Thẩm quyền tư vấn của ICJ và quyền can thiệp của bên thú 3 theo quy chế của ICJ

Chính phủ cộng hoà Philipine yêu cầu Toà công lý quốc tế tính hợp pháp của đơn cho phép can thiệp vào biên bảo hộ giữa Chính phủ cộng hoà Indonesia và Malaysia và thừa nhận điều tương tự khi tham gia xem xét biên bản của hai bên theo điều 85 luật quôc tế. Chính phủcộng hoà Philipine bảo lưu quyền thoảthuận và phản đối bổ sung và khi thủ tục của toà được đưa ra như vậy. Vì mục đích nay, chính phủ Philipne tự nguyện tôn trọng bất cứ giới hạn ấn định thời gian nào của toà để đảm bảo sắp xếp nhanh gọn trong việc đưa đơn này.

pdf21 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2521 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thẩm quyền tư vấn của ICJ và quyền can thiệp của bên thú 3 theo quy chế của ICJ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BÀI TẬP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NHÓM 2 THẨM QUYỀN TƯ VẤN CỦA ICJ VÀ QUYỀN CAN THIỆP CỦA BÊN THÚ 3 THEO QUY CHẾ CỦA ICJ Các thành viên thực hiện: Phạm Hiền Trang H33( nhóm trưởng) Nguyễn Hồng Vân H33 Lê Thị Hải Ninh H33 Trần Thị Thùy Vy D33 Nguyễn Thanh Hoa H33 2 I) QUYỀN TƯ VẤN CỦA ICJ 1) CHỦ THỂ YÊU CẦU TƯ VẤN Chỉ những quốc gia mới được xuất hiện trước tòa với tư cách là 1 bên của vụ tranh chấp, các tổ chức quốc tế bao gồm những tổ chức quốc tế công khai và những tổ chức chính phủ cũng ko có tư cách này. Tuy nhiên quyền tư vấn của tòa ICJ thì có hiệu lực đối với cả những tổ chức này. Theo điều 65: Article 65 1. The Court may give an advisory opinion on any legal question at the request of whatever body may be authorized by or in accordance with the Charter of the United Nations to make such a request. 2. Questions upon which the advisory opinion of the Court is asked shall be laid before the Court by means of a written request containing an exact statement of the question upon which an opinion is required, and accompanied by all documents likely to throw light upon the question. Theo khoản 1 điều 65 quy định:tòa án có thể có những kết luận tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kì lúc nào theo yêu cầu của 1 cơ quan bất kì được chính hiến chương liên hợp quốc hoặc theo đúng bản quy chế này, cho toàn quyền được yêu cầu. Như vậy chủ thể yêu cầu tư vấn ở đây có thể là các cơ quan của LHQ, hoặc các tổ chức quốc tế, nhưng không thể là các quốc gia. 2) VẤN ĐỀ YÊU CẦU TƯ VẤN Chủ thể yêu cầu tư vấn có thể đưa ra vấn đề. Nhưng những vấn đề này chỉ được tòa đồng ý tư vấn nếu vấn đề đó nằm trong phạm vi hoạt động của chủ thể yêu cầu tư vấn. Từ 1946 ICJ đã đưa ra 24 ý kiến tư vấn liên quan đến việc kết nạp các thành viên của LHQ, bồi thường cho những tổn thất, những vi phạm quyền lợi trong các ban các vụ của LHQ, mối quan hệ pháp lý giữa miền nam tây phi ( namibia) và miền tây sahara, những phán quyết được đưa ra bởi tòa án hành chính quốc tế, chi trả cho những hoạt động của LHQ, tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân. 3 3) THỦ TỤC TƯ VẤN - Qúa trình tư vấn bắt đầu bằng việc Tổng thư kí LHQ hoặc các giám đốc hoặc các thư kí của các cơ quan yêu cầu tư vấn nộp 1 văn bản yêu cầu tư vấn gửi đến ban thư kí tòa..Trong trường hợp khẩn cấp, tòa án có thể làm những gì được cho là cần thiết để đẩy nhanh tốc độ của quá trình. - 1 vài ngày sau khi nộp yêu cầu, tòa sẽ rút ra 1 danh sách của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có khả năng cung cấp thông tin về những vấn đề đó trước tòa. Nhìn chung các quốc gia được liệt kê đều là các thành viên của tổ chức yêu cầu ý kiến tư vấn. Đôi khi nó bao gồm cả những quốc gia mà tòa án mở ra trong quá trình khởi tố vụ tranh chấp. - Article 66 1. The Registrar shall forthwith give notice of the request for an advisory opinion to all states entitled to appear before the Court. 2. The Registrar shall also, by means of a special and direct communication, notify any state entitled to appear before the Court or international organization considered by the Court, or, should it not be sitting, by the President, as likely to be able to furnish information on the question, that the Court will be prepared to receive, within a time- limit to be fixed by the President, written statements, or to hear, at a public sitting to be held for the purpose, oral statements relating to the question. 3. Should any such state entitled to appear before the Court have failed to receive the special communication referred to in paragraph 2 of this Article, such state may express a desire to submit a written statement or to be heard; and the Court will decide. 4. States and organizations having presented written or oral statements or both shall be permitted to comment on the statements made by other states or organizations in the form, to the extent, and within the time-limits which the Court, or, should it not be sitting, the President, shall decide in each particular case. Accordingly, the Registrar shall in due time communicate any such written statements to states and organizations having submitted similar statements. -Theo quy định tại điều 66 4 1. Thư kí tòa sẽ nhanh chóng thông báo kết luận tư vấn cho tất cả các nước có quyền tham gia vào tòa 2. Ngoài ra, thư kí tòa sẽ thông báo cho 1 nước bất kì có quyền đến tòa cũng như 1 tổ chức quốc tế bất kì nào có thể( theo ý kiến của chủ tịch tòa án nếu như tòa án không họp) cung cấp những tin tức về ván đề cụ thể đó, rằng tòa án sẵn sàng nhận trong thời hạn chủ tịch đã quy định, tất cả những tài liệu văn bản báo cáo có liên quan đến ấn đề, hoặc sẵn sàng nghe những báo cáo bằng lời trong phiên họp công khai được triệu tập nhằm mục đích đó. 3. Nếu nước có quyền đến tòa không nhận được thông báo đặc biệt đã được nhắc đến ở khoản 2 của điều này, thì nước đó có thể bày tỏ nguyện vọng được đệ trình bản báo cáo bằng văn bản hoặc được nghe tòa án thông qua quyết định về vấn đề đó. 4. Các nước và các tổ chức đệ trình các bản báo cáo bằng văn bản hoặc bằng lời được phép thảo luận các báo cáo của các nước hoặc các tổ chức khác ở hình thức giới hạn và trong thời hạn do tòa hoặc do chủ tịch tòa quyết định trong từng trường hợp riêng biệt( nếu như tòa án không họp). Để đạt được mục đích này, thư kí tòa thông báo, trong thời hạn cần thiết, tất cả những bản báo cáo bằng văn bản đó cho các nước và các tổ chức đã gửi những bản báo cáo tương tự -Article 67 The Court shall deliver its advisory opinions in open court, notice having been given to the Secretary-General and to the representatives of Members of the United Nations, of other states and of international organizations immediately concerned. - Theo quy định tại điều 67, tòa sẽ đưa ra kết luận tư vấn của mình trong phiên họp công khai đã được báo trước cho Tổng thư kí và các đại diện của các thành viên LHQ trực tiếp có liên quan và cho đại diện của các nước và các tổ chức quốc tế khác. 4) HIỆU LỰC CỦA TƯ VẤN -Trái với những phán quyết của tòa,ngoại trừ trong trường hợp hiếm hoi là đã được quy định trước rằng nó sẽ có hiệu lực ràng buộc (ví dụ, như trong Công ước về Privileges và Immunities của Liên Hiệp Quốc, trong Công ước về Privileges và Immunities của các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc, và Hiệp định giữa Trụ sở chính của Liên Hợp 5 Quốc và Hoa Kỳ của Mỹ), các ý kiến tư vấn của Tòa án không có hiệu lực bắt buộc. Những cơ quan tổ chức yêu cầu tư vấn vẫn có thể tự do quyết định sẽ giải quyết thế nào, những gì có hiệu lực với các ý kiến này. - Mặc dù ko có hiệu lực ràng buộc, nhưng những ý kiến tư vấn của tòa án vẫn mang tầm quan trọng pháp lý lớn và ảnh hưởng về chuẩn mực đạo đức. Nó là công cụ của ngoại giao phòng ngừa và có tác dụng gìn giữ hòa bình. Ý kiến tư vấn, theo cách riêng của nó, đã góp phần vào việc làm sáng tỏ và sự phát triển của luật quốc tế, do đó góp phần tăng cường mối quan hệ hòa bình giữa các nước. 5) THỰC TIỄN QUA VỤ VIỆC Ý KIẾN TƯ VẤN VỀ VŨ KHĨ HẠT NHÂN a) BỐI CẢNH VỤ VIỆC 8-7-1996 ICJ đã đưa ra 1 ý kiến tư vấn có tính lịch sử để đáp lại câu hỏi của đại hội đồng liên hợp quốc đưa ra năm 1994: theo luật quốc tế có cho phép đe dọa và sử dụng vũ khĩ hạt nhân trong bất cứ hoàn cảnh nào hay ko? WHO cũng từng yêu cầu ý kiến tư vấn nhưng tòa cho rằng yêu cầu của WHO là ko liên quan đến những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của tổ chức này theo điều 96 khoản 2 hiến chương LHQ.1993 WHO đã yêu cầu tòa cho ý kiến tư vấn về vấn đề sau: Xét về ảnh hưởng đối với sức khỏe và đối với môi trường, việc sử dụng vũ khí hạt nhân của1 quốc gia trong chiến tranh hoặc của các lực lượng vũ trang khác khi xung đột là vi phạm nghĩa vụ của họ theo luật quốc tế trong đó bao gồm cả tổ chức who? Tuy nhiên có 1 chút nghi ngờ rằng về mặt chính trị, yêu cầu của chủ tịch WHO vào 14-5-1993 đã mở đường cho yêu cầu của đại hội đồng. Hơn nữa khi từ chối đưa ra ý kiến theo yêu cầu của WHO thì tòa cũng đưa ra 1 vài nhận xét quan trọng về thẩm quyền tư vấn của tòa. Tòa đã mời các quốc gia đưa ra văn bản tuyên bố về yêu cầu đó và tổ chức quá trình tố tụng miệng từ 30-10 đến 15-11-1995. Tất cả có 41 quốc gia( bao gồm tất cả các quốc gia có vũ khí hạt nhân trừ TQ )đã đưa ra bản tuyên bố miệng hoặc bằng văn bản Như vậy có thể thấy ở đây , chủ thế yêu cầu tư vấn là WHO và UNGA và vấn đề được yêu cầu tư vấn chính là tính hợp pháp của việc đe doạ và sử dụng vũ khí hạt nhân 6 b) Ý KIẾN TƯ VẤN TÒA ĐƯA RA 1) Ý kiến của tòa về yêu cầu tư vấn của WHO Để mà quy định phạm vi hành động hoặc thẩm quyền theo lãnh thổ của một tổ chức quốc tế , viêc viện dẫn cần phải có những quy phạm cụ thể của tổ chức , và việc viện dẫn này sẽ được đặt lên vị trí hàng đầu theo điều lệ . Áp dụng “Luật được công nhận về cách giải thích hiệp ước “ (well-established rule of treaty interpretation ) được thể hiện ở điều khoản 31 của Công ước Vienna 1969 (1),Toà đã kết luận rằng những câu hỏi của WHO nêu ra không thuộc phạm vi hoạt động của tổ chức này khi đã xác định rõ theo điều lệ của nó. Ngược lại , điều khoản 2 của Điều lệ WHO chấp nhận WHO giải quyết ảnh hưởng của việc sử dụng vũ khí hạt nhân đối với sức khoẻ và môi trường , vấn đề đang tranh cãi đó liên quan đến tính hợp pháp của việc sử dụng những vũ khí tương tự khi xem xét đến ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường. Theo Toà nhận thấy, cho dù vũ khí hạt nhân được sử dụng hợp pháp hay không thì hệ quả của nó vẫn là một và thẩm quyền của WHO trong việc giải quyết các hệ quả đó không phụ thuộc vào tính hợp pháp của hành động (2).Trong trường hợp ,Toà nắm giữ bản báo cáo cụ thể về cách giải thích những điều lệ của WHO được đưa ra bởi những nguyên tắc cụ thể và hơp logic để xem xét bằng Hiên chương .Việc trao cho WHO thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ đồng nghĩa với việc bỏ qua nguyên tắc về chuyên môn bởi thẩm quyền đó không thể được coi là một sự ngầm định của Hiến chương WHO về các mục tiêu và đối tượng được các quốc gia thành viên trao cho nó Hơn nữa , nếu theo hiệu lực của Điều khoản 57 theo Hiến chương Liên Hợp quốc thì WHO có “ trách nhiệm quốc tế rộng rãi “ (wide _international responsibilities ) , những trách nhiềm đó là giới hạn cần thiết tới phạm vi ảnh hưởng của y tế cộng đồng và không thể xâm pham trách nhiệm của những thành viên khác trong hệ thống UN . 1:Including the rule in Art.31(3)(b) requiring account to be taken of "any subsequent practice in the application of the treaty which establishes the agreement of the parties regarding its interpretation". 7 Bao gồm các quy định trong Art.31 (3) (b) yêu cầu lý do phải đc đưa ra bởi bất kì hành động nào xảy ra sau trong việc áp dụng hiệp ước mà đã được thiết lập bởi sự đồng tình của các thành viên liên quan đến chính lời giải thik đó 2:opinion para21-22 21. The use of the word "permitted" in the question put by the GeneralmAssembly was criticized before the Court by certain States on the ground that this implied that the threat or the use of nuclear weapons would only be permissible if authorization could be found in a treaty provision or in customary international law. Such a starting point, those States submitted, was incompatible with the very basis of international law, which rest upon the principles of sovereignty and consent; accordingly, and contrary to what was implied by use of the word "permitted",States are free to threaten or use nuclear weapons unless it can be shownthat they are bound not to do so by reference to a prohibition in either treaty law or customary international law Việc sử dụng từ “permitted” trong câu hỏi được đưa ra bởi Đại hội đồng đã bị toà án phê phán bởi một số nước với lý do :Sự đe doạ và sử dụng vũ khí hạt nhân chỉ có thể được cho phép nếu người ta có thể thấy sự uỷ quyền trong những điều kiện của hiệp ước hoặc trong Luật quốc tế hiện hành .Các nước này đệ trình lên rằng một sự khởi đầu như vậy là không phù hợp với ngay chính cơ sở của Luật quốc tế .Điều này dựa trên nguyên tắc về chủ quyền và đồng thuận., cũng như vậy là trái với điều được ngụ ý trong việc sử dụng “permitted “để các nước được tự do đe doạ và sử dụng những vũ khí hạt nhân trừ khi có thể chứng minh rằng họ không được phép làm như vậy bằng cách viện dẫn tham chiếu đối với các việc cấm trong bản luật của các hiệp ước hay trong luật quốc tế hiện hành It was also contended that the above-mentioned dictum of the present Court was directed to the possession of armaments and was irrelevant to the threat or use of nuclear weapons. Finally, it was suggested that, were the Court to answer the question put by the Assembly, the word "permitted" should be replaced by "prohibited". Có í kiến tranh cãi rằng kết luận cuối cùng của toà hiện nay là trực tiếp hỏi đến sự sở hữu các vũ khí và không liên quan đến việc đe doạ và sử dụng các vũ khí hạt nhân .Cuối cùng , toà cũng được đề nghị phải trả lời những câu hỏi đựơc đưa ra bởi ĐẠI HỘI ĐỒNG và những từ " permitted " được thay thế bởi " prohibited". 8 22. The Court notes that the nuclear-weapon States appearing before it either accepted, or did not dispute, that their independence to act was indeed restricted by the principles and rules of international law, more particularly humanitarian law , as did the other States which took part in the proceedings.Hence, the argument concerning the legal conclusions to be drawn from the use of the word "permitted", and the questions of burden of proof to which it was said to give rise, are without particular significance for the disposition of the issues before the Court. Toà ghi nhận rằng những nước có vũ khí hạt nhân có mắt trước Toà thì hoặc là chấp nhạn hoặc không tranh cãi rằng quyền độc lập được thực hiện trong thực tế bị ngăn chặn bởi những nguyên tác quy định của Luật quốc tế ., đặc biệt hơn nữa bởi Luật Nhân đạo như các quốc gia khác đã làm , những quốc gia có tham gia vào quá trình tố tụng . Do đó ,sự tranh cãi liên quan đến những phán quyết hợp pháp đã được đưa ra từ việc sử dụng từ "permitted " là những vấn đề về việc yêu cầu đòi hỏi chứng cứ cũng được đưa ra là không có ý nghĩa đặc biệt gì cho những vấn đề được xử trước Toà . 2)Ý kiến của Toà về yêu cầu tư vấn của Đại Hội Đồng LHQ Xem xét nhữg đặc trưng của ĐẠI HỘI ĐÔNG, Toà đã đưa ra kết luận rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân được coi là vấn đề không thể phù hợp đựơc (scarcely reconcilable ) với yêu cầu của Luật Nhân đạo .(opinion .para 95_3 ).Tuy nhiên, , cũng nhận thấy rằng không có yếu tố có thẩm quyền nào trên thực tế chắc chắn rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân là cần thiết và trong tất cả hoàn cảnh vi phạm đến nguyên tăc và điều lệ của luật áp dụng trong xung đột vũ trang Hơn nữa ,quyền cơ bản về sự tồn tại của mỗi quốc gia là cần thiết và theo quyền tự vệ trong thoả thuận ở Điều khoản 51(4) của Hiến chương khi mà sự tồn tại là sự sống còn.Mà cũng không thể bác bỏ chính sách răn đe (policy of deterrence ) là một chính sách đã được cộng đồng quốc tế tán thành trong nhiều năm , hoặc những bảo lưu được thêm vào bởi các nước chắc chẳn có sử dụng vũ khí hạt nhân với sự cam đoan của các nước đó trong nghị định thư tới TREATY OF TLATELOLCO AND RAROTONGA và trong tuyên bố của họ về mối liên quan với Hiệp ước Không 9 phổ biến vũ khí hạt nhân , không phảỉ sử dụng đến vũ khí hạt nhân .Theo đó ,Toà không thể đạt đến một kết luận rõ ràng về tính hợp pháp hay không hợp pháp của việc sử dụng vũ khí hạt nhân khi một nứơc trog tình cảnh bắt buộc phải tự vệ và điều đó là mang tính chất sống còn .Tuy nhiên ,Toà chỉ ra rằng giao ước được đưa ra trong khoản IV của Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân để đàm phán về viêc cam kết giải trừ hạt nhân là một giao ước đạt được kết quả rõ ràng thông qua phương hướng hành động cụ thể . 3 opinion 95 95. Nor can the Court make a determination on the validity of the view that the recourse to nuclear weapons would be illegal in any circumstance owing to their inherent and total incompatibility with the law applicable in armed conflict. Certainly, as the Court has already indicated, the principles and rules of law applicable in armed conflict – at the heart of which is the overriding consideration of humanity – make the conduct of armed hostilities subject to a number of strict requirements. Thus, methods and means of warfare, which would preclude any distinction between civilian and military targets, or which would result in unnecessary suffering to combatants, are prohibited. In view of the unique characteristics of nuclear weapons, to which the Court has referred above, the use of such weapons in fact seems scarcely reconcilable with respect for such requirements. Nevertheless, the Court considers that it does not have sufficient elements to enable it to conclude with certainty that the use of nuclear weapons would necessarily be at variance with the principles and rules of law applicable in armed conflict in any circumstance. Ý kiến 95: Mà Toà cũng không thể quyết định về tình hợp pháp của quan điểm cho rằng việc cuối cùng phải sử dụng đến vũ khí hạt nhân là không hợp pháp trong bất cứ trường hợp nào vì tính không phù hợp hoàn toàn và cố hữu với luật áp dụng trong xung đột vũ trang .Rõ rang Toà đã chỉ ra những nguyên tắc và những điều luật được áp dụng trong xung đột vũ trang mà thực chất trong nội tại những nguyên tắc đó là sự xuy xét có tính bao trùm của tình nhân văn làm cho việc tiến hành những xung đột vũ trang phải theo một số những quy định hết sức chặt chẽ.Do đó , những phương pháp và phương tiện tiến hành chiến tranh mà điều này sẽ vựơt ra ngoài tất cả những sự phân biệt giữa các mục tiêu quân sự 10 và dân sự hoặc nó sẽ đưa đến những kết quả là sự tổn thất không đáng có .Căn cứ vào những đặc tính duy nhất của Vũ khí hạt nhân , mà Toà cũng nói đến trong thực tế việc sử dụng những Vũ khí như vậy hầu như không thể phù hợp với những yêu cầu như vậy .Tuy nhiên , Toà án cũng cho rằng không có đủ những nhân tố cần thiết khiến tòa có khả năng kết luận chắc chắn rằng việc sử dụng những vũ khí hạt nhân nhất thiết là đi ngược lại với những nguyên tắc và những quy luật được áp dụng trong xung đột vũ trang trong bất cứ trường hợp nào. 4-Điều khoản 51 của Hiến chương : Không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong trường hợp thành viên Liên Hợp Quốc bị tấn công vũ trang cho đến khi Hội đồng Bảo an chưa áp dụng được những biện pháp cần thiết để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các thành viên Liên Hợp Quốc áp dụng trong việc bảo vệ quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho Hội đồng Bảo an và không được gây ảnh hưởng gì đến quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng Bảo an, chiểu theo Hiến chương này, đối với việc Hội đồng Bảo an áp dụng bất kỳ lúc nào những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. c) Kết luận chung Không nên coi nhẹ tính pháp lý và chính trị trong các ý kiến tư vấn của tòa.Nghị quyết bao hàm lời yêu cầu được thong qua phần lớn là nhờ Phong trào không liên kết và phản ánh sự ủng hộ to lớn đối với Dự án Toà thế giới (The resolution embodying the requests owed their adoption to the Non- Aligned Movement an reflected considerable popular support for the World Court Project.) Chúng đã được thông qua mặc dù vấp phải sự phản đỗi kịch liệt của các quốc gia có vũ khí hạt nhân. Đối với các quyền ưu đãi của mình, tòa đã không sử dụng đến quyền từ chối yêu cầu này. Trái lại, đây là lần đầu tiên trong lịch sử một tòa án quốc tế đã xem vũ khĩ hạt nhân là quy chế hợp pháp, và tuyên bố rằng những vũ khĩ này được áp dụng trong xung đột vũ trang theo Hiến chương Liên Hợp Quốc và theo luật quốc tế. Trong quyết định trả lời câu hỏi đưa ra bởi Đại Hội Đồng, tòa 11 nhất trí chỉ ra rằng, việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khĩ được coi là vũ khí hạt nhân là trái với khoản 4 điều 2 Hiến chương Liên Hợp Quốc, trái với điều 51 là trái pháp luạt. Theo đó, tòa chỉ ra , việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân chỉ đúng với một số điều trong luật quốc tế áp dụng trong xung đột vũ trang. Đặc biệt là theo một số điều của luật nhân đạo quốc tế, việc sử dụng vũ khĩ loại này là hợp pháp cho đến khi có những quyết định rõ ràng trong các hiệp ước hoặc trong các cam kết nhấn mạnh rằng sẽ giải quyết bằng vũ khĩ hạt nhân Tuy nhiên, xét theo tình trạng hiện nay của luật quốc tế và cách sắp xếp của nó, thì tòa không thể quyết định dứt khoát việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân để tự vệ là hợp pháp hay bất hợp pháp trong trường hợp tự vệ cụ thể. Tất nhiên, việc không chỉ rõ ra những trường hợp cụ thể của tòa ít nhiều đã dẫn đến sư thất vọng và không thỏa mãn. Sự im lặng đó của tòa đã trở thành là mối liên kết bất đẵc dĩ để xem các điều khoản của luật nhân đạo có phải là một phần của jus cogen hay không II) QUYỀN CAN THIỆP CỦA BÊN THỨ 3 1) AI CÓ QUYỀN CAN THIỆP? 1 quốc gia có thể can thiệp trong 2 trường hợp quy định tại điều 62 khoản 1 và điều 63 khoản 1 như sau: *)Article 62 l. Should a state consider that it has an interest of a legal nature which may be affected by the decision in the case, it may submit a request to the Court to be permitted to intervene. 2 It shall be for the Court to decide upon this request. -Theo điều 62 quy định: 1. Nếu một nước nào đó thấy rằng nghị quyết của vụ việc có thể động chạm đến lợi ích nào đó có tính chất pháp lý của nước đó thì nước đó có thể yêu cầu tòa án quyết định cho tham gia vào vụ việc 2. Quyết định một yêu cầu như vậy là thuộc về tòa án. 12 - Trong thực tế tòa hiếm khi cho phép sự can thiệp của bên thứ 3. Nicaragua được cho phép can thiệp vào vụ tranh chấp giữa vùng đất liền, vùng đảo của Maritime Frontier mặc dù chỉ đối với các chế độ pháp lý Vịnh Fonseca. Một nghị quyết được viện luật quốc tế thông qua vào năm 1999 đã thực hiện hữu ích 1 số gợi ý trong điều 62 luật của ICJ. - Cụm từ “matters of legal nature”-vấn đề có tính chất pháp lý, có nghĩa là các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia can thiệp, theo công pháp quốc tế , có thể bị ảnh hưởng bởi quyết định cuối cùng của tòa *)Article 63 1. Whenever the construction of a convention to which states other than those concerned in the case are parties is in question, the Registrar shall notify all such states forthwith. Theo quy định của điều 63 khoản 1: 1. Trong trường hợp nảy ra vấn đề phải giải thích một điều ước mà trong đó, trừ các bên hữu quan của vụ việc, có các nước khác tham gia thì thư kí toà án phải nhanh chóng báo cho các nước này. - 1 tổ chức quốc tế hiện ko có quyền can thiệp trong bất cứ trường hợp nào mà chỉ có quyền được thông báo về những vụ tố tụng để giải thích và làm sáng tỏ quá trình tạo thành văn kiện, hoặc bất cứ 1 công ước nào được thông qua mà đang có hiệu lực( theo quy định tại khoản 2,3 điều 34) Article 34 1. Only states may be parties in cases before the Court. 2. The Court, subject to and in conformity with its Rules, may request of public international organizations information relevant to cases before it, and shall receive such information presented by such organizations on their own initiative. 3. Whenever the construction of the constituent instrument of a public international organization or of an international convention adopted thereunder is in question in a case before the Court, the Registrar shall so notify the public international organization concerned and shall communicate to it copies of all the written proceedings. 13 Theo quy định tại điều 34: 2. Với các điều kiện của bản quy chế này, tòa án có thể được hỏi các tổ chức quốc tế công khai về các tin tức có liên quan đến vụ việc mà tòa đang xem xét cũng như thu tập các thông tin cần thiết được tổ chức đó cung cấp theo sáng kiến riêng của họ. 3. Khi có một vụ việc đang được tòa án phân giải, tòa án phải giải thích văn kiện pháp lý cho một tổ chức quốc tế nào đó hoặc một công ước quốc tế đã đươc công nhận hiệu lực của văn bản đó, thư kí tòa thông báo và gửi cho tổ chức quốc tế đó bản sao tất cả các hồ sơ giấy tờ đó. 2) THỦ TỤC CAN THIỆP Quốc gia can thiệp sẽ gửi yêu cầu lên tòa án , và tòa sẽ quyết định xem có cho phép quốc gia đó can thiệp hay không Trong thực tế tòa hiếm khi cho phép sự can thiệp của bên thứ 3. Nicaragua được cho phép can thiệp vào vụ tranh chấp giữa vùng đất liền, vùng đảo của Maritime Frontier mặc dù chỉ đối với các chế độ pháp lý Vịnh Fonseca. Một nghị quyết được viện luật quốc tế thông qua vào năm 1999 đã thực hiện hữu ích một số gợi ý trong điều 62 luật của ICJ. 3) QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN CAN THIỆP Sự can thiệp của quốc gia thứ 3 ko có nghĩa là một lần nữa sẽ kết nạp bên thứ 3 thành 1 bên của vụ tranh chấp. Quốc gia can thiệp ko có quyền đề cử một thẩm phán ad hoc.Tuy nhiên , với sự đồng ý của tất cả các bên, bên can thiệp có thể được coi như một bên trong vụ kiện. Những quyết định của tòa trong 1 hoặc nhiều phần có liên quan sẽ chỉ ràng buộc đối với quốc gia mà được cho phép can thiệp. Điều 63 khoản 2 quy định: Every state so notified has the right to intervene in the proceedings; but if it uses this right, the construction given by the judgment will be equally binding upon it. Mội một nước trong số tất cả các nước có tham gia vào việc giải thích điều ước quóc tế đề cập ở điều 63 khoản 1, sau khi nhận được thông báo của tòa, có quyền can thiệp vào vụ việc, và nếu nước đó sử dụng quyền này thì việc giải thích được ghi trong quyết định của tòa cũng có tính ràng buộc như nhau đối với nước đó 4)Ý NGHĨA CỦA VIỆC CAN THIỆP 14 Việc can thiệp vào giải quyết tranh chấp giữa 2 nước của 1 bên thứ 3 là nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của quốc gia can thiệp đó. Bên thứ 3 có thể cung cấp cho tòa những ý kiến cũng như những tài liệu mang tính khách quan để bảo đảm quyết định của tòa trong vụ tranh chấp không ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. 5) NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN THỦ TỤC CAN THIỆP TẠI ICJ Ranh giới biển và đất liền giữa Cameroon và Nigeria ( Cameroon và Nigeria: Sự can thiệp của Guinea Xích đạo ) a) Mở đầu Năm 1994, Cameroon đã tiến hành vụ kiện Nigeria bằng việc đệ đơn lên Tòa án công lý quốc tế yêu cầu Tòa án xác định lại chủ quyền của Bán đảo Bakassi và xác định lại đường ranh giới biển đã được phân chia năm 1975. Sau đó, Cameroon còn trình lên toà án một số vấn đề khác. Và Tòa đã kết hợp những yêu cầu này thành một trường hợp. Phía Nam của Nigeria là Vịnh Guinea, một bộ phận của Đại Tây Dương. Cameroon cũng nằm bên Vịnh Guinea, và giáp giới các nước như Nigeria, Tchad, Cộng hòa Cônggô, Xích đạo Guinea….Ngay từ đầu, Nigeria đã phản đối thẩm quyền của Tòa án. Trong những lý do phản đối được đưa ra có điểm thứ bảy và điểm thứ tám liên quan đến vấn đề ranh giới biển giữa Cameroon và Nigeria. Trong điểm thứ 7, Nigeria cho rằng giữa Cameroon và Nigeria không hề có một cuôc tranh chấp hợp pháp nào liên quan đến vấn đề ranh giới biển và đất liền. Và trong phán quyết ngày 11 tháng 6 năm 1998, Tòa án đã bác bỏ điều này. Trong điểm thứ 8, Nigeria lại cho rằng vấn đề phân định lại ranh giới biển sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của một số quốc gia khác và điều này là không thể được. Tòa án đã giải quyết điểm thứ 8 này trong phán quyết ngày 11/6/1998 ở điều khoản 112 đến 117, tòa tuyên bố:” that the eight preliminary objection does not have, in the circumstances of the case, an exclusively preliminary character”. Về vấn đề xác định lại chủ quyền của Bán đảo Bakassi: Bán đảo Bakassi là một Bán đảo chứa nhiều trữ lượng dầu mỏ và cá. Xung quanh việc xác định chủ quyền của Bán đảo Bakassi này đã diễn ra nhiều tranh chấp giữa Cameroon và Nigeria từ năm 1981. Đa số dân số sống trên bán đảo Bakassi là người Nigeria. 15  Tuy nhiên, Tòa án Quốc tế đã kết luận bán đảo này thuộc Cameroon trong một phiên xét xử vào năm 2002 dựa trên một thỏa thuận thuộc địa giữa Anh và Pháp vào đầu thế kỉ XIX. Đến ngày 15/8/1998 Nigeria đã thực sự chuyển giao bán đảo có tiềm năng giàu dầu mỏ Bakassi cho Cameroon, kết thúc tranh cãi kéo dài về lãnh thổ từ nhiều năm qua. Về vấn đề xác định lại ranh giới biển giữa Cameroon và Nigeria b) Diễn biến vụ việc Ngày 30/6/1999 Guinea Xích đạo đệ đơn lên Tòa án công lý quốc tế xin phép can thiệp vào vụ ranh giới biển và đất liền giữa Cameroon và Nigeria. Guinea Xich đạo đã viện dẫn điều 62 của Quy chế Tòa án Quốc tế và điều 81 của các quy tắc Tòa án: Article 62 l. Should a state consider that it has an interest of a legal nature which may be affected by the decision in the case, it may submit a request to the Court to be permitted to intervene. 2 It shall be for the Court to decide upon this request. -Theo điều 62 quy định: 1. Nếu một nước nào đó thấy rằng nghị quyết của vụ việc có thể động chạm đến lợi ích nào đó có tính chất pháp lý của nước đó thì nước đó có thể yêu cầu tòa án quyết định cho tham gia vào vụ việc 2. Quyết định một yêu cầu như vậy là thuộc về tòa án. Article 81 of the Rules of Court lays down that such an Application as this is to set out : "(a) the interest of a legal nature which the State applying to intervene considers may be affected by the decision in that case; (b) the precise object of the intervention; 16 (c) any basis of jurisdiction which is claimed to exist as between the State applying to intervene and the parties to the case. "  Vấn đề đặt ra là Guinea Xích đạo Guinea có quyền can thiệp hay không? Thủ tục của việc can thiệp như thế nào và mục đích của việc can thiệp ra sao?  Một quốc gia được phép can thiệp vào vụ tranh chấp khi “ an interests of a legal nature which may be affected by the decision in the case” tức là khi quyền lợi có tính chất pháp lý mà bị ảnh hưởng bởi quyết định trong vụ tranh chấp. Guinea Xích đạo khẳng định rằng quyền lợi có tính chất pháp lý đó xuất phát từ quyền chủ quyền và quyền tài phán đã được xác nhận từ những đường trung tuyến phân chia giữa vùng biển của Guinea Xích đạo với Cameroon và Nigeria. Và Guinea cũng tuyên bố sẽ bảo về quyền và lợi ích có tính chất pháp lý của mình, bất kỳ ranh giới giữa Cameroon và được phân định bởi Tòa án không được đi qua những đường trung tuyến đó. Do đó, “ đối tượng cụ thể của vụ can thiệp” là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích pháp lý được Tòa án công nhận là hợp pháp. Liên quan đến vấn đề thẩm quyền, Guinea Xích đạo cũng tuyên bố là không muốn trở thành một full-party trong vụ tranh chấp mà là một non-party. Theo điều 83 Quy tắc chung của Tòa án, đơn xin can thiệp của Guinea Xích đạo sẽ được chuyển đến Cameroon và Nigeria cho đến ngày 16/8/1999. Guinea Xích đạo cũng thông qua đàm phán với Cameroon và Nigeria nhiều lần nhằm phân định đường ranh giới biển sao cho quyền lợi có tính chất pháp lý của các quốc gia thứ 3 không bị ảnh hưởng. c) Phán quyết tòa đưa ra Trong điều khoản 116 phán quyết ngày11/6/1998 trích rằng: "The Court notes that the geographical location of the territories of the other States bordering the Gulf of Guinea, and in particular Equatorial Guinea and Sao Tome and Principe, demonstrates that it is evident that 17 the prolongation of the maritime boundary between the Parties . . . will eventually run into maritime zones where the rights and interests of Cameroon and Nigeria will overlap those of third States. It thus appears that rights and interests of third States will become involved if the Court accedes to Cameroon's request”. Điều 116: Toà án ghi nhận rằng vị trí địa lý của những vùng lãnh thổ của các quốc gia khác tiếp giáp với vịnh Guinea và đặc biệt là Guine xích đạo , Sao Tome.và Pricipe chứng tỏ rõ ràng rằng là sự kéo dài của biên giới biển giữa các bên cuối cùng sẽ nhập vào với các vùng lãnh hải mà ở đó quyền và lợi ích của Cameroon và Nigeria sẽ chồng chéo với quyền và lợi ích của những nước thứ 3 .Như vậy , xem như là những quyền và lợi ích của những quốc gia thứ 3 sẽ bị liên quan nếu như toà thuận theo yêu cầu của Cameroon  Tức là nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu của Cameroon thì quyền và lợi ích của các quốc gia thứ 3 sẽ bị ảnh hưởng. Những quốc gia mà có vị trị địa lý giáp biên giới với Vịnh Guinea và đặc biệt là Guinea Xích đạo, Sao Tome và Principle thì sẽ có ranh giới biển kéo dài giữa các bên. Việc phân định lại ranh giới biển giữa Cameroon và Nigeria sẽ chồng chéo lên quyền lợi của các quốc gia đó. Sau khi xem xét Tòa án cũng đưa ra kết luận: Theo điều 62 của Quy chế Tòa án, Guine Xích đạo có quyền can thiệp vào vụ tranh chấp để bảo vệ quyền lợi có tính chất pháp lý của mình với tư cách là quốc gia thứ ba. 6)Tranh chấp liên quan đến chủ quyền giữa đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan (Indonesia và Malaysia) và sự can thiệp của Philipine a)Giói thiệu vụ việc: Ngày 31/5/1997 Indonesia và Malaysia đã kí 1 thoả thuận đăc biệt liên quan đến chủ quyền của hai đảo nhỏ Sipadan và Malaysia ( hai đảo này nằm ở phía nam của biển 18 Trung Quốc, liền kề với lãnh thổ của North Borneo). Ngày 2/10/1998 Malaysia và Indonexia đã đưa vụ tranh chấp lên toà án công lí quốc tế trên cơ sở của thoả thuận đặc biệt này.Vụ tranh chấp xảy ra giữa hai nước đã bắt đầu vào tháng 11 năm 1998 . Hai đảo Ligitan Sipadan năm ở phía Nam bờ biển Trung Quốc, vẫn đang tranh cãi và ko chỉ là vẫn đề quan tâm của riêng Philipine.. Hơn nữa, lợi ích của tranh cãi xuất phát từ yếu sách của Philipne để xác định vùng lãnh thổ kề cận của North Borneo, nó có thể chịu ảnh hưởng luật chủ quyền đảo.Hậu quả của việc đó là khi Indonesia và Malaysia đưa tranh cãi ra toà, theo thoả thuận đặc biệt , Philipne sau một thời gian trì hoãn đã đệ đơn can thiệp theo điều 62 của quy chế toà án. Phù hợp với điều 83 luật toà án, đơn này lập tức được chuyển tới Indonesia và Malaysia mà hồi đáp của hai bên chỉ ra rằng họ lựa chọn theo căn cứ khác. Liệu đơn can thiệp có được toà công nhận do vậy tháng 7-2001 toà tổ chức cuộc họp công khai để ba bên tranh luận và 4 tháng sau đó toà phán quyết giữa các bên tham gia b) Diễn biến vụ việc Theo điều 83 khoản 1 Khi toà án nhận được đơn xin can thiệp của Philippin vào vụ tranh chấp này ngay lập tưc thông báo cho 2 quốc gia Indonexia và Malayxia. Và Inodexia và Malaysia đã đưa ra rất nhiều lí lẽ phản đối khác nhau. Về phía Indonesia cho rằng: Vụ tranh chấp đã được đệ lên toà án từ 2/10/1998 nhưng đến tận 13/3/2001 Philippin mới đệ đơn lên toà án xin can thiêp như vậy . Theo khoản 1 điều 81 của qui chế toà án “…shall be filed as soon as possible, and not later than closure of the written proceedings. In exceptional circumstance, an application submitted at later stage may however be admitted…” Đơn của Philippin sẽ không thể được chấp nhận. Indonexia còn cho rằng Philippine đá không chứng minh được rằng nó có quyền lợi hợp pháp căn bản mà có thể bị ảnh hưởng bởi quyết định của toà trong vụ tranh chấp này như theo điều 62 của qui chế toà án qui định “…1.should a State consider that it has an interest of a legal nature which may be affected by the decision in the case, it 19 may submit a request to the court to be permitted to intervene. 2. It shall be for the Court to decide upon to intervene”. Về phía Malaysia thì cho rằng: Vấn đề tranh chấp giữa Inodexia và Malaysia là không ảnh hương đến chủ quyền của Sabah. Và các tài liệu mà Philippin cung cấp là không chính xác….Malaysia đã thẳng thừng từ chối đơn xin can thiệp vào vụ tranh chấp của Philippine. Về Philippine: Philippine cho rằng Philippine đã tuân theo đúng điêu khoản 81 luật tòa án và 62 của qui chế toà án ICJ. Và Philippine cũng nhấn mạnh rằng mục đich của Philippine đệ đơn xin can thiệp không fải là muốn tham gia tranh chấp chủ quyền của hai hòn đón trong vụ kiện này hay nói cách khác Philippine ko muốn trở thành Full parties trong vụ tranh chấp này mà chỉ muỗn xem xét các phán quyết của toà về chủ quyền của hai hòn đảo Sipadan va Lighitan liệu có ảnh hưởng đến chủ quyền của Philppine trên vùng lãnh thổ của North Borneo. Để quyết định đơn xin can thiệp của Philippine có được thừa nhận hay không toà đã tổ chức cuộc hop công khai vào 6/2001để xem xet ý kiến tranh luận của cả 3 quốc gia và 4 tháng sau đó đã đưa ra phán quyết đối với các bên liên quan. c). Các bước Philipine gửi yêu cầu: - Để hộ trợ toà trong việc đánh giá đúng, sai của đệ trình này, Chính phủ Philipine muốn dẫn đến đơn này với những nhận định sau đây: -Trong một thông báo được gửi tới toà vào ngày 22/2/2001, Chính phủ cộng hoà Philipine yêu cầu toà thực hiện theo điều 53, khoản 1 _ Luật toà án quốc tế, có sẵn từ biên bản biện hộ của hai bên và tài liệu được thêm vào có liên quan đến tiến trình hiện tại giữa Indonesia và Malays. Sự lặp lại khẩn cấp của yêu cầu này được gửi kèm trong một thông báo khác tới toà vào ngày 9/3/2001. Chính phủ cộng hoà Philipine muốn cung cấp tin tức cho Toà mà chính phủ Philipine cho rằng yêu cầu được chiếu theo biên bản biện hộ của hai bên và tài liện được thêm vào như một hành động riêng biệt và khác với đơn trình bày. Đơn bày tỏ mong muốn can thiệp của Chính phủ Philipine độc lập và không làm ảnh hưởng. Tuy nhiên, có thể chỉ ra rằng một nghị quyết rõ ràng về yêu cầu theo điều 20 53, khoản1- Luật Toà án quốc tế, đơn trình bày sẽ làm thuận tiện quá trình cách tiến hành được tìm thấy ban đầu. Dựa vào đơn này, chính phủ cộng hoà Philipine muốn nhận định rằng không muốn thay đổi chủ đề, phạm vi tự nhiên của hành động hiện tại giữa Indonesia và Malaysia. Chính phủ Philipine không yêu cầu Toà về các vấn đề hợp pháp có liên quan đến hoặc không liên quan đến. Chính phủ cộng hoà Philipine chỉ muốn Toà giải thích về quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp, thích hợp để nhận định xem làm cách nào xác định về chủ quyền của Pulau Ligitan và Pulau Sipadan và có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không. Chính phủ cộng hoà Philipine yêu cầu Toà công lý quốc tế tính hợp pháp của đơn cho phép can thiệp vào biên bảo hộ giữa Chính phủ cộng hoà Indonesia và Malaysia và thừa nhận điều tương tự khi tham gia xem xét biên bản của hai bên theo điều 85 luật quôc tế. Chính phủ cộng hoà Philipine bảo lưu quyền thoả thuận và phản đối bổ sung và khi thủ tục của toà được đưa ra như vậy. Vì mục đích nay, chính phủ Philipne tự nguyện tôn trọng bất cứ giới hạn ấn định thời gian nào của toà để đảm bảo sắp xếp nhanh gọn trong việc đưa đơn này. d) Phán quyết của toà: -Vào ngày 23-10-2001 Toà án công lý quốc tế bác bỏ đơn xin can thiệp của Philipne về vụ liên quan đến chủ quyền của hai đảo giữa Indonesia và Malaysia. - Philipine cho rằng mình đã thực hiện theo điều 62 của luật quốc tế nhưng Indonesia và Malaysia phủ nhận điều này, lợi ích bản chất hợp pháp trong những yêu cầu cầu của Philipine không đầy đủ và theo luật toà án yêu cầu này không được bị bác bỏ đồng thời Malaysia chỉ ra rằng không có sự liên kết pháp lý giữa Philipine,Malaysia và Indonesia – thêm một lý do để bác bỏ đơn này của Philipine. Đây là lần thứ năm mà toà xác nhận yêu cầu can thiệp theo điều 62 luật toà án quốc tế và lần thứ 3 đơn xin can thiệp bị bác bỏ . Sau thành công của vụ kiện giữa Guinea Xích đạo vào năm 1999 và Nicaragua vào năm 1990 Toà cho rằng bác bỏ yêu cầu này là dựa trên thực tế và trong những tình huống khác đã thành công. Mặc dù đơn yêu cầu của Philipne bị bác bỏ xong nó ít nhiều ảnh hưởng đến các vụ việc hiện tại. 21 e) Kết luận Vấn đề chính ở đây liên quan đến nội dung điều 62, theo nội dung điều 62, do ảnh hưởng từ vị trí địa lý có liên quan đến quyền và lợi ích của Philipine nên Philipine có quyền can thiệp nhưng phán quyết cuối LẠI thuộc về toà.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_tap_giai_quyet_tranh_chap_nhom_2_029.pdf