Tiểu luận Tổng Quan Về Lịch Sử Chất Thải Rắn

LỜI NÓI ĐẦU Chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động sống của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển dân số và kinh tế, đặc biệt là trong xã hội công nghiệp. Cùng với các dạng chất thải khác như: nước thải và khí thải, chất thải rắn nếu không được quản lý và xử lý nghiêm túc sẽ có khả năng gây suy thoái môi trường nghiêm trọng. Do đó, chất thải rắn đã trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội và cần được quan tâm quản lý thu gom triệt để, vận chuyển an toàn và xử lý hiệu quả về kỹ thuật lẫn kinh tế. Vì vậy, quản lý và xử lý chất thải rắn là một vấn đề cần thiết cho phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sống của con người. Xử lý chất thải rắn là giai đoạn cuối cùng trong công tác quản lý chất thải rắn (thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý, kể cả tái sử dụng và tái chế). Xử lý chất thải rắn đóng vai trò quan trọng trong BVMT - PTBV, bởi nó không chỉ ngăn chặn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ chất thải rắn (nếu không xử lý hoặc xử lý không hiệu quả, không đúng quy trình, yêu cầu), mà còn có thể thu hồi vật liệu, sản phẩm để tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Trong những năm qua, nước ta đã áp dụng một số công nghệ để xử lý chất thải rắn. Tuy nhiên, rất nhiều đô thị vẫn còn lúng túng trong việc lựa chọn công nghệ thích hợp. MỤC LỤC MỤC LỤC 1 LỜI NÓI ĐẦU 3 CHƯƠNG 1: PHÁT SINH CHẤT THẢI RẮN VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT THẢI RẮN 4 1.1.Chất thải rắn 4 1.1.1.Khái niệm 4 1.1.2.Phân loại 5 1.2. Phát sinh chất thải rắn và các vấn đề môi trường liên quan đến chất thải rắn: 6 1.2.1. Phát sinh chất thải rắn 6 1.2.2.Các vấn đề môi trường liên đến chất thải rắn: 18 CHƯƠNG 2 PHÂN KỲ CÁC GIAI ĐOẠN QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TRÊN THẾ GIỚI 23 2.1. Tình hình chung trên thế giới 23 2.1.1. Phát sinh chất thải rắn ở châu Á 28 2.1.2. Thành phần chất thải rắn đô thị 30 2.1.3. Tiêu huỷ chất thải 30 2.2. Tình hình xử lý chất thải rắn của một số nước 31 2.2.1. Singapore 31 2.2.2. Thái Lan 32 2.2.3.Malayxia 33 2.2.4.Trung Quốc 36 2.2.5.Hồng Kông 37 2.2.6.Thụy Điển 40 2.2.7.Bungari 42 CHƯƠNG 3 TIẾP CẬN VỀ PHƯƠNG ÁN CÔNG NGHỆ ĐỂ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM THEO CÁC GIAI ĐOẠN 47 3.1.Tình hình phát sinh 47 3.2.Phương án công nghệ để quản lý chất thải rắn ở Việt Nam theo các giai đoạn 47 3.2.1.Lựa chọn công nghệ xử lý chất thải rắn 47 3.2.2.Các giai đoạn của công nghệ để quản lý chất thải rắn ở Việt Nam 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 57

doc58 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3561 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tổng Quan Về Lịch Sử Chất Thải Rắn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỤC LỤC 1 LỜI NÓI ĐẦU 3 CHƯƠNG 1: PHÁT SINH CHẤT THẢI RẮN VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT THẢI RẮN 4 1.1.Chất thải rắn 4 1.1.1.Khái niệm 4 1.1.2.Phân loại 5 1.2. Phát sinh chất thải rắn và các vấn đề môi trường liên quan đến chất thải rắn: 6 1.2.1. Phát sinh chất thải rắn 6 1.2.2.Các vấn đề môi trường liên đến chất thải rắn: 18 CHƯƠNG 2 PHÂN KỲ CÁC GIAI ĐOẠN QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TRÊN THẾ GIỚI 23 2.1. Tình hình chung trên thế giới 23 2.1.1. Phát sinh chất thải rắn ở châu Á 28 2.1.2. Thành phần chất thải rắn đô thị 30 2.1.3. Tiêu huỷ chất thải 30 2.2. Tình hình xử lý chất thải rắn của một số nước 31 2.2.1. Singapore 31 2.2.2. Thái Lan 32 2.2.3.Malayxia 33 2.2.4.Trung Quốc 36 2.2.5.Hồng Kông 37 2.2.6.Thụy Điển 40 2.2.7.Bungari 42 CHƯƠNG 3 TIẾP CẬN VỀ PHƯƠNG ÁN CÔNG NGHỆ ĐỂ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM THEO CÁC GIAI ĐOẠN 47 3.1.Tình hình phát sinh 47 3.2.Phương án công nghệ để quản lý chất thải rắn ở Việt Nam theo các giai đoạn 47 3.2.1.Lựa chọn công nghệ xử lý chất thải rắn 47 3.2.2.Các giai đoạn của công nghệ để quản lý chất thải rắn ở Việt Nam 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 57 LỜI NÓI ĐẦU Chất thải rắn (CTR) phát sinh từ các hoạt động sống của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển dân số và kinh tế, đặc biệt là trong xã hội công nghiệp. Cùng với các dạng chất thải khác như: nước thải và khí thải, chất thải rắn nếu không được quản lý và xử lý nghiêm túc sẽ có khả năng gây suy thoái môi trường nghiêm trọng. Do đó, chất thải rắn đã trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội và cần được quan tâm quản lý thu gom triệt để, vận chuyển an toàn và xử lý hiệu quả về kỹ thuật lẫn kinh tế. Vì vậy, quản lý và xử lý chất thải rắn là một vấn đề cần thiết cho phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sống của con người. Xử lý CTR là giai đoạn cuối cùng trong công tác quản lý CTR (thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý, kể cả tái sử dụng và tái chế). Xử lý CTR đóng vai trò quan trọng trong BVMT - PTBV, bởi nó không chỉ ngăn chặn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ CTR (nếu không xử lý hoặc xử lý không hiệu quả, không đúng quy trình, yêu cầu), mà còn có thể thu hồi vật liệu, sản phẩm để tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Trong những năm qua, nước ta đã áp dụng một số công nghệ để xử lý CTR. Tuy nhiên, rất nhiều đô thị vẫn còn lúng túng trong việc lựa chọn công nghệ thích hợp CHƯƠNG 1: PHÁT SINH CHẤT THẢI RẮN VÀ CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT THẢI RẮN 1.1.Chất thải rắn 1.1.1.Khái niệm Chất thải là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong các hoạt động kinh tế- xã hội, bao gồm các hoạt động sản xuất và hoạt động sống và duy trì sự tồn tại của cộng đồng. Chất thải là sản phẩm được phát sinh trong quá trình sinh hoạt của con người, sản xuất công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, thương mại, du lịch, giao thông, sinh hoạt tại các gia đình, trường học, các khu dân cư, nhà hàng, khách sạn. Lượng chất thải phát sinh thay đổi do tác động của nhiều yếu tố như tăng trưởng và phát triển sản xuất, sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và sự phát triển điều kiện sống và trình độ dân trí. Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn, được thải ra từ quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. Chất thải rắn bao gồm chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại. Chất thải rắn phát thải trong sinh hoạt cá nhân, hộ gia đình, nơi công cộng được gọi chung là chất thải rắn sinh hoạt. Chất thải rắn phát thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác được gọi chung là chất thải rắn công nghiệp.(Theo 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn) Chất thải rắn là bao gồm các chất thải ở dạng rắn, phát sinh do các hoạt động của con người và sinh vật, được thải bỏ khi chúng không còn hữu ích hay khi con người không muốn sử dụng nữa, bao gồm tất cả các chất rắn hỗn hợp thải ra từ cộng đồng dân cư đô thị cũng như các chất thải rắn đặc thù từ các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng. (Theo PGS.TS Nguyễn Văn Phước – Quản lý và xử lý chất thải rắn, nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh) Ngoài ra, còn có một số khái niệm khác“Chất thải rắn là một trong các loại chất thải do con người tạo ra trong quá trình sản xuất, tiêu thụ trong cuộc sống hàng ngày bao gồm tất cả những vật chất từ đồ ăn, đồ dung, chất phế thải sản xuất, dịch vụ, y tế,… mà con người không dùng nữa và thải ra.” 1.1.2.Phân loại 1.1.2.1 Theo nguồn gốc phát sinh Chất thải rắn sinh hoạt: phát sinh hàng ngày ở các đô thị, làng mạc, khu dân cư, các trung tâm dịch vụ, công viên. Chất thải công nghiệp: phát sinh từ trong quá trình sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp (gồm nhiều thành phần phức tạp, đa dạng, trong đó chủ yếu là các dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí) Chất thải nông nghiệp: sinh ra do các hoạt động nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản trước và sau thu hoạch. Chất thải xây dựng: là các phế thải như đất đá, gạch ngói, bê tông vỡ, vôi vữa, đồ gỗ, nhựa, kim loại do các hoạt động xây dựng tạo ra. Chất thải y tế: là các phế phẩm sinh ra từ các cơ sở y tế, bệnh viện như: bông băng, kim tiêm, ống chích… 1.1.2.2 Theo vị trí phát sinh Chất thải rắn (CTR) đô thị: bao gồm CTR sinh hoạt, CTR công nghiệp, CTR xây dựng, CTR y tế…do đặc điểm nguồn thải là nguồn phân tán nên rất khó quản lý, đặc biệt là các nơi có đất trống Chất thải rắn (CTR) nông thôn: bao gồm CTR nông nghiệp, CTR xây dựng, CTR y tế… 1.1.2.3 Theo tính chất nguy hại Chất thải rắn nguy hại: là chất thải dễ gây phản ứng, dễ cháy nổ, ăn mòn, nhiễm khuẩn độc hại, chứa chất phóng xạ, các kim loại nặng. Các chất thải này tiềm ẩn nhiều khả năng gây sự cố rủi ro, nhiễm độc, đe doạ sức khoẻ con người và sự phát triển của động thực vật, đồng thời là nguồn lan truyền gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí. Chất thải rắn không nguy hại: là các chất thải không chứa các chất và các hợp chất có các tính chất nguy hại. Thường là các chất thải phát sinh trong sinh hoạt gia đình, đô thị…. 1.1.2.4 Theo đặc tính tự nhiên CTR vô cơ: gồm các loại phế thải thủy tinh, sành sứ, kim loại, cao su, nhựa, vải, đồ điện, đồ chơi, cát sỏi, vật liệu xây dựng nói chung,… CTR hữu cơ; gồm cây cỏ , lá rụng, rau quả hư hỏng, đồ ăn thừa, rác nhà bếp, giấy, xác súc vật, phân gia súc, gia cầm,… CTR độc hại: là phế thải gây độc hại cho con người và môi trường và môi trường như pin, bình ắc qui, hóa chất, chai lọ đựng thuốc trừ sâu, kim tiêm,… 1.2. Phát sinh chất thải rắn và các vấn đề môi trường liên quan đến chất thải rắn: 1.2.1. Phát sinh chất thải rắn 1.2.1.1.Trong quá trình đô thị hóa – công nghiệp hóa Ở Việt Nam trong 20 năm qua cho thấy, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 2005 đến nay, GDP liên tục tăng, bình quân đạt trên 7 %/năm. Năm 2005, tốc độ này đạt 8,43%, là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 9 năm qua. Đến cuối năm 2005, dân số Việt Nam là 83.119.900 người. Từ năm 2000 - 2005, dân số Việt Nam tăng 5,48 triệu người, trong đó tỉ lệ dân số thành thị tăng từ 24,18% năm 2000 - 26,97% năm 2005, tương ứng tỉ lệ dân số nông thôn giảm từ 75,82% xuống 73,93%. Dự báo đến năm 2010, dân số thành thị lên tới 30,4 triệu người, chiếm 33% dân số và đến năm 2020 là 46 triệu người, chiếm 45% dân số cả nước. Năm 1990, Việt Nam có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ. Tính đến tháng 6/2007 có tổng cộng 729 đô thị các loại, trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt (Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh), 4 đô thị loại I (thành phố), 13 đô thị loại II (thành phố), 43 đô thị loại III (thành phố), 36 đô thị loại IV (thị xã), 631 đô thị loại V (thị trấn và thị tứ). Trong những năm qua, tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh đã trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về kinh tế - xã hội, đô thị hóa quá nhanh đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm chất lượng môi trường và phát triển không bền vững. Lượng chất thải rắn phát sinh tại các đô thị và khu công nghiệp ngày càng nhiều với thành phần phức tạp [1]. Lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh CTRSH tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%). Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng, các chợ và kinh doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở, đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công nghiệp và các nguồn chất thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được xử lý triệt để vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị. Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 cho thấy, lượng CTRSH đô thị phát sinh chủ yếu tập trung ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng CTRSH phát sinh tới 8.000 tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng CTRSH phát sinh từ tất cả các đô thị. Tính theo vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô thị vùng Đông Nam bộ có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất tới 2.450.245 tấn/năm (chiếm 37,94% tổng lượng phát sinh CTRSH các đô thị loại III trở lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng có lượng phát sinh CTRSH đô thị là 1.622.060 tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị khu vực miền núi Tây Bắc bộ có lượng phát sinh CTRSH đô thị thấp nhất chỉ có 69.350 tấn/năm (chiếm 1,07% ), tiếp đến là các đô thị thuộc các tỉnh vùng Tây Nguyên, tổng lượng phát sinh CTRSH đô thị là 237.350 tấn/năm (chiếm 3,68%) (Hình 2.2). Đô thị có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất là TP. Hồ Chí Minh (5.500 tấn/ngày), Hà Nội (2.500 tấn/ngày); đô thị có lượng CTRSH phát sinh ít nhất là Bắc Kạn - 12,3 tấn/ngày; Thị xã Gia Nghĩa 12,6 tấn/ngày, Cao Bằng 20 tấn/ngày; TP. Đồng Hới 32,0 tấn/ngày; TP Yên Bái 33,4 tấn/ngày và thị xã Hà Giang 37,1 tấn/ngày. Tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người tại các đô thị đặc biệt và đô thị loại I tương đối cao (0,84 – 0,96kg/người/ngày); đô thị loại II và loại III có tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người là tương đương nhau (0,72 - 0,73 kg/người/ngày); đô thị loại IV có tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên một đầu người đạt khoảng 0,65 kg/người/ngày. Tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân lớn nhất tập trung ở các đô thị phát triển du lịch như TP. Hạ Long 1,38kg/người/ngày; TP. Hội An 1,08kg/người/ngày; TP. Đà Lạt 1,06kg/người/ngày; TP. Ninh Bình 1,30kg/người/ngày. Các đô thị có tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân đầu người thấp nhất là TP. Đồng Hới (Tỉnh Quảng Bình) chỉ 0,31kg/người/ngày;Thị xã Gia Nghĩa 0,35kg/người/ngày; Thị xã Kon Tum 0,35kg/người/ngày; Thị xã Cao Bằng 0,38kg/người/ngày. Trong khi đó tỷ lệ phát sinh bình quân đầu người tính trung bình cho các đô thị trên phạm vi cả nước là 0,73kg/người/ngày. Với kết quả điều tra thống kê như trên cho thấy, tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị ở nước ta ngày càng gia tăng với tỷ lệ tương đối cao (10%/năm) so với các nước phát triển trên thế giới. Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị loại IV lên khoảng 6,5 triệu tấn/năm (năm 2004: tổng lượng chất thải sinh hoạt của tất cả các đô thị Việt Nam là 6,4 triệu tấn/năm). Tổng lượng CTRSH đô thị năm 2010 vào khoảng hơn 12 triệu tấn/năm và đến năm 2020 khoảng gần 22 triệu tấn/năm. 1.2.1.2.Phương pháp khảo sát xác định tốc độ phát sinh chất thải rắn từ hộ gia đình - Khảo Sát Xác Định Tốc Độ Phát Sinh Chất Thải Rắn Từ Hộ Gia Đình Cách thức tổ chức khảo sát, đo đạc, lấy mẫu để xác định tốc độ phát sinh từ hộ gia đình sẽ thay đổi tùy theo mục đích sử dụng số liệu thu thập được cũng như phương án quy hoạch quản lý CTRĐT của khu vực trong tương lai. Để đơn giản và dễ hiểu, trong phần này sẽ trình bày phương pháp khảo sát cho hai trường hợp: (1) không thực hiện phân loại CTR tại hộ gia đình trước khi thu gom và (2) CTR từ hộ gia đình sẽ được phân loại thành hai thành phần (rác thực phẩm và phần còn lại) trước khi thu gom. Trường hợp 1- Không thực hiện phân loại chất thải rắn từ hộ gia đình Công tác khảo sát, lấy mẫu xác định tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia đình có thể được tiến hành theo các bước sau đây: - Bước 1 – Thu Thập Số Liệu. Thu thập những thông tin chung về khu dân cư cần khảo sát bao gồm: bản đồ hành chính khu vực khảo sát, diện tích, số hộ gia đình, dân số, mật độ dân số, sự phân bố dân cư trên địa bàn (có thể xác định đơn giản bằng thông số bao nhiêu phường/quận, số khu phố/phường, số tổ dân phố/khu phố), khu trung tâm, khu nhà ổ chuột, nhà chung cư, nhà biệt thự, đặc điểm phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Các thông số này giúp việc xây dựng mạng lưới lấy mẫu được đồng đều và thể hiện tính đặc trưng của khu dân cư khảo sát. - Bước 2-Xây Dựng Mạng Lưới Khảo Sát Lấy Mẫu. Mạng lưới khảo sát lấy mẫu phải được phân bố đồng đều trong toàn khu vực khảo sát và cho phép xác định giá trị đặc trưng theo phương pháp xác suất thống kê. Do đó, tùy theo thời gian và kinh phí cho phép, số lượng mẫu khảo sát càng nhiều, độ chính xác của kết quả thu được càng cao. Dựa trên tổng số hộ gia đình hiện có trong khu vực, xác định số hộ gia đình cần khảo sát. Nếu tính theo giá trị phù hợp về mặt xác suất, số lượng hộ gia đình khảo sát phải chiếm khoảng 30% tổng số hộ hiện có trong khu vực. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, đối với những khu dân cư lớn với tổng số hộ dân lên đến vài chục ngàn hộ (ví dụ 35.000 hộ), chỉ cần khảo sát 10% tổng số hộ này, số lượng hộ gia đình cần khảo sát cũng đã rất lớn (trong ví dụ này là 3.500 hộ). Đó là chưa kể, đối với mỗi hộ gia đình, việc khảo sát lấy mẫu còn phải đặc trưng cho các thời điểm khác nhau trong tuần, giữa các tuần khác nhau trong tháng, giữa các tháng khác nhau trong năm và đặc biệt vào các dịp lễ tết. Vì vậy, ở mỗi khu dân cư, số lượng hộ gia đình khảo sát nếu có thể bố trí từ 500-1.000 hộ là đạt yêu cầu. Với tổng số hộ gia đình phải khảo sát đã chọn, xác định số hộ gia đình phải khảo sát cho từng khu vực trong khu dân cư, cụ thể: số hộ/phường, số hộ/khu phố, số hộ/tổ dân phố. Nếu không quan tâm đến đặc điểm nhà ở (nhà thấp tầng, nhà cao tầng, chung cư, biệt thự, nhà ở đường phố chính, nhà ở các đường hẻm, nhà gần kênh rạch,…) hay thu nhập (hộ có thu nhập thấp, trung bình và cao), các hộ gia đình khảo sát sẽ được chọn ngẫu nhiên. Nếu quan tâm đến những đặc điểm kể trên, hộ gia đình khảo sát ở từng khu vực phải được thiết kế sao cho có thể lấy mẫu đặc trưng với các đặc điểm đã liệt kê. Vị trí của các hộ gia đình khảo sát sẽ được chọn một cách tương đối dựa vào mạng lưới đường phố thể hiện trên bản đồ và xác định lại địa chỉ chính xác khi triển khai khảo sát thực tế. - Bước 3-Xác Định Chu Kỳ Khảo Sát Lấy Mẫu. Khối lượng rác phát sinh ở từng hộ gia đình sẽ thay đổi theo sinh hoạt của gia đình giữa các ngày khác nhau trong tuần, trong tháng và năm. Do đó, không thể có số liệu đặc trưng khi chỉ tiến hành lấy mẫu phân tích một lần. Chu kỳ khảo sát lấy mẫu phải thể hiện được các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ phát sinh CTR của hộ gia đình, cụ thể như sau: + Do sinh hoạt của người dân giữa các ngày khác nhau trong tuần không giống nhau. Những ngày làm việc (từ thứ hai đến thứ sáu) thường không có nhiều thời gian để tổ chức họp mặt gia đình, gặp gỡ bạn bè, nấu nướng các món ăn đặc biệt, trong khi đó, điều này thường xảy ra vào những ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy và chủ nhật). Đây là một trong những lý do làm cho khối lượng rác ở một số hộ gia đình vào những ngày nghỉ cuối tuần sẽ cao hơn những ngày khác. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, các gia đình tổ chức đi chơi xa hoặc về quê thăm bố mẹ, ông bà,… nên vào ngày cuối tuần lại không có rác. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng một số cán bộ, công nhân,… vẫn phải làm việc sáng thứ bảy hay cả ngày thứ bảy nên ở nhiều hộ gia đình các hoạt động này chỉ tập trung vào ngày chủ nhật. Vì vậy, khối lượng rác phát sinh từ các hộ gia đình phải được khảo sát giữa ngày làm việc và ngày nghỉ cuối tuần. Chu kỳ khảo sát có thể thực hiện như sau: một ngày làm việc (có thể chọn một trong các ngày từ thứ hai đến thứ sáu) và hai ngày cuối tuần (cả thứ bảy và chủ nhật). Như vậy, với yếu tố này, số mẫu lấy ở mỗi hộ gia đình đã là 3 mẫu. + Giữa các tháng mùa hè (mùa nắng) và các tháng mùa mưa, khối lượng CTR phát sinh từ hộ gia đình cũng khác nhau, đặc biệt vào những tháng là mùa của một loại trái cây nào đó hay vào mùa thu hoạch thủy hải sản. Vào các tháng mùa mưa, các loại thực phẩm tươi sống cũng khác và một phần do thời tiết mọi thứ đều trở nên ướt hơn, kể cả rác. Trong trường hợp này khối lượng rác tính trên hộ gia đình trong ngày có thể lớn hơn so với các ngày trong mùa khô, nhưng chủ yếu là độ ẩm cao hơn. Với những đặc điểm này, chu kỳ khảo sát lấy mẫu phải đặc trưng cho các mùa đặc biệt trong năm, ít nhất là hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Nếu kỹ hơn có thể khảo sát theo các mùa trái cây và thu hoạch thủy hải sản. + Vào những tháng có lễ đặc biệt (như giáng sinh, phật đản, rằm tháng giêng, quốc khánh, quốc tế lao động,…) hoặc tết (tết nguyên đán, tết đoan ngọ, dương lịch) thường là dịp các gia đình tổ chức họp mặt gia đình, bày mâm cỗ đặc biệt. Trong những ngày giáp lễ, tết, gia đình thường tổng vệ sinh, sửa sang nhà cửa, vườn tược,… nên khối lượng CTR phát sinh từ hộ gia đình trong những ngày lễ tết đều rất cao so với ngày thường. Đó là chưa kể, trong những ngày tết cổ truyền của dân tộc, rác phải được lưu lại ở hộ gia đình từ mồng 1 tết đến hết ngày mồng 3 tết, nên khi phải thu gom sau tết, khối lượng CTR/hộ gia đình sẽ còn cao hơn nhiều. Do đó, để có được những giá trị đặc trưng cho trường hợp này, việc khảo sát lấy mẫu cũng cần được thực hiện trong những ngày giáp lễ tết và ngày thu gom đầu tiên sau tết. Trong trường hợp này có thể chọn cho ba trường hợp: dịp noel, giáp tết nguyên đán và ngày thu gom đầu tiên sau tết nguyên đán. + Nếu có thể, việc khảo sát lấy mẫu xác định tốc độ phát sinh CTR từ các hộ gia đình nên được thực hiện thường xuyên (hàng năm) để số liệu có tính thống kê và đặc trưng được cho từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, tùy theo kinh phí và thời gian có để thực hiện khảo sát mà giới hạn chu kỳ khảo sát lấy mẫu cho phù hợp với từng giai đoạn thực hiện dự án. Bước 4- Xác Định Thời Gian Gởi Túi Và Lấy Mẫu. Trong trường hợp CTR không được tách riêng những thành phần dễ thối rữa (rác thực phẩm) với các thành phần khác, khó có thể tồn trữ rác trong nhà lâu hơn một ngày. Do đó, thời gian gởi túi nilon đựng mẫu và thời gian lấy mẫu phải được bố trí sao cho đặc trưng được lượng rác sinh ra từ hộ gia đình là 1 ngày. Trong trường hợp có phân loại CTR tại hộ gia đình, thời gian gởi túi nilon và lấy mẫu có thể lâu hơn 1 ngày, tùy theo phương án phân loại đã chọn. Bước 5- Tập Huấn Nhân Viên Và Chuẩn Bị Dụng Cụ Khảo Sát. Trước khi tiến hành lấy mẫu thực tế, nhân viên khảo sát cần được tập huấn để nắm rõ yêu cầu khảo sát, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ và xác định được những thông tin cần thu thập như sau: + Bản đồ khảo sát; + Số hộ gia đình cần khảo sát tại khu vực do mình đảm trách; + Mạng lưới lấy mẫu; + Chu kỳ lấy mẫu; + Nội dung cần ghi lại ở từng hộ gia đình khảo sát: (1) địa chỉ (ghi rõ số nhà, tên đường, phường/khóm, quận), (2) đặc điểm nhà (mặt tiền, hẻm, cao tầng, thấp tầng, chung cư, biệt thự), (3) số người/hộ (nếu có thể thì xác định rõ số người dưới 18 tuổi, từ 18 đến 55 tuổi và trên 55 tuổi), (4) nếu có thể thì hỏi thêm thu nhập của gia đình, (5) thứ-ngày-tháng-năm và giờ gởi túi nilon đựng mẫu, (6) thứ-ngày-tháng-năm và giờ lấy lại túi nilon đã chứa CTR và (7) ghi chú ngày lấy mẫu (mùa khô, mùa mưa, mùa trái cây, lễ, tết,…). Trong đó các thông tin số (1), (3), (5) và (6) là những thông tin nhất định phải có; + Chuẩn bị đủ túi nilon để gởi cho các hộ gia đình và ghi chú trên từng túi khi hộ gia đình đồng ý hợp tác thực hiện việc khảo sát. + Nếu không phải mang mẫu về phòng thí nghiệm hay đến nơi tập trung để phân tích thành phần (chỉ cần xác định khối lượng CTR/hộ gia đình.ngđ hay khối lượng CTR/người.ngđ), mỗi nhóm khảo sát phải mang theo cân (khoảng 10-15 kg) để cân tại chỗ túi chứa rác lấy từ các hộ gia đình (và đổ CTR sau khi cân lên xe thu gom). Trong trường hợp phải xác định thành phần CTR, không cần mang theo cân, lấy tất cả mẫu với đầy đủ những thông tin cần thiết đã ghi chú trên túi nilon chứa mẫu, mang về phòng thí nghiệm, tiến hành cân và phân tích thành phần tại phòng thí nghiệm. Bước 6-Liên Hệ Với Cơ Quan Quản Lý Hành Chính Địa Phương. Trong trường hợp cần thiết (khi người dân không chịu hợp tác với nhân viên khảo sát), nhóm khảo sát phải liên hệ với Ủy Ban Nhân Dân Phường-nơi dự kiến khảo sát- trình bày kế hoạch, xin giấy giới thiệu đến tiếp xúc các tổ dân phố. Các tổ trưởng và tổ phó tổ dân phố sẽ giúp nhân viên khảo sát tiếp cận người dân được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, những khảo sát đã thực hiện cho thấy đa số người dân ủng hộ các nghiên cứu cải thiện chất lượng môi trường nên cũng không mấy khó khăn trong việc tiếp xúc với người dân. Trong trường hợp chỉ cần xác định khối lượng CTR/hộ gia đình (không cần xác định khối lượng CTR/người.ngđ), cách đơn giản nhất là đi theo xe thu gom, lấy rác của hộ gia đình, cân trực tiếp và đổ lên xe. Khi đó, nhân viên khảo sát nên liên hệ với công nhân vệ sinh của các tổ thu gom trước để nắm rõ thời gian, tuyến thu gom và được sự đồng ý của công nhân thu gom. Bước 7-Tiến Hành Khảo Sát Lấy Mẫu. Sau khi đã thực hiện đầy đủ các bước 1 6 nói trên, tiến hành gởi túi nilon đựng mẫu cho các hộ gia đình. Trong thực tế sẽ có một số hộ gia đình từ chối lưu trữ mẫu ngay từ đầu và cũng có trường hợp đồng ý, nhận túi nhưng do thói quen hàng ngày, họ không chứa CTR vào túi đã gởi mà vứt vào cho chứa rác chung của khu phố hoặc ngay cả xuống kênh rạch, ao hồ cạnh nhà, hoặc giao cho người thu gom khi nhân viên khảo sát chưa kịp đến lấy mẫu. Do đó, để bảo đảm đủ số lượng mẫu đã dự kiến, số hộ gia đình thực sự phải khảo sát (gởi túi) nên nhiều hơn con số đã tính toán khoảng 10-20%. Khi gởi túi nilon chứa mẫu ở hộ gia đình nào, nhân viên khảo sát cần ghi lại địa chỉ và thời gian hẹn lấy mẫu (tránh trường hợp quên nơi đã gởi túi để đến lấy mẫu và trong trường hợp đột xuất không thể đến lấy mẫu, nhân viên khảo sát có thể nhờ đồng nghiệp đi lấy hộ khi có địa chỉ rõ ràng và thời gian cụ thể). Tốt nhất, nên gởi mẫu vào thời điểm hộ gia đình vừa bỏ rác cho công nhân thu gom và lấy mẫu vào thời điểm trước giờ thu gom rác của ngày hôm sau, có như vậy mới bảo đảm đúng lượng rác chứa trong túi đã gởi là lượng rác của một ngày. - Bước 8-Phân tích số liệu. Với khối lượng CTR phát sinh/hộ gia đình.ngđ và số người/hộ, kết quả khảo sát cho phép xác định tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia đình tính bằng kg CTR/người.ngđ, đặc trưng cho ngày thường, ngày cuối tuần, ngày lễ tết, các mùa trong năm cũng như giá trình trung bình cho tất cả các trường hợp. Với hàng ngàn số liệu đã khảo sát, để có thể sử dụng giá trị này trong tính toán thiết kế hệ thống quản lý CTRĐT cho khu vực, cần phân tích và chọn số liệu phục vụ thiết kế. Phương pháp phân tích số liệu chính được áp dụng cho trường hợp này là phương pháp xác suất thống kê, trong đó các thông số cần phân tích bao gồm: + Giá trị trung bình mean; + Độ lệch chuẩn; + Hệ số dao động; + Tần suất xuất hiện các giá trị tốc độ phát sinh CTR tính bằng kg/người.ngđ; Trên cơ sở phân tích các số liệu thu thập được theo phương pháp xác suất thống kê, lựa chọn giá trị tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia đình tính bằng kg/người.ngđ có tần suất xuất hiện cao nhất với độ lệch chuẩn và hệ số dao động thấp nhất là giá trị phục vụ cho các tính toán thiết kế hay so sánh, đánh giá tương ứng (xem ví dụ 2.1). Ví dụ – Phân tích số liệu khảo sát theo phương pháp xác suất thống kê Kết quả khảo sát tốc độ phát sinh CTR từ các hộ gia đình trên địa bàn Quận A được trình bày trong Bảng 2.1. Hãy xác định thông số tốc độ phát CTR từ hộ gia đình để phục vụ cho các tính toán thiết kế sau này, Bảng 2.1 Kết quả thống kê khoảng giá trị tốc độ phát sinh rác (kg/người.ngđ) trên địa bàn Quận A và tần suất xuất hiện các giá trị này Tốc độ phát sinh rác (kg/người.ngđ), xi  Số lần xuất hiện, fi  Tần suất xuất hiện (%), fi   Tốc độ phát sinh rác (kg/người.ngđ), xi  Số lần xuất hiện, fi  Tần suất xuất hiện (%), fi   0,02-0,10  28  3,83   1,71-1,80  4  0,55   0,11-0,20  95  12,98   1,81-1,91  5  0,68   0,21-0,30  103  14,07   1,91-2,00  0  0,00   0,31-0,40  118  16,12   2,01-2,10  0  0,00   0,41-0,50  91  12,43   2,11-2,20  4  0,55   0,51-0,60  68  9,29   2,21-2,30  2  0,27   0,61-0,70  42  5,74   2,31-2,40  0  0,00   0,71-0,80  44  6,01   2,41-2,50  2  0,27   0,81-0,90  23  3,14   2,51-2,60  1  0,14   0,91-1,00  32  4,37   2,61-2,70  0  0,00   1,01-1,10  16  2,19   2,71-2,80  1  0,14   1,11-1,20  7  0,96   2,81-2,90  0  0,00   1,21-1,30  9  1,23   2,91-3,00  0  0,00   1,31-1,40  10  1,37   3,01-3,10  0  0,00   1,41-1,50  15  2,05   3,11-3,20  0  0,00   1,51-1,60  3  0,41   3,31-3,40  0  0,00   1,61-1,70  7  0,96   3,41-3,50  2  0,27   Bài giải Dựa trên số liệu trình bày trong Bảng 2.1, vẽ biểu đồ sự phân bố tần suất khoảng giá trị tốc độ phát sinh CTRSH (kg/người.ngđ) từ hộ gia đình trên địa bàn Quận A (Hình 2.2). Kết quả khảo sát và phân tích số liệu cho thấy tốc độ phát sinh rác hộ gia đình trên địa bàn Quận A tính theo kg/người.ngđ dao động từ 0,02-3,50 kg/người.ngđ. Nếu tính theo các khoảng giá trị như trình bày trong Hình 2.2, tốc độ phát sinh rác trên địa bàn Quận A ở mức 0,30-0,40 kg/người.ngđ. Đây là những khoảng giá trị có tần suất xuất hiện cao nhất trong tập số liệu khảo sát (118 lần so với 732 lần khảo sát, chiếm 16,12%). Nếu tính trung bình (mean), giá trị tốc độ phát sinh rác từ hộ gia đình trên địa bàn Quận A là: Mean = = 0,567 ~ 0,57 kg/người/ngđ  Hình 2.2 Sự phân bố tần suất khoảng giá trị tốc độ phát sinh CTRSH (kg/người.ngđ) từ hộ gia đình trên địa bàn Quận A. Trong đó, fi là tần suất xuất hiện giá trị xi. Độ lệch chuẩn kg/người/ngđ Hệ số dao động  Giá trị độ lệch chuẩn (standard deviation) s = 0,46 kg/người/ngđ và hệ số dao động (coefficient of variation) CV = 80% cho thấy trị số khảo sát có độ dao động rất lớn. Điều này cho thấy còn có nhiều yếu tố khách quan ảnh hưởng đến kết quả khảo sát mà chưa được kiểm soát. Các giá trị này, một lần nữa cho thấy cần xác định các điều kiện biên cụ thể khi tiến hành khảo sát và đánh giá kết quả thu thập. Khi tiến hành khảo sát khối lượng rác phát sinh từ các hộ gia đình, nhóm khảo sát đã lấy mẫu ngẫu nhiên ở những hộ gia đình có giao rác cho người thu gom hay đồng ý cho cân rác. Do đó, tập số liệu thu thập được đã không thể hiện rõ các yếu tố ảnh hưởng như (1) mức thu nhập của gia đình, (2) tỷ lệ rác phát sinh so với rác giao lại cho người thu gom (do đốt, chôn, đổ ở thùng rác dọc đường, bán phế liệu và không bán phế liệu,…), (3) các truờng hợp đặc biệt như có tổ chức tiệc tùng, tổng vệ sinh nhà cửa,… Trường hợp 2- Chất thải rắn từ hộ gia đình được phân loại thành hai thành phần Trong trường hợp việc khảo sát xác định tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia đình (tính theo kg/người.ngđ) phục vụ cho quy hoạch, tính toán thiết kế hệ thống quản lý CTRĐT theo chương trình phân loại CTRĐT tại nguồn (PLCTRĐTTN), phương pháp khảo sát lấy mẫu sẽ có một số điểm khác với trường hợp 1. Trình tự thực hiện khảo sát lấy mẫu vẫn phải tuân theo 7 bước kể trên. Trong đó các bước 1, 2, 3, 5, 6 và 8 sẽ giống như trường hợp 1. Riêng bước 4 và bước 7 sẽ phải thay đổi cho phù hợp với hình thức phân loại. Bước 4- Xác Định Thời Gian Gởi Túi Và Lấy Mẫu. Trong trường hợp CTR tại hộ gia đình được phân loại thành 2 thành phần: rác thực phẩm và phần còn lại, cần có 2 túi chứa rác riêng cho mỗi thành phần. Nếu chỉ gởi một túi để chứa rác hỗn hợp, sau đó mang mẫu về phòng thí nghiệm mới tiến hành phân loại xác định khối lượng của từng thành phần, kết quả sẽ không chính xác. Nguyên nhân chính là do khi chứa rác hỗn hợp, các thành phần rác khô như giấy, báo, vải, gỗ, túi nilon, tro,… sẽ bị thấm nước từ rác thực phẩm và dính những mẩu vụn rác thực phẩm. Do đó, khi phân loại thành 2 thành phần (rác thực phẩm và phần còn lại) và cân để xác định khối lượng, khối lượng các thành phần còn lại sẽ có giá trị cao hơn giá trị thực của chúng. Đó là chưa kể các phân tích về độ ẩm, khối lượng riêng và tỷ lệ phần trăm của từng thành phần có trong rác cũng không được chính xác. Do đó, để thiết kế hệ thống quản lý CTR theo hướng PLCTRĐTTN, khi khảo sát số liệu phục vụ cho tính toán thiết kế, phải gởi ít nhất 2 túi nilon chứa mẫu rác ít nhất thành 2 thành phần riêng biệt. Thời gian gởi túi, lấy mẫu 2 thành phần này cũng sẽ khác nhau tùy thuộc những yếu tố sau: + Tùy theo phương án thu gom lựa chọn (thu gom 1 lần/ngày đối với cả 2 thành phần hoặc chỉ thu gom 1 lần/ngày đối với rác thực phẩm và 3 lần/ngày đối với phần còn lại). Đối với rác thực phẩm - thành phần dễ thối rửa – nên chu kỳ thu gom vẫn phải thu gom theo chu kỳ 1 lần/ngày(đặc biệt ở những nước thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm như Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý ở các nước có khí hậu ôn đới, thành phần rác thực phẩm ở thùng chứa tập trung được thu gom theo chu kỳ dài hơn, có thể 1 lần/tuần). Như vậy túi nilon gởi ở hộ gia đình để lấy mẫu rác thực phẩm sẽ được sắp xếp để có thể lấy mẫu đặc trưng là lượng rác thực phẩm phát sinh từ hộ gia đình trong một ngày. Đối với thành phần còn lại, do tính chất khó phân hủy hơn, khô ráo hơn nên ít gây mùi hôi thối hơn so với rác thực phẩm. Thêm vào đó, thành phần này có khối lượng ít hơn nên thường không cần thiết thu gom mỗi ngày một lần. Cách tốt nhất là chọn thời gian gởi túi và lấy mẫu bằng thời gian của chu kỳ thu gom sẽ được thiết kế (ví dụ 2 ngày/lần hay 3 ngày/lần). + Tùy theo khối lượng và đặc tính của lượng rác đã phân loại để chọn thời gian phù hợp. Không kể thành phần rác thực phẩm (vì ở nước ta, thành phần này bắt buộc phải thu gom mỗi ngày một lần), thành phần rác còn lại thường rất ít và khác nhau rất nhiều giữa các ngày khác nhau. Do đó, để mẫu thu được có khối lượng đủ lớn, cho phép cân xác định khối lượng và thành phần, thời gian gởi túi lấy mẫu ở hộ gia đình nên từ 2-3 ngày. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng do phần rác còn lại không hoàn toàn khô nên nếu lưu trữ lâu trong nhà vẫn tạo mùi hôi khó chịu. Những đợt khảo sát đã thực hiện cho thấy người dân không thích lưu trữ phần rác còn lại lâu hơn 2 ngày. Đây cũng là yếu tố cần lưu ý trong tính toán thiết kế. 1.2.2.Các vấn đề môi trường liên đến chất thải rắn: 1.2.2.1.Ô nhiễm môi trường nước Nước rỉ rác có chứa lượng lớn chất hữu cơ rất bền với quá trình phân hủy vi sinh. Vì vậy, không thể đơn thuần sử dụng phương pháp sinh học để xử lý nước rỉ rác này được. Nước rỉ rác nếu không được quản lý và xử lý tốt sẽ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường, đặc biệt ảnh hưởng đến chất lượng nước ngầm xung quanh khu vực bãi rác và cộng đồng dân cư sử dụng nước ngầm xung quanh khu vực bãi rác. Nước rỉ rác có thể kết hợp với nước mưa chảy tràn thông qua cống rảnh chảy ra nguồn nước sông gây ra các hiện tượng bùn nổ tảo, chết các loài thủy sinh,… Chẳng hạn, nước rỉ rác của bãi rác Gò Cát, nếu không xử lý hợp lý sẽ gây nên những tác động xấu cho môi trường nước ngầm lẫn nước mặt Bảng 2.2: Các thông số môi trường về nước rò rỉ rác của bãi rác Gò Cát Thông số  Đơn vị  Mùa khô  Mùa mưa  BCL cũ   pH  -  4,8-6,2  6,50-6,92  7,81-7,89   TDS  mg/l  7,300-12,200  5,011-6,420  6,040-9,145   Hardness-total  mgCaCO3/ L  5.833 – 9.667  1.840 – 4250  1.260 –1.720   SS  mg/L  1.760 – 4.311  896 - 1.320  235   COD  mgO2/L  39.614 – 59.750  6.621-31.950  1.186-1.436   VFA  mg/L  21.878 – 25.182  2.822  26   BOD  mgO2/L  30.000 – 48.000  4.554 - 25.130  200   P-total  mg/l  558 – 896  133  64-101   Nitrogen-total  mg/l  974 – 1.165  484  919   SO42-  mg/l  1.400 – 1.590  -  14   Cl-  mg/l  3.960 – 4.100  1,075  2,450 – 2,697   Ca2+  mg/l  1.670 – 2.739  465  60 – 80   Mg2+  mg/l  404 – 687  165  297-381   Pb  mg/l  0,32 – 1,90  -  -   Cd  mg/  0,02 – 0,10  -  -   Zn  mg/l  93,0 – 202,1  -  -   Al  mg/l  0,04 – 0,50  -  -   Mn  mg/l  14,50 – 32,17  -  -   N  mg/l  2,21 – 8,02  -  -   Cr total  mg/l  0,04 – 0,05  -  -   Cu  mg/l  3,50 – 4,00  -  -   Fe total  mg/l  204 – 208  46,8  4,5   (Sở Tài Nguyên Môi Trường Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2007) 1.2.2.2.Ô nhiễm không khí Vấn đề không khí xung quanh bãi rác đang gây khó khăn cho công tác quản lý môi trường. Mùi hôi của bãi rác có thể đi xa đến 5 – 10 km tùy vào chế độ môi trường tại khu vực đó. Một điều quan trọng nữa, trong quá trình phân hủy kỵ khí rác làm sản sinh ra một lượng lớn khí CH4, có thể gây cháy nổ khu vực bãi rác nếu xử lý tốt. Ngoài ra, ở bãi rác còn sinh ra các khí như: H2S, C02, NH3. Và vi sinh vật. 1.2.2.2.1. Tác hại đối với sức khoẻ con người và động vật sống trên mặt đất       Ô nhiễm không khí đối với cơ thể con người và động vật trước hết là qua đường hô hấp cũng như là tác động trực tiếp lên mắt và lên da của cơ thể. Chúng gây ra các bệnh như ngạt thở, viêm phù phổi, một số chất ô nhiễm gây kích thích đối với các bệnh ho, hen suyễn, lao phổi, ung thư phổi, gây cay chảy nước mắt, gây bệnh dị ứng, ngứa trên da, mề đay, bụi đá và bụi amiăng gây ra bệnh bụi phổi ... Nguy hiểm nhất là một số chất ô nhiễm không khí gây bệnh ung thư. Tác động của các chất ô nhiễm vào đường hô hấp mạnh hay yếu, một phần còn phụ thuộc vào sự hoà tan của chúng trong nước. Nếu các chất ô nhiễm có tính hoà tan trong nước thì khi ta hít thở không khí, chúng sẽ hoà tan với dung dịch lỏng trên đường hô hấp và gây tác động lên cơ quan này. Tính chất xâm nhập vào phổi của nhiều loại chất ô nhiễm còn liên quan đến sự có mặt của các khí dung trong không khí. Bình thường các chất ô nhiễm này không xâm nhập vào sâu trong khí quản và phế quản nhưng nhờ có các khí dung hấp thụ mà có khả năng thâm nhập vào sâu hơn trong phổi và cho đến tận các phế nang.       Ô nhiễm môi trường không khí đã làm tăng tỷ lệ số người mắc các bệnh về hô hấp (viêm họng, viêm mũi, viêm xoang), bệnh hô hấp dưới (viêm phổi, hen, lao), bệnh suy nhược thần kinh, bệnh đau đầu, bệnh tim mạch, bệnh ngoài da, bệnh về mắt và các chứng dị ứng. Ở nơi nào môi trường không khí càng bị ô nhiễm nặng thì tỷ lệ người mắc bệnh càng lớn.             Nói chung, động vật được chăn nuôi cũng như động vật hoang dã đều nhạy cảm đối với ô nhiễm môi trường không khí lớn hơn con người. Ở một số nước công nghiệp lớn, một số loài động vật đã bị diệt vong vì ô nhiễm môi trường. 1.2.2.2.2.Tác hại đối với thực vật       Hầu hết các chất ô nhiễm trong môi trường không khí đều có tác hại xấu đến thực vật, gây ảnh hưởng có hại đối với nghề nông và nghề làm vườn. Biểu hiện chính là làm cho cây trồng chậm phát triển đặc biệt là sương khói quang hoá đã gây tác hại rất lớn đối với các loại rau: rau diếp, đậu Hà Lan, lúa, ngô, các loại cây ăn quả và các loại phong lan.       Những thành phần ô nhiễm trong môi trường không khí như sulfurơ SO2, hydro florua HF, natri clorua NaCl, các hơi, bụi từ công nghiệp luyện đồng, chì, kẽm, nhuộm … Đặc biệt là hơi khí bốc ra từ các lò nung vôi, nung gạch thủ công, ngay cả khi nồng độ của chúng còn thấp cũng đã làm chậm quá trình sinh trưởng của thực vật, nồng độ cao làm vàng lá, làm hoa quả bị lép, bị nứt, bị thúi và mức độ cao hơn thì lá cây cũng như hoa quả đều bị rụng, chết hoại.       Các loại bụi đất đá bám vào cây lá nhiều cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng của thực vật vì làm giảm quá trình lục diệp hoá quang hợp của cây.       Những loài cây có nụ hoa quay đầu xuống dưới đất thì ít bị ảnh hưởng của ô nhiễm bụi hơn so với các loài cây có nụ hoa hướng lên trời.       Tuy nhiên cũng có chất ô nhiễm có tác dụng tốt đối với thực vật, có tác dụng tăng cường sinh trưởng cây, đặc biệt là đối với các loại tảo như là các chất photpho, nitơ và cacbon. 1.2.2.2.3.Tác hại đối với vật liệu       Nói chung, ô nhiễm không khí có tác dụng xấu, làm vật liệu, kết cấu cũng như đồ dùng và thiết bị chóng bị hư hỏng.       Các chất ô nhiễm trong không khí như SO2, H2SO4, clorua, các sol không khí … làm gỉ sét thép, làm hư hỏng các mối hàn kim loại và vật liệu xây dựng rất nhanh. Do đó, làm giảm tuổi thọ công trình và tăng nhanh tốc độ phải sửa chữa nhà cửa. Các loại đá dùng trong xây dựng sẽ bị phá hoại nếu trong không khí có chứa nhiều khí CO2 bởi vì khi độ ẩm lớn thì khí CO2 sẽ kết hợp với hơi nước để hình thành axit cacbonic H2CO3, chúng có tính chất ăn mòn đá, lâu ngày tạo thành các khe rãnh trên mặt đá. Các chất ô nhiễm oxit đồng, oxit lưu huỳnh có tác dụng xấu đối với sản phẩm dệt, giấy và đồ da.       Với sự xuất hiện của máy bay siêu âm đã gây ô nhiễm tiếng ồn máy bay rất nguy hiểm. Các máy bay siêu âm thường phát ra các tiếng nổ âm thanh (bom âm thanh) với áp lực cao, vượt quá 100 N/m2. Các tiếng nổ âm thanh này có khả năng phá hoại kết cấu xây dựng như làm vỡ cửa kính. 1.2.2.2.4.Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với khí hậu       Ô nhiễm môi trường không khí không những gây ảnh hưởng xấu đối với khí hậu khu vực mà còn gây ảnh hưởng tới khí hậu toàn cầu.       Ảnh hưởng đến khí hậu toàn cầu thể hiện ở sự hình thành hiệu ứng nhà kính của tầng khí CO2, làm tăng nhiệt độ toàn cầu, nâng cao mực nước biển hay là hiện tượng làm thủng tầng ozon, cái ô bảo vệ sinh vật trên trái đất khỏi bị bức xạ tử ngoại của mặt trời hủy diệt … Sau đây là một số ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với khí hậu địa phương.       a. Tăng cao nhiệt độ       Nhiệt độ tối thiểu trong ngày ở vùng đô thị cao hơn vùng nông thôn xung quanh 2 – 5oC và nhiệt độ trung bình năm thường cao hơn 0,5 – 1,3oC. Nguyên nhân là do đốt nhiên liệu và các quá trình sản xuất theo phương pháp gia công nhiệt đã tỏa lượng nhiệt lớn vào môi trường không khí, đồng thời diện tích bề mặt nhà cửa, đường xá, sân bãi chiếm nhiều, chúng hút bức xạ mặt trời nhiều hơn mặt đất có cây xanh ở nông thôn. Mặt khác, lượng nước bốc hơi hút nhiệt ở thành phố ít hơn ở nông thôn. Ngược lại, độ ẩm tương đối của không khí ở thành phố thấp hơn ở nông thôn 2 – 8%.        b. Giảm bức xạ mặt trời và tăng độ mây        Các bụi khói, sương mù ô nhiễm môi trường không khí đô thị có tác dụng hấp thụ 10 – 20% bức xạ mặt trời và làm giảm tầm nhìn, tức là làm giảm độ trong suốt của khí quyển. Các bụi, các sol khí do hoạt động sản xuất, giao thông và sinh hoạt của con người thải vào không khí có khả năng tạo ra các hạt nhân ngưng đọng hơi nước trong khí quyển. Hơi nước kết tủa ở vùng đô thị thường lớn hơn vùng nông thôn 5 – 10%.        Dựa vào các thành quả khoa học kỹ thuật ngày nay con người đã có thể chủ động điều khiển một phần sự biến thiên của khí hậu như là phương pháp nhân tạo làm giảm bớt sương mù ở sân bay, làm mưa nhân tạo, làm tan cơn bão … 1.2.2.3.Ô nhiễm môi trường đất Thông qua việc nước rỉ rác thấm vào tầng nước ngầm, chúng ta có thể biết được tầng đất nơi đó bị ô nhiễm. Qúa trình ô nhiễm này có thể gây hại cho các loải sinh vật sống trong đất, đặc biệt là giun đất và vi sinh vật nắm vai trò chủ yếu trong đất. Một số hợp chất hữu cơ bền (benzene, thuốc bảo vệ thực vật,…) có thể tồn tại lâu trong đất cũng gây hại cho những động trên và làm đất bị “chết”. Đặc biệt nó sẽ làm cản trở quá trình sinh trưởng của cây cỏ dẫn tới xói mòn đất. Các túi nilon có thể bám vào miệng cống gây tắt nghẽn đường ống làm ngập lụt đô thị. Trong môi trường hiếu khí và kỵ khí, rác được vi sinh vật phân hủy tạo ra hang loạt sản phẩm trung gian và sản phẩm khí (CO2, CH4). Với một lượng rác nhỏ có thể gây tác động tốt cho môi trường nhưng khi quá tải sẽ làm đất bị mất khả năng tự làm sạch và thoái hóa đất. CHƯƠNG 2 PHÂN KỲ CÁC GIAI ĐOẠN QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TRÊN THẾ GIỚI Các giai đoạn quản lý chất thải rắn trên thế giới được mô tả qua biểu đồ bên dưới  Hình 2.3: Các giai đoạn quản lý, xử lý chất thải rắn của TG trước đây và ngày nay Năm 2004 đã đánh dấu bước tiến bộ của cả thế giới trong việc quản lý và xử lý chất thải rắn đảm bảo vệ sinh môi trường, thông qua tình hình chung như sau 2.1. Tình hình chung trên thế giới Ước tính hàng năm lượng chất thải được thu gom trên thế giới từ 2,5 đến 4 tỷ tấn (ngoại trừ  các lĩnh vực xây dựng và tháo dỡ, khai thác mỏ và nông nghiệp). Năm 2004, tổng lượng chất thải đô thị được thu gom trên toàn thế giới ước tính là 1,2 tỷ tấn. Con số này thực tế chỉ gồm các nước OECD và các khu đô thị mới nổi và các nước đang phát triển. Bảng 2.3: Tình hình thu gom chất thải rắn đô thị trên toàn thế giới năm 2004 Thu gom chất thải rắn đô thị trên toàn thế giới năm 2004 (triệu tấn)    Các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD  620   Cộng đồng các quốc gia độc lập (trừ các nước ở biển Ban tích)  65   Châu Á (trừ các nước thuộc OECD)  300   Trung Mỹ  30   Nam Mỹ  86   Bắc Phi & Trung Đông  50   Châu Phi cận Sahara  53   Tổng số:  1.204   Nếu các số liệu trên đổi thành đơn vị tấn chất thải rắn được thu gom mỗi năm trên đầu người, thì tại các khu đô thị ở Hoa Kỳ có đến hơn 700 kg chất thải và gần 150 kg ở Ấn Độ. Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị cao đó là; Hoa Kỳ tiếp sau là Tây Âu và Ôxtrâylia (600-700 kg/người), sau đó đến Nhật Bản, Hàn Quốc và Đông Âu (300-400kg/người). Thị trường chất thải đô thị có giá trị cao nhất là Hoa Kỳ với 46,5 tỷ USD, sau đó là châu Âu với 36 tỷ USD và Nhật Bản là 30,5 tỷ. Chưa đánh giá được chính xác chất thải công nghiệp. Hiện nay chưa có dữ liệu về chất thải của Liên bang Nga và những con số ước tính lượng chất thải của Trung Quốc là chưa chính xác. Ngoài ra, chưa có định lượng rõ ràng về chất thải công nghiệp ở Hoa Kỳ. Chất thải nguy hại thậm chỉ còn khó đánh giá hơn, đặc biệt là do danh mục chất thải nguy hại vẫn đang được bổ sung, đặc biệt là ở châu Âu. Hiện nay, chất thải được tái chế bằng nhiều cách vừa biến thành năng lượng lẫn thu hồi nguyên liệu, và những thị trường thứ cấp đang xuất hiện ngày càng nhiều trên phạm vi toàn cầu. Trên thế giới, ước tính sơ bộ khối lượng nguyên liệu thứ cấp được trao đổi là 135 triệu tấn. Các nguyên liệu thứ cấp hiện là một trong những dòng nguyên liệu quan trọng nhất trên toàn thế giới. Bảng 2.4: Loại hình thu gom và xử lý chất thải đô thị theo thu nhập mỗi nước Loại hình thu gom và xử lý chất thải đô thị theo thu nhập mỗi nước  Các nước thu nhập thấp (Ấn Độ, Ai Cập-các nước châu Phi)  Các nước thu nhập trung bình (Ắchentina-Đài Loan (TQ) - Singapo-Thái Lan - EUNMS10)  Các nước có thu nhập cao (Hoa Kỳ-15 nước EU-Hồng Kông)   GDP (USD/người/năm)  <5.000  5.000 – 15.000  >20.000   Tiêu thụ giấy/bìa trung bình (kg/người/năm)  20  20-70  130-300   Chất thải đô thị (kg/người/năm)  150-250  250-550  350-750   Tỷ lệ thu gom %  <70  70-95  >95   Các quy định về chất thải  Không có Chiến lược môi trường quốc gia Các quy định hầu như không có Không có số liệu thống kê  Chiến lược môi trường quốc gia Cơ quan môi trường quốc gia Luật môi trường Một vài số liệu thống kê  Chiến lược môi trường quốc gia Cơ quan môi trường quốc gia Các quy định chặt chẽ và cụ thể Nhiều số liệu thống kê   Thành phần chất thải đô thị (%) Chất thải thực phẩm/dễ phân hủy Giấy và bìa Nhựa Kim loại Thủy tinh  50-80 4-15 5-12 1-5 1-5  20-65 15-40 7-15 1-5 1-5  20-40 15-50 10-15 5-8 5-8   Độ ẩm (%)  50-80  40-60  20-30   Nhiệt trị (kcal/kg)  800-1.100  1.100-1.300  1.500-2.700   Phương pháp xử lý  Điểm chứa chất thải bất hợp pháp >50% Tái chế không chính thức 5%-15%  Bãi chôn lấp >90% Bắt đầu thu gom có chọn lọc Tái chế có tổ chức 5%  Thu gom có chọn lọc Thiêu đốt Tái chế >20%   Biến chất thải thành năng lượng: là nhiệm vụ của họat động triển khai sử dụng tài nguyên tái tạo, giảm các khí nhà kính và phát triển thị trường cácbon. Thiêu đốt chất thải có thu hồi năng lượng bao gồm xử lý chất thải để sản xuất năng lượng cung cấp cho các nhà máy và nhà ở. Năng lượng sản xuất ra nhiều hơn năng lượng được sử dụng để vận hành lò đốt. Hiện nay có hơn 600 lò đốt chất thải thu hồi năng lượng ở 35 nước. Các thiết bị này xử lý 170 triệu tấn chất thải đô thị. Đó là nguồn năng lượng tương đương với 220 triệu thùng dầu hay 600.000 thùng/ngày. Hoa Kỳ tiêu thụ 20 triệu thùng dầu/ngày. Năng lượng được sản xuất từ 400 lò đốt chất thải ở châu Âu cung cấp điện cho 27 triệu dân hay cung cấp nhiệt cho 13 triệu dân. Thị trường đốt chất thải ở châu Âu ước tính trị giá 9 tỷ USD. Một Chỉ thị của châu Âu đề ra mục tiêu đến năm 2010, tổng tiêu thụ năng lượng nội địa là 12% và sản xuất 22,1% điện năng bằng tài nguyên tái tạo. Các bãi chôn lấp hiện đại nhất cho phép sản xuất khí biogas thông qua việc lên men chất thải, có thể tái sử dụng dưới dạng điện năng. Ở Hoa Kỳ có 340 trong số 2975 bãi chôn lấp thu hồi khí biogas và xử lý chất thải có liên quan đến vấn đề giảm các khí nhà kính. Tiết kiệm tài nguyên:  Tiết kiệm tài nguyên là một trong những lợi ích chủ yếu của họat động thu hồi và tái chế chất thải. Lợi ích nữa của tái chế là giảm các ảnh hưởng liên quan đến việc sử dụng và chuyển đổi các nguyên liệu thô. Các số liệu về lượng chất thải vẫn chưa đầy đủ và một số nguyên liệu được tái sử dụng trực tiếp không được chuyển qua các thiết bị thu hồi làm cho khó đánh giá. Những nguyên liệu chính được thu hồi và xử lý để tái sử dụng, bao gồm: Chất hữu cơ và gỗ Giấy, bìa cứng Nhựa Thủy tinh Kim loại có chứa sắt & không chứa sắt Vải dệt Ắc quy Chất thải điện và điện tử (CTĐT) & dung môi. Bảng 2.5: Thu hồi nguyên liệu từ chất thải đô thị ở châu Âu và Hoa Kỳ (nghìn tấn) Thu hồi nguyên liệu từ chất thải đô thị ở châu Âu và Hoa Kỳ (nghìn tấn)            Đức  Pháp  Anh  Italia  Tây Ban Nha  15 nước EU còn lại  Toàn châu Âu  Hoa Kỳ   Giấy & Thẻ  8.500  5.200  3.700  2.000  3.500  9.800  32.700  40.000   Nhựa  3.850  350  450  350  310  1.200  6.500  1.930   Thủy tinh  3.300  2.000  1.500  1.000  510  1.690  10.000  2.350   Kim loại không chứa sắt  1.204  1.750  75  278  121  797  3.975  1.750   Tổng số  16.854  9.300  5.725  3.628  4.441  13.487  53.175  46.030   Ắc qui  11.5  9.6      28    Sắt thải từ  xe cộ        11.000  17.000   1. Ước tính: 30% giấy, 20% nhựa và 20% kim loại không chứa sắt được thu hồi ở 15 nước EU còn lại. 2. Giấy và bìa cứng được thu hồi từ chất thải đô thị và công nghiệp   (Theo tổ chức OECD) Chất thải hữu cơ: Hiện nay ước tính 18 triệu tấn chất thải tươi ở châu Âu được thu gom và được dùng để sản xuất phân compost. Ngoài ra có 3,5 triệu tấn được xử lý trong thùng “phân huỷ”. Tỷ lệ thu hồi chất thải hữu cơ ở châu Âu ước tính là 42%. Chất thải là vải dệt ở Pháp và Đức chiếm chưa đến 5% chất thải đô thị. Khoảng 30-40% lượng chất thải này được tái sử dụng, 40-50% được tái chế và số còn lại được chuyển tới bãi chôn lấp. Các chất thải là quần áo cũ trên thế giới đã tăng 10 lần kể từ những năm 90. Theo ước tính, giá trị của lượng chất thải hiện nay là 1 tỷ USD. Họat động nhập khẩu vải dệt với giá rẻ chưa từng có từ châu Á đe dọa khu vực tái sử dụng không chính thức ở châu Phi và ngành công nghiệp tái chế ở châu Âu. Thị trường nguyên liệu thứ cấp từ chất thải: Năm 2004, thị trường nguyên liệu thứ cấp toàn cầu đạt 600 triệu tấn với giá trị trên 100 tỷ USD. Thu hồi nguyên liệu được xem như là biện pháp thích hợp nhất để đối phó với vấn đề quản lý lượng chất thải đang gia tăng. Tỷ lệ thu gom có chọn lọc chất thải đô thị và chất thải công nghiệp không nguy hại đang tăng lên ở tất cả các nước, cao hơn 45% so với chất thải đô thị ở một số nước châu Âu. Căn cứ vào các số liệu thống kê về số lượng giấy, nhựa và thủy tinh được thu hồi từ chất thải đô thị, ước tính lượng chất thải loại này ở châu Âu hiện nay là hơn 50 triệu tấn. Từ chất thải công nghiệp, tổng lượng chất thải là giấy, nhựa và thủy tinh ở châu Âu được thu hồi là gần 65 triệu tấn. Khoảng 28.000 tấn pin và ắc quy được thu gom và tái chế. Tái chế nhựa và giấy: Tỷ lệ tái chế nhựa ở các nước OECD vẫn thấp với tỷ lệ trung bình là 15%. Gần 22% nhựa thải được thu hồi để chuyển đổi thành năng lượng. Lượng chất thải tái chế liên tục tăng và hiện nay ở châu Âu chỉ hơn 3 triệu tấn trong số 22,5 triệu tấn được tái chế. Thị trường nhựa được thu hồi chiếm tỷ lệ thấp là 169 triệu tấn nhựa được sản xuất trên thế giới vào năm 2003.Tỷ lệ tái chế giấy dao động từ 10% ở Ai len đến 100% ở Áo. Tỷ lệ này ở Liên minh châu Âu tăng từ 41,5% năm 1991 lên 54% năm 2004. Năm 2004, châu Âu có 5,3 triệu tấn sợi xenlulô  được tái chế. Thị trường kim loại thứ cấp: Lần đầu tiên vào năm 2004, tổng sản lượng thép trên thế giới đạt 1 tỷ tấn. Sản lượng kim loại vụn đã tăng 450 triệu tấn. Tỷ lệ tái sử dụng kim loại này có thể ở mức cao từ 60-70%. Năm 2005, hầu hết các kim loại không chứa sắt đạt mức giá cao kỷ lục đã làm tăng nhu cầu đối với kim loại thứ cấp. Ví dụ, việc sản xuất nhôm thứ cấp từ nhôm thải ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổng Quan Về Lịch Sử Chất Thải Rắn.doc