh hoạt chùa viện chưa rút ngắn nhanh như mong muốn, nhưng càng ngày càng có đông giới trẻ Hàn Quốc chú ý và tham gia vào các sinh hoạt Phật pháp như: ghi danh theo học các khóa giáo lý, khóa tu thiền ngắn hạn, công tác từ thiện xã hội... Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất ở Hàn Quốc với số tín đồ chiếm trên 40% cộng đồng tôn giáo. như là phương tiện của tính thuần nhất xã hội hay sự giúp đỡ trong đời sống hàng ngày hoặc khi gặp đau khổ. Các ngày lễ trong năm: - Ngày lễ tết Shusho để cầu nguyện may mắn và bình an trong năm sắp tới. - Vào ngày mùng 3 tháng Hai, một ngày trước khi bắt đầu vào mùa xuân dựa theo âm lịch của Nhật Bản, một lễ gọi là Setsurun Service bao gồm việc ném các hột đậu. - Nehan Service (Cõi Niết Bàn của Đức Phật): Ngày 15 tháng Hai thì được tin tưởng là ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, vào 2500 năm về trước tại tỉnh Kushinara, Ấn Độ - Higan Service: vào những ngày trong tháng Ba và tháng Chín, nghĩa là trong ngày này thời gian ban ngày và ban đêm thì bằng nhau, nhắc nhở người Nhật về sự vô thường của đời sống. - Hana Matsuri (Hội Chợ Hoa), lễ kỷ niệm ngày Đức Phật đản sanh, là ngày vui mừng nhất cho những người Phật tử Nhật Bản, được tổ chức vào ngày 18 tháng Tư. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 31 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN - Jodo Service ( Đức Phật Giác Ngộ): ngày 8 tháng 12, Nhật Bản tin tưởng Đức Bồ Tát Guatama đã giác ngộ dưới cột Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng và trở thành Phật. - Segaki Service (Phật Giáo Tạ Ơn): Ngày lễ Segaki thông thường diễn ra khi tất cả hội viên của chùa tập hợp để cúng dường thực phẩm hay tiền bạc đến những người cần dùng. Phật giáo ảnh hưởng trong dân chúng Nhật trong nhiều chiều hướng khác nhau trong đời sống của họ. - Lời nguyện trước khi ăn. Người Nhật thường bày tỏ lòng biết ơn của họ khi họ ăn. “いただきます ”là lời nói trước bữa ăn, nghĩa là "Với lòng biết ơn, tôi nhận bữa ăn này bởi sự phản ảnh lại với việc làm của tôi, để nhận thức rằng trong bất cứ trường hợp nào tôi xứng đáng với nó." Sau bữa ăn, người ta nói “gochisosama,” có nghĩa là . "Sự cung phụng này đã được hoan hỷ chấp nhận để cho thân thể chúng ta được cường tráng và để đáp ứng cho ước nguyện của tất cả mọi So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 32 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN người". - Cầu nguyện hàng ngày. Người Nhật thường bày tỏ lòng biết ơn bằng cách nói câu “arigato” có nghĩa là "tôi biết ơn" và họ biểu lộ sự xin lỗi bằng câu nói “sumimasen” có nghĩa là "tôi xin lỗi". Người ta có thể nói "sumimasen” khi mồi lửa cho điếu thuốc từ một người lạ, thay vì nói “arigato.” Theo lẽ thường thì không cần phải cảm thấy hối tiếc để nhận điều gì mình muốn, nhưng người Nhật cảm thấy đặc nặng về sự mang ơn của người khác. và cảm giác này nó tràn ngập trong ngôn ngữ của họ. Bằng cách nói “sumimasen," có nghĩa là tôi không thể nào đền đáp được cái sự tử tế của qúi vị. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 33 2.7. Công trình/kiến trúc Phật giáo nổi bậtnhất TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Chùa Bạch Mã là ngôi chùa Phật khởi nguyên tại Trung Quốc, trải qua lịch sử diễn biến, chùa Phật Trung Quốc cách kiến trúc chủ yếu đã hình thành 2 loại là tháp và chùa thạch quật. Tháp kết hợp nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc thành một thể, hình thức đa dạng, cách tạo hình mỹ quan. Tháp Chùa Kim Sơn- Trấn Giang Tháp Chùa Hàn Sơn-Tô Châu Bulguksa hay Phật Quốc tự. Đây là nơi có 7 quốc bảo Triều Tiên, bao gồm các tháp đá Dabotap và Seokgatap, Cheongun-gyo(cầumây xanh), và tượng Phật bằng đồng dát vàng. Tam Bảo tự (tiếng Hàn Quốc: 삼보사 ; Hán tự: 三寶 寺) là 3 chùa Phật giáo chính ở Triều Tiên, mỗi chùa đại diện cho một trong tam bảo của Phật giáo, cả 3 ngôi chùa này đều ở Hàn Quốc. Haeinsa (Hải Ấn tự) năm 802, tỉnh Nam Gyeongsangđại diện cho Pháp Chùa Pháp Long (Horyuji) được xây dựng năm 607 tại tỉnh Nara, chánh điện và tháp 5 tầng được xem như kiến trúc bằng gỗ vào loại cổ nhất tồn tại cho đến ngày nay trên thế giới. Nghệ thuật tạc tượng phản ánh một phong cách hiện thực lớn kết hợp với sự thanh thản hiếm có. Rất nhiều chùa chiền được xây dựng, mang bóng dáng tráng lệ của lục địa, trong đó có đại sảnh chùa Todai ở Nara, nơi đặt tượng Daibutsu (Đại bụt), công trình gỗ lớn nhất thế giới. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 34 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN Thạch quật tự được đào dựa theo thế núi, bên trong điêu khắc hình tượng Phật, vẽ bích họa, nổi tiếng là các thạch quật Đôn Hoàng, thạch quật Vân Phong, thạch quật Long Môn… Đôn Hoàng Phật Lạc Sơn-địa điểm thu hút khách du lịch của Tứ Xuyên Tongdosa (Thông Độ tự), tỉnh Nam Gyeongsang đại diện cho Phật; Songgwangsa (Tòng Quảng tự), tỉnh Nam Jeollađại diện cho Tăng. Tượng Phật Thích-ca tại Minh Nhật Hương Thôn (明 日香村, ja. asuka-mura, Nhật Bản, 609).Đây là tượng Phật cổ nhất tại Nhật có ghi chính xác thời điểm hoàn tất. Hiện nay, những ngôi chùa có thể đã được phân loại vào bốn hạng trong điều khoản của chức năng, mặc dù ở đó không phân chia rõ danh giới: 1) Những ngôi chùa nào có dịch vụ dùng cho tang lễ hay So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 35 TRUNG QUỐC HÀN QUỐC NHẬT BẢN những dịch vụ cúng giỗ kỵ cho người dân trong giáo khu 2) Những ngôi chùa có dịch vụ để cầu nguyện và chữa bịnh. 3) Những ngôi chùa có dịch vụ như là trung tâm giảng dạy cho các vị tu sĩ. 4) Những ngôi chùa dùng để trưng bày những bảo vật trân qúi cho công chúng. Nghi thức dùng trà Nghệ thuật vườn Nhật (Nhật Bản đình viên 日本庭 園) So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 36 KếT LUậN CHUNG: Tóm lại, từ khi Đạo Phật ra đời cho đến ngày nay đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài và có những biến đổi thăng trầm. Nhưng cho đến ngày nay, Đạo Phật là một trong những tôn giáo khá phát triển và có ảnh hưởng nhất định đến nền văn hóa đặc trưng của mỗi Quốc gia: Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc. Có thể nói Phật giáo đã tạo nên nền nghệ thuật đẹp nhất của mỗi nước. Mặc dù cách thức truyền đạt Phật giáo ở ba quốc gia trên có những cách thức khác nhau. Tuy nhiên nhở sự kết hợp khéo léo giữa nền văn hóa bản địa, tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy và tín ngưỡng triết học Phật Giáo, tạo ra một tín ngưỡng Phật giáo hoàn thiện hơn và phù hợp với truyền thống tư tưởng riêng của mỗi dân tộc. Tín ngưỡng Phật giáo không thể thiếu trong đồi sống tinh thần và tạo nên những bản tôn giáo sắc đặc trưng riêng của mỗi quốc gia. Phật giáo nhìn theo những khía cạnh khác nhau thì có những cách nhìn mặt xấu , tốt khác nhau, nhưng mục đích và tôn chỉ của Phật Giáo hướng con người đến cái thiện.Nguyên lý từ bi của Đức Phật vẫn giữ nguyên. Điểm chung của tín ngưỡng ở ba quốcgia : Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc. Một tông phái Phật giáo giản dị, có tính phổ cập mạnh mẽ, gắn liền cuộc sống tâm linh của người dân. Chính vì thế, về mặt không gian, Phật giáo đã kết nối được con người trong xã hội không giới hạn về biên giới quốc gia, đây là tôn giáo triết học đạo đức đẹp nhất của con người vì Phật giáo có xu hướng gia nhập, hòa đồng. So sánh Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhóm 2 – NB1-VB2 GVHD: PGS.TS Đoàn Lê Giang Trang: 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO - Ngô Vinh Chinh và Vương Miện Quý (chủ biên) “Đại Cương Lịch Sử Văn hóa Trung Quốc”, Nxb. Văn hóa Thông tin, 1994, tr. 89. - Thích Tâm Khanh, “Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển các tông phái Phật giáo Trung Quốc”; - Scientific Budhhism by Gerald Du Pré, in "Buddhism and Science", Edited by Buddhadasa P. Kirthisinghe, New Delhi, India, 1984; - Hải Bằng - Phúc Nguyên - Lược dịch từ cuốn ''Tôn giáo trung Quốc''. Nhà Xuất bản Truyền thông Ngũ Châu ấn hành;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsanh_phat_giao_3248.pdf