Tiểu luận Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

- Quan điểm thứ 2 với tư tưởng “lạm phát vừa phải” sẽ có tác dụng khuyến khích sản xuất phát triển với tốc độ cao thông qua lạm phát. Những người theo quan điểm này cho rằng sự suy thoái kinh tế còn gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn so với vấn đề lạm phát. Nếu lạm phát ở một mức độ vừa phải, lạm phát cần cho nền kinh tế để giảm bớt gánh nặng nợ nần và do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại. Họ lập luận rằng lạm phát vừa phải đóng vai trò như chất bôi trơn làm cho nền tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn. Hơn nữa cái giá phải trả để cho lạm phát về 0% còn lớn hơn cái giá cho việc chấp nhận một ít lạm phát

pdf21 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2858 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 1 Nhóm 31 Tiểu luận Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 2 Nhóm 31 I. PHẦN MỞ ĐẦU Không lúc nào như thời gian từ đầu năm 2008 đến nay, vấn đề lạm phát và tăng trưởng thu hút sự quan tâm của nhiều giới khác nhau: từ người dân thường mỗi ngày khi ra chợ có cảm nhận như mình bị móc túi; các chủ doanh nghiệp phải vật lộn với những toan tính từ chi phí vật tư, hàng hoá, dịch vụ, lương công nhân đến giá thành, giá bán, thị trường cung cấp vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm; các chủ nhà băng tính toán lãi suất huy động và cho vay như thế nào vừa để thu hút tiền gửi của người gửi tiền và người vay vốn có thể chấp nhận với lãi suất cao hơn; các nhà lập pháp, hành pháp và hoạch định chính sách đau đầu về những đơn thuốc chữa trị cho nền kinh tế khi lâm vào bão bệnh “lạm phát cường độ cao”, hậu quả là tăng trưởng bị suy giảm, đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người có thu nhập thấp gặp khó khăn; trong dài hạn, Chính phủ lại lo ngại khi tăng trưởng kinh tế bị suy giảm gây hậu quả giảm phát, làm cho đời sống của các tầng lớp dân cư càng gặp khó khăn hơn, sức mua giảm dẫn đến kinh tế bị suy thoái, những ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính từ nước Mỹ và toàn cầu đang tác động xấu đến nền kinh tế nước ta, thị trường xuất khẩu hàng hoá bị giảm sút, vốn đầu tư gián tiếp có nguy cơ bị rút khỏi thị trường chứng khoán, vốn đầu tư trực tiếp không thực hiện được như cam kết. Để kích thích nền kinh tế, trong lúc tích luỹ của nền kinh tế, dự trữ ngân sách, dự trữ ngoại hối của nước ta còn rất hạn hẹp, Nhà nước ta không đủ nguồn lực để cung cấp các gói kích thích nền kinh tế như các nước phát triển hoặc như Trung Quốc, Ấn Độ với hàng trăm tỷ đô la; Nhà nước chỉ có những khoản kích thích bằng tăng vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, trợ cấp bằng tăng các khoản cho vay, giảm thuế, giảm lãi suất cho vay, tăng lương hoặc giảm giờ làm việc, giảm giá hàng hoá, dịch vụ hoặc tăng trợ cấp cho các đối tượng chính sách. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 3 Nhóm 31 II. CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Lạm phát 1.1. Khái niệm Bản thân tiền g iấy không có giá tr ị nội tại mà chỉ mang giá tr ị danh nghĩa. Do đó, khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát (inflation), nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dự vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao. Nước Đức năm 1934 đã tránh được nạn lạm phát mặc dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống dưới 2%. Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P. Y. Nếu tổng khối lượng t iền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Để khắc phục tình trạng này cần dùng biện pháp thích hợp để thiết lập lại cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong nhiều trường hợp không hẳn là như vậy, nhà nước có thể tăng cung ứng tiền tệ mà không làm cho giá cả tăng, Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 4 Nhóm 31 không gây ra lạm phát, nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý nghĩa. Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát mà thôi. Vậy tóm lại lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các lại hàng hóa tăng lên đồng loạt. 1.2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát - Sự bất cập và kém hiệu quả của các chính sách điều tiết vĩ mô: như phát hành tiền quá mức nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ làm tăng dư cầu tổng quát.. - Chi phí sản xuất trong nước gia tăng: chi phí quản lý, tiền lương lao động, nguyên liệu, vật tư... - Các điều kiện quốc tế làm xuất hiện t́nh trạng lạm phát xuất khẩu: chiến tranh, khủng hoảng kinh tế khu vực.. - Thiên tai, lũ lụt, hạn hán, động đất, khiến cung sụt giảm đột ngột so với cầu... - Hơn nữa trên thế giới đang nổi lên nguy cơ gây ra lạm phát găn với kỹ thuật tiền tệ điện tử, một thực tiễn mới mẻ của sự phát triển kinh tế và kỹ thuật hiện đại. Việc phổ cập rộng răi hai dạng tiền điện tử hiện nay là thẻ thông minh ( chiếc thẻ nhựa cất giữ và thay thế một lượng tiền nhất định cho trước) và tiền kỹ thuật số tức là chiếc đĩa cứng của máy điện toán dùng trên mạng internet để thanh toán các giao dịch lớn và sẽ thay thế cho tiến séc trong tương lai sẽ gây ra một số lo ngại - Ngoài ra còn có thể có những nguyên nhân khác đi liền với nội chiến, đấu tranh chính trị và cái gọi là kỳ vọng về lạm phát.. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 5 Nhóm 31 1.3. Phân loại lạm phát a. Căn cứ vào định lượng gồm: - Lạm phát vừa phải Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống của người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm ,lãi xuất tiền gử i không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn …  Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những tác động của nó là không đáng kể .Mặt khác ,lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập .Trong thời gian này ,các hãng kinh doanh có khoản thu ổn định ,ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh doanh . - Lạm phát phi mã lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1 năm . Ở mức 2 con số thấp :11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đán kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng ,gây biến động lớn về kinh tế ,các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc ,bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường .Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế - Siêu lạm phát 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất nhanh ,tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã ,nó như một căn bệnh chết người ,tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng ,giá cả tăng nhanh và không ổn định ,tiền luơng thục tế của người lao động bị giảm mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng ,thông tin không còn chính xác ,các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn ,mất phương hướng .Tóm lại ,siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng .Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra . Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 6 Nhóm 31 b. Căn cứ vào định tính - Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng Lạm phát cân bằng Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung. Lạm phát không cân bằng Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra . - Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường  Lạm phát dự đoán trước là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .  Lạm phát bất thường xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm t in của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút  Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài ,vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn .Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm 2. Tăng trưởng kinh tế 1.1. Khái niệm: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc . Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 7 Nhóm 31 Chỉ tiêu chính biểu hiện mức tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ tăng GDP hoặc GNP của thời kỳ sau so với thời kỳ trước: [(GNP1-GNP0)/GNP0].100% 1.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế: - Có vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nó là biểu hiện cần thiết đầu tiên để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạu hậu; để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống.... - Là điều kiện để tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp và nâng cao mức sống của nhân dân... - Là tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia. Tuy vai trò của tăng trưởng kinh tế là hết sức quan trọng, nhưng cần phải tăng trưởng hợp lý. Tăng trưởng phù hợp với khả năng của đất nước ở từng thời kỳ nhất định. Tránh tình trạng tăng trưởng kinh tế ở trạng thái quả nóng, quá thấp. Vì vậy, cần tăng trưởng kinh tế hợp lý tức là phù hợp với khả năng của đất nước trong thời kỳ nhất định. 1.3. Các nhân tố tăng trưởng kinh tế : Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song các nhân tố cơ bản là: a. Vốn: - Là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích luỹ lại cộng với tài nguyên thiên nhiên. - Vốn được thể hiện dưới nhiều hình thức: Hiện vật và tiền tệ. - Mối quan hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư gọi là hiệu suất sử dụng vốn sản phẩm gia tăng ICOR. Những nền kinh tế thành công thường là: Tằng 3% vốn đầu tư thì tăng 1% GDP. - Vai trò của nhân tố vốn đối với tăng trưởng kinh tế không chỉ thể hiện mức vốn đầu tư mà còn ở hiệu suất sử dụng vốn. b. Con người. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 8 Nhóm 31 - Là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó là con người có sức khỏe, có trí tuệ, kỹ năng cao ý chí và nhiệt tình lao động, được tổ chức hợp lý. Con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững vì:  Tài năng, trí tuệ của con người là vô tận. Đây là yếu tố quyết định trong nền kinh tế trí thức. Còn vốn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn.  Con người sáng tạo ra kỹ thuật công nghệ, và sử dụng chúng để sản xuất. Nếu không có con người các yếu tố này không thể tự phát sinh tác dụng.  Vì vậy, phát triển giáo dục - đào tạo, y tế... là để phát huy nhân tố con người. c. Khoa học và công nghệ. - Kỹ thuật tiên tiến và công nghệ mới; nhất là công nghệ cao là động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế ....Đây là nhân tố cho phép tăng trưởng kinh tế và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. d. Cơ cấu kinh tế. e. Thể chế chính trị và quản lý nhà nước. - Đây là nhân tố quan trọng và có quan hệ với các nhân tố khác. Thể chế chính trị ổn định và tiến bộ cùng với sự quản lý có hiệu quả của nhà nước tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; khắc phục được những khuyết tật của các kiểu tăng trưởng kinh tế: gây ô nhiễm môi trường; phân hoá giầu nghèo.... =>Muốn tăng trưởng kinh tế tốt phải đảm bảo thực hiện tốt các nhân tố trên. Nhưng trong đó yếu tố con người và thể chế chính trị là hai nhân tố có vai trò to lớn, đặc biệt là nhân tố con người. III. CÁC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát: Hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi bốn mục tiêu chung - tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư. Trong các mục Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 9 Nhóm 31 tiêu này, tăng trưởng cao và lạm phát thấp là hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, quan hệ chặt chẽ với nhau “khống chế” lẫn nhau. Muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân sách, hạ lãi suất cho vay, kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu… nhưng nếu làm như vậy thì lạm phát sẽ tăng. Đó là chưa kể các yếu tố tác động bên ngoài như giá nhập khẩu tăng làm tăng chi phí đầu vào; hay các yếu tố thiên tai, dịch bệnh như đại hạn, bão lụt, dịch cúm gia cầm… vừa làm tăng chi phí đầu vào, vừa làm giảm nguồn cung, tăng chi ngân sách… Muốn lạm phát thấp, thì phải thắt chặt chi ngân sách, thắt chặt đầu tư, tiêu dùng, tăng lãi suất cho vay, tăng dự trữ bắt buộc, giảm thuế suất thuế nhập khẩu… nhưng như thế thì tăng trưởng kinh tế sẽ không cao. Chính vì mối quan hệ này, trong khi không thể cùng thực hiện cả hai mục tiêu, muốn ưu tiên mục tiêu nào, các chuyên gia đã dùng các cụm từ “hy sinh mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát” hay “hy sinh mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng” để nói về chính sách kinh tế - tài chính của một nước. Mỹ trong thời gian khá dài đã thực thi chính sách hy sinh mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát. Sau hơn mười năm tăng trưởng liên tục khi kinh tế Mỹ bước vào chu kỳ suy thoái, nước Mỹ đã chuyển sang thực thi chính sách hy sinh mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng, mà biểu hiện rõ nhất là chỉ trong một năm đã liên tục 12 lần cắt giảm lãi suất từ 6,7% xuống chỉ còn 1%. Khi tăng trưởng kinh tế phục hồi và lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nước Mỹ lại thực thi chính sách hy sinh mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu chống lạm phát với một trong những giải pháp cụ thể đã thực hiện là chỉ từ tháng 7-2004 đến nay đã tám lần liên tục nâng lãi suất từ 1% lên 3%, và theo dự đoán của nhiều chuyên gia, lãi suất của Mỹ sẽ còn tăng lên nữa, có thể đạt trên 4,5% vào cuối năm nay. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 10 Nhóm 31 Trung Quốc sau 26 năm tăng trưởng liên tục với tốc độ cao - hiện giữ kỷ lục về thời gian tăng trưởng liên tục mà trước đó Hàn Quốc đã giữ với 23 năm - cũng đã muốn hạ bớt tốc độ tăng trưởng nóng và kiềm chế lạm phát, bằng việc giảm đầu tư sau mấy năm ở mức cao nhất thế giới (trên 44% so với GDP). Trong thời gian gần đây, một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam gần bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế là tốt cho sự phát triển kinhh tế. Phải chăng đấy là mức lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế? Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi. Một số nghiên cứu theo lối kinh nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là phi tuyến tính. Fischer (1993) là người đầu t iên nhiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc thậm trí mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến. Một số các nhà Nhiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và philíp(1998), Shan và Senhadji(2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gằng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tắc động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Sarel ngưỡng lạm phát là 8%,Shan và Senhadji ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-3%. Gân đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan(2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng Trung Đông và Trung Á là khoảng 3.2%. Sử dụng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 11 Nhóm 31 cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững. Hay còn nói đó là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng”. Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tình dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thưc chất. Hiện nay các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật... Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006 lạm phát thế giới gia tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước phát triển quá nóng. 2. Các biện pháp ổn định tiền tệ và hạn chế lạm phát: Để kiềm chế lạm phát thì dù chính sách tiền tệ hay chính sách tài khóa cũng nhằm vào 2 mục tiêu chung đó là: Giảm bớt lượng tiền trong lưu thông và gia tăng cung cấp hàng hóa dịch vụ trong xã hội. Với mỗi mục tiêu trên thì mỗi chính sách đều có những công cụ sử dụng riêng để thực hiện tốt hai mục tiêu trên. Khi lạm phát đã xảy ra nặng nề và nghiêm trọng thì chính phủ của các nước phải tìm cách để chống lại lạm phát nhằm hồi phục sức mua của đồng tiền. Nói như vậy có nghĩa là việc thực hiện các biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ trở thành một trong những chính sách lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước. Ổn định tiền tệ nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng là việc nhà nước áp dụng các biện pháp về kinh tế, tài chính, kỹ thuật để ổn định sức mua của đồng tiền tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 12 Nhóm 31 Trong thời kỳ các nước công nghiệp phát triển gắn với chế độ bản vị vàng, ổn định tiền tệ là áp dụng các biện pháp để khôi phục lại quan hệ bình thường giữa tiền giấy so với vàng. Với mục tiêu đó, các nước đã từng áp dụng các biện pháp cải thiện như: -Biện pháp loại bỏ tiền giấy không khả hoán (Annulation) -Biện pháp khôi phục (Restoration) -Biện pháp phá giá tiền tệ (Devaluation) Trong thời đại hiện nay, trên danh nghĩa pháp lý, vàng không còn là cơ sở của lưu thông tiền tệ, không còn là cơ sở bảo đảm trực tiếp cho tiền giấy lưu thông trong nước nữa thì các biện pháp ổn định và kiềm chế lạm phát đã có sự thay đổi quan trọng. Ổn định t iền tệ ngày nay là ổn định sức mua của tiền giấy trên cơ sở ngăn chặn leo thang của giá cả hàng hóa bằng các giải quyết các vấn đề của mối quan hệ giữa tiền và hàng. Nhưng dù có áp dụng biện pháp gì đi nữa thì các mục tiêu cơ bản vẫn phải đạt được, nếu không thì chính sách tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ không có đầy đủ ý nghĩa của nó. Những mục tiêu đó là ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm…Như vậy việc áp dụng các biện pháp đó có thể bao gồm các biện pháp có tính chất chiến lược cùng các biện pháp cấp bách trước mắt. 3. Những phương thức chống lạm phát ở các nước phát triển Ở các nước phát triển, người ta thường đeo đuổi việc thực hiện một chính sách kinh tế vĩ mô nào đó mà việc thực hiện một chính sách như vậy thường cũng sinh ra lạm phát. Trước hết đó là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Các nhà nghiên cứu kinh tế ở Mỹ và các nước tư bản phát triển đã thống nhất rằng khi chính phủ muốn thực hiện chỉ tiêu công ăn việc làm cao (thất nghiệp giảm) có thể dẫn đến lạm phát. Kế đến phải nói đến thâm hụt ngân sách, hầu như ai cũng thừa nhận giảm thâm hụt ngân sách và lạm phát là bạn đồng hành với nhau. Tuy vậy, nếu thâm hụt ngân sách được trang trãi bằng các khoản vay của Chính phủ (bán trái Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 13 Nhóm 31 khoán) thì nó sẽ không gây lạm phát. Thâm hụt ngân sách chỉ gây ra lạm phát khi nó được bù đắp bằng việc phát hành tiền. Việc lựa chọn phương thức chống lạm phát ở các nước không hoàn toàn giống nhau, ngay cả ở một nước, trong những thời kỳ khác nhau người ta cũng áp dụng những phương thức khác nhau. Nhìn chung, có hai loại phương thức dưới đây: Phương thức “hạn chế tiền tệ”-kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cung ứng: phương thức này xuất phát từ luận điểm của Friedman cho rằng sự tăng trưởng kinh tế ổn định và có hiệu quả chỉ có thể dựa trên sự kiểm sóat chặt chẽ khối lượng tiền tệ phát hành trong lưu thông, nghĩa là kiểm soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Phương thức hạn chế tiền tệ được áp dụng ở Mỹ trong nhiều thập niên và tỏ ra có hiệu quả, vì vậy nó được nhiều nước thừa nhận như là phương thức chủ yếu để ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Phương thức “nới lỏng tiền tệ”-lấy lạm phát trị lạm phát: phương thức này dựa trên quan điểm của Keynes cho rằng một nền kinh tế tăng trưởng và có hiệu quả là giải quyết đầy đủ công ăn việc làm. Muốn vậy phải kích cầu bằng các chính sách vĩ mô của nhà nước. Trong đó, việc nới lỏng tiền tệ, mở rộng việc cung ứng tiền tệ sẽ kích thích mặt cầu, giải quyết được nạn thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó lạm phát sẽ được kiểm soát. Theo quan điểm này, người ta coi lạm phát và chống lạm phát như một quá trình liên tục, nghĩa là vừa chống lạm phát lại vừa thực hiện chính sách tiền tệ lạm phát. Phương thức này đựoc thừa nhận ở Mỹ vào những thập niên 40, 50, 60 sau đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước Nam Mỹ, Argentina, Peru, Brazil, Bolivia có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm lên đến trên dưới 300%, các nước khác như Urugoay, Mexico có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm khoảng trên dưới 60% là một trong những bằng chứng vêf thực hiện quan điểm nói trên. 4. Các học thuyết thể hiện mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng: Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 14 Nhóm 31 Theo lý thuyết Keynes: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định; trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều; sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm (đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp); mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu dương. Theo chủ nghĩa trọng tiền (đại diện là Milton Fredman): lạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát. Theo lý thuyết tân cổ điển Mundell (1965) và Tobin (1965): lạm phát là nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển thành các tài sản sinh lời; theo mô hình này giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỉ lệ thuận. Bổ sung thêm cho mô hình của lý thuyết tân cổ điển, nhà kinh tế học Sidrauski (1967) có quan điểm khi các biến số độc lập với việc tăng cung tiền trong dài hạn thì việc tăng lạm phát không ảnh Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 15 Nhóm 31 hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Mô hình của Stockman (1981) thì cho rằng lạm phát tăng cao sẽ làm cho tăng trưởng giảm… Tuy quan điểm về lý thuyết và mô hình minh chứng cho mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát của các trường phái có sự khác nhau, nhưng điểm chung của các trường phái là mối quan hệ ấy không phải một chiều, mà là sự tác động qua lại; nếu muốn tăng trưởng cao thì phải chấp nhận lạm phát, mối quan hệ này không tồn tại mãi và đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng; trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng trưởng nữa mà lúc này lạm phát là hậu quả của việc tăng cung tiền quá mức vào nền kinh tế. Nghiên cứu ban đầu (những năm 1960) không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa hệ thống. Nghiên cứu giai đoạn sau khủng khoảng dầu hoả (năm 1973-1974) của Fischer (1993), Barro (1996), Bruno và Easterly (1998) đã tìm thấy quan hệ âm giữa lạm phát và tăng trưởng. Nghiên cứu gần đây, Khan và Senhadji (2001) cũng đã tìm thấy mối quan hệ tăng trưởng - lạm phát mang dấu âm khi: tỉ lệ lạm phát vượt qua ngưỡng và mang dấu dương trong trường hợp còn lại. Nối tiếp các kết quả trên, rất nhiều nhà nghiên cứu bằng các phương pháp khác nhau đã công bố ảnh hưởng qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát: Mallik và Chowdhury (2001) sử dụng hồi quy đồng liên kết và mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM); Faria and Carneiro (2001) cũng sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị ADF (xác định tính dừng của chuỗi dữ liệu khi phân tích chuỗi dữ liệu theo thời gian) và phương pháp phân tích phương sai dựa trên mô hình VAR…cho thấy: lạm phát không ảnh hưởng đến sản lượng thực tế trong dài hạn, tuy nhiên trong ngắn hạn thì sự ảnh hưởng của lạm phát đến sản lượng thực tế lại mang dấu âm. 5. Tình hình tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam trong 20 năm trở lại đây: Nhìn lại hơn hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân khoảng 6,7%/năm, tạo tiền đề Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 16 Nhóm 31 cho giai đoạn phát triển mới, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. a. Tăng trưởng: Giai đoạn 1986-1990, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,4%/năm, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và giải phóng sức sản xuất. Giai đoạn 1991-1995, nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8,2%, đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Giai đoạn 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 7%/năm. Giai đoạn 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,2%/năm, GDP theo giá hiện hành đạt 838 nghìn tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người/năm đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Giai đoạn 2005-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân 7,33%, dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài cao, GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD. Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 5,89%; giảm sút chủ yếu do giảm sút của khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. b. Lạm phát Diễn biến lạm phát trong thời gian này phức tạp hơn; từ năm 1986 - 2011, 2 năm lạm phát giảm sút (2000 và 2001); 7 năm lạm phát 1 chữ số; 14 năm lạm phát 2 chữ số, 3 năm lạm phát tăng 3 chữ số. Giai đoạn 1986-1991: lạm phát phi mã, là những năm đổi mới 1986-1988, lạm phát ở mức 03 con số; nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế bị khủng hoảng, tăng trưởng thấp, làm cho thị trường bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 17 Nhóm 31 Giai đoạn 1992-1995: lạm phát còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước; nguyên nhân chủ yếu do cung đã tăng, lương thực vượt nhu cầu trong nước, xuất khẩu với khối lượng lớn; Chính phủ đưa ra phương châm: ngân sách thì thu lấy mà chi; ngân hàng thì vay lấy mà cho vay, có nghĩa là Nhà nước không phát hành tiền cho bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt. Giai đoạn 1996-2003: được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp; mặc dù năm 1998 tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực. Nhìn chung, cả thời kỳ này có 3 năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng thấp. Giai đoạn 2004-2010: là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn: năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 chỉ tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, năm 2009 chỉ tăng 6,52%; đến năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011, tỷ lệ lạm phát 18,13%. Như vậy, từ năm 2007 đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn và biểu hiện tính chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%). Tóm lại: Trong 26 năm đổi mới và mở cửa kinh tế, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam trên 20%, là nhân tố quan trọng giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng một thời gian dài đạt mức trung bình gần 7%/năm. Việt Nam đang ở giai đoạn nước rút nhằm tạo lập vốn cho nền kinh tế với tốc độ đầu tư không ngừng tăng lên. Nếu năm 1990, tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế trong GDP là 12,6%/năm, thì năm 1995 đạt 27,1% GDP, năm 2000 đạt 29,6% GDP, năm 2005 đạt 35,6% GDP và năm 2007 đạt kỷ lục 41,7% GDP; tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng năm duy trì ở mức cao, trung bình đạt 19,2%. Thâm hụt thương mại trong giai đoạn trước 2007 chủ yếu được bù đắp bởi thặng dư hạng mục vốn trên cán cân thanh toán quốc tế nhờ tăng trưởng đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Năm 2010, thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam ước tính là 12,4 tỉ USD thấp hơn nhiều so với mức thâm hụt thương mại hơn 14 tỉ USD của năm 2007 và 2008, tốc độ tăng trưởng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 18 Nhóm 31 ngoài g iảm mạnh dưới tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc suy giảm và thâm hụt cán cân tổng thể trong giai đoạn từ 2008 - 2010. Dự trữ ngoại hối chính thức giảm mạnh dưới tác động của thâm hụt cán cân tổng thể gây áp lực trực tiếp lên phá giá t iền đồng và gây nên tác động tăng giá kép ở Việt Nam. Nhìn lại năm 2011, tỷ lệ lạm phát là 18,13%. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”. Và đã đưa ra mục tiêu: "Kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. IV. KẾT LUẬN Giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế thường tồn tại một quan hệ tỷ lệ chế ước lẫn nhau. Lạm phát có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế kiểm soát lạm phát là một mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô. Về lý thuyết nếu lạm phát ở mức có thể kiểm soát được thì nền kinh tế có thể tránh được những hậu quả xấu. Nếu không sẽ xảy ra hậu quả như: - Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng vì nó làm lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo tài nguyên, nguồn lực không được phân bố hiệu quả, kết cục là tăng trưởng chậm - Lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn. Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn mức giá cả trong tương lai, kéo theo không biết lãi suất thực thì không ai dám liều lĩnh đầu tư nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn. Lạm phát sẽ Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 19 Nhóm 31 đẩy lãi suất lên cao do chủ nợ muốn có sự bảo đảm cho mức rủi ro lớn. Lãi suất cao kìm hãm đầu tư do đó làm chậm tốc độ tăng trưởng. - Lạm phát cao khuyến khích mọi người quan tâm đến lợi ích trước mắt. - Lạm phát cao gây khó khăn trong cân đối thu chi của ngân sách nhà nước. Những nước từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là điều đáng sợ nhất, toàn bộ hoạt động của nền kinh tế sẽ bị méo mó, biến dạng nghiêm trọng, tâm lý xã hội phức tạp, lãng phí ghê gớm tiềm lực trong sản xuất. Mặt khác từ khi rơi vào lạm phát cao cho đến khi kiểm soát được lạm phát đòi hỏi một phí tổn thất rất lớn cho nền kinh tế. - Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là sự biểu hiện tập trung nhất về các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như: cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, thu chi ngân sách, thanh toán quốc tế,…. Nếu một trong những cân đối này bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống cân đối vĩ mô của nền kinh tế, đến mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát khi đó khi đó: - Một là: Lạm phát gia tăng. Hậu quả là đầu tư quá mức, hiệu quả thấp, lãng phí vốn, giá cả tăng, nhu cầu có khả năng thanh toán giảm sút, tốc độ sản xuất chậm lại, thất nghiệp nảy sinh. - Hai là: Lạm phát quá thấp (thiểu phát) khi đầu tư trong nước giảm sút, một phần vốn đáng kể di chuyển ra ngoài hoặc bị rút về tích trữ, sản xuất và lưu thông đình trệ, thất nghiệp gia tăng. - Cả hai trường hợp trên đều ảnh hưởng tiêu cực đến nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Về vấn đề ảnh hưởng của lạm phát đối với vấn đề tăng trưởng kinh tế tồn tại 2 hệ quan điểm khác nhau: - Quan điểm thứ nhất cho sự ổn định về giá cả (lạm phát bị kiềm chế ở mức 0%) là nền tảng tốt nhất cho sự tăng trưởng nhanh. Họ cho rằng sự ổn định về giá trị tiền tệ cần phải được bảo vệ và duy trì. Họ đưa ra các lý lẽ tác hại của lạm phát đối với toàn bộ nền kinh tế và cho rằng chỉ có sự ổn định như vậy mới thúc đẩy sự tăng trưởng cao và bền vững. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 20 Nhóm 31 - Quan điểm thứ 2 với tư tưởng “lạm phát vừa phải” sẽ có tác dụng khuyến khích sản xuất phát triển với tốc độ cao thông qua lạm phát. Những người theo quan điểm này cho rằng sự suy thoái kinh tế còn gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn so với vấn đề lạm phát. Nếu lạm phát ở một mức độ vừa phải, lạm phát cần cho nền kinh tế để giảm bớt gánh nặng nợ nần và do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại. Họ lập luận rằng lạm phát vừa phải đóng vai trò như chất bôi trơn làm cho nền tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn. Hơn nữa cái giá phải trả để cho lạm phát về 0% còn lớn hơn cái giá cho việc chấp nhận một ít lạm phát.  Mặc dù còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế nhưng các nhà kinh tế hiện nay đều thừa nhận rằng. Trong nền kinh tế hiện nay sự thành công về tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong giai đoạn dài là tạo ra môi trường kinh tế- tài chính ổn định, thuận lợi, trong đó duy trì mức lạm phát trung bình không vượt quá 8%. Điều này sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và bền vũng hơn. Tóm lược mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế GVHH: Trương Minh Tuấn Lớp : VB2KT02K15 21 Nhóm 31 V. TÀI LIỆU THAM KHẢO - PGS – TS Sử Đình Thành – TS. Vũ Thị Minh Hằng, giáo trình Lý Thuyết Tài Chính Tệ, NXB Thống Kê - PGS., TS. Nguyễn Ái Đoàn (2007) Tạp chí Ngân hàng số 19 tháng 10/2007 - - - - - www.vneconomy.com.vn - www.vnn.vn - -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_31_ly_thuyet_ve_moi_quan_he_giua_lam_phat_va_tang_truong_kinh_te_6146.pdf
Luận văn liên quan