Thực trạng, nhận thức của người dân về bạo lực gia đình trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG I 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Bạo lực gia đình là một vấn đề có tính chất toàn quốc được xem như là một đề tài thu hút giới nghiên cứu trong mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn Bạo lực gia đình đặc biệt là bạo lực với phụ nữ và trẻ em là hiện tượng phổ biến tồn tại ở tất cả các nước Bạo lực gia đình đã và đang tác động đến một bộ phận không nhỏ phụ nữ và trẻ em trên thế giới và trở thành một chướng ngại lớn cho quá trình bình đẳng giới Ở Việt Nam vấn đề bạo lực gia đình ngày càng được quan tâm hơn khi ngày càng nặng nề hơn Theo báo cáo của Ủy ban dân số gia đình và trẻ em Việt Nam năm 2006 : 97% nạn nhân là những người phụ nữ Theo các nghiên cứu trên thế giới ước tính khoảng 20 – 50% phụ nữ đã phải chịu bạo lực về thể xác do bạn tình hoặc các thành viên trong gia đình. Ở Việt Nam, theo một nghiên cứu của Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với tổ chức UNCEF cho thấy 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một trong những hình thức bạo lực gia đình, trong đó 7,3% cặp vợ chồng thường xuyên xẩy ra bạo lực. Bạo lực gia đình làm tổn hại về thể chất, tinh thần của người bị bạo lực mà phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình là nguyên nhân phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, gây ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự xã hội. Những năm gần đây, nạn bạo lực gia đình đã được các cấp, các ngành, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và cộng đồng quan tâm, đặc biệt Nhà nước đã ban hành Luật phòng chống bạo lực gia đình. Luật phòng chống bạo lực gia đình đang được tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ, nhân dân, từng bước đi vào cuộc sống của mỗi gia đình. Nhìn chung bạo lực gia đình có chiều hướng giảm song chỉ giảm so với hình thức bạo lực thể chất, còn bạo lực tinh thần, bạo lực kinh tế và bạo lực tình dục thì chưa giảm. Nhận thức về phòng chống bạo lực gia đình của nhân dân nói chung, phụ nữ nói riêng còn hạn chế. Các hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình chưa hiệu quả. Việc xử lý các vi phạm, phê bình góp ý đối với đối tượng gây bạo lực gia đình chưa có tiến triển nhiều Những cọn số mà chúng ta đang thấy là những con số không nhỏ . Riêng ở Việt Nam khoảng 10 năm gần đây vấn đề này mới được đưa vào nghiên cứu ở một số công trình của Hội liên hiệp Phụ Nữ và một số tác giả khác . Hậu quả của bạo lực gia đình lại đặc biệt quan trọng , nó không chỉ gây tổn thương đến cuộc sống , sức khỏe và danh dự của các thành viên trong gia đình mà còn vi phạm đến đạo đức xã hội , tiếp tay cho sự gia tăng các tệ nạn như mại dâm , ma túy , người lang thang cơ nhỡ nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ . Vấn đề bạo hành không chỉ còn tồn tại trong gia đình nữa mà nó là sự quan tâm của toàn xã hội : Tôi đưa ra đề tài nghiên cứu :” Thực trạng, nhận thức của người dân về bạo lực gia đình trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay “ nhằm ìm hiểu thực trạng bạo lực gia đình trong xã hội hiện nay cũng như đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm làm giảm tình trạng bức thiết này.

pdf29 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6501 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng, nhận thức của người dân về bạo lực gia đình trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập, ngược đãi; vợ, chồng, ngoại tình: 128 vụ, mâu thuẫn kinh tế: 54 vụ; rượu chè, ma túy: 08 vụ. Đặc biệt, đã có 08 bản án xử lý hình sự về bạo lực gia đình (BLGĐ) trong đó có 04 vụ chồng giết vợ. Theo nghiên cứu khảo sát về gia đình Việt Nam của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Nghiên cứu về gia đình và giới và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc cho thấy, hiện nay có tới 21,2% số cặp vợ chồng đã từng trải qua một dạng bạo lực gia đình nào đó như: bạo lực tinh thần, bạo lực thể xác, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế, mà tỷ lệ những phụ nữ không dám nói lên sự thật còn chiếm khá cao: 26,2%, so với con số này ở các ông chồng là 16,7%. Cứ 5 cặp vợ chồng thì có 1 cặp từng trải qua các hình thức bạo lực gia đình nghiêm trọng nhất. Phụ nữ thường là đối tượng của bạo lực, bởi tỷ lệ này là rất nhỏ, chỉ chiếm có 0,6% phụ nữ đánh chồng so với 3,4% số nam giới đánh vợ. Trong các trường hợp bạo lực gia đình, các cặp vợ chồng hiếm khi chia sẻ vấn đề của họ với bố mẹ, bạn bè hoặc chính quyền do lo sợ bị mất mặt, hoặc ngại “vạch áo cho người xem lưng”. Phụ nữ, 2808, 81% người già, 317, 9% nam giới, 52, 1% trẻ em, 316, 9% Phụ nữ người già trẻ em nam giới Một điều mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy là bạo lực gia đình còn có thể làm tan vỡ, hủy hoại các gia đình. Mặt khác, bạo hành gia đình có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến tâm sinh lý của trẻ thơ khi phải chứng kiến bố mẹ chúng có hành vi bạo lực. 85,4% trong số đó cho thấy có biểu hiện chán nản, lo lắng; 20% cảm thấy sợ hãi; 8,5% không hiểu nổi bố mẹ mình và 4,2% mất đi sự tôn trọng bố mẹ. Thậm chí hơn 5,5% còn lại còn muốn chạy trốn hoặc bỏ nhà ra đi. Bên cạnh đó, tỷ lệ bố mẹ phải chia tay nhau do bạo lực gia đình ngày càng tăng, xảy ra nhiều ở đô thị. Ở Việt Nam, Theo kết quả điều tra ở 8 tỉnh của Hội Liên Hiệp phụ nữ năm 2008, có 23% số gia đình được hỏi có hành vi bạo hành về thể chất; 30% số gia đình có hành vi bạo lực về tình dục; 25% số gia đình được hỏi có hành vi bạo lực về tinh thần trong đó phụ nữ là nạn nhân chiếm 97%. Bạo lực gia đình tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng tới gia đình - hạt nhân bền vững của xã hội. Bạo lực gia đình đã làm nhiều gia đình tan nát, ly dị, ly thân…Theo số liệu điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Giới và Phát triển, bạo lực gia đình đã làm cho gia đình tan nát chiếm 49,7%. Thống kê của TAND tối cao cũng cho chúng ta thấy hậu quả nghiêm trọng của bạo lực gia đình: năm 1998 có 55.419 vụ ly hôn, trong đó 28.686 vụ bạo lực, chiếm 52%, năm 1999 có 52.774 vụ ly hôn, trong đó 29.751 vụ bạo lực, chiếm 56%; năm 2000 có 51.361 vụ ly hôn, trong đó 32.164 vụ bạo lực, chiếm 62%; trung bình trong 5 năm từ 2000 đến 2005 cả nước có 352.000 vụ ly hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiếm 53,1%). Bạo lực gia đình ở Việt Nam cũng làm gia tăng số trẻ em vi phạm pháp luật. Số liệu thống kê của Viện KSND tối cao 2008 cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc đúng mức. Nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2.209 học viên các trường giáo dưỡng, có tới 49,81% trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ. Số em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh); bị dì ghẻ, bố dượng đánh chiếm 20,3%. 2.NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾ BLGD Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình phải kể đến nguyên nhân chính đó là chồng nghiện rượu (chiếm 91,11%). Rượu không chỉ độc cho gan, phổi mà còn rất độc đối với hệ thần kinh trung ương, làm huỷ hoại tế bào não, làm biến đổi tư cách con người. Người say rượu không ý thức được hành vi của mình. Những người say rượu thường gây bạo lực đối với các thành viên trong gia đình. Những người nghiện rượu, say rượu gây bạo lực gia đình là quá rõ, song thực tế ở không ít gia đình, có những người chồng, người con trai không phải say rượu mà lại mượn rượu để gây bạo lực gia đình. Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình tiếp theo là do kinh tế quá khó khăn (chiếm 85,71%). Không thể coi nghèo đói là yếu tố gây ra bạo lực gia đình, bởi vì có nhiều cặp vợ chồng quanh năm nghèo đói nhưng vẫn sống hoà thuận, hạnh phúc. Tuy nhiên, kinh tế quá khó khăn, sự nghèo đói và bạo lực gia đình là 2 mặt của một vấn đề. Trong nhiều trường hợp do sự nghèo đói nên đã không đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của các thành viên trong gia đình (ăn, ở, học hành, đi lại..). Những khó khăn vất vả trong việc kiếm tiền đè nặng lên cuộc sống gia đình, gây nên sự bực dọc khiến cho các mối quan hệ trong gia đình luôn căng thẳng, gieo mầm cho bạo lực gia đình. Sự nghèo đói làm nảy sinh bạo lực gia đình thì ngược lại, chính bạo lực gia đình lại tăng thêm sự nghèo đói. Sự căng thẳng thường xuyên trong gia đình gây sức ép nặng nề làm các thành viên gia đình 38.5 35.4 27.9 61.5 64.6 72.1 0 20 40 60 80 100 120 V ợ hơ n c hồng B ằng nhau Chồng hơ n vợ S o s ánh thu nhập c ủa vợ - c hồng K hông c ó bạo lự c Có bạo lự c không thể yên tâm lao động, sản xuất, học tập. Nhiều người chồng vũ phu còn đập phá đồ đạc làm tổn hại đến kinh tế gia đình. Hình 4 : Một số nguyên nhân Nghiên cứu còn chỉ ra nguyên nhân chồng mắc các TNXH (chiếm 84,61%) cũng là nguyên nhân chính gây bạo lực gia đình. Khi thành viên gia đình chơi cờ bạc, số đề, nghiện trích ma tuý, mại dâm..thì gia đình đó không thể tránh khỏi bạo lực vì của cải trong nhà cứ "đội nón ra đi", nghiện ma tuý làm con người mất hết nhân tính, sẵn sàng gây bạo lực với các thành viên gia đình để thoả mãn cơn thèm khát ma tuý. Có một nguyên nhân quan trọng nữa thuộc về người vợ đó là người vợ cố chấp, thách thức chồng (chiếm 82,25%), trong lúc người chồng nóng giận thay vì sự nín nhịn, bình tĩnh, dịu dàng để chồng nguôi ngoai cơn nóng giận thì chị em lại nói nhiều, dùng từ ngữ khó nghe, thâm chí còn thách thức chồng đánh mình. Đây là điểm rất hạn chế của người phụ nữ, người vợ, đã tiếp tay cho bạo lực gia đình. Ngoài ra nghiên cứu còn chỉ ra các nguyên nhân khác như ngoại tình, xã hội chưa lên án mạnh mẽ đối với bạo lực gia đình, người vợ dấu không cho mọi người biết mình bị bạo lực gia đình vì " Xấu chàng, hổ ai"v.v…. Hình 5 : So sánh nguyên nhân từ khía cạnh thua nhập của vợ và chồng chồng nghiện rượu , 91.11 kinh tế quá khó khăn , 85.71 chồng mắc các TNXH , 84.61 vợ cố chấp, thách thức chồng , 82.25 chồng nghiện rượu kinh tế quá khó khăn chồng mắc các TNXH vợ cố chấp, thách thức chồng Series1, Gây chấn thương giảm sức khỏe, 76.81, 54% Series1, suy nhược thần kinh, 65.42, 46% Gây chấn thương giảm sức khỏe suy nhược thần kinh Xét tương quan giữa chênh lệch thu nhập vợ - chồng và mức độ mâu thuẫn trong gia đình, kết quả thu được là: ở những gia đình vợ có thu nhập cao hơn chồng thì thường xảy ra mâu thuẫn hơn. Ở mức độ ”thỉnh thoảng”, tỷ lệ có mâu thuẫn ở gia đình mà vợ thu nhập hơn chồng là 29%, tỷ lệ này ở gia đình mà chồng có thu nhập cao hơn là 18,5%. Khi hai vợ chồng có thu nhập bằng nhau, tỷ lệ gia đình ”không bao giờ” có mâu thuẫn chiếm tới 56,1% trong khi đó, ở những hộ mà vợ có thu nhập cao hơn, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 42%. Tương tự trường hợp mâu thuẫn gia đình, tỷ lệ xảy ra BLGĐ cũng đi theo chiều hướng như vậy. Ở những gia đình có tình trạng thu nhập của vợ cao hơn, tỷ lệ xảy ra BLGĐ cũng cao hơn (chiếm 38,5%), trong khi ở trường hợp chồng có thu nhập cao hơn thì tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng 28% Điều này chỉ có thể giải thích do xuất phát từ tâm lý cho rằng người có ưu thế về kinh tế sẽ là người có quyền quyết định mọi việc. Bởi vậy, nếu người vợ có thu nhập cao hơn chồng thì quyền lực của người chồng trong gia đình có nguy cơ bị lung lay. BLGĐ chính là cách để họ bảo vệ vị trí của mình trong gia đình, uy quyền của mình đối với vợ con. 3. HẬU QUẢ CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH Một nghiên cứu về bạo lực ở TP Thái Bình cho thấy rằng : Hình 6 :Hậu quả đối với vật chất và tinh thần Bạo lực gia đình gây hậu quả về cả thể chất và tinh thần. Trước hết bạo lực gia đình gây chấn thương, giảm sức khỏe đối với nạn nhân (chiếm 76,81%), gây suy nhược thần kinh (chiếm 65,42%). Bạo lực gia đình tổn hại sức khoẻ của nạn nhân là quá rõ, sự căng thẳng, lo lắng, suy nghĩ dẫn đến mất ngủ, thần kinh bị suy nhược và đau đớn do chấn thương gây ra thì sự suy xụp về sức khoẻ là lẽ đương nhiên, trầm trọng hơn bạo lực còn có thể gây án mạng Làm hư hỏng con cái , 72.64 Ảnh hưởng đến hình thành nhân cách, 77.64 Làm hư hỏng con cái Ảnh hưởng đến hình thành nhân cách Hình 7: Bạo lực gia đình tác động đến trẻ em Các hậu quả khác của bạo lực gia đình cũng được kết quả nghiên cứu chỉ ra đó là làm hư hỏng con cái (chiếm 72,64%); ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách trẻ em (chiếm77,64%). Sống trong một gia đình thường xuyên xẩy ra bạo lực, trẻ em luôn cảm thấy buồn chán, lo lắng và sợ hãi, thậm chí có trẻ em muốn bỏ nhà ra đi, dễ xa vào các tệ nạn xã hội, xa lánh cha mẹ và không còn kính trọng cha mẹ nữa. Những điều nêu trên ảnh hưởng xấu đến phát triển nhân cách của trẻ, những trẻ em này sẽ rất khó khăn vươn lên trong cuộc sống, học tập và trưởng thành. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng, khi bạo lực gia đình không được chấm dứt thì sự tan vỡ hạnh phúc gia đình (chiếm 71,67%) là điều khó tránh khỏi. Do bạo lực gia đình gây hậu quả về sức khoẻ, tính mạng như đã phân tích ở trên nên ít ai có thể sống mãi trong một gia đình luôn có bạo lực, do vậy giải pháp lựa chọn của các gia đình này là ly hôn. Thực tế nhiều vụ ly hôn, sự thiệt thòi thường về phía người vợ và những đứa con…. Theo một nghiên cứu khác tại Đà Nẵng cho biết : Hậu quả đối với phụ nữ Cũng theo trung tâm giám định pháp y thành phố Đà Nẵng, trong 4 năm (2002 - 2005) có 1.680 phụ nữ và trẻ em bị bạo hành đến giám định pháp y, trong đó có 190 trường hợp bị chồng đánh (chiếm 13,31%). Theo báo cáo của Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ em thành phố Đà Nẵng, hiện nay nạn nhân của nạn bạo hành trong gia đình có 90% là nữ giới. Trong số đó,45% bị chồng đánh đập, gần 80% bị sỉ nhục, đe doạ, hơn 70% bị bỏ mặc,không quan tâm, gần 10% bị chồng cấm đoán tham gia các hoạt động xã hội và gần 20% bị chồng bắt ép mang, phá thai theo ý muốn. Hậu quả đối với trẻ em Những đứa trẻ ở trong gia đình thường xuyên có cảnh bạo lực sẽ có các di chứng như là nhiễu tâm lý và trầm cảm, sự gây hấn, sự sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng. Theo số liệu của Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em, 80% các em bỏ nhà đi lang thang hoặc phạm pháp do cha mẹ mâu thuẫn. Các em khi bỏ nhà đi sẽ phải chịu những thiệt thòi như bị bóc lột sức lao động, bị xua đuổi, không có chỗ ở ổn định, bị đánh đập hay đau ốm không ai chăm sóc và có thể bị lạm dụng tình dục, bị nhiễm các thói hư tật xấu. III. CÁC NHÂN TỐ CÓ QUAN HỆ ĐẾN BẠO LỰC GIA ĐÌNH Nhằm tìm giải pháp hữu hiệu nhằm giảm tình trạng bạo lực, đề tài tiến hành nghiên cứu nhân tố có liên quan đến bạo lực gia đình, cụ thể gồm những nhân tố sau Khi xét một nghiên cứu của ĐH Đà Nẵng cho biết 1 Tôn giáo và tình trạng bạo lực gia đình Bảng 1: Mối quan hệ giữa tôn giáo và các hành vi bạo lực gia đình thường Tôn giáo Đạo Phật Thiên Chúa giáo Không theo tôn giáo Số vụ Số vụ Số vụ Đánh đấm, tát tai Chửi mắng, nhục mạ, xỉ vả Cấm tham gia các hoạt động xã hội, quan hệ với mọi người Ngăn chặn sử dụng các biện pháp tránh thai Bắt mang, phá thai theo ý muốn Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm Kiểm soát thu nhập,chi tiêu Không đóng góp vào kinh tế gia đình 17 31 18 13 3 12 18 27 3 5 3 1 0 3 2 8 83 94 72 27 20 82 76 95 Tiến hành kiểm định Khi bình phương với H0: Các hành vi bạo lực không có mối tương quan đối với tôn giáo. H1: Các hành vi bạo lực có mối tương quan đối với tôn giáo Bảng2: Kiểm định Khi bình phương Hành vi bạo lực thường xảy ra Value Chi-square 18,534 df 4Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm Sig 0,005 So sánh các giá trị Sig của các hành vi với 0,05 chỉ có hành vi “Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm” có giá trị Sig = 0,005<0,05 còn lại tất cả các hành vi khác đều có giá trị Sig > 0,05 => Bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Từ đó có thể kết luận rằng các hành vi bạo lực thường xảy ra trong gia đình không có mối tương quan đối với tôn giáo 2 Nghề nghiệp và tình trạng bạo lực Bảng 3: Mối quan hệ giữa nghề nghiệp và các hành vi bạo lực gia đình thường gặp Nghề nghiệp Công nhân viên chức Lực lượng vũ trang Buôn bán dịch vụ Lao động phổ thông Thất nghiệp Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Đánh đấm, tát tai Chửi mắng, nhục mạ, xỉ vả Cấm tham gia các hoạt động xã hội, quan hệ với mọi người Ngăn chặn sử dụng các biện pháp tránh thai Bắt mang, phá thai theo ý muốn Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm Kiểm soát thu nhập, chi tiêu Không đóng góp vào kinh tế gia đình 9 8 9 4 4 10 10 12 15 13 12 3 1 12 12 16 23 27 21 3 1 23 16 27 30 51 31 25 3 34 37 46 26 32 22 7 14 18 23 33 Qua kiểm định tính độc lập Khi bình phương thấy rằng các giá trị Sig của tất cả các hành vi bạo lực thường xảy ra trong gia đình đều nhỏ hơn 0,05. Vì vậy bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1 có nghĩa là các hành vi bạo lực gia đình xảy ra hoàn toàn có mối tương quan với từng loại nghề nghiệp khác nhau. 3 Trình độ học vấn và tình trạng bạo lực Qua kiểm định tính độc lập Khi bình phương thấy rằng các giá trị Sig của tất cả các hành vi bạo lực thường xảy ra trong gia đình đều nhỏ hơn 0,05. Vì vậy bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1 có nghĩa là các hành vi bạo lực gia đình xảy ra hoàn toàn có mối tương quan với từng loại nghề nghiệp 23.1 07.7 38.5 30.8 0 1.8 8.8 40.4 32.5 9.2 7.5 31.3 31.6 43.9 16.5 3.8 4.60 38.5 46.8 7.3 2.8 0 71.4 0 28.6 0 0 30 60 10 0 3.13.8 36.5 39.3 12.6 4.7 0% 20% 40% 60% 80% 100% Mù chữ Tiểu học THCS PTTH TC/CĐ Đại học Tổng Khác Không nhớ rõ Năm một vài lần Tháng một vài lần Tuần một vài lần Hàng ngày Bảng 4: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và các hành vi bạo lực gia đình thường gặ Hình 8: Mối tương quan giữa trình độ học vấn và bạo hành Khi xem xét tương quan giữa trình độ học vấn và mức độ mâu thuẫn trong gia đình, kết quả thu được là: trong tổng số những người được hỏi thì có 23,1% đối tượng mù chữ khẳng định gia đình hàng ngày có xảy ra mâu thuẫn; chỉ có 1,8% đối tượng tiểu học; 3% đối tượng THCS và 4,6% đôi tượng PTTH cho rằng gia đình họ hàng ngày có xảy ra mâu thuẫn. Trong số các đối tượng được phỏng vấn có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên khẳng định gia đình họ không xảy ra mâu thuẫn ở mức độ thường xuyên (hàng ngày và tuần một vài lần). Các đối tượng được hỏi khẳng định gia đình họ mỗi tháng có một vài lần xảy ra mâu thuẫn là tương đối nhiều. Có đến 71,4% đối tượng học vấn trung cấp/cao đẳng; 40,4% đối tượng học vấn tiểu học; 38,5% đối tượng học vấn Trình độ học vấn Cấp 1- 2 Cấp 3 Trung cấp Cao đẳng, Đại học Số vụ Số vụ Số vụ Số vụ Đánh đấm, tát tai Chửi mắng, nhục mạ, xỉ vả Cấm tham gia các hoạt động xã hội, quan hệ với mọi người Ngăn chặn sử dụng các biện pháp tránh thai Bắt mang, phá thai theo ý muốn Phớt lờ, thờ ơ, vô trách nhiệm Kiểm soát thu nhập,chi tiêu Không đóng góp vào kinh tế gia đình 87 96 61 31 18 65 70 87 15 23 12 7 4 16 13 22 2 4 5 2 0 6 3 8 9 11 28 2 1 18 18 21 PTTH và 31,6% đối tượng THCS khi được hỏi đều cho rằng gia đình họ mỗi tháng có một vài lần xảy ra mâu thuẫn. Tỷ lệ này ở nhóm đối tượng có học vấn đại học trở lên tuy thấp hơn (30%) nhưng cũng là một con số rất đáng quan tâm 4 Lối sống và hoàn cảnh sống và bạo lực - Qua nghiên cứu mối quan hệ này, đề tài có thể kết luận sau: Do người chồng mắc vào các tệ nạn xã hội, chiếm 60 – 70%; do những bất đồng, khó khăn trong kinh tế gia đình, việc nuôi dạy con cái, hay tình dục. - Tâm lý gia trưởng của nam giới - Do tư tưởng gia trưởng, phong kiến, trọng nam khinh nữ của người chồng, chiếm 72%. Thái độ của phụ nữ và bạo lực - Do tâm lý của người phụ nữ là cam chịu, che giấu cho chồng, không dám nói lên sự thật .5 Môi trường quản lý xã hội và bạo lực Việc phòng chống bạo lực gia đình hiện chưa được quan tâm đúng mức, các biện pháp được thể hiện trong bảng 2-6 chủ yếu chỉ mang tính giáo dục, không có hiệu quả răn đe mạnh đối với người vi phạm Hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta trong việc phòng chống bạo lực gia đình đủ cơ sở pháp lý nhưng thiếu khả năng thực thi do những nguyên nhân CHƯƠNG 4 : NỘI DUNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH I. BẠO LỰC THỂ CHẤT : 1. Về mặt sức khỏe và tính mạng : Bạo lực thể chất gây ảnh hưởng hết sức to lớn đến sức khỏe và tính mạng của nạn nhân bị bạo lực. Bị đánh đập hành hạ về mặt thể xác khiến cho nạn nhân suy giảm sức khỏe mất khả năng lao động và có thể dẫn đến một số bệnh như tâm thần cũng như một số thì tìm cách tự tử Theo kết quả cuộc điều tra của Uỷ ban các vấn đề xã hội thực hiện tại 10 huyện thuộc 8 tỉnh trên cả nước vào năm 2006, kết quả thu được cho thấy 10% số vụ bạo hành gia đình dẫn đến những thương tích nặng gây tàn phế. giảm khả năng lao động, tử vong do đánh đập, đầu độc hoặc sử dụng hung khí.• Và chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 3 năm 2006 đến tháng 7 năm 2006 , trung tâm tư vấn chăm sóc sức khỏe bênh viện Đa khoa Đức Giang đã tiếp gần 1.300 phụ nữ đến kêu cứu trong tình trạng mặt mũi bị thâm tím , gãy tay, chân , răng , xương sườn do chồng hoặc gia đình nhà chồng đánh đập Theo báo cáo của sở y tế An Giang : Trong năm 2005 trong số 1319 bệnh nhân là nạn nhân của bạo lực gia đình thì có 1011 người có hành vi tự tự và 30 người trong số đó đã chết Theo báo cáo của bộ công an thì cứ 2 -3 ngày có một vụ chết người liên quan đến bạo lực gia đình . Khảo sát trong số 1113 người bị chết do 115 người chết vì bạo lực gia đình :39 vụ chồng giết vợ và 8 vụ vợ giết chồng ( Ks: 23.8.06) Theo thống kê của trung tâm tư vấn sức khỏe phụ nữ thì trong số phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình tìm đến đây thì có tới 50 % bị thương tích ở vùng đầu . 10 % là chấn thương xương và 40 % là đa chấn thương và có những nạn nhân khi đến trung tâm thì tử vong 2. Tình trạng gia đình tan vỡ Ngày nay bạo lực gia đình khiến ngày càng nhiều có nhieeuf tỷ lệ ly hôn nhiều hơn trong các gia đình trẻ . Nhất là những phụ nữ ở những thành phố lớn hoặc những vùng có khu vực dân trí cao thường chọn cho mình cách giải thoát khỏi sự đánh đạp dã man bằng cách chọn phương án li hôn Theo số liệu bộ công An năn 2004 . Số vụ ly hôn có chiều hướng tăng nhanh Năm 1991. có 22.634 vụ ly hôn thì 8 năm sau 2000 thì có 30.000 vụ . Trên 70 % trong đó là bạo lực gia đình Theo tòa án nhân dân tối cao kể từ năm 2000 đến năm 2005 . Tòa án xử lí 186.954 vụ ly hôn do bạo lực gia đình trong đó đánh đập ngược đãi chiếm tới 53. 1% trong tất cả các nguyên nhân Cũng theo số liệu của tòa án nhân dân tối cao chỉ tính riêng đến năm 2005 số vụ việc ly hôn bạo lực gia đình chếm tới 60 % /. Trên đìa bàn Hà Nội theo thống kê của Tòa án nhân trong 8 năm thực hiện luật hôn nhân gia đình thì có tới 7372 vụ ly hôm xuất phát từ nguyên nhân do những người phụ nữ bị đánh đập hành hạ. Phụ nữ đứng đơn ly hôn do chông ngược đãi phụ bac chiếm từ 70 -80 % Như trường hợp của chị Thu H ( Thị trấn Thiên Tôn. Hoa Lư ) Nhìn bề ngoài ai cũng bảo chị tốt số. Chồng là một kĩ sư xây dựng, vừa đẹp trai vừa có tài và kiếm được rất nhiều tiền , Nhưng à trong ngôi nhà cao tầng đó chị H đang phải chịu cảnh” địa ngục trần gian “ . Chị kể : “ Anh ta cầm tôi bước chân ra khỏi nhà , cả đi chơ cũng là việc của mẹ chồng. Tôi tốt nghiệp đại học nhưng anh ta không cho tôi đi làm . phải ở nhà phục dịch anh ta . Có lân đánh bạo ra ngoài xiin việc , khi về nhà hàng tháng tròi anh ta không them nhìn mặt ., không ăn , không ngủ cùng, không đưa tiền cho tôi , . Việc hành hạ tinh thần khiến tối không thể chịu nổi . một lần tôi liều về nhà mẹ đẻ , ngờ đâu chống túm tóc đánh cho một trận tơi bời..Rồi chin H thổn thức “ Nếu chấp nhận ly hôn tôi sẽ gặp nhiều khó khăn về kinh tế . Tôi đau khổ đủ rồi . Dù không còn gì tôi cũng quyết định ly hôn và sẽ cố gắng nuôi cọn một mình “ Còn rất nhiều. Tình trạng bạo hành vẫn cứ diễn ra và từ đó tình trạng ly hôn cũng đang ngày càng gia tăng 3. Sự thay đổi vị thế giữa nam và nữ Ngày nay thực tế nhiều trường hợp phụ nư kiếm được nhiều tiến hơn chồng nhưng vẫn bị chồng đánh . Sở dĩ có tình trạng như vậy là có các ông chồng cảm thấy địa vị trụ cột làm chủ gia đình của mình đang bị đe dọa Theo nghiên cứu của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thì những trường hợp này chiềm 72% trong só những vụ xung đột gia đình Bạo lực thể chất không chỉ là hình thức , hành vi đánh đập gây thương tích cho nạn nhân mà bên cành đó còn có những hành thức khác như cấm đoán việc ăn . ngủ , mặc quần áo. ..khiến sức khỏe nạn nhân bị suy kiện thậm chí dẫn đến tử vong Tại Bắc Giang , chồng ép vợ cởi quần áo, nhốt vào chuồng chó và gọi mẹ vợ sang chứng kiến .Khiến cho nạn nhân không chỉ chịu hành hạ về mặt thể xác mà gây ra nhưng đau đớn về mặt tinh thần * Trẻ em cũng là đối tượng phải chiuk những bạo lực về thể chất như bắt nhịn ăn bị phạt đánh đòn chỉ vì điểm kém hoặc không nghe lời cha mẹ . Hoặc cha mẹ có những hành động suy nghĩ sai lếch trong việc giáo dục con cái lạm dụng quyền cha mẹ để thực hiện những hành vi tàn bạo đối với con cái mình Hiện nay dư luận đang bức xúc vụ người mẹ cắt ngon tay đưa con 3 tuổi của mình chỉ vì em đã nghịch tờ tiền, cắt ngón chân em vì em trèo lên cây bị ngã Những người già trong gia đình cũng là đối tượng bị bạo lực về thể chất. Việc con cái đánh cha mẹ thậm chí bỏ đói , không chăm sóc khi cha mẹ ốm đau bệnh tật , đói rét cũng là hành vi gây tổn hại nặng nề về sức khỏe cũng như tinh thần Một nghiên cứu khác năm 2009 của hoạt động của “Chương trình chung giữa Chính phủ và Liên hiệp quốc về Bình đẳng giới” (MDGF-1694). Cho thấy rằng : có 32% phụ nữ đã từng kết hôn cho biết họ đã phải hứng chịu bạo lực thể xác trong đời và 6% đã từng trải qua bạo lực thể xác trong vòng 12 tháng trở lại đây . Tỷ lệ bị bạo lực hiện thời và trong đời trên cả nước lần lượt là 34% và 9%. Trong khi có sự dao động giữa các khu vực, sự dao động được ghi nhận rõ nét giữa các nhóm dân tộc thiểu số khác nhau với tỷ lệ bị bạo lực trong đời dao động từ 8% đến 38%. Tổng hợp kết quả của ba loại bạo lực chính do chồng gây ra trong phần phát hiện cho thấy rằng hơn một nửa (58%) số phụ nữ cho biết đã từng phải hứng chịu ít nhất một trong số ba loại bạo lực kể trên: thể xác, tình dục và tinh thần. Tỷ lệ bị một trong ba loại bạo lực kể trên trong vòng 12 tháng trở lại đây là 27% II. BẠO LỰC TINH THẦN Theo những số liệu gần đây cho thấy 80% phụ nữ bị bạo lực vì tinh thần . Bà Nguyền Thị Minh Hạnh , chuyên viên tại viện chiến lược và chính sách y tế cho hay , trên thế giới , bạo lực gia đình là nguyên nhân thứ 10 gây tử vong cho phụ nữ ở lứa tuổi 15-49 . Ở Việt Nam có 15 % phụ nữ bị bạo lực gia đình về thể chất và 80 % tinh thần và 20 % bị bạo lực tình dục Bạo lực gia đình làm người phụ nữ có nguy cơ tử tự , tăng khả năng lây nhiễm HIV, gây thương tích và tàn tật , sảy thai , lạm dụng rượu và gây trầm cảm . Nhiều tổ chức xã hội nhất định , bạo lực gia đình là nguyên nhân khá phổ biến gây hậu quả khá nghiêm trọng đối với sức khỏe người phụ nữ . nhưng tác hạu của nó vẫn chưa được bản thân nạn nhân ý thức một cách đầy đủ . Với tư tưởng cam chịu còn không ít những phụ nữ đã sống hết đời làm vợ , làm mẹ trong sợ hãi và đau đớn mà không tìm được chỗ dựa về tinh thần cũng như sự bảo vệ của pháp luật ,. Về vấn đề này , từ năm 2000 đến nay . Hội liên hiệp phụ nữ Hà Nội đã phối hợp với văn phòng trợ giúp pháp lí – Sở Tư Pháp xây dựng tổ chức trợ giúp pháp lú cho chị em phụ nữ bạo hành trong gia đình với những người cần trợ giúp đặc biệt , văn phòng sẽ mời đại diện luật sư bảo vệ quyền lợi cho chị em trước Tòa Án Theo thống kê của công ty ứng dụng khoa học tâm lý Hồn Việt, sáu tháng đầu năm 2007 có 82% trong số 702 khách hàng nữ đến tư vấn là nạn nhân của bạo hành. Trong đó chỉ có 28% là bạo hành hành vi, còn lại 72% là bạo hành tinh thần. Trong số các nạn nhân bạo hành, 87% vợ doanh nhân bị bạo hành tinh thần; vợ trí thức 87%, vợ nhà quản lý 91%. "Bạo hành tinh thần là một thực trạng rất đáng lo ngại, phát sinh từ áp lực của cuộc sống công nghiệp. Cảm xúc của một trí thức khi bị tổn thương về tinh thần mạnh mẽ hơn người khác", bà Nguyễn Thị Tâm, giám đốc Hồn Việt, cho biết. Hình 9: Bạo hành của người vợ với người chồng trong gia đình tri thức vợ doanh nhân bị bạo hành tinh thần, 87, 33% vợ trí thức , 87, 33% vợ nhà quản lý , 91, 34% vợ doanh nhân bị bạo hành tinh thần vợ trí thức vợ nhà quản lý Đời tư của con người vì thế không chỉ là chuyện riêng của mỗi cá nhân. Trong đời tư của con người hiện đại, một trong những vấn nạn mang tính thời đại là tình trạng bạo lực gia đình. Chúng ta đều biết rằng, có một nghìn lẻ một cách biểu hiện tình yêu đối với nhau. Thế nhưng, có lẽ còn tồn tại nhiều hơn thế những cách hành hạ nhau, không chỉ bằng hành động "vũ phu" hay "vũ phụ" mà cả bằng những lời nói "ngọt lọt tới xương", đặc biệt ở trong môi trường gia đình... Đau thể xác lắm khi còn dễ khắc phục hơn nhiều so với những nỗi đau tinh thần. Không ngẫu nhiên mà trong "Báo cáo nghiên cứu, khảo sát bạo lực gia đình tại một số tỉnh, thành phố" năm 2006 của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội vừa được công bố trong tháng 3 này tại ''Hội nghị đại biểu về các vấn đề dân cử về phòng, chống bạo lực gia đình và phòng chống HIV/AIDS'', tổ chức ở Vĩnh Long, vấn đề bạo lực tinh thần đã được chú trọng cao độ, nhất là tình trạng "khẩu chiến". Trong những cuộc điều tra xã hội đã được tiến hành, đa số người dân đều cho rằng bạo hành tinh thần là chửi mắng, sử dụng ngôn ngữ để xúc phạm nhân phẩm người khác. Thực ra thì bạo hành tinh thần còn bộc lộ ở nhiều hành vi khác như: cấm đoán, cô lập không cho tiếp xúc với người khác; quấy rối và gây áp lực một cách thường xuyên về tâm lý... Có trường hợp con cháu không ngần ngại bỏ rơi ông, bà, cha, mẹ; xua đuổi, hành hạ, gây sức ép tâm lý để đạt được lợi ích về kinh tế. Nhiều trường hợp, người chồng do ghen tuông đã tổ chức cho người theo dõi vợ, không cho vợ giao tiếp với bạn bè, đồng nghiệp... Có tới 42% số người được hỏi ý kiến đã xếp việc mắng chửi là bạo lực gia đình ở hình thức tinh thần. Và ở nước ta hiện nay có tới 25% số gia đình đang thường xuyên xảy ra các hiện tượng bạo lực về tinh thần. Một điều cần lưu ý là phụ nữ thường xuyên gây nên những vụ bạo lực tinh thần hơn là nam giới! Xã hội càng phát triển, con người càng thu nhận được nhiều tri thức thì các loại hình bạo lực tinh thần theo kiểu ''trí thức'' và ''im lặng là vàng'' lại càng tác oai tác quái, nguy hiểm và khó đấu tranh hơn nhiều. Cũng theo tài liệu được công bố trong cuộc hội thảo ở Vĩnh Long, thông thường không dễ phát hiện để xử lý các tình huống bạo lực tinh thần vì chúng không để lại "tang chứng, vật chứng" trên cơ thể nạn nhân, lại có chiều hướng gia tăng khi kinh tế - xã hội phát triển. Những vết thương lòng do các hiện tượng bạo lực tinh thần gây nên lại sâu sắc và lâu dài hơn những cơn đau thể xác. Chúng đặc biệt gây nên những ảnh hưởng mạnh mẽ tới chấn động đời sống tình cảm tâm lý của các nạn nhân. Một điều đáng buồn là ở nước ta, các vụ bạo lực tinh thần lại hay xảy ra ở các gia đình trí thức, cả vợ lẫn chồng đều bằng cấp đầy mình và có thu nhập cao hơn mức trung bình rất nhiều lần. Trong những gia đình như thế, lắm khi các thành viên vì sĩ diện hay vì sợ mất những phúc lộc đang sở hữu, đã ngậm bồ hòn làm ngọt và "diễn" với xung quanh như thể họ đang rất hạnh phúc. Mọi sự chỉ bị đổ bể khi đã "quá mù ra mưa" và khi ấy, không thể làm gì cứu vãn được hạnh phúc gia đình của họ... Biết nhiều chữ chưa chắc đã là sự đảm bảo cho một cách xử sự có văn hóa và nhân văn đối với người khác, nhất là những người thân thiết như vợ hay người yêu...Một điều đáng lo ngại là bạo lực tinh thần không chỉ gây tổn thương lên nạn nhân trực tiếp mà còn ảnh hưởng đến các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là trẻ em. Những tiểu xảo trong bạo lực tinh thần có thể càng ngày càng làm không khí trong gia đình trở nên căng thẳng hơn và sẽ khiến tâm lý trẻ không ổn định. Rốt cục là việc này có thể gây lệch lạc về nhận thức cũng như sự phát triển thể chất của trẻ... Một Cuộc khảo sát được Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đưa ra tại cuộc Hội thảo “Vai trò của nữ nghị sĩ trong việc thúc đẩy các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình” vừa diễn ra tại TP.Huế. Theo Uỷ ban này, qua phỏng vấn 2.000 người tại 8 tỉnh, TP, cho thấy hàng năm có hơn 1/4 gia đình có hành vi bạo hành tinh thần. Tại ĐBSCL, số bệnh nhân là nạn nhân hoặc có dấu hiệu là nạn nhân bạo lực gia đình đã điều trị hàng năm là gần 1500 người/năm, trong số đó gần 1200 người tự tử và 300 người bị giết. Ở Tây Nguyên có tỷ lệ gần 800/50 người tự tử/ bị giết. Đặc biệt, trong tổng số hơn 1000 vụ giết người hàng năm, số liên quan đến bạo lực gia đình chiếm 14%. III.BẠO LỰC TÌNH DỤC Nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy, cứ 4 phụ nữ có một người phải chịu bạo lực tình dục ít nhất một lần trong đời, do chính chồng hay bạn tình của mình gây ra. Với quan niệm của người Á Đông, nhất là người Việt Nam không ai mang chuyện "phòng the" ra trước ánh sáng, nhưng kết quả nghiên cứu của WHO đưa ra khiến chúng ta phải suy nghĩ. Theo UNICEF, cứ 100 trẻ em được hỏi thì có 3 em đã bị hiếp dâm hoặc chịu hình thức xâm hại khác khi còn nhỏ và 2 trong số đó bị ép buộc 1 lần hoặc vài lần. Trong số những trường hợp này, cứ 100 người thì có hơn 9 người gây ra hành vi lạm dụng tình dục được xác định là họ hàng, hơn 1 là cha, cha dượng hoặc người tình của mẹ. Cũng theo số liệu điều tra, bạo lực tình dục chiếm khoảng 10-69% tổng số các vụ bạo lực gia đình. Theo số liệu của Bộ Y tế, 1/3 người nhiễm HIV đang là phụ nữ và tình dục - BLTD được xác định là ngòi nổ gây ra căn bệnh AIDS đối với phụ nữ, bởi có đến 70% số ca lây nhiễm qua con đường này. BLTD làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV của phụ nữ qua việc cưỡng ép tình dục, không cho phụ nữ sử dụng bao cao su, chồng đi quan hệ “bên ngoài” rồi về lây bệnh cho vợ, cố tình lây cho bạn đời để cùng chết! Trong quá trình đi khảo sát, hiếm hoi lắm các chuyên gia nghiên cứu mới có thể nhận được một tâm sự như thế này: “Những lúc ốm đau, người mệt em không đáp ứng được, anh ấy cứ đánh chửi cả đêm”. Một cán bộ tư pháp xã cho biết: “Chuyện này (quan hệ tình dục - QHTD) thầm kín lắm, mấy ai nói ra. Có chị em kể, đi làm về chỉ muốn ăn cơm xong rồi nằm nghỉ, mà chồng cứ đòi quan hệ, vợ không đồng ý thì chồng xông ra bóp cổ, đánh đập ngay trong giường, có ai mà biết được...!? Chỉ rất ít người nói về việc này. Họ tâm sự như là kể về một lần thoát chết vì gặp may, chứ cũng không hiểu đấy là bị bạo lực”. Cam chịu là mầm hoạ : Câu chuyện sau đây của chị Hương (53 tuổi) khiến nhiều người không dám tin. Hai lần chị có thai, là hai lần chồng chị bắt bỏ. Lý do, anh không tin đó là c on của mình. Một mình chị phải tới bệnh viện giải quyết trong nỗi đau về thể xác, cộng thêm sự ấm ức, tủi nhục. Vợ chồng chị lấy nhau vì tình yêu đấy chứ. Vì yêu, chị cưỡng lại lời cha mẹ lấy một người “tỉnh lẻ”, vì yêu chị sẵn sàng xách đồ đi thuê nhà ở với người yêu. Có lẽ vì nghèo, nên anh luôn cảm thấy bức bối trước cảnh thiên hạ sắm sanh cái nọ cái kia. Có lẽ vì nghèo nên anh tưởng: lấy chị anh sẽ có tất cả. Chị bảo, nếu chăm chỉ, sớm muộn gì cũng sẽ có của ăn của để thôi. Nhưng anh chỉ muốn giàu nhanh, giàu mà không phải cố gắng gì. Bất mãn, anh quay sang dằn hắt vợ con. Tệ hơn, anh trở nên ghen bóng gió với những người bạn trai cũ của chị. Bố chị mất được 3 ngày, anh không cần biết tâm trạng của chị thế nào, uống rượu vào rồi... ép! Chị có đứa thứ hai. Hồi đó, chị cũng định bỏ đi, nhưng nghĩ đang có tang nên lại thôi... “Nhục nhã lắm. Anh ta nói, làm chuyện đó với tôi không bằng... gái làng chơi. Anh muốn đi đâu cũng được, về nhà để tôi yên, thì tôi vẫn chấp nhận. Nhưng, không yêu, anh ta vẫn làm chuyện ấy khi muốn”. Chị Hương kể trong lưng tròng nước mắt. Theo kết quả khảo sát Tổng cục Thống kê công bố 29/11. Cuộc khảo sát được tiến hành với gần 5.000 người phụ nữ, có độ tuổi từ 18 đến 60, tại 63 tỉnh thành trên cả nước, thời gian từ tháng 12/2009 tới tháng 1/2010, đối với các hành vi bạo lực thể xác, bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần và kinh tế do người chồng gây ra. Theo đó, có 58% phụ nữ có chồng đã từng phải hứng chịu bạo lực gia đình, chủ yếu do người chồng gây ra. Cụ thể, có 32% phụ nữ phải chịu bạo lực thể xác; 10% phụ nữ phải chịu bạo lực tình dục; 54% phụ nữ phải hứng chịu bạo lực tinh thần, và 9% đối với hình thức bạo lực kinh tế. Đặc biệt, những người phụ nữ mang thai cũng có nguy cơ bị bạo hành do người chồng gây ra. "Trong đó, chỉ có 1% phụ nữ bị bạo hành tìm đến các sự trợ giúp của xã hội, đây là một tỉ lệ quá ít.", ông Nguyễn Phong, Vụ trưởng vụ Thống kê Xã hội, Môi trường – Tổng cục Thống kê đánh giá. 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 Tr un g du v à m iề n B ắc Tr un g B ộ và Đ ôn g N am B ộ V iệ t N am Thể xác Tình dục Thể xác hoặc tình dục CHƯƠNG 5: 1. NHẬN THỨC , QUAN ĐIỂM , THÁI ĐỘ VÀ CAN THIỆP ĐỐI VỚI BLGD 1.1. Đánh giá nhận thức, quan điểm, thái độ của cán bộ cơ sở và hội viên phụ nữ. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng đánh, đá, tát (chiếm 81,93%) và chửi mắmg xúc phạm (chiếm 72,11%) là bạo lực gia đình còn các hành vi khác như bỏ mặc không quan tâm, cấm đoán, cưỡng ép quan hệ tình dục không có nhiều ý kiến cho đó là hành vi bạo lực gia đình. Như vậy nhận thức về hành vi bạo lực gia đình của cán bộ, hội viên phụ nữ vẫn tập trung chủ yếu vào 2 loại hành vi đó là bạo lực về thể chất và bạo lực tinh thần còn các dạng bạo lực tinh thần khác (Bỏ mặc, cấm đoán, ngoại tình, ép quan hệ tình dục..) chưa được nhận thức đầy đủ và một quan điểm hết sức sai lầm khác cho rằng chồng có quyền đánh vợ vẫn còn trong nhận thức của trên 9% phụ nữ. Kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng những người gây bạo lực gia đình thường có học vấn thấp, kém hiểu biết và người gây mâu thuẫn đầu tiên là người chồng, nạn nhân của bạo lực gia đình chủ yếu là người vợ và con cái. Thực tế cũng có phụ nữ gây bạo lực với chồng song chủ yếu là trì triết, chửi mắng, thiếu sự quan tâm, rất ít trường hợp đánh chồng. Những gia đình mà phụ nữ gây bạo lực lại với chồng là do người chồng gia trưởng, trọng nam, khinh nữ, xúc phạm vợ và gia đình nhà vợ, chồng đòi hỏi phải cung phụng, đáp ứng những nhu cầu vô lý. Khi người vợ bị đánh chưa gây thương tích thì chị em im lặng (chiếm 52,96%), kết quả nghiên cứu này thể hiện sự nhẫn chịu của chị em. Chị em sợ nói ra sẽ bị chồng đánh đau thêm và xấu hổ với mọi người, chỉ khi bị đánh gây thương tích nhiều chị em mới giám nói ra ( tỷ lệ "im lặng" giảm xuống còn 28,3%) Phân tích còn cho thấy đối với các hành vi bạo lực khác như bị chửi thậm tệ, cấm không cho tham gia công tác xã hội, bắt phải đẻ con trai, cấm không cho dùng biện pháp tránh thai, buộc phải quan hệ tình dục thì phần lớn chị em "tranh luận" (chiếm tỷ lệ trên 50%), điều này cho thấy rằng sự "tranh luận" và thuyết phục chồng nhiều khi cũng cần thiết để cho chồng hiểu mình hơn, để tranh luận đi đến thống nhất thì chị em cần phải có kỹ năng và phương pháp nhất định. Nghiên cứu về sự can thiệp đối với bạo lực gia đình cho thấy Phụ nữ bị bạo lực tìm đến sự can thiệp đầu tiên là gia đình của mình (chiếm 45%); tìm đến sự can thiệp của hàng xóm (chiếm 55,3%) ; tìm đến sự can thiệp của HPN (chiếm 37,41%) ; số còn lại là tìm đến sự can thiệp của bạn bè, người có uy tín. Khi tâm sự riêng với phụ nữ bị bạo lực (đánh, chửi), có 55% các chị nói khi bị đánh thì chạy sang nhà hàng xóm, 32,5% về nhà mẹ đẻ, 12,5% ngồi khóc. Lý do chị em tìm đến sự can thiệp, giúp đỡ là mong chồng được phân tích phải trái, đúng sai, giúp cho chồng hiểu để thay đổi hành vi từ đó giữ vững hạnh phúc gia đình. Phụ nữ bị bạo lực tìm đến sự giúp đỡ của chính quyền, tổ hòa giải khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ bị tan vỡ (chiếm 35,93% người được phỏng vấn trả lời); khi bị bạo lực nhiều lần ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe (chiếm 43,98% người được phỏng vấn trả lời). Phụ nữ bị bạo lực đưa vụ việc ra tòa khi không còn hy vọng cứu vãn hạnh phúc gia đình và có ý định ly hôn (chiếm 59,26 người được phỏng vấn trả lời). Khi hạnh phúc gia đình còn có thể hàn gắn được, vì danh dự gia đình, vì con cái thì vụ việc không được đưa ra tòa. Về thái độ của cộng đồng đối với vấn đề bạo lực gia đình thì hầu hết là chê trách cả vợ và chồng, song có tới 60,83% lên án người chồng, 16,57% lên án người vợ nhưng điều đáng để chúng ta lưu tâm là có 13,94% người được hỏi cho rằng đó là vấn đề riêng của các gia đình nên không quan tâm và nếu có quan tâm nhiều khi lại bị gây phiền phức. 4.2. Sự can thiệp của chính quyền, đoàn thể, gia đình, cộng đồng đối với các vụ bạo lực gia đình. Vai trò của các tổ chức, cá nhân nêu trên là rất quan trọng đặc biệt là : Công an xã, tổ hoà giải, trưởng thôn, cán bộ các đoàn thể, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư và gia đình 2 bên đều có vai trò rất quan trọng trong việc can thiệp các vụ bạo lực gia đình, cần tổ chức như thế nào để phát huy tốt vai trò của các tổ chức, cá nhân trên trong công tác phòng chống bạo lực gia đình, kết quả nghiên cứu này rất có ý nghĩa trong việc đề ra giải pháp phòng chống bạo lực gia đình ở cơ sở. Để giảm nạn bạo lực gia đình thì việc ngăn ngừa bạo lực xẩy ra là chính, do đó công tác tuyên truyền tư vấn cho các thành viên gia đình để giảm đi những bất đồng, mâu thuẫn và hành vi bạo lực ở mức độ chưa trầm trọng là rất cần thiết. Tuy nhiên từ kết quả nghiên cứu thì sự can thiệp của các tổ chức nêu trên chủ yếu đối với các vụ bạo lực gia đình nghiêm trọng như đánh đập gây thương tích, làm mất trật tự an ninh, có nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình (chiếm75,74% ý kiến trả lời), chỉ có 7,22% ý kiến cho là các tổ chức trên can thiệp đối với tất cả các hành vi bạo lực gia đình. Hình 10: Quan điểm của người được hỏi với sự can thiệp của tổ chức nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình , 75.74, 91% là các tổ chức trên can thiệp đối với tất cả các hành vi bạo lực gia đình. , 7.22, 9% nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình là các tổ chức trên can thiệp đối với tất cả các hành vi bạo lực gia đình. Từ kết quả nghiên cứu trên cho chúng ta thấy, việc ngăn ngừa bạo lực gia đình từ lúc manh nha, việc tư vấn cho các gia đình để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn còn chưa được quan tâm can thiệp kịp thời. Đây là điểm yếu, điểm hạn chế trong công tác phòng chống bạo lực gia đình hiện nay. Việc đưa các vụ bạo lực gia đình ra phân tích, phê bình góp ý ở các cuộc họp thôn, đoàn thể hầu như chưa có địa phương nào làm được. Có 67,59% ý kiến cho rằng có đưa vấn đề BLGĐ vào trong cuộc họp thôn, đoàn thể song chủ yếu là tuyên truyền các nội dung: Các mối quan hệ trong gia đình; giáo dục con em trong gia đình; xây dựng GĐ khu dân cư thôn làng VH; tổ chức cuộc sống gia đình. Nghiên cứu về những việc làm cụ thể trong việc can thiệp bạo lực gia đình của các tổ chức, cá nhân nêu trên cho thấy họ trực tiếp can ngăn, phân tích hòa giải, tuyên truyền giáo dục pháp luật và khi cần thiết phải lập biên bản, xử phạt người gây ra bạo lực. Khi được các tổ chức, cá nhân trên can thiệp thì bạo lực gia đình sẽ giảm đi (chiếm 94,63% ý kiến ). Ngoài ra các quy định như Gia đình văn hóa, hương ước của thôn, quy định của dòng họ cũng góp phần đáng kể vào việc làm hạn chế bạo lực gia đình Nghiên cứu về ”Giải pháp phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Lê Thị Thu (PCT Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 2000) cho thấy: theo trả lời của bản thân những người trong gia đình có xảy ra bạo lực thì gia đình hai bên, bà con hàng xóm là những người can thiệp giúp đỡ nhiều nhất khi xảy ra vụ việc chồng đánh vợ. Trong khi đó, tỷ lệ những vụ BLGĐ được chính quyền và công an can thiệp là rất thấp Hình 11 : Sự can thiệp với BLGĐ Gia đình nhà chồng, 49.5, 29% Ga đình nhà vợ, 17.7, 10%Hội phụ nữ, 36.3, 21% Bà con lối xóm, 62.7, 37% Ban hòa giải, 4.5, 3% Gia đình nhà chồng Ga đình nhà vợ Hội phụ nữ Bà con lối xóm Ban hòa giải Theo khảo sát của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2001), tỷ lệ các ý kiến coi các hành vi bạo lực có thể chấp nhận được trong gia đình như sau: mắng chửi (45% nữ và 45,1% nam); bỏ lửng (9,9% nữ và 11,7% nam); tát (7,9% nữ và 8,4% nam); xỉ vả (4,6% nữ và 6,2% nam); cấm đoán quan hệ với mọi người (3,8% nữ và 4,3% nam). Mặc dù chiếm tỷ lệ thấp hơn nhưng tỷ lệ nam nữ chấp nhận đấm đá hay đánh bằng roi, gậy và cưỡng ép quan hệ tình dục vẫn còn. Cũng trong cuộc khảo sát này, một tỷ lệ khá lớn ý kiến chấp nhận các hành vi bạo lực của chồng đối với vợ trong cuộc sống gia đình (đánh hoặc mắng chửi) nếu vợ mắc một số lỗi được đưa ra: Chồng có thể đánh vợ khi vợ có hành vi: ”quan hệ lăng nhăng” (30,7%); ”cờ bạc/nghiện hút” (22%); ”hỗn láo” (15%)... Chồng có thể mắng chửi (không đánh) khi người vợ: ”làm trái ý chồng” (51,3%); ”không chăm sóc chồng con” (50,2%); ”hỗn láo với chồng” (46,0%); ăn tiêu hoang phí” (44,6%); ”lười biếng” (40,1%); ”không biết làm ăn” (32,8%)... 2 .GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH : 1. Phối hợp với các cấp, các ngành, đoàn thể tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân, phụ nữ về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình. Các cấp, các ngành tăng cường hoạt động tuyên truyền về giới và bình đẳng giới, kiến thức phòng chống bạo lực gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật hôn nhân gia đình và các chuyên đề liên quan đến phòng chống bạo lực gia đình với nhiều nội dung và hình thức phong phú: Tập huấn chuyên đề, hội thảo, toạ đàm, sinh hoạt nhóm, sinh hoạt câu lạc bộ, giao lưu văn nghệ, mít tinh và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tích cực tổ chức tập huấn kiến thức, kỹ năng về phòng chống bạo lực gia đình cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của các Ban, ngành, đoàn thể các cấp, đặc biệt là báo cáo viên, tuyên truyền viên của Hội phụ nữ. Lồng ghép tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình vào các hoạt động của các Ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, tuyên truyền tại các cuộc họp tổ dân phố, họp thôn, xóm, các đoàn thể. 2. Tăng cường các biện pháp giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại các địa phương. Nắm bắt kịp thời các vụ bạo lực gia đình xẩy ra tại địa phương để can thiệp kịp thời, có thể thiết lập "đường dây nóng" để nhận tin báo về các vụ bạo lực gia đình. Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hòa giải của các tổ hòa giải, các tuyên truyền viên, cộng tác viên. Tăng cường tổ chức hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý ở cơ sở. 3. Xây dựng các địa chỉ tin cậy, trung tâm cứu giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình. Địa chỉ tin cậy ở cộng đồng là cá nhân, tổ chức có uy tín, có khả năng và tự nguyện giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình tại cộng đồng dân cư. Tùy theo điều kiện và khả năng thực tế, địa chỉ tin cậy tiếp nhận nạn nhân bạo lực gia đình, hỗ trợ, tư vấn, bố trí nơi tạm lánh cho nạn nhân và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền biết. Các trung tâm cứu giúp phụ nữ bị bạo lực tại địa phương nằm trong trạm y tế xã, phường, thị trấn hoặc các bệnh viện của địa phương. Giao trách nhiệm cho các cán bộ y tế có trách nhiệm chữa trị vết thương cho nạn nhân, các cán bộ y tế không được có thái độ kỳ thị, gây khó khăn đối với nạn nhân bị bạo lực gia đình. 4. Áp dụng các biện pháp giáo dục tại cộng đồng dân cư. tổ chức họp, phê bình, góp ý đối tượng gây bạo lực gia đình. Đối tượng bị góp ý, phê bình là người từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hòa giải nhiều lần mà vẫn tiếp tục có hành vi bạo lực. Xử lý nghiêm người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo luật định. 5. Tích cực triển khai hiệu quả các phong trào thi đua tại địa phương.Tiếp tục vận động hội viên phụ nữ và nhân dân thực hiện tốt các phong trào thi đua như "Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; "Phong trào phụ nữ tích cực học tập. lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", đưa vấn đề phòng chống bạo lực gia đình vào Quy ước, Hương ước của địa phương. Tuyên truyền vận động hội viên phụ tích cực xây dựng gia đình đạt 4 chuẩn mực no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và gia đình văn hóa. Trong triển khai thực hiện cần tổ chức sơ tổng kết, đánh giá kết quả, tuyên truyền khen thưởng biểu dương kịp thời những tập thể, cá nhân điển hình. 6. Đẩy mạnh các hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội. Các cấp, các ngành cần tích cực vào cuộc chỉ đạo tổ chức hiệu quả các hoạt động phòng chống các tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, rượu chè, cờ bạc số đề..) , tuyên truyền vận động để mỗi gia đình thực hiện ngăn chặn các tệ nạn xã hội từ chính gia đình của mình. 7. Xây dựng các mô hình hoạt động phòng chống bạo lực gia đình tại các địa phương. Nghiên cứu xây dựng các mô hình phòng chống bạo lực gia đình phù hợp ở các địa phương, đánh giá nhân rộng các mô hình hoạt động có hiệu quả. Hỗ trợ kinh phí, tài liệu cho hoạt động phòng chống bạo lực gia đình. 8. Tăng cường sự chỉ đạo, tạo điều kiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, đoàn thể trong hoạt động phòng chống bạo lực gia đình. Hoạt động phòng chống BLGĐ cần có sự quan tâm chỉ đạo tạo điều kiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, đoàn thể, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của địa phương, đơn vị. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ KẾT LUẬN: Nghiên cứu về bạo lực gia đình là lĩnh vực tương đối mới, chưa có nhiều chuyên gia nghiên cứu về vấn đề này, tài liệu tham khảo cũng chưa nhiều do vậy nhóm nghiên cứu gặp không ít khó khăn trong quá trình nghiên cứu. Vấn đề bạo lực gia đình là vấn đề mang tính nhạy cảm, mang tính xã hội nên phụ nữ và các thành viên gia đình thường không muốn nói ra, Tuy có những khó khăn nêu trên song với sự cố gắng, nhóm nghiên cứu đề tài đã tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, đã đánh giá được thực trạng tình hình bạo lực gia đình hiện nay ở Thái Bình và đề ra được 8 giải pháp để thực hiện bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình. Về thực trạng bạo lực gia đình theo như đánh giá chỉ ở 10 -20% các gia đình, song theo nhóm nghiên cứu thì tỷ lệ này còn cao hơn vì hình thức bạo lực về kinh tế, tinh thần và tình dục thường bị che dấu nên con số này mang tính ước lượng tương đối. Về chiều hướng của bạo lực gia đình phần lớn đánh giá là giảm, song đó mới nhìn từ góc độ bạo lực về thể chất còn bạo lực tinh thần không hề giảm. Một quan điểm sai lầm của một số người cho rằng cho rằng nam giới có quyền dạy vợ, đánh, đập, chửi mắng vợ vì vợ hay nói dai, cãi lại, hỗn láo với chồng.. đây là quan điểm không thể chấp nhận được. Thực tế không phải chỉ nam giới gây bạo lực với vợ mà người vợ cũng gây bạo lực với chồng song thường thì người khởi động gây bạo lực lại là nam giới. Vấn đề bạo lực gia đình là vấn đề nhạy cảm nên hầu như không có vụ việc nào được đưa ra góp ý, phê bình ở cộng đồng dân cư, đây là điểm yếu trong hoạt động phòng chống bạo lực gia. Hiện nay luật phòng chống bạo lực gia đình đã được triển khai thực hiện thì đây là việc làm đã được quy định trong luật để áp dụng cho những đối tượng gây bạo lực gia đình tái diễn nhiều lần, là cơ sở để áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã và đưa vào cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng nếu hành vi bạo lực vẫn tiếp tục mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (Theo điều 42, 43 luật phòng chống bạo lực gia đình). Về vai trò của các tổ chức, cá nhân tại địa phương trong công tác phòng chống bạo lực gia đình, kết quả nghiên cứu cho thấy các tổ chức tổ hòa giải, Hội phụ nữ, tư pháp, công an xã có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên thực tế hoạt động phòng chống bạo lực gia đình muốn đạt kết quả tốt cần phải có sự tham gia tích cực của tất cả các đoàn thể, của ngành Y tế, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, nhà trường..chứ không chỉ một số tổ chức trên. Vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền cũng cần phải nâng cao, tạo điều kiện chỉ đạo hoạt động này tại địa phương. Các giải pháp phòng chống bạo lực gia đình được xây dựng trên cơ sở kết quả nghiên cứu về thực trạng bạo lực gia đình. Có 8 giải pháp chủ yếu được đề ra song có thể chia thành các nhóm giải pháp chủ yếu đó là truyền thông tư vấn về bạo lực gia đình; giám sát, phát hiện và giải quyết các vụ bạo lực gia đình; các hoạt động hỗ trợ phòng chống bạo lực gia đình và vai trò chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hơp tham gia của các ngành, đoàn thể các cấp trong triển khai thực hiện công tác phòng chống bạo lực gia đình. KHUYẾN NGỊ 1. Đề nghị UBND các xã, phường, thị trấn thành lập Ban chỉ đạo phòng chống bạo lực gia đình nhằm huy động sự tham gia tích cực của các ban ngành, đoàn thể địa phương đối với công tác phòng chống bạo lực gia đình. 2. Đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền tăng cường sự chỉ đạo, tạo điều kiện cho công tác phòng chống bạo lực gia đình tại địa phương, đề nghị các cấp, các ngành, các đoàn thể phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong hoạt động nâng cao bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình. 3. Đề nghị các cấp, các ngành, đoàn thể tích cực hơn nữa trong việc giám sát thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại các địa phương, can thiệp, giải quyết kịp thời khi xẩy ra bạo lực gia đình, phải xử lý nghiêm minh những vụ bạo lực nghiêm trọng, các vụ buôn bán sử dụng chất ma túy, mại dâm, lạm dụng tình dục phụ nữ trẻ em theo pháp luật. 4. Đề nghị tỉnh và trung ương hỗ trợ kinh phí cho tổ chức các hoạt động phòng chống bạo lực gia đình, quan tâm đặc biệt đến các hoạt động truyền thông, tư vấn nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân, phụ nữ về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình. Xây dựng và nhân rộng các mô hình truyền thông có hiệu quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng, nhận thức của người dân về bạo lực gia đình trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay.pdf
Luận văn liên quan