Thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối của Việt Nam

Trong số các biện pháp mà Chính phủ đưa ra, có những biện pháp liên quan tới việc sử dụng các công cụ của chính sách thương mại như sử dụng thuế quan (biện pháp 1), hàng rào phi quan thuế (biện pháp 3), đồng thời tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu (biện pháp 1). Đ ây là những biện pháp vẫn hay được đề cập tới. Tuy nhiên tính hiệu quả của những biện pháp này là khá khó xác định. Vấn đề nằm ở chỗ có sự mất cân đối giữa tăng trưởng nhu cầu của Việt Nam (nhu cầu nhập khẩu hàng ngoại) với tăng trưởng nhu cầu của các nước khác (nhu cầu nhập khẩu của các nước đối với hàng VN). Qua phân tích ở phần trên, ta có thể thấy Chính phủ nên bổ sung thêm một số biện pháp nữa, nhằm trực tiếp tác động tới nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Các biện pháp đó là:

pdf35 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3490 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌ C KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH PH Ò NG Q UẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌ C @@@ Môn: QU ẢN TRỊ NGÂN HÀN G THÂM HỤT CÁN CÂN VÃNG LAI VÀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM Thực hiện : Nhóm2 Lớp : Ngân hàng đêm 2 Khóa : 18 GVHD : TS. Trươn g Q uang Thông TP.H Ồ CHÍ MINH - 04/2010 Nội Dung 1.Cơ sở lý luận về cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối -------------------------------------1 1.1Cán cân vãng lai -----------------------------------------------------------------------------------1 a.Cán cân thương mại ---------------------------------------------------------------------------------1 b.Cán cân dịch vụ -------------------------------------------------------------------------------------1 c.Cán cân thu nhập ------------------------------------------------------------------------------------1 d.Kiều hối và các khoản chuyển nhượng khác ----------------------------------------------------2 e.Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân vãng lai -----------------------------------------------------2 1.2 Dự trữ ngoại hối ---------------------------------------------------------------------------------2 +Dự trữ ngọai hối nhà nước ------------------------------------------------------------------------- +Các hình thức dự trữ ngoại hối -------------------------------------------------------------------- +Tiêu chí đánh giá quy mô dự trữ ------------------------------------------------------------------ 1.3 Mối quan hệ giữa thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại --------------------------3 2.Thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối của Việt Nam ---------------------------3 2.1Tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam -------------------3 2.2Nguy cơ khủng hoảng của thâm hụt tài khoản vãng lai ----------------------------------6 2.3Cán cân thanh toán và dự trữ ngoại hối Việt Nam ---------------------------------------8 a. Cán cân thanh toán của Việt Nam ----------------------------------------------------------------8 b.Dự trữ ngoại hối của Việt Nam -------------------------------------------------------------------11 2.4Nguyên nhân và giải pháp đối với thâm hụt tài khoản vãng lai ------------------------12 a.Đầu tư tăng cao --------------------------------------------------------------------------------------12 b.Mức tiết kiệm thấp ----------------------------------------------------------------------------------14 c.Thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai --------------------------------------------14 d.Gợi y về giải pháp -----------------------------------------------------------------------------------15 1.Cơ sở lý luận về cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối 1.1Cán cân vãng lai: Còn gọi là tài khoản vãng lai, ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập của người lao động, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ có giá, lãi vay và lãi tiền gửi nước ngoài, chuyển giao vãng lai một chiều và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ. Cán cân vãng lai bao gồm: a.Cán cân thương mại Nói lên chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại phản ánh toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá. Hàng hoá được IMF chia thành 5 loại: hàng hoá thông thường; hàng hoá gia công, chế biến; giá trị sửa chữa hàng hoá; hàng hoá cung cấp tại cảng và vàng phi tiền tệ (Vàng tiền tệ: Là vàng thuộc sở hữu của các cơ quan quản lý tiền tệ (hoặc do tổ chức khác sở hữu nhưng đặt dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý tiền tệ) nhằm mục đích dự trữ. Các loại vàng còn lại được gọi là vàng phi tiền tệ). b.Cán cân dịch vụ Là số tiền chi trả thuần tiền lãi và lợi tức cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như số tiền thu và chi từ du lịch quốc tế và các giao dịch khác. Cán cân dịch vụ phản ánh toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ. Trong thống kê cán cân thanh toán quốc tế, IMF phân dịch vụ thành 11 loại lớn, bao gồm: Vận tải; du lịch; dịch vụ bưu điện và đưa tin; dịch vụ xây dựng; dịch vụ bảo hiểm; dịch vụ tài chính; dịch vụ tin học và máy tính; phí bản quyền và cấp giấy phép; dịch vụ kinh doanh khác; dịch vụ văn hoá và giải trí cá nhân; dịch vụ Chính phủ. c.Cán cân thu nhập Thu nhập có được từ nhiều hoạt động khác nhau, nhưng trong thống kê cán cân thanh toán quốc tế, thu nhập được phân thành hai loại: thu nhập từ lao động và thu nhập từ đầu tư. Thu nhập từ lao động (có được do cung cấp sức lao động): Là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại. 1 Thu nhập từ đầu tư (có được do cung cấp vốn): Là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá, cho vay,… d.Kiều hối và các khoản chuyển nhượng khác Chuyển giao vãng lai một chiều: Phản ánh giá trị các khoản cho, tặng (bằng tiền hoặc hiện vật) giữa người cư trú và người không cư trú với mục đích tiêu dùng. Một khoản viện trợ của các tổ chức quốc tế nhằm cứu trợ nhân đạo được phản ánh vào tiểu mục chuyển giao vãng lai một chiều. Nhưng, nếu một khoản viện trợ không hoàn lại gắn với mục đích đầu tư hay là một cấu phần của khoản tài trợ có mục đích đầu tư thì không được phản ánh tại tiểu mục chuyển giao vãng lai một chiều mà được hạch toán vào cán cân vốn và tài chính. e.Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân vãng lai Khi phân tích các yếu tố tác động đến cán cân vãng lai, chúng ta dựa trên nguyên tắc cetaris paribus. Nghĩa là, nghiên cứu tác động của một nhóm nhân tố thì ta cố định các nhân tố khác. Do cán cân tài khoản vãng lai của một quốc gia có thể ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế của quốc gia đó, việc xác định và điều phối các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân vãng lai rất quan trọng. Tuy nhiên, các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất là: Ảnh hưởng của lạm phát. Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch, thì cán cân vãng lai của quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu khác bằng nhau. Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân. Nếu thu nhập của một quốc gia tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của các quốc gia khác, tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái. Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền của các nước khác, tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên mắc hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền của họ mạnh. Kết quả là nhu cầu các hàng hóa đó sẽ giảm. Ảnh hưởng của các biện pháp hạn chế của chính phủ. Nếu chính phủ của một quốc gia đánh thuế trên hàng nhập khẩu, giá của hàng nước ngoài đối với người tiêu dùng tăng trên thực tế. Việc gia tăng áp dụng thuế nhập khẩu nhằm làm tăng tài khoản vãng lai, trừ trường hợp các chính phủ khác trả đũa. 1.2 Dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối nhà nước, thường gọi tắt là dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ, Euro, Yên Nhật, v.v...) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng tiền quốc gia. Các hình thức dự trữ ngoại hối - Tiền mặt - Số dư của tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài - Hối phiếu, trái phiếu hoặc các giấy tờ ghi nợ khác của chính phủ nước ngoài, ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế - Vàng - Các loại ngoại hối khác 2 Tiêu chí đánh giá quy mô dự trữ Có ba tiêu chí chính: - Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và giá trị một tuần nhập khẩu trong năm tiếp theo Nói cách khác, quy mô dự trữ ngoại hối được tính bằng số tuần nhập khẩu. Tiêu chí này cho thấy mức độ hỗ trợ than h toán quốc tế của dự trữ ngoại hối. Theo đánh giá của IM F, dự trữ ngoại hối có quy mô tương đương 12 đến 14 tuần nhập khẩu thì quốc gia sẽ được coi là đủ dự trữ ngoại hối. - Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và nợ ngắn hạn nước ngoài Tiêu chí này cho thấy khả năng đối phó của quốc gia khi có hiện tượng tấn công ngoại tệ hoặc rút tiền ra nước ngoài. - Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và mức cung tiền rộng Tiêu chí này cho thấy khả năng can thiệp tỷ giá hối đoái của ngân hàng trung ương. Tỷ lệ từ 10% đến 20% được coi là đủ dự trữ ngoại hối. Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do tổng của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên. 1.3 Mối quan hệ giữa thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối Về cơ bản cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm 4 thành phần sau: - Tài khoản vãng lai (hay còn gọi là cán cân vãng lai) - Tài khoản vốn (hay còn gọi là cán cân vốn) gồm: Đầu tư trực tiếp (FDI); Vay trung hạn và dài hạn; Vay ngắn hạn; Đầu tư gián tiếp (portfolio investment). - Sai số - Dự trữ ngoại hối Về nguyên tắc, cán cân thanh toán luôn phải luôn ở trong trạng thái cân bằng. Nếu ở đâu đó có nhắc tới thặng dư cán cân thanh toán, thì đó là nhắc tới chênh lệch giữa Tài khoản vãng lai và Tài khoản vốn (hạng mục sai số, thường nhỏ). Và nếu có thặng dư giữa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn thì lúc đó vai trò của dự trữ ngoại hối sẽ phát huy tác dụng. Nếu Tài khoản vãng lai bị thâm hụt, và số dư trên Tài khoản vốn không đủ để đáp ứng cho thâm hụt tài khoản vãng lai, thì nhà nước phải sử dụng tới nguồn dự trữ ngoại hối. Trong cán cân thanh toán, khi nhà nước sử dụng Dự trữ ngoại hối. Mặc dù điều này làm giảm dự trữ ngoại hối, nhưng bút toán trên cán cân thanh toán sẽ mang dấu dương, do đây là nguồn tiền từ dự trữ ngoại hối đưa vào cán cân thanh toán. Ngược lại, khi tài khoản vãng lai có thặng dư lớn, làm tăng dự trữ ngoại hối, thì bút toán trên cán cân thanh toán sẽ mang dấu âm (do tiền được rút ra khỏi cán cân thanh toán và đưa vào dự trữ ngoại hối). 2.Thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối của Việt Nam 2.1 Tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam Việt Nam là một nước nhập siêu truyền thống. Trừ năm 1992 có mức xuất siêu 40 triệu USD; thì Việt Nam chưa bao giờ có xuất siêu, mức nhập siêu ngày càng tăng, và tăng rất nhanh từ năm 2002 đến nay. Riêng năm 2008, mức nhập siêu tăng đột biến. 3 T ỷ U S D Tình hình nhập siêu của Việt Nam từ 1996 đến 2009 20 18 16 14 12 10 8 6 4 2 0 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 07 08 09 Đáng chú ý là, trong lúc Việt Nam nhập siêu, hầu hết các nước trong khu vực đang xuất siêu, thậm chí xuất siêu lớn. Vì cán cân thương mại (xuất nhập khẩu) là thành phần chính của tài khoản vãng lai nên với tình hình nhập siêu như trên đã khiến cho tài khoản vãng lai của Việt Nam có mức thâm hụt cao trong khi các nước khác trong khu vực lại có thặng dư. Hình 1 là biểu đồ tình hình tài khoản vãng lai của các nước trong khu vực châu Á. Ngoại trừ Ấn độ là cũng có thâm hụt tài khoản vãng lai, Việt Nam là nước duy nhất trong khối ASEAN có thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng kể cả so với Ấn độ, thì về mặt tương đối mức độ thâm hụt của Việt Nam là quá lớn, lên tới khoảng 10% của GDP so với khoảng 2% của Ấn độ. So với các nước láng giềng trong khu vực như Thái Lan, Phillipine, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, thì tình hình tài khoản vãng lai của Việt Nam là rất đáng lo ngại. Hầu hết các nước trong khu vực đều có thặng dư tài khoản vãng lai, trong khi đó Việt Nam lại thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo số liệu của báo cáo của Meril Lynch cho thấy, tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP, thì các nước đều có tỷ lệ thặng dư trên GDP khá lớn, Thái Lan là hơn 5% và Malaysia là hơn 10%. Bức tranh ở Việt Nam lại hoàn toàn ngược lại, mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam trong năm 2007 lên tới gần 10%. Hình 1. Tài khoản vãng lai của các nước khu vực châu Á (% của GDP) năm 2007 Có thể nói trong điều kiện một nền kinh tế mở, việc xuất hiện tình trạng thâm hụt hay thặng dư hoàn toàn là điều bình thường. Với Việt Nam là một nước có tốc độ tăng trưởng cao, ở giai đoạn đầu của phát triển, thâm hụt tài khoản vãng lai là điều hết sức bình thường, và nhiều khi là cần thiết để có thể tận dụng được nguồn vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nếu con số thâm hụt chỉ ở mức vừa phải (thông thường là dưới 5%), thì không đáng lo ngại. Nhưng khi thâm hụt tài khoản vãng lai vượt ngưỡng này sẽ gây ra rủi ro 4 cho nền kinh tế. Nếu so với Thái Lan trước khủng hoảng, thâm hụt tài khoản vãng lai của nước này vào năm 1995-1996 là khoảng 8%. Hình 2. Tài khoản vãng lai các thị trường mới nổi năm 2007 (% của GDP) Nguồn: Báo cáo của Merrill Lynch Hình 3. Thâm hụt thương mại của Việt Nam theo tháng Đơn vị: Tỷ USD Nguồn: Báo cáo của HSBC Hình 2 là biểu đồ so sánh Việt nam với những nước được coi là những nền kinh tế mới nổi. Việt Nam không phải là nước duy nhất bị thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng ở mức độ so sánh tương đối thì Việt Nam vượt xa các nước khác về mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai. Những tháng đầu năm 2008, tình hình trở nên khá nghiêm trọng, khi nhập khẩu tăng đột biến. Hình 3, cho thấy con số nhập siêu của Việt Nam xấu đi nghiêm trọng theo từng tháng. Rõ ràng là, với tình hình nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như vậy, việc các báo trong và ngoài nước, cũng như các tổ chức nước ngoài bày tỏ quan ngại về nền kinh tế VN là không phải không có căn cứ. Thâm hụt tài khoản vãng lai tốt hay xấu? Trước khi chuyển sang phần đánh giá khả năng ảnh hưởng của thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, chúng ta cần phải trả lời một câu hỏi là: Nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai tốt hay xấu? Đã có nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề nhập siêu. Có thể tóm tắt là: nhập siêu tự nó không tốt cũng không xấu. Thâm hụt tài khoản vãng lai chỉ xấu khi thâm hụt quá lớn và dẫn tới khủng hoảng cán cân thanh toán, mất giá đồng tiền. “Xấu” và “tốt” của nhập siêu tùy thuộc vào nội dung nội tại của nhập siêu cũng như những bối cảnh cụ thể, chính sách cụ thể, tình hình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô cụ thể. Vì vậy, cần phân tích những nguyên nhân xác thực của 5 nhập siêu để có kết luận thỏa đáng và từ đó, nếu thấy cần thiết thì tìm giải pháp cho những tình huống cụ thể. Tuy nhiên, dường như có một quan niệm phổ biến (không chỉ ở Việt Nam) là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai là không tốt và thể hiện một nền kinh tế yếu kém và ngược lại xuất siêu và có thặng dư trên tài khoản vãng lai, thì quan niệm này cho rằng thặng dư thương mại là điều tốt và thể hiện một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt. Mặc dù trong một số ít trường hợp, quan niệm như trên không phải là không đúng, nhưng theo lý thuyết kinh tế thì không hẳn là như vậy. Trong nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một nền kinh tế đang tăng trưởng tốt. Khi một nền kinh tế có tiềm năng tăng trưởng tốt, có nhiều cơ hội đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm trong nước, điều này sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó để đáp ứng nhu cầu đầu tư, được sử dụng cho phát triển nền kinh tế trong nước. Và trong nhiều trường hợp khác, thì sự mất cân bằng của cán cân thương mại (thặng dự hay thâm hụt) chẳng phải là một dấu hiệu nghiêm trọng nào. Tức là một quốc gia có thể sử dụng nguồn lực của nước khác để phát triển kinh tế trong nước. Một ví dụ điển hình là tài khoản vãng lai của nền kinh tế Hoa Kỳ luôn ở trong tình trạng thâm hụt trong những năm gần đây. Điều này không thể hiện Hoa Kỳ là một nền kinh tế yếu kém. Ngược lại, một tài khoản vãng lai có thặng dư lại có thể là dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế, dòng vốn trong nước chảy ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn. Tức là nguồn lực không được sử dụng cho phát triển nền kinh tế trong nước. Và trong nhiều trường hợp khác, thì sự mất cân bằng của cán cân thương mại (thặng dự hay thâm hụt) chẳng phải là một dấu hiệu nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thì thâm hụt thương mại (nhập siêu) và hệ quả là thâm hụt tài khoản vãng lai thực sự gây ra nhiều vấn đề cho một số nước. Nhiều nước đã lâm vào khủng hoảng (khủng hoảng nợ, khủng hoảng đồng tiền) sau khi có mức thâm hụt thương mại lớn, thường xuyên và lâu dài. Điển hình là cuộc khủng hoảng Châu Á những năm 1997-1998. 2.2 Nguy cơ khủng hoảng của thâm hụt tài khoản vãng lai Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai thường được hiểu là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, và tiêu dùng trong nước nhiều hơn khả năng sản xuất. Làm thế nào để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai? Tương tự như ở một hộ gia đình, để có thể tiêu dùng nhiều hơn thu nhập, một gia đình sẽ có hai cách để có tiền trang trải cho tiêu dùng cao hơn thu nhập của mình. Đó là: (i) đi vay; và (ii) bán tài sản. Ở cấp quốc gia, khi có thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, thì để có tiền (ngoại tệ) trả cho các khoản nhập khẩu và thâm hụt này, cần có dòng vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA). Nên thông thường, thâm hụt thương mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng dư trên tài khoản vốn. Nếu không có thặng dư trên tài khoản vốn (tương tự như cấp ở hộ gia đình là không vay đủ tiền), thì nước nhập siêu buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho các nhu cầu NK của mình (bán tài sản). Nếu dự trữ ngoại hối không đủ đáp ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng tiền buộc phải mất giá. 6 Hình 4. Tài khoản vãng lai và tài khoản vốn của Việt Nam trong những năm qua Đơn vị: Triệu USD Nguồn: Barclays Capital. Con số của năm 2007 là số ước lượng, còn số của năm 2008 là số dự kiến Như Hình số 4 cho thấy, không phải đến năm 2007 Việt Nam mới nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng đến năm 2007 thì tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai tăng mạnh, và trong năm 2008 thâm hụt còn lớn hơn nữa. Cũng theo Hình số 4, trước năm 2008, mặc dù Việt Nam liên tục bị thâm hụt tài khoản vãng lai, nhưng trong cán cân thanh toán, tài khoản vốn luôn có thặng dư. Trong trường hợp của Việt Nam trong năm 2007, mặc dù tài khoản vãng lai thâm hụt lớn, nhưng do triển vọng của nền kinh tế được nhận định là tốt nên tài khoản vốn lại thặng dư do các nguồn như đầu tư trực tiếp (FDI) đạt 6,5 tỷ USD, viện trợ chính thức (ODA) đạt 1,6 tỷ USD, đầu tư gián tiếp (Portfolio investment) đạt 6,2 tỷ USD, và kiều hối đạt hơn 6 tỷ USD. So với năm 2007, nền kinh tế trong năm 2008 không còn được đánh giá là tốt như năm 2007, do một loạt các vấn đề như lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán đi xuống. Cụ thể là Quốc hội đã phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng từ mức 8,5-9% xuống còn mức 7% trong năm 2008. Điều này làm dấy lên mối lo ngại là với mức nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như hiện nay, nếu nguồn vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam bao gồm ODA, FDI, kiều hối, đầu tư gián tiếp không đủ để đáp ứng khoản thâm hụt, hoặc tệ hơn nữa dòng vốn “nóng” ngắn hạn lại có thể chảy ra ngoài, thì có thể tạo ra áp lực đối với đồng tiền Việt Nam, dẫn tới mất giá đồng tiền, khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng kinh tế. Về cơ bản thâm hụt tài khoản vãng lai có thể được hiểu là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho chính phủ và người tiêu dùng của một nước khác vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức. Thông thường điều này sẽ không có vấn đề gì nếu như khoản thâm hụt nhỏ. Nhưng nếu khoản thâm hụt này là lớn, đến một mức độ hoặc đến một thời điểm nào đó, các nhà đầu tư sẽ mất lòng tin vào việc là họ sẽ thu lại được khoản đầu tư/ khoản đã cho vay, và khi đã mất lòng tin, rất có thể sẽ xảy ra đổ vỡ, do tất cả các nhà đầu tư sẽ bán tháo và tìm cách rút tiền ra để tránh mất thêm tiền. Tuy nhiên, không ai có thể dự đoán được một cách chính xác là khi nào thì lòng tin sẽ bị khủng hoảng! Trong điều kiện của Việt Nam, có hàng loạt các báo cáo của nước ngoài đưa ra các cảnh báo về mức độ nghiêm trọng của mức độ thâm hụt của tài khoản vãng lai của Việt Nam. Điều này có nghĩa là gì? Ở một mức độ nào đó, so với các nước khác thì mức thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam là quá lớn, và ở một khía cạnh khác, Chính phủ cần có những biện pháp để cải thiện tài khoản vãng lai, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư. 7 2.3 Cán cân thanh toán và dự trữ ngoại hối Việt Nam a) Cán cân thanh toán của Việ t Nam Cán cân vãng lai của Việt Nam hiện nay đã chuyển từ thặng dư nhỏ ở mức 1.2 tỷ đôla Mỹ trong 2009 sang thâm hụt khá lớn ở mức 9.2 tỷ đôla Mỹ trong năm 2008. Mặc dù cán cân vãng lai hình thành xu hướng đi xuống rất rõ nhưng giá trị có biến động rất lớn, trong đó đột biến xảy ra trong thời gian khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 (xem hình 5). Đáng chú ý là kể từ những năm 80 thì Hoa Kỳ luôn ghi nhận thâm hụt lớn còn EU thì có sự biến động mang tính chu kỳ xung qunh mức 0 của cán cân vãng lai. Tính chất biến động lớn của cán cân vãng lai ở Việt Nam về cơ bản giống các nước ASEAN 5 trước khủng hoảng châu Á, tuy nhiên ASEAN 5 đẽ giải quyết được vấn đề này kể từ Khủng hoảng tài chính Châu Á và duy trì thặng dư. Việc chuyển từ thâm hụt sang thặng dư thực ra là kết quả của quá trình các nước này dịch chuyển dần từ mức giá trị gia tăng cao hơn trong công nghiệp sản xuất và chế tạo và đạt được cải thiện đáng kể về năng suất lao động. Việt Nam thì năm nào cũng thâm hụt kể từ thập kỷ 1980, chỉ trừ 3 năm nền kinh tế Đông Nam Á đi xuống nghiêm trọng ( 1999-2001). Hình 5:Diễn biến tài khoản vãng lai của Việt Nam và một số nước giai đoạn 1980-2014 Cán cân tài khoản vãng lai chủ yếu bao gồm cán cân thương mại hàng hóa (thâm hụt 12.3 tỷ đôla M ỹ năm 2008) và cán cân chuyển khoản (7,3 tỷ đôla Mỹ), còn dịch vụ và thu nhập thì tương đối nhỏ trong tổng cán cân vãng lai (mức tương ứng là 2,3 tỷ đôla Mỹ và 2,0 tỷ đôla Mỹ) (xem hình 6). Chuyển khoản giảm mạnh trong năm 2008, một phần là do khủng hoảng tài chính toàn cầu, làm cho kiều hối giảm xuống. Cán cân thu nhập phản ánh việc chuyển lợi nhuận từ hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và thông thường mục này ở trạng thái thâm hụt, mặc dù mức thâm hụt này đang tăng lên do tổng lượng vớn đầu tư vào Việt Nam tăng lên qua các năm. Cán cân thương mại dịch vụ gắn kết chặt chẽ với cán cân thương mại hàng hóa chủ yếu do các dịch vụ được thống kê bao gồm vận tải và bảo hiểm, mặc dù các dịch vụ khác như du lịch và dịch vụ tài chính cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Thương mại hàng hóa là nhân tố chính đóng góp vào thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, ở mức 12.3 tỷ đôla M ỹ trong năm 2008. 8 Hình 6: Diễn biến các cấu phần tài khoản vãng lai, 2000-09 Tài khoản vốn ở Việt Nam thông thường có mức thặng dư nhờ luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào khá lớn, đạt đỉnh là 7,8 tỷ đôla trong năm 2008. Do đầu tư trên thế giới nói chung đều giảm, FDI dự kiến chỉ đạt được ½ mức nói trên trong năm 2009 (xem biều đồ 7). Việt Nam tiếp cận với vốn vay nợ ngắn hạn, dưới hình thức đầu tư gián tiếp, có xu hướng tăng lên (mặc dù biến động khá lớn). Tuy nhiên, dự báo cả năm tài khoản tài chính sẽ thặng dư mặc dù tài khoản vãng lai thì vẫn lớn hơn khoản thặng dư này, dự trữ sẽ giảm đi 2,3 tỷ đôla Mỹ trong năm 2009 (xem bảng 1). Hình 7: Diễn biến tài khoản vốn của Việt Nam Mặc dù dự trữ giảm xuống, tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn không bị coi là trầm trọng bởi 1 số lý do. Thứ nhất, nghĩa vụ nợ ngắn hạn của Việt Nam có thể được thực hiện. Mức dự trữ hiện nay cao hơn so với nhiều năm trước đây đồng thời nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn tương đối nhỏ, vì vậy xét về ngắn và trung hạn nhu cầu đối với dự trữ quốc tế không lớn. Dự trữ hiện nay lớn hơn so với giai đoạn 2002 – 2006 (Xem hình 8), đủ lớn để đảm bảo thanh toán 3 tháng nhập khẩu của năm kế tiếp. Mất cân đối thương mại của Việt Nam cũng đang có những dấu hiệu được cải thiện trong năm 2009. Hình 8: Diễn biến dự trữ quốc tế của Việt Nam, 2000-09 9 10 b) Dự trữ ngoạ i hối của Việ t Nam Theo báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 và nhiệm vụ năm 2010, dự trữ ngoại hối của Việt nam hiện duy trì ở mức đảm bảo tương đương với 12 tuần nhập khẩu. Cụ thể, hiện dự trữ ngoại tệ của Việt Nam là khoảng hơn 16 nghìn tỷ USD trong khi con số chính thức được công bố tại thời điểm tháng 6/2008 là gần 21 nghìn tỷ USD. Giảm tới 23.5%. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm 2000 là khoảng hơn 2 tỷ USD, và đã lên tới 12 tỉ USD năm 2006. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vào tháng 06/2008 là 20,7 tỉ USD. Theo quy định thì con số này không được cung cấp, nhưng Thống đốc NHNN đã xin phép và được Thủ tướng chấp thuận cho công bố. Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, dự trữ ngoại hối giảm được đánh giá là một hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2009. Báo cáo của Chính phủ cũng đánh giá rằng, trong thời gian qua, “việc điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối chưa thật linh hoạt, dẫn đến tình trạng găm giữ đồng USD, gây căng thẳng không đáng có và cán cân thanh toán tổng thể đã bị thâm hụt, trong khi nguồn ngoại tệ của đất nước vẫn khá dồi dào”. 11 Theo ông Benedict Bingham, đại diện thường trú cao cấp của Quĩ Tiền Tệ Quốc tế tại Hà Nội, nếu so sánh với các nước trong khu vực châu Á, lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam thấp hơn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philippines, Nam Triều Tiên, Đài Loan và Thái Lan. Theo ANZ, lý do chính của hiện tượng này là thâm hụt thương mại của Việt Nam vẫn đang tồi đi khi nhập khẩu tăng mạnh hơn xuất khẩu. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư tài chính (FPI) vẫn hết sức ảm đạm. 2.4 Nguyên nhân và giải pháp đối với thâm hụt tài khoản vãng lai Thông qua những phân tích về tình hình thâm hụt cán cân vãng lai tại Việt Nam qua các giai đoạn ta có thể rút ra nhận xét về nguy cơ của khủng hoảng cán cân thanh toán và khủng hoảng đồng tiền Việt Nam mặc dù nhỏ, nhưng thật sự không phải là không thể xảy ra. Để có thể đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện thâm hụt tài khoản vãng lai chúng ta có thể sử dụng một số đẳng thức căn bản trong kinh tế học vĩ mô để xác định nguyên nhân, đồng thời cũng đưa ra một số suy nghĩ về giải pháp hạn chế nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo lý thuyết kinh tế, thâm hụt tài khoản vãng lai là do sự mất cân đối giữa đầu tư và tiết kiệm. Chúng ta sử dụng một đẳng thức cơ bản trong kinh tế học nói lên quan hệ giữa tài khoản vãng lai, mức tiết kiệm và đầu tư như sau CA = S – I (1) Trong đó CA là mức thâm hụt/thặng dư của tài khoản vãng lai, S là mức tiết kiệm trong nền kinh tế và I là đầu tư. Theo đẳng thức này, vấn đề của thâm hụt Tài khoản vãng lai không nằm ở chính sách thương mại, mà có nguồn gốc ở các vấn đề kinh tế vĩ mô. a. Đầu tư tăng cao? Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai là do nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân tăng cao hơn mức tiết kiệm trong nền kinh tế. Nhưng nếu thâm hụt là do nhu cầu đầu tư vào sản xuất tăng cao thì không phải là vấn đề nghiêm trọng, vì khi đầu tư nhiều vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất, thì trong tương lai năng suất sẽ cao hơn, sản xuất nhiều hơn, và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, nếu nhu cầu đầu tư tăng cao là vào khu vực bất động sản thì đáng lo ngại, vì khu vực này thường không làm tăng năng suất cũng như tạo ra các sản phẩm có thể được dùng để trả nợ. Những nguyên nhân dẫn tới đầu tư tăng cao - Chính sách tiền tệ: M ột trong những nguyên nhân có liên quan đến đầu tư tăng cao là chính sách tiền tệ nơi lỏng của Việt Nam trong thời gian qua. Khi thực hiện chính sách tiền tệ nơi lỏng sẽ dẫn tới tăng đầu tư trong nước và ảnh hưởng thông qua tác động tỷ giá. Khi ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng đã tạo nên áp lực giảm giá đồng tiền nội tệ so với đồng tiền của nước khác nhưng với tỷ giá không được tự do thay đổi (tỷ giá cố định), thì đồng tiền nội tệ về bản chất là đã lên giá. Việc duy trì một đồng tiền nội tệ như vậy sẽ làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong suốt một thời gian dài Việt Nam đã duy trì tỉ giá cố định gắn vào đồng USD. Khi lạm phát thấp đây làm một chính sách hợp lý để làm tăng khả năng xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2006, và đặc biệt là năm 2007, lượng vốn đầu tư chảy vào Việt nam tăng đột biến, làm cho đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác. Để duy trì tính cạnh tranh về giá của hàng XK, Ngân hàng Nhà nước đã tung một lượng tiền lớn ra để mua USD, dẫn tới một lượng cung tiền rất lớn trong hệ thống thanh toán của Việt Nam, điều này đã làm cho lạm phát tăng rất cao. Tác động của lạm phát có tác dụng làm đồng tiền mất giá, nhưng việc duy trì tỷ giá cố định đã làm cho hàng VN mất tính cạnh tranh (trở nên đắt hơn) và hàng NK trở nên rẻ hơn. Đây cũng chính là một nguyên nhân của tình trạng nhập siêu 12 và thâm hụt tài khoản vãng lai. Trong tương lai gần, cần điều chỉnh tỷ giá để đảm bảo mức thâm hụt tài khoản vãng lai chấp nhận được - Tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán: Trong năm 2006 và 2007 đã chứng kiến hàng loạt các công ty thực hiện cổ phần hóa, lên sàn, phát hành thêm cổ phiếu. Bản chất của các hoạt động này, kể cả việc thực hiện cổ phẩn hóa (không chỉ của các công ty nhà nước) là các hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp để tăng đầu tư. Hệ quả tất yếu của việc tăng đầu tư là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư tăng vọt của các doanh nghiệp Việt Nam, một lượng lớn vốn đầu tư gián tiếp đã chảy vào Việt Nam (Xem hình số 9). Một vấn đề khác liên quan đến tăng trưởng của thị trường chứng khoán là nguồn vốn đầu tư gián tiếp ngắn hạn chảy vào Việt Nam do chênh lệch lãi suất của trái phiếu Chính phủ VN với trái phiếu Chính phủ của các nước khác. Luồng tiền đầu tư gián tiếp chảy vào Việt Nam, có tác dụng gián tiếp làm cho nhu cầu đầu tư và tiêu dùng tăng lên. Hình 9: Nguồn vốn đầu tư gián tiếp Nguồn: Báo cáo của Merril Lynch Giải pháp để giảm đầu tư Thông qua những phân tích trên ta có thể đưa ra một giải pháp để giãm thâm hụt tài khoản vãng lai là làm giảm nhu cầu đầu tư trong nước với hiện trạng nền kinh tế phát triển quá nóng. Để giảm nhu cầu đầu tư chúng ta có thể thực hiện bằng cách tăng lãi suất. Trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh mức lãi suất cơ bản từ mức 8,75 lên mức 12%, và sau đó lên mức 14%. Việc này làm cho mức lãi suất thể hiện đúng với điều kiện của thị trường, vừa cho phép các NH nâng lãi suất để hạn chế đầu tư. Cùng với việc tăng lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước dường như đã và đang thưc hiện chính sách thu hẹp tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng. Ngoài tác động làm hạn chế lạm phát, biện pháp này sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư và sẽ hạn chế được thâm hụt tài khoản vãng lai. b. Mức tiết kiệm thấp Để làm rõ mối quan hệ giữa tiết kiệm và thâm hụt tài khoản vãng lai chúng ta phân tách mức tiết kiệm trong nước thành tiết kiệm của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước như sau CA = Sp + Sg – I (2) Trong đó Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân (thu nhập trừ đi tiêu dùng và nộp thuế cho chính phủ); Sg là tiết kiệm của khu vực chính phủ. Theo đẳng thức này, nếu như các yếu tố khác như Sg và I mà không thay đổi, thì tài khoản vãng lai sẽ thâm hụt nếu như mức tiết kiệm trong nước của khu vực tư nhân giảm đi. Nhìn chung ở giai đoạn mới bắt đầu phát triển, các nước đang phát triển thường có mức tiết kiệm khá thấp so với nhu cầu đầu tư trong nước, Việt Nam cũng không tránh khỏi tình trạng này và còn trở nên thấp hơn nữa do mức tiêu dùng tăng cao đột biến. Trong năm 2006 và 2007, có nhiều nguyên nhân dẫn tới có sự thay đổi lớn trong mức tiêu dùng của người dân Việt Nam như hiệu ứng tăng tài sản, do sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản của Việt Nam và kéo theo một lượng vốn đầu tư gián tiếp lớn ở mức kỷ lục đã chảy vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Về ngắn hạn, dòng tiền này làm cho người dân giầu có hơn, dẫn đến việc tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm. Tương tự như thị trường chứng khoán, giá bất động sản tăng trưởng mạnh làm cho khu vực dân chúng trở nên giầu có hơn, và cũng làm cho mức tiết kiệm suy giảm. Ngoài hai yếu tố trên, trong những năm qua, với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các sản phẩm tài chính mới đã làm các khoản tín dụng tiêu dùng, làm cho mức tiết kiệm thấp đi. Để khắc phục tình trạng chính phủ đã đưa ra có biện pháp tăng cường tiết kiệm, hạn chế lãng phí. Cùng với việc thắt chặt tiền tệ và tăng lãi suất như hiện nay, các khoản tín dụng tiêu dùng chắc chắn cũng sẽ bị giảm bớt. c. Thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai chính là thâm hụt ngân sách nhà nước. Một trong những nguy cơ gây ra khủng hoảng kinh tế, đó là vấn đề thâm hụt kép: Vừa thâm hụt tài khoản vãng lai lớn, lại vừa thâm hụt ngân sách chính phủ cũng lớn. Hiện nay, theo các báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), dường như Việt Nam đang gặp phải vấn đề thâm hụt kép. Để thấy được mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai, ta viết lại đẳng thức số 2 ở trên như sau: CA = Sp + Sg – I = (Y – T – C) + (T – G) – I (3) trong đó S là tiết kiệm của khu vực tư nhân, Sg chính là chênh lệch giữa thu ngân sách (T) và chi tiêu của chính phủ (G). Con số chênh lệch giữa thu (T) và chi ngân sách (G) chính là thâm hụt ngân sách. Từ đẳng thức trên, ta thấy việc tăng tiết kiệm của khu vực tư nhân sẽ cải thiện tài khoản vãng lai. Việc tăng đầu tư hay tăng thâm hụt ngân sách sẽ dẫn tới thâm hụt tài khoản vãng lai. Để giảm được thâm hụt ngân sách (T-G), thì chúng ta có thể (i) giảm chi tiêu của chính phủ; và (ii) tăng thu ngân sách. Hiện nay chính phủ VN đang có chương trình tăng thu ngân sách thông qua việc tăng cường hiệu quả thu ngân sách của ngành thuế. Tuy nhiên, đây là biện pháp dài hạn, còn về ngắn hạn, để giảm được thâm hụt ngân sách thì điều hiển nhiên là phải cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Theo con số chính thức, thì thâm hụt ngân sách của VN hiện đang ở mức 5%. Hình số 10 cho thấy mức thâm hụt ngân sách tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP của các nước mới phát triển trong đó có Việt Nam. 14 Hình 10 : Tình hình ngân sách của các nước đang phát triển trong năm 2007 Nguồn: Báo cáo của M erril Lynch Nguyên nhân thâm hụt ngân sách: Chính sách tài khóa không nhất quán: Theo Jonathan Pincus1, hiện tại Việt Nam không có một chính sách tài khóa nhất quán. Và đáng lo ngại hơn, đó là chính phủ VN hiện không nắm được mức chi! Cũng theo Pincus, việc tốt nhất để giải quyết vấn đề nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai chính là giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách (bội chi ngân sách). Đầu tư tràn lan, không hiệu quả: Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng hơn 7% một năm, một mức tăng trưởng được thế giới đánh giá cao.. Để đạt được mức tăng trưởng này, đòi hỏi phải tăng cường đầu tư (của cả khu vực tư nhân và chính phủ). Tuy nhiên, một khó khăn rất lớn mà Việt Nam đang gặp phải, đó chính là hiệu quả đầu tư thấp. Điều này thể hiện qua hệ số ICOR của Việt Nam rất cao so với các nước trong khu vực, với hệ số ICOR cao (hiệu quả đầu tư thấp). M ặc dù mức đầu tư của khu vực nhà nước là lớn chiếm tới 50% tổng đầu tư toàn xã hội, nhưng lại kém hiệu quả hơn đầu tư của khu vực tư nhân. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai là do mong muốn đạt mức tăng trưởng trong khi hiệu quả của việc đầu tư lại thấp. Giải pháp Chính phủ đang thực hiện gói chính sách gồm 8 điểm để cân bằng kinh tế vĩ mô, trong đó có biện pháp “cắt giảm đầu tư công, và chi phí thường xuyên của các có quan sử dụng ngân sách nhà nước, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách”. Đây là một chính sách rất đúng đắn, và cần phải thực hiện càng nhanh các biện pháp này càng tốt tuy nhiên thực hiện cắt giảm chi tiêu công, và đầu tư công ở đây không có nghĩa là không thực hiện dự án đó nữa, mà tạm thời dừng các dự án đầu tư công này lại cho tới khi kinh tế vĩ mô ổn định hơn. Ngoài việc cắt giảm đầu tư công, cần tăng cường kiểm soát đầu tư tràn lan của các doanh nghiệp nhà nước. Nên đối xử với DNNN như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, không nên cho các DNNN được hưởng lãi suất ưu đãi. d. Gợi ý về giải pháp Trong báo cáo của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, ngày 31/5/2008, ngoài việc nhận định rằng vấn đề nhập siêu của năm 2008 là “ngoài nguyên nhân do giá nhập khẩu tăng, nhiều mặt 15 hàng nhập khẩu với số lượng lớn và đề ra các giải pháp của Chính phủ để hạn chế nhập siêu bao gồm những điểm sau: 1. Đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, trong đó cố gắng đẩy mạnh tăng trưởng XK đạt 26% (so với kế hoạch là 20-22%). 2. Chính sách tài chính và tiền tệ làm giảm cầu trong một số lĩnh vực 3. Sử dụng thuế (XNK), hàng rào kỹ thuật để hạn chế N K những mặt hàng không thiết yếu 4. Sản xuất và sử dụng những mặt hàng thay thế NK 5. Chống thất thoát, triệt để tiết kiệm Trong số các biện pháp mà Chính phủ đưa ra, có những biện pháp liên quan tới việc sử dụng các công cụ của chính sách thương mại như sử dụng thuế quan (biện pháp 1), hàng rào phi quan thuế (biện pháp 3), đồng thời tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu (biện pháp 1). Đây là những biện pháp vẫn hay được đề cập tới. Tuy nhiên tính hiệu quả của những biện pháp này là khá khó xác định. Vấn đề nằm ở chỗ có sự mất cân đối giữa tăng trưởng nhu cầu của Việt Nam (nhu cầu nhập khẩu hàng ngoại) với tăng trưởng nhu cầu của các nước khác (nhu cầu nhập khẩu của các nước đối với hàng VN). Qua phân tích ở phần trên, ta có thể thấy Chính phủ nên bổ sung thêm một số biện pháp nữa, nhằm trực tiếp tác động tới nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Các biện pháp đó là: d1. Các biện pháp ngắn hạn: 1. Giảm thâm hụt thương mại thông qua hạn chế nhu cầu đầu tư và tiêu dùng: + Tăng lãi suất + Thắt chặt tín dụng 2. Giảm thâm hụt ngân sách thông qua cắt giảm chi tiêu, đầu tư công: + Cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu công + Ngừng ngắn hạn các khoản đầu tư công (áp dụng trên cơ sở thận trọng) + Kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước 3. Tìm kiếm thêm các dòng vốn khả dĩ bù đắp trong ngắn hạn: + Tăng cường ODA + Đẩy mạnh thu hút FDI (trên cơ sở thận trọng nhằm tránh nguy cơ tiếp nhận FDI chất lượng kém để lại tác động tiêu cực dài hạn), đồng thời cải thiện tốc độ giải ngân thực hiện các dự án đã cấp phép. + Tạo thuận lợi thu hút kiều hối + Hợp tác chặt chẽ với các định chế tài chính quốc tế truyền thống : IMF, WB + Kêu gọi, xây dựng, triển khai Quỹ dự phòng bình ổn trong ASEAN – Đông Á (các nước cũng rất e ngại tác động dây chuyền từ đổ vỡ của bất kỳ thành viên nào trong khu vực) 4. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái + Tiếp tục thắt chặt tiền tệ + Cho phép đồng Việt Nam được biến động linh hoạt hơn. d2. Các biện pháp dài hạn 1. Tăng hiệu quả đầu tư của cả khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh lẫn DNNN. Cải thiện chỉ số ICOR. 2. Xây dựng sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp 3. Giảm thâm hụt ngân sách thông qua cắt giảm chi tiêu, đầu tư công: Đặt mục tiêu cắt giảm thâm hụt ngân sách thành chiến lược dài hạn . 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo Thâm hụt thương mại của Việt Nam và các điều khoản về cán cân thanh toán của WTO, Dự án hỗ trợ thương mại đa biên, 2009 2. Thâm hụt tài khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp, Trung tâm phân tích dự báo, 2008 3. Kinh nghiệm quản lý dự trữ ngoại hối một số nước và một số đề xuất với Việt Nam, Nguyễn Thị Nhung, 2008 4. Sách tài chính quốc tế, PGS.TS Trần Ngọc Thơ, 2007 5. Một số website tham khảo khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_2_tham_hut_can_can_vang_lai_va_du_tru_ngoai_hoi_cua_vn_0084.pdf
Luận văn liên quan