Tiểu luận Ứng dụng của tâm lý trong đời sống

Việc hoàn thành bộ phim không phải là công lao của mình đạo diễn. Người quay phim, các diễn viên, đạo cụ. . . cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên sự thành công này. Phải chăng họ là những người tài năng? Ngọai trừ Monica Belluci trong vai Maria Madalena và Maia Morgenstern trong vai mẹ Maria, các diễn viên khác cũng chỉ là những diễn viên ít tên tuổi. Ngay cả diễn viên chính của bộ phim, Jim Caviezel cũng không phải là một diễn viên xuất sắc lắm trước khi tham gia bộ phim này. Đâu là điều đã giúp anh thành công? Có thể giải thích điều này bằng cấu trúc hoạt động của nhà tâm lý học họat động A. N. Léontiev- một trường phái tâm lý không "mặn mà" lắm với "con nhà đạo" - như sau: Theo Léontiev, cuộc sống con người là một dòng liên tục các hoạt động khác nhau, nối tiếp khác nhau. Mỗi hoạt động của con người đều có cấu trúc cụ thể: một bên là hoạt động bao trùm. Dưới nó là các hành động và cuối cùng là các thao tác. Bên kia, họat động bao giờ cũng gắn với động cơ. Hành động bao giờ cũng gắn với mục đích và thao tác luôn luôn phụ thuộc vào điều kiện. Mel Gibson đã hoàn thành bộ phim khởi đi từ một động cơ, một mục đích quá rõ ràng: "bộ phim của tôi nói về đức tin, đức cậy, đức mến và tha thứ. Đó là nội dung của bộ phim bộ phim nói về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. . . bộ phim không nhằm tố cáo, không nhắm quy trách nhiệm cho ai là kẻ đã giết Chúa Giêsu. . . tôi muốn làm cho khán giả hiểu được rằng có một người đã chịu đựng được những hành hạ đến tận cùng như thế, mà vẫn còn có thể yêu thương và tha thứ. . . " (CNA 16/2/2004). Chính điều đó đã thúc đẩy M. Gibson suy tư, tìm tòi khám phá và thể hiện. . . và anh đã thành công với sự trợ giúp của các nhà quay phim, diễn viên. Nói cách khác, anh đã thành công từ chính con tim đã cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình và cảm thấy cần phải có trách nhiệm loan báo tình yêu ấy bằng khả năng của mình. Anh đã hoàn thành công trình của mình bằng con tim yêu thương.

doc28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4311 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ứng dụng của tâm lý trong đời sống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tính chất tiến bộ hơn nhiều. - Truyền thống góp phần lưu giữ những kinh nghiệm lịch sử, tri thức của xã hội loài người - Truyền thống là chất keo gắn kết các thành viên trong nhóm thúc đẩy sự phát triển của tập thể. c. Chức năng của truyền thống. - Duy trì các quan hệ xã hội, đảm bảo cho sự ổn định hoạt động của các thành viên. - Góp phần xây dựng những chuẩn mực, khuân mẫu hành vi ứng xử cho các thành viên trong nhóm, đặc biệt cho thế hệ trẻ. - Tạo ra sự khác biệt độc đáo, cần thiết giữa các nhóm xã hội và cộng đồng. - Là cơ� chế tâm lý bên trong thúc đẩy, điều khiển và điều chỉnh hoạt động của các cá nhân và nhóm. d./ áp dụng trong du lịch: - Người cán bộ quản lý phải xây dựng cho mình� truyền thống tốt đẹp của tập thể tạo ra sự phát triển của tập thể. - Phải hiểu được truyền thống của du khách thì nó mới có thể đưa ra chương trình kế hoạch du lịch phù hợp. - Cần phải cho du khách biết được những truyền thống tốt đẹp của địa phương nơi họ tiến hành hoạt động du lịch để từ đó� đưa ra hành vi du lịch phù hợp. 4. Tín nghưỡng – Tôn giáo: a. Định nghĩa: Là niềm tin sâu sắc vào một điều gì đó vô hình, nhưng nó chi phối toàn bộ đời sống con người (ví dụ: Thiên chúa giáo- Chúa, Phật giáo- Phật Tổ, Bồ Tát) b. Đặc điểm của Tín ngưỡng- Tôn giáo. - Đó là niềm tin vào những điều hư ảo, không có thực như: Thánh, Chúa, Đức mẹ… - Niềm tin tôn giáo là một định hướng giá trị vững chắc và bền vững. - Niềm tin tôn giáo không theo một trật tự tự nhiên, logic. - Nó phụ thuộc nhiều vào trình độ, nhận thức và hoàn cảnh, điều kiện của từng người. c. Chức năng của Tín ngưỡng- Tôn giáo. - Là những cơ chế tâm lý bên trong điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người. - Là chất keo để gắn kết các thành viên của một cộng đồng người. - Là sự lưu giữ, truyền đạt những kinh nghiệm, lối sống, cách ứng xử…Từ thế hệ này qua thế hệ khác. d. Áp dụng trong công tác du lịch. - Cần phải hiểu được tín ngưỡng, tôn giáo của các loại du khách khác nhau, biết được những điều kiêng kỵ của họ, từ đó đưa ra hình thức phục vụ phù hợp. Ví dụ: Đối với du khách theo đạo Thiên chúa giáo thì du lịch cần được bố trí gần nơi có nhà thờ để thứ 7, Chủ nhật còn đi lễ nhà thờ; Đối với những du khách theo đạo phật thì cần phải bố trí gần những nơi có chùa, động… để họ thắp hương nơi cửa Phật, chọn ngày- giờ xuất phát. - Cần phải nắm được tín ngưỡng, tôn giáo của các địa phương nơi tiến hành hoạt động du lịch. Từ đó thiết kế các hình thức, biện pháp phù hợp, tránh xảy ra mâu thuẫn đáng tiếc. 5. Tính cách dân tộc. a. Định nghĩa: Tính cách dân tộc là những nét điển hình riêng biệt, mang tính ổn định, đặc trưng trong các mối quan hệ của các thành viên trong cộng đồng đó (ví dụ: người Anh thì lạnh lùng, người Braxin thì sôi nổi, nhiệt tình…). b. Đặc điểm của tính cách dân tộc. - Được hình thành một cách từ từ cùng với sự phát triển của một dân tộc. - Tính ổn định rất cao - Những nét đặc trưng điển hình, phản ánh lối sống, các giá trị văn hoá, nghệ thuật của một dân tộc. - Tính cách dân tộc là phương thức lưu giữ, truyền đạt những tri thức, kinh nghiệm và vốn sống từ thế hệ này qua thế hệ khác, của một cộng đồng nào đó. c. Chức năng của tính cách dân tộc. - Là cơ chế tâm lý bên trong, điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người. - Thông qua tính cách của dân tộc, ta có thể hiểu biết về văn hoá, nghệ thuật, đời sống của một cộng đồng người nào đó. - Là những nét độc đáo, điển hình của nhân cách, giúp ta phân biệt được các nhóm người và cộng đồng người khác nhau. d. Áp dụng trong hoạt động du lịch. - Thông qua tính cách của du khách thuộc về một quốc gia, dân tộc nào đó, người kinh doanh du lịch tạo ra các sản phẩm du lịch và cách thức phục vụ phù hợp với họ. - Giới thiệu với du khách về giá trị, bản sắc văn hoá, dân tộc, tính cách dân tộc, giúp cho du khách hiểu hơn về đất nước và con người Việt Nam. - Cần cho du khách hiểu biết tính cách dân tộc ở nơi tiến hành hoạt động du lịch để tăng cường sự phối hợp với các cơ quan địa phương. 6. Hiện tượng nhóm trong du lịch. a. Định nghĩa: Nhóm là sự liên kết tâm lý- xã hội từ hai người trở lên nhằm thực hiện một hoạt động nào đó trong đời sống của họ. Trong hoạt động du lịch, chúng ta gặp lại hai loại nhóm cơ bản: Nhóm Chính thức: các tập thể, công ty… kinh doanh du lịch Không chính thức: Các nhóm nhỏ trong các nhóm chính thức và các nhóm du khách Ở đây, chúng ta đi sâu phân tích nhóm không chính thức trong hoạt động du lịch, đặc biệt là nhóm du khách. b. Đặc điểm của nhóm du khách: - Các thành viên liên kết với nhau theo một sở thích nhu cầu, mục đích du lịch nào đó. - Thành phần nhóm thường gồm các lứa tuổi khác nhau (trẻ em, người lớn, người già…), đặc biệt là du lịch gia đình. - Thời gian tồn tại của nhóm ít (từ 10- 15 ngày) - Số lượng thành viên trong nhóm ít (thường từ 15- 30 người) - Các thành viên trong nhóm thường có ngôn ngữ, trình độ, đặc điểm văn hoá, lịch sử, xã hội khác nhau - Việc giao tiếp giữa các thành viên thường bị hạn chế do những bất đồng, các phương tiện phi ngôn ngữ ở đây được sử dụng rất hiệu quả c. Sử dụng các nhóm nhỏ trong du lịch. Tuỳ theo tổ chức hoạt động du lịch mà nên tổ chức nhóm bao nhiêu người để đạt hiệu quả. - Nếu là nhóm leo núi, lướt ván thì nên tổ chức 2 (số chết)±N= 7 Nếu có số lượng phù hợp thì các thành viên dễ kiểm soát và hỗ trợ giúp đỡ nhau hơn. - Nên sắp xếp các nhóm du khách theo châu lục bởi như vậy họ thường có những đặc điểm, tính cách, tôn giáo gần giống nhau và do đó sự hiểu biết và tạo dựng các mối quan hệ dễ dàng hơn. - Tạo ra được bầu không khí tâm lý lành mạnh trong tập thể để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp. Phải cử các cán bộ có năng lực phụ trách các nhóm du lịch, có sức khoẻ và am hiểu hoạt động du lịch. Có thể dùng các phương pháp test hoặc đánh giá để tuyển nhân viên tốt hơn. 4.Tâm Lý Học Trong Tư Vấn Xã hội công nghiệp hóa với tốc độ thay đổi của xã hội nhanh chóng, những công việc với cường độ cao, những mối quan hệ phức tạp, những vấn đề mới luôn phát sinh, tính cá nhân ngày càng tăng cường… khiến cho không ít người rơi vào tình trạng căng thẳng, bức bối về tâm lý. Stress (căng thẳng) trở thành một bệnh xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các bạn cần tìm đến các chuyên gia tư vấn tâm lý.   Tư vấn tâm lý là gì? Tư vấn tâm lý là một mối quan hệ, một quá trình tương tác giữa Nhà tư vấn tâm lý với thân chủ nhằm giúp đỡ thân chủ cải thiện cuộc sống của họ bằng cách khai thác nhận thức và thấu hiểu những suy nghĩ cảm xúc và hành vi của họ. Nhà tư vấn tâm lý là người được đào tạo một cách bài bản trong ngành tâm lý và cụ thể là tư vấn tâm lý. Họ là người được đào tạo chuyên sâu, có đủ các phẩm chất và kỹ năng cần có của một nhà tư vấn để có thể trợ giúp tốt nhất cho khách hàng của mình. Công việc của nhà tư vấn tâm lý? Nhiệm vụ của nhà tư vấn tâm lý phải biết lắng nghe thân chủ, làm chủ các cuộc nói chuyện trong các cuộc gặp gỡ tư vấn, sử dụng các kỹ năng giao tiếp cụ thể để “khai thác” các cảm xúc, trải nghiệm suy nghĩ và quan điểm của thân chủ, và tập hợp các thông tin giúp thân chủ hiểu rõ về tình huống của họ, thể hiện sự thông cảm và thấu hiểu với thân chủ, nhà tư vấn làm việc với họ để xác định các bước họ có thể thực hiện để có thể tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho vấn đề của họ, giúp thân chủ hiểu được các sự kiện trong quá khứ có thể đã góp phần vào các vấn đề hiện tại, giúp thân chủ suy nghĩ và xử sự theo các cách khác nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của các sự kiện quá khứ, giúp thân chủ phân loại các vấn đề trong cuộc sống của họ và khám phá sâu hơn về bản thân mình, giúp thân chủ bày tỏ các cảm xúc của họ và có cái nhìn sâu sắc về việc các cảm xúc này tác động dến cách họ ứng xử, suy nghĩ và ra các quyết định như thế nào. Bình thường khi gặp vấn đề, chúng ta luôn có thể tìm đến và nói chuyện với những người bạn mà chúng ta thấy quý mến họ hoặc chúng ta tìm thấy sự vui vẻ trong những mối quan hệ đó. Khi nói chuyện với bạn bè chúng ta có thể nói về một chủ đề vặt vãnh nào đó hoặc có thể chuyển sang đề tài không mấy thú vị, đôi khi cuộc nói chuyện đó xoay quanh nhu cầu của chính người tham gia nói chuyện cùng chúng ta, đặc biệt họ có thể áp đặt cho chúng ta phải làm thế này thế kia. Nhưng với tư vấn họ phải luôn luôn tôn trọng ranh giới chuyên môn giữa thân chủ và nhà tư vấn, đảm bảo tính khách quan chuyên nghiệp. Nhà tư vấn phải đặt các nhu cầu của mình sang một bên và tôn trọng tối đa các nhu cầu của khách hàng, họ tập trung tối đa để xoay quanh vấn đề của thân chủ. Đó là một quá trình trợ giúp dựa trên các kỹ năng, trong đó một người dành thời gian, sự quan tâm, và sử dụng các kỹ năng của họ một cách rõ ràng và có mục đích để giúp đỡ thân chủ khai thác tình huống, xác định và triển khai những giải pháp khả thi trong giới hạn cho phép, sao cho thân chủ cảm thấy thoải mái nhất sau cuộc nói chuyện mà nhà tư vấn không hề áp đặt những gì họ cho là tốt cho thân chủ. Về đào tạo, bộ môn TVTL mới chỉ được giảng dạy như một môn học chung. Nó chưa được coi như một chuyên ngành sâu. Sinh viên chỉ học môn này trong khoảng từ 2-6 đơn vị học trình, việc thực hành còn rất sơ sài. Do vậy tính chuyên nghiệp của những người làm tư vấn chưa cao. Phần nhiều những người làm tư vấn thường đưa ra những lời khuyên với khách hàng dựa trên sự nhìn nhận vấn đề của mình, đôi khi mang tính áp đặt. Điều này sẽ dẫn đến việc khách hàng bị lệ thuộc, trong khi nhà tư vấn lại không chịu trách nhiệm về lời khuyên của mình. Vì vậy vấn đề đạo đức nghề nghiệp rất được coi trọng trong lĩnh vực này. Tại một số nước phương Tây, muốn hành nghề tư vấn phải có bằng hành nghề cấp quốc gia do hội đồng nghề tư vấn sát hạch.   5.Tâm lý học trong thiết kế website Một website được thiết kế tốt là website hướng tới việc thu hút nhiều đối tượng mục tiêu ghé thăm website của bạn, chứ không phải là thiết kế cho các designer. Những người sử dụng internet thường xuyên thì rất dễ nhận biết được một website nào có giá trị hay không. Khi bạn truy cập vào một website lần đầu tiên thì ngay lập tức bạn đã có ấn tượng về chất lượng và sự hợp lý của nó. Mặc dù nó là vô thức, nhưng thông thường cảm nhận đó rất chính xác. Theo báo cáo năm 2006 của BBC News chỉ ra bộ não đưa ra quyết định chỉ trong 1/20 của giây khi xem một trang web. Và ấn tượng đầu tiên đó sẽ theo bạn trong suốt quá trình duyệt web, cả về nội dung và độ chuyên nghiệp. Từ đó bạn có thể thấy tại sao việc tạo ấn tượng ban đầu tốt đẹp lại được nhấn mạnh đến thế. Bạn liệu có đặt ra câu hỏi làm thế nào được như thế? Nó đơn giản nằm ở việc nhìn nhận – bạn phải nhìn nhận dưới góc độ kết hợp cả tâm lý học con người nói chung và các yếu tố thiết kế website (không có cái nào độc lập với cái nào) ở một mức độ cao,ví như việc bạn sắp xếp rất nhiều chữ cái lộn xộnlại cùng với nhau thành một từ cụ thể và có nghĩa. Tâm lý luôn đóng vai trò là 1 phần trong việc sử dụng internet, và đó chỉ mới bắt đầu hiểu sự sâu sắc về tầm ảnh hưởng của nó. Khi chúng ta chia nhỏ vấn đề ra thì việc thiết kế website đơn giản là đưa các nội dung hình ảnh lên website để xuất hiện một cách phù hợp nhất theo nhận thức của đối tượng mục tiêu mà website hướng tới. Tâm lý học hữu ích như thế nào đối với thiết kế website? Cộng đồng tâm lý học đã thực hiện các nghiên cứu từ những ngày đầu tiên có internet. Tôi nhớ đã từng đọc một thông tin một năm trước đây chỉ ra rằng website nếu như sử dụng màu xanh bích hoặc màu nâu làm màu chủ đạo thì sẽ nhận được sự phản hồi từ người dùng tốt hơn so với các giao diện sử dụng các màu sắc khác. Nó có thể có nhiều lý do, tuy nhiên đối với cá nhân tôi nghĩ nó xuất phát từ chính những yếu tố tự nhiên xung quanh chúng ta. Ví dụ, những nghiên cứu không liên quan cho thấy những bé gái có xu hướng thường bị thu hút bởi các màu xanh bích. Bên cạnh đó, 70% trái đất bao phủ bởi nước, và cơ thể của chúng ta cũng cấu thành từ nước với cùng 1 tỉ lệ đó, chưa kể đến bao trùm trên đầu chúng ta là bầu trời xanh thăm thẳm. Nếu đã từng ghé vào website của Barack Obama, bạn sẽ thấy nó thực sự thu hút. Và theo tôi thì khó có màu nào khác tạo được sự thu hút như thế. Một ví dụ khác về tâm lý ảnh hưởng tới website là việc đọc chữ màu đen trên nền trắng. Ngay từ những ngày mới bắt đầu đọc sách, chúng ta đã được đọc những cuốn sách với các dòng chữ đen trên nền trắng. Vì thế, nó là lý do so với các màu sắc khác, thì chúng ta luôn thấy dễ dàng khi đọc những dòng chữ đen trên nền trắng. Vậy còn những yếu tố thiết kế website là gì? Hầu hết mọi người không phải là những nhà thiết kế website hay designer đều không thực sự biết tại sao một site trông đẹp mắt, họ chỉ biết được là họ thích nó. Tất nhiên là có những nguyên lý cơ bản về thiết kế web được làm nền tảng chính cho các designer dựa vào, đó là: bố cục rõ ràng, điều hướng dễ dàng, các bức ảnh phù hợp và gây sự thu hút… Tuy nhiên khi bạn cố gắng tạo một website theo những chuẩn đó thì thật khó để thực hiện được, bạn cần những thông tin cụ thể hơn. Dưới đây là một số chi tiết bạn có thể nhớ khi thiết kế website: Những bức ảnh nào phù hợp với nội dung nhất? Đâu là điểm nhấn của website? (Hoặc là: nơi nào là điểm thu hút mắt nhất trên trang?) Tiêu điểm của site đã được đặt đúng hay chưa? Nếu chưa thì làm thế nào để chỉnh lại? (Ví dụ: thay đổi màu sắc, hình dáng của phần Call-to-action đặt trên site) Đâu là đường “trọng tâm của mắt”? (Đường trọng tâm của mắt là đường mà mắt tập trung vào nhiều nhất khi theo dõi nhanh trang web). Dưới đây là đường trọng tâm phổ biến nhất: Những website nổi tiếng trong lĩnh vực của bạn trông như thế nào? Điều này là hết sức quan trọng. Những công ty lớn cùng ngành tạo nên các cách thiết kế phổ biến tới nhiều người, giống như là các site báo chí, phóng sự, forum … và nếu bạn đang thiết kế một trong số các loại site này thì bạn cần xét tới những yếu tố này để tạo một trang web thân thiện. Càng đơn giản càng tốt – Những thiết kế đơn giản nhất thường tốt nhất. Bạn không muốn bị choáng bởi một website nhồi nhét quá nhiều thứ (ảnh, nội dung …) và tất nhiên bạn cũng không muốn người đọc phải mất tận 30 giây chỉ để tìm thấy những gì họ đang tìm trong mớ hỗn độn trên website. Hãy tạo sự cân bằng tốt nhất, cố gắng tạo mọi thứ thật đơn giản, và giản tiện website càng nhiều càng tốt. Khi mọi thứ được đặt đúng cách theo một trật tự nhất định, nó sẽ tạo ấn tượng chuyên nghiệp và dễ sử dụng. Đồng thời nếu sắp xếp khoa học thì việc mở rộng website về sau cũng sẽ dễ dàng hơn. Cách tốt nhất để hiểu những yếu tố thiết kế đó và không thiếu sót là dành nhiều thời gian phân tích các website khác cùng ngành nghề và lĩnh vực để nhìn ra được những gì mà các designer khác đã làm tốt và những điểm không tốt từ đó. Từ đó tìm ra những phương pháp để nâng cao các yếu tố của website mà bạn đã sử dụng. Bạn cần chú ý rằng thiết kế web và tâm lý không hề tách biệt nhau Tâm lý học và thiết kế web luôn song hành cùng nhau, thậm chí trước cả khi những nghiên cứu được tiến hành. Một yếu tố để xem xét cho cả hai, và một yếu tốt quan trọng phổ biến cho cả 2, là sự bảo mật. Tất cả mọi người đều cần cảm thấy an toàn, và trên môi trường internet điều đó được xem xét thường xuyên hơn bất cứ nơi nào khác. Với việc ngày càng nhiều có các website lừa đảo, gian lận xuất hiện trên toàn thế giới, việc bảo mật trở thành một vấn đề lớn nhất trong ngành công nghiệp thương mại điện tử. Điều đó dẫn tới là một website PHẢI tạo ra cảm giác an toàn cho một khách ghé thăm trước khi họ thực hiện tương tác gì đó trên website. Có nhiều cách để thực hiện điều đó: xây dựng các quy chế, chính sách gắt gao, đăng ký chứng thực từ các các thương hiệu bảo mật tốt … Nhưng có một cách đơn giản nhất là nêu rõ tất cả liên quan thông tin về website của bạn, sản phẩm hay việc kinh doanh của bạn. Người dùng rất hay bị mất phương hướng và thiếu thông tin. Và những thông tin quan trọng dạng này thường được xếp vào những vùng không quan trọng hay cho cỡ chữ nhỏ hoặc là bị ẩn đi. Nếu bạn có một website trung thực, hãy làm cho mọi người nhận ra điều đó. Ngoài ra, trong lĩnh vực thương mại điện tử, việc sử dụng một hệ thống thanh toán nổi tiếng (ví dụ như của các ngân hàng lớn, Paypal, SecurePay, ClickBank …) với các đơn hàng bảo đảm thường giúp mọi người cảm thấy an toàn hơn để quyết định mua hàng. Đó là một số các ví dụ nổi bật. Hãy bỏ một chút thời gian và bạn sẽ có những điều hữu ích về việc thiết kế website. Cố gắng chú ý vào ấn tượng đầu tiên của những người ghé thăm và khiến cho nó thật hiệu quả. Lưu ý những gì bạn cảm thấy khi bạn nhìn vào một site và cố gắng hiểu tại sao bạn lại cảm thấy thế. Sau một thời gian, bạn sẽ bắt đầu chú ý tới những chi tiết nhỏ hữu ích để thu hút những khách hàng của bạn, đó là những gì và thiết kế web phải làm được. 6.Tâm Lý Trong Lao Động Một sinh viên it học rất giỏi mới ra trường nhưng chỉ xin được vào một công ty nào đó thuộc chuyên ngành với mức lương chỉ có 2 triệu ,nhưng 1 sinh viên khác cũng mới ra trường học lực chỉ thuộc loại trung bình khá nhưng mức lương lại cao hơn và làm ở một công ty danh tiếng hơn . Bởi vì sao ? dễ hiểu thôi . Anh sinh viên có học lực trung bình khá nhưng có kinh nghiệm trong lĩnh vực đó hơn anh sinh viên giỏi nhưng chưa có kinh nghiệm làm việc . tâm lý của các nhà tuyển dụng bao giờ cũng đánh giá cao những hồ sơ tuyển dụng của những người có kinh nghiệm và dựa vào năng lực của họ chứ không phải dựa trên bằng cấp mà họ đánh giá. 7.TÂM LÝ TRONG NGÀNH TÀI CHÍNH Các nhà đầu tư sẽ có hành vi không hợp lý khi họ không phân tích và xử lý “đúng” những thông tin mà họ có (và thị trường cung cấp), từ đó dẫn đến những kỳ vọng lệch lạc về tương lai của cổ phiếu mà họ đầu tư vào. Ngoài ra, trong một số trường hợp, dựa trên kinh nghiệm hay nhận thức sẵn có, họ cũng mắc phải những “lệch lạc trong nhận thức” (cognitive biases). Những nghiên cứu về các hành vi không hợp lý tiêu biểu trong thị trường tài chính là kết hợp giữa tâm lý học, mà chủ yếu là trường phái tâm lý nhận thức (cognitive psychology) với trường phái tâm lý hành vi (behavioral psychology). Có một số dạng lệch lạc trong nhận thức tiêu biểu trong thị trường chứng khoán như sau: *Phụ thuộc vào kinh nghiệm hay thuật toán (Heuristics). Các kinh nghiệm, hay quy tắc học được thường giúp chúng ta ra quyết định nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều (chính các trường dạy về kinh tế về mặt nào đó cũng chỉ ra một số các quy tắc quyết định cho một số trường hợp kia mà). Nhưng trong một số trường hợp, dựa dẫm quá nhiều vào các quy tắc đôi khi sẽ dẫn đến sai lầm, đặc biệt là khi các điều kiện bên ngoài thay đổi. Và đặc biệt là người ta thường đề cao hiệu quả của những quy tắc đơn giản, gần gũi và dễ nhớ, kiểu hiệu ứng mà Tversky và Kahneman (1979) gọi là hiệu ứng quy tắc có sẵn (availability heuristic). Shiller (2000) đã đưa ra một ví dụ là khi nhiều người đều dùng internet thì họ dễ dàng nghĩ đến những điển hình thành công và những đổi mới hấp dẫn đang diễn ra trên mạng, thế là họ nghĩ ngành kinh doanh này sẽ thành công, rốt cuộc đã dẫn đến vụ bùng nổ giá cổ phiếu các Công ty công nghệ cao, dot.com vào cuối những năm 1990. Một ví dụ khác gây bất ngờ là của Benartzi và Thaler (2001) khi họ ghi nhận qua thí nghiệm cho một số người N lựa chọn cho việc đầu tư tiền tiết kiệm, nhiều người nhanh chóng áp dụng quy tắc 1/N (đa dạng hoá đầu tư kiểu đơn giản nhất, đầu tư 1/N số tiền vào mỗi loại hình đầu tư), trong khi nếu phân tích kỹ, họ sẽ đầu tư theo những quy tắc khác (như chia phần nào vào cổ phiếu, phần nào vào chứng khoán thu nhập cố định, và tuỳ vào điều kiện thị trường, v.v…). *Lệch lạc do tình huống điển hình (Representativeness), thường được diễn tả một cách đơn giản là xu hướng không quan tâm nhiều đến những nhân tố dài hạn, mà thường đặt nhiều quan tâm đến những tình huống điển hình ngắn hạn. Ví dụ khi giá cổ phiếu bắt đầu tăng liên tục 3, 4 năm hoặc dài hơi hơn (như trường hợp của Mỹ và Tây Âu từ 1982 đến 2000, hay Trung Quốc trong 10 năm trở lại đây, và có lẽ cũng có cả Việt Nam chúng ta nữa), trong đầu nhiều người bắt đầu suy nghĩ rằng lợi nhuận cao từ cổ phiếu là việc “bình thường”. Nếu trở lại giai đoạn 2001, 2002 của thị trường Việt Nam khi giá chứng khoán đi xuống, chắc hẳn những qi kinh doanh cổ phiếu niêm yết (không tính cổ phiếu OTC) trong giai đoạn này sẽ thấy sự khác biệt, một mức lợi nhuận 30-50% thời điểm ấy là không bình thường, song trong 1, 2 năm gần đây là quá “bình thường”. Tversky và Kahneman (1974) đưa ra một định nghĩa hàn lâm hơn cho tình huống này là người ta đánh giá xác suất xảy ra của những sự kiện trong tương lai dựa vào mức độ “tương tự” với một tình huống điển hình nào đó. Điểm quan trọng là người ta thường chỉ quan tâm đến một tình huống điển hình của một giai đoạn ngắn thay vì quan tâm đến một mẫu hình điển hình trong một giai đoạn dài (điều này gọi là luật số quan sát nhỏ, “law of small numbers”). Chẳng hạn cho rằng điều kiện hiện nay của nền kinh tế Việt Nam “tương đồng” với giai đoạn này trong năm 2006 nhiều hơn là giống với năm 2001 thì đương nhiên sẽ cho rằng xác suất giá cổ phiếu còn lên nữa là cao hơn xác xuất giá cổ phiếu sẽ giảm. Nhưng nếu nhìn cho một giai đoạn 2000-2006, người ta sẽ thấy thị trường lúc lên, lúc xuống, không phải lên mãi không ngừng, thì sẽ có đánh giá khác về xác suất tăng, giảm. *Bảo thủ (conservatism). Khi điều kiện thay đổi (thông tin mới về triển vọng nền kinh tế chẳng hạn), người ta có xu hướng chậm phản ứng với những thay đổi đó, và gắn nhận định (anchoring) của mình với tình hình chung trong một giai đoạn dài hơi trước đó. Tức là khi có tin nền kinh tế suy giảm, họ cho rằng kinh tế kém đi chỉ là tạm thời, dài hạn vẫn là đi lên, mà không nhận thấy có thể tin đó phát đi tín hiệu một chu kỳ suy thoái nhiều năm đã bắt đầu. Hiệu ứng này (gắn với kinh nghiệm dài hạn) là ngược lại với hiệu ứng lệch lạc do tình huống điển hình (đặt nặng vào các tình huống điển hình ngắn hạn). Phối hợp 2 hiệu ứng này có thể giúp giải thích hiện tượng phản ứng chậm (undrrreaction) trên thị trường chứng khoán. Ví dụ, khi ban đầu tin tức công bố của một Công ty cho thấy lợi nhuận giảm, người ta vẫn tin rằng đây chỉ là giảm tạm thời, và phản ứng chậm với thông tin này, nên giá cổ phiếu Công ty có tin xấu vẫn giảm chậm. Đến khi liên tục vài quý sau, tình hình vẫn xấu, thì người ta đã “phát hiện” ra một tình huống điển hình mới: Công ty này quý trước cũng kinh doanh kém, quý này cũng kinh doanh kém, vậy nên bán tống cổ phiếu Công ty này đi tránh lỗ. Thế là mọi người đổ xô đi bán cổ phiếu. Kết quả, lại dẫn đến phản ứng thái quá. *Quá tự tin (overconfidence) Có nhiều nghiên cứu tâm lý học trên thị trường tài chính cho thấy các nhà đầu tư tỏ ra quá tự tin (một số bằng chứng thí nghiệm đã được trình bày trong các tác phẩm “Irrational Exuberance” (2000) của Shiller, một số khác trình bày trong “A survey of behavioral finane” (2003) của Barberis và Thaler). Bằng chứng gần đây nhất là việc nhiều nhà đầu tư ít đa dạng hoá danh mục của mình và đầu tư nhêìu vào những Công ty mà mình quen thuộc (một số nghiên cứu tranh cãi rằng có thể vì họ có thông tin nội bộ về những Công ty đó, nhưng những nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực quản trị Công ty đã bác bỏ luận cứ này). Như vậy, một cách giải thích khả dĩ là các nhà đầu tư ít đa dạng hoá này tự tin quá mức vào tầm hiểu biết của mình đối với Công ty, Barber và Odean (2001) còn công bố một kết quả thú vị là những nhà kinh doanh chứng khoán là nam thì quá tự tin nhiều hơn nữ, và nam càng thực hiện nhiều giao dịch thì… kết quả càng tệ hại hơn nữ. *Định nghĩa hẹp (narow framing) cô lập một khái niệm hay phân tích một vấn đề trong một khuôn khổ hạn hẹp, tách biệt, và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu cho khuôn khổ hạn hẹp ấy, thay vì cho toàn cục. Phương pháp này có thể hữu ích trong một số trường hợp giới hạn về nguồn lực, hay không đủ thời gian phân tích nhiều. Tuy nhiên, nó cũng có thể đưa đến sai lầm. *Tính toán bất hợp lý (mental accounting). Đây là một dạng của định nghĩa hẹp. Chúng ta có xu hướng tách riêng các quyết định mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau vào các tài khoản ảo trong trí tưởng tượng của chúng ta (metal account) và tối đa hoá lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, đôi khi chúng ta đưa ra các quyết định nhìn tưởng là hợp lý, mà thật ra là sai lầm. Ví dụ, có người có xu hướng tách biệt ra 2 ngân sách gia đình, một dành cho mua thức ăn trong gia đình, một dành cho đi ăn nhà hàng cuối tuần. Và khi chi tiêu mua đồ ăn, người này thường không mua hải sản cao cấp vì nghĩ rằng nó mắc và chỉ ăn thịt bình thường, nhưng khi vào ăn nhà hàng, người này lại gọi tôm hùm, thay vì ăn một bữa thịt bình thường (đương nhiên rẻ hơn tôm hùm). Nếu thay vì như vậy, người này đi mua tôm hùm cho bữa ăn tại nhà, và chỉ ăn thịt bình thường trong nhà hàng, anh ta có thể tiết kiệm tiền. Vấn đề nằm ở chỗ anh ta đã tách biệt ra 2 tài khoản riêng cho thức ăn tại nhà và đi ăn cuối tuần ! Sử dụng tính toán bất hợp lý và định nghĩa hẹp, chúng ta có thể giải thích nhiều hiện tượng như lựa chọn nghịch với sở thích (preference reversals), sợ thua lỗ (loss aversion), và hiệu ứng phân bổ tài khoản khá phổ biến, thể hiện cơ bản ở chỗ người ta sẵn sàng thực hiện ngay những lệnh mang lại lời nhỏ, nhưng trì hoãn không thực hiện lệnh dừng lỗ khi xuất hiện những khoản lỗ nhỏ. Ví dụ, khi mua cổ phiếu giá 30.000, sau đó giá giảm xuống 22.000, người ta vẫn không bán cổ phiếu (thậm chí còn mua tiếp) và chờ đến khi giá lên trên 30.000 một chút mới bán ngay kiếm lời. Giá có giảm tiếp người ta cũng cứ giữ cổ phiếu đó tiếp. Vì họ đã tách biệt giữa “tài khoản lời” và “tài khoản lỗ” trong tâm trí của mình, cho nên họ cố tối đa hoá tài khoản lời, và tối thiểu hoá tài khoản lỗ, nên giá lên một chút thì bán, giá xuống thì cứ giữ, xem như nó chưa bị chuyển qua tài khoản lỗ. Hiệu ứng phân bổ tài khoản này cũng có thể được lý giải bằng hiệu ứng tự lừa dỗi (sợ rằng nếu bán mà bị lỗ thì sẽ cảm thấy bản thân ra quyết định đầu tư kém), hay hiệu ứng tiếc nuối (lỡ bán rồi mà giá lên thì sao). Hiệu ứng phân bổ tài khoản lý giải một phần vì sao trong thị trường tăng giá thì khối lượng giao dịch tăng cao hơn khi thị trường giảm giá tại Mỹ và Nhật. Trên đây chỉ là một số hiệu ứng tâm lý đã được đề cập và đưa vào một số mô hình tài chính hành vi. Còn nhiều hiệu ứng tâm lý khác nhau có thể tác động đến các quyết định lệch lạc của nhà đầu tư, có thể được tổng hợp trong bảng . Bảng : Các trường phái tâm lý và ứng dụng trong tài chính hành vi Trường phái chính Các hiệu ứng chính Ứng dụng trong tài chính Tâm lý hành vi Do John B.Watson sáng lập năm 1913, nghiên cứu các điều kiện khiến con người sẽ hành động theo một cách nào đó -Tin vào điều thật ra không tồn tại (magical thinking) -Ưa thích sự chắc chắn (certainty effect) -Lý thuyết triển vọng (prospect theory) Hiệu ứng ưa thích sự chắc chắn và lý thuyết triển vọng liên quan đến các vấn đề không ưa thích rủi ro và thích mạo hiểm khi bị lỗ hơn khi đang lời trong tài chính Tâm lý nhận thức Do Uric Neiser sáng lập năm 1967, nghiên cứu về cách mà suy nghĩ của con người điều khiển hành vi của họ -Hội chứng tự tôn (touchy feely syndrome), lý thuyết nuối tiếc (regret theory) -Mâu thuẫn về nhận thức (cognitive  dissonance) -Định nghĩa hẹp, tính toán bất hợp lý -Bù đắp chi phí đã bỏ ra -Quá tự tin -Lệch lạc trong nhận thức về quá khứ (hindsight bias) khẳng định quá mức (confirmatory bias) Đây là trường phái đóng góp lớn cho tài chính, ngoài những hiệu ứng đã đề cập ở trên, hiệu ứng mâu thuẫn về nhận thức, bù đắp chi phí bỏ ra, lý thuyết tiếc nuối giúp giải thích vì sao chúng ta thường nắm giữ mãi các khoản lỗ và cứ lỗ liên tục. Hội chứng tự tôn giải thích chúng ta có xu hướng tự đánh giá cao cổ phiếu mà mình chọn đầu tư. Hiệu ứng lệch lạc trong nhận thức về quá khứ hay khẳng định quá mức cũng giống như hội chứng quá tự tin, làm chúng ta nhận xét rằng mình có khả năng dự đoán thị truờng tốt Lý thuyết cấu trúc hình thức (Gestait theory) Do Max Werrtheirmer sáng tạo từ 1912, nghiên cứu cách chúng ta suy diễn từ những dữ liệu chúng ta nhận được -Hiệu ứng thuyết phục (persuasion effect) -Hiệu ứng tự thuyết phục (seff-persuasion) -Lệch lạc do tình huống điển hình -Xu hướng tự bảo vệ (ego-defensive attitude) -Hiệu ứng ước đoán sai (false consensus effect) -Lý thuyết phản kháng (somatic market theory) Đây là trường phái có tác động rất lớn đến các lý thuyết tài chính, đưa ra các luận điểm vì sao chúng ta có thể mắc sai lầm từ nhiều tình huống khác nhau, đặc biệt các lý thuyết phản kháng, lý thuyết ước đoán sai, và hiệu ứng tự thuyết phục, thuyết phục đưa ra nhiều giải thích khả dĩ cho các hiệu ứng bầy đàn và nguyên nhân hiện tượng định giá sai kéo dài Phân tâm học (Psycho-analysis) Do Sigmund Freud sáng lập đầu thế kỷ 20, nghiên cứu về các loại bệnh tâm thần -Hội chứng hoang tưởng (paranoid personality disorder) -Quá chú ý đến bản thân (narcissistic personality disorder) -Hội chứng phiền muộn, bi quan (depressed personality disorder) Chúng ta quá lo lắng về việc có thể bị lừa hay có thể sai lầm, hay chúng ta quá chú ý đến việc có thành công hay không, đều sẽ ảnh hưởng đến quyết định của chúng ta trong kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, trường phái này cũng có đóng góp trong việc giải thích hành vi nhà đầu tư, từ những giải thích về rối loạn tính cách (personality đisorder) 8.Ứng Dụng Của Tâm Lý Trong Trị Liệu Và Tham Vấn Ở Việt Nam, Tâm lý học lâm sàng là một phân ngành còn hết sức non trẻ. Nếu như chúng ta đồng ý quan niệm cho rằng Tâm lí học lâm sàng quan tâm đến những người bình thường và những người có “vấn đề tâm lí”, với phương pháp đặc thù của nó, tức là làm việc với từng trường hợp cụ thể. Năm 1989, Trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻ em N-T được thành lập. Người sáng lập Trung tâm là cố bác sĩ nhi khoa Nguyễn Khắc Viện. Trung tâm này đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sâu từng trường hợp riêng lẻ xuất phát từ ý tưởng cho rằng mỗi một con người là một thế giới riêng, đòi hỏi phải có cách tiếp cận riêng. Trung tâm đã hợp tác với bệnh viện của Hà Nội và tp. Hồ Chí Minh, thành lập nên nhiều cơ sở thăm khám tâm lí trẻ em theo mô hình CMPP của Pháp. Ý nghĩa quan trọng nhất của hoạt động Trung tâm N-T thể hiện ở chỗ đã đưa tiếp cận lâm sàng tâm lí vào việc thăm khám tâm lí trẻ em và sử dụng các biện pháp trị liệu tâm lí đối với trẻ em có rối nhiễu tâm lí. Viện Tâm lí học thuộc Viện KHXH Việt Nam thành lập Trung tâm Tâm lí học lâm sàng vào tháng 10 năm 2005. Hiện nay Trung tâm đón tiếp các bệnh nhân đa dạng về vấn đề tâm lí, chủ yếu là trẻ em và thanh thiếu niên, đó là các trường hợp chậm phát triển ngôn ngữ, háu động, trầm cảm, nghiện trò chơi games, ... Năm 1999-2000, Khoa Tâm lí học, trường ĐH KHXH và NV Hà Nội đã bắt đầu giảng dạy những môn học thuộc bộ môn tâm lí học lâm sàng. Đến năm học 2001-2002 bộ môn “Tâm lí học lâm sàng” được thành lập ở đây với các môn học chính là “Tâm lí học lâm sàng đại cương”, “Tâm lí học trị liệu” và “Tâm bệnh học”. Các tổ chức giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả nhất sự phát triển của bộ môn này của Khoa Tâm lí học là tổ chức ADEPASE của Pháp, AUF và Đại sứ quán Pháp. Ngoài ra Tâm lí học lâm sàng còn được phát triển ở một số trường Đại học, đáng chú ý là mới đây Khoa Tâm lí giáo dục của trường ĐH Sư phạm Hà Nội thành lập bộ môn Tâm lí học lâm sàng. Ứng dụng của tâm lý học lâm sàng trong trị liệu và tham vấn tại Việt Nam. Tâm lí học lâm sàng nghiên cứu và góp phần giải quyết các vấn đề đặt ra liên quan đến tâm lí con người, cả con người bình thường lẫn con người có rối nhiễu tâm lí. Phương pháp lâm sàng nghiên cứu con người theo từng trường hợp cụ thể với hoàn cảnh cụ thể, phải xem con người từ nhiều góc độ khác nhau, vừa có tính đơn nhất, vừa có tính tổng thể, vừa có tính lô gíc lại vừa có tính thường trực (R. Perron). Con người là chủ thể ý thức, nhưng cũng có khi vô thức (có những hành vi mà không biết là mình đang có những hành vi ấy) (Freud), con người luôn luôn bị giằng co giữa những sự lựa chọn, những quyết định bởi luôn tồn tại những mâu thuẫn nội tâm (Freud). Sự lo lắng là phần tự nhiên của mỗi thực thể người, con người cần có những quan hệ tình người mới có thể phát triển tốt (Carl Rogers). Qua những kinh nghiệm sống và làm việc, chúng ta bị thuyết phục sâu sắc bởi ý tưởng của Freud và của những người hậu phân tâm học, đặc biệt của những chuyên gia về các lí thuyết “gắn bó”, “chia li” về ảnh hưởng của thời kì thơ bé lên sự phát triển tâm lí về sau của con người. Về thời ấu thơ, chúng ta coi trọng vai trò của người mẹ hay người thay thế người mẹ, rất tâm đắc với ý tưởng của Winnicott về “người mẹ đủ tốt” và sự phát triển tốt đẹp của những đứa con.  Tâm lí học lâm sàng có thể làm gì với nỗi đau của con người ? Chúng ta ưu tiên quan điểm của R. Perron cho rằng “Tâm lí học lâm sàng nhằm mục đích giải thích các quá trình tâm lí của sự chuyển biến mà con người là trụ sở. Con người là một hệ thống, một cấu trúc được ngự trị bởi các luật lệ của sự tự điều chỉnh, bởi hoạt động của sự điều chỉnh lịch đại và đồng đại”. Như vậy, trước hết là niềm tin chúng ta có đối với con người nói chung và với con người đang có nỗi đau riêng của mình về ý thức hoàn thiện mình và khả năng tự điều chỉnh của họ.  Quả thật, ở thời điểm này hay thời điểm khác, nỗi đau của con người là không thể tránh khỏi, tuy nhiên mỗi người lại có một kiểu đau riêng và mỗi người có một cách thức chịu đựng riêng. Khi tự họ không còn chịu được nữa bởi họ không tự điều chỉnh được nữa cần phải có trợ giúp của nhà tâm lí tâm sàng. Sự nói ra được, có người lắng nghe với một sự tôn trọng, với các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, với sự chấp nhận thân chủ vô điều kiện trong một bầu không khí ấm áp, an toàn sẽ là cách thức tốt nhất để thân chủ xác định được vấn đề của mình và từ đó dẫn đến việc tự điều chỉnh cho phù hợp. Trong trường hợp này ta xem thân chủ là “chủ thể của lời nói”. Với đứa trẻ chưa có nhiều ngôn ngữ thì sao ? Việc cần thiết là phải dùng các cách thức qua đó trẻ bộc lộ các khó khăn của mình, có thể qua việc đóng kịch, qua việc vẽ tranh, qua việc sắp xếp ngôi nhà, ngôi làng của mình, qua trò chơi,... Rõ ràng việc để thân chủ dù là trẻ em hay người lớn bộc lộ vấn đề của mình trong trị liệu lâm sàng và thái độ của nhà tâm lí trong liên minh trị liệu là vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của việc can thiệp và chữa trị. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta không coi trọng các liệu pháp tâm lí. Liệu pháp tâm lí của các trường phái khác nhau có những điểm nhấn khác nhau. Nếu như của Tâm lí học hành vi là việc giải điều kiện hoá, tập luyện, củng cố tích cực, tiêu cực, ... của Tâm lí học nhận thức là việc giải thích hợp lí, tìm cách thuyết phục bằng những lời có lí, bằng những chứng cớ xác thực,... Của Tâm lí học nhân văn là quan hệ tình người, chấp nhận thân chủ vô điều kiện, ý thức tự do cá nhân; của Ghestal là sự bộc lộ bản thân, nâng cao tự đánh giá bản thân, hiểu biết bản thân, v.v... thì ta vẫn thấy nổi rõ lên ở đây liên minh trị liệu (quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ với những điều kiện cần và đủ của nó được qui định bởi nguyên tắc đạo đức hành nghề), sự bộc lộ hay trải nghiệm của thân chủ trong mối quan hệ người – người, trong sự tôn trọng và niềm tin tưởng của nhà tâm lí đối với thân chủ. Điểm mấu chốt ở đây vẫn là để cho thân chủ được giải toả, thể hiện và qua đó tự mình biến đổi. Câu hỏi đặt ra là con người Việt Nam vốn có truyền thống ít bộc lộ bản thân với người lạ, liệu việc lắng nghe hay sử dụng các liệu pháp tâm lí có hiệu quả hay không ? Vấn đề theo chúng tôi không phải là làm cái gì với thân chủ Việt Nam, việc này chắc chắn phụ thuộc vào việc ta chẩn đoán, đánh giá vấn đề của họ. Vấn đề đặt ra là làm như thế nào cho phù hợp với văn hoá của họ? Làm sao để họ bộc lộ, để họ trải nghiệm và thể hiện trong một niềm tin tưởng tuyệt đối? Điều này phụ thuộc vào nhân cách, sự nhạy cảm, các kĩ năng của nhà tâm lí cũng như những hiểu biết văn hoá cơ sở con người Việt Nam có tính đến yếu tố vùng, miền. Một loạt các câu hỏi đặt ra ở đây: Có phải chờ khi người ta có yêu cầu mới tiến hành thăm khám, chữa trị hay với nhạy cảm của mình nhà tâm lí có thể tạo ra yêu cầu nơi thân chủ hay người thân của thân chủ? Có thể đến nhà thân chủ? Khi thân chủ đang rất đau khổ, có thể được chạm vào vai, vào tay thân chủ? Ngồi ở vị trí như thế nào là phù hợp với việc bộc lộ của thân chủ? Ánh mắt nhìn ra sao vừa tạo cảm giác quan tâm, chân thành đồng thời không xoi mói? v.v... Rất nhiều, rất nhiều các câu hỏi như thế buộc các nhà tâm lí lâm sàng Việt Nam nghiên cứu và trả lời để từ đó tạo ra một nền Tâm lí học lâm sàng mang bản sắc Việt Nam, không lạc hậu so với thế giới và phù hợp với thân chủ Việt Nam. (Sưu tầm) 10.ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC TRONG MỤC VỤ Suy tư từ bộ phim "The Passion of The Christ" của Mel Gibson Ngay từ trước khi khởi chiếu chính thức, bộ phim "cuộc thương khó của Chúa" đã trở thành một đề tài tranh luậân nóng bỏng trên thế giới. Và, không chỉ là tranh luận, khi bộ phim được trình chiếu, nó đã trở thành một "hiện tượng kỳ diệu" cho mọi người sống mùa chay thánh năm nay. Bộ phim đã thành công vượt sức tưởng tượng của đạo diễn về nhiều mặt từ kinh tế đến tâm linh.  Đã có không ít bài viết, từ phê bình, phân tích. . . . đến cảm nghiệm về bộ phim này. Riêng tôi, một linh mục đang làm mục vụ giáo xứ, khi xem bộ phim này cùng giáo dân, tôi chợt nhận ra nơi đạo diễn một tài năng về sự ứng dụng những kiến thức tâm lý học vào trong bộ phim. Theo tôi, chính khả năng này đã góp phần không nhỏ cho sự thành công cho bộ phim.  Với chút ít kiến thức tâm lý học, xin được góp đôi dòng suy nghĩ cùng với quý cha, quý tu sỹ nam nữ về việc ứng dụng tâm lý học vào trong mục vụ, xuyên qua việc phân tích bộ phim này.  *** 1. Điều thành công trước tiên phải nói tới chính là số lượng khán giả xem phim. Con số vượt quá sự mong đợi của chính đạo diễn - người đã bỏ tiền đầu tư cho bộ phim. Ai đã quảng cáo cho bộ phim này? Đìều này không quan trọng lắm. Có một điều chắc chắn, lối quảng cáo theo kiểu của bộ phim đã thu hút khán giả đến xem phim đông hơn: một phim bài Do thái, một bộ phim quá bạo lực. . . Chúng ta không cần xét đến động cơ của khán giả. Một điều không thể phủ nhận: nhiều người đến xem đã bị "quật ngã" bởi bộ phim. Quả là người quảng cáo cho bộ phim đã đánh vào trúng tâm lý của con người thời đại hôm nay. Đồng thời, quy luật lây lan tâm lý mang tính xã hội, trong trường hợp này, cũng thể hiện rất rõ.  Chính điều này gợi lên cho tôi về những chương trình sinh hoạt buồn tẻ, vắng ngắt của giáo xứ mình và nhiều giáo xứ tôi đã có dịp ghé thăm. Đâu là lý do khiến tình trạng này vẫn kéo dài ở nhiều nơi? Có cần thiết chăng một thứ "quảng cáo" cho những chương trình sinh hoạt của giáo xứ? Cần và có thể nói là rất cần.  Việc phổ biến những chương trình sinh hoạt của giáo xứ ở nhiều nơi vẫn bị nhiều người-- đặc biệt giới trẻ--coi là nặng chuyện "xin tiền". Vì thế, chuyện lắng nghe những thông tin sinh hoạt không đủ sức tác động đến tâm lý họ. Đàng khác, nếu có một sự lây lan tâm lý ở đây, có lẽ cũng chỉ là sự lây lan mang âm tính.  Cần phải có một quy trình "quảng cáo" khác trong mục vụ: một tờ bướm được trang trí đẹpï, hấp dẫn được chuyển tới mọi người; một thư mời với những gợi ý đáp ứng cho những nhu cầu của cộng đoàn; một bảng thông tin đẹp, lôi cuốn;. . . kể cả tên tuổi của những "nhân vật quan trọng" được mời tham dự, trình bày, . . . nữa.  2. Điều thành công, như đã nói ở trên, mới chỉ là sự thành công ở bước khởi đầu. Giá trị thành công của bộ phim, như chúng ta đã biết, nằm ở chính việc cấu kết nội dung và kỹ thuật của phim.  Xem phim - nói theo từ ngữ chuyên môn - là tri giác hình ảnh. Tiến trình tri giác này tùy thuộc rất nhiều vào cách xử lý hình ảnh. Tri giác bao giờ cũng chịu những ảnh hưởng nhất định của những quy luật tâm lý của tri giác như: tính ổn định, tính đối tượng, tính lựa chọn và tính ý nghĩa của nó. Bên cạnh đó, kết quả của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tính chất kích thích, kinh nghiệm trong quá khứ, nhu cầu hiện tại, ảnh hưởng của tình cảm, mức độ của chú ý, tình trạng cơ thể, kết quả luyện tập của người tri giác.  Quy luật hình-nền, trong tâm lý học Gestal, thường được các nhà làm phim áp dụng để đạt hiệu quả. Xét trong toàn thể, Mel Gibson cũng không thể vượt ra khỏi cái chung đó. Thế nhưng, với M. Gibson, anh đã ứng dụng một cách tài tình quy luật hình-nền trong tâm lý học Gestal để tạo nên những góc quay gây ấn tượng. Theo quy luật này, sự tương phản giữa hình ảnh và nền sẽ tạo cho ta sự khác biệt trong tri giác. Chẳng hạn, ngay từ cảnh đầu tiên, trong vườn địa đàng, lúc quay Chúa Giêsu đang cầu nguyện với một tâm trạng quá đau đớn, đạo diễn chỉ quay cảnh xa xa. Chính trong khung cảnh mở rộng của vườn cây dầu mà ta có cảm giác Chúa Giêsu thật quá nhỏ bé. Điều này đã gây ra cho người xem cảm giác về thân phận con người Chúa đang mang lấy. Trái lại, khi đối diện với ma quỷ và với quân lính, hình ảnh Chúa Giêsu luôn được quay cận cảnh - trong khi các nhóm đối nghịch vẫn quay ở góc xa - làm cho người xem cảm giác sự uy nghi của Chúa Giêsu khi đối đầu với sự dữ. Tương tự, những cảnh ở dinh thượng tế cũng cũng một lối quay diễn tả như thế tạo nên cho người xem hình ảnh một Đức Giêsu thật uy nghi trước một đám đông - đang tố cáo Ngài - lại thật nhỏ bé. . . Và còn rất nhiều những hình ảnh khác tương tự - ở nhiều vị trí, trải dài suốt bộ phim - đã được đạo diễn dàn dựng theo quy luật này gây ra cho người xem những cảm xúc mạnh.  Phần chúng ta, trong mục vụ, những quy luật này cũng có thể được ứng dụng ở nhiều lĩnh vực: giảng dạy giáo lý, những giờ đạo đức, phòng truyền thống giáo xứ, việc trưng bày và trang trí bàn thờ, nhà thờ. . . .  Chẳng hạn, có những nhà thờ, khi đến tham dự, chúng ta luôn luôn có cảm giác hút vào chiều sâu và độ cao của nhà thờ, khiến cho mình có cảm giác chơi vơi, lâng lâng trong nhà Chúa. Họ như bắt gặp thấy Ngài đang ở đó và cuốn hút họ, chẳng cần đến một lời loan báo, giảng dạy nào cả. Nhưng trái lại, có những nhà thờ, khi vào đó, ta cứ có cảm giác như đang bị đè nặng xuống trên mình của của một khối bêtông trần, và như đang bị đẩy lùi ra ngoài cửa. Theo tôi, chỉ cần một sự thay đổi vị trí các bóng đèn, người ta sẽ có được hiệu quả cao theo kiểu định luật này. . .  3. Tri giác và cảm giác là hai hiện tượng tâm lý xảy ra gần như đồng thời với nhau trong đời sống con người. Vì thế, các quy luật của cảm giác cũng có những ảnh hưởng nhất định cùng với việc tri giác tạo nên cảm xúc cho con người. Trong bộ phim này, các quy luật tâm lý của cảm giác cũng đã được đạo diễn khai thác thật tuyệt vời. Chính việc khai thác này đã làm cho người xem phim đạt tới đỉnh cao của những cảm xúc đối với cuộc thương khó của Chúa.  Một trong những quy luật đã được M. Gibson chú ý nhiều đó là quy luật về ngưỡng cảm giác. Anh đã dùng âm nhạc theo nhiều kiểu để làm nền cho bộ phim. Rất nhiều chỗ nhạc nền đã được sử dụng vượt ngưỡng cách bất ngờ gây nên những cảm giác khác nhau nơi người xem. Không chỉ là nhạc nền, những tiếng ồn ào la hét của đám đông; sự lặng lẽ của mẹ Maria, của Gioan và cả ánh mắt của các nhân vật cũng gây nên những cảm giác thật mãnh liệt để dẫn đến những cảm xúc đỉnh cao nơi người xem.  Ánh sáng trong bộ phim cũng được sử dụng theo kiểu như thế. Chúng ta không được xem phim gốc để có thể định dạng màu sắc của ánh sáng này một cách chính xác. Tuy thế, những thay đổi màu sắc nơi những khuôn mặt của các nhân vật không thể không gây nên nơi người xem những cảm giác khác nhau.  Ngay cả nhịp độ khác nhau của những cảnh quay cũng được đạo diễn thực hiện theo những quy luật của cảm giác. Có những cảnh quay tưởng chừng phải vượt qua mau, nhưng lại được kéo dài quá mức cần thiết như cảnh đánh đòn. Với những bộ phim khác, việc thực hiện kiểu này dễ tạo nên sự buồn chán cho khán giả, nhưng sự "vượt ngưỡng" này khiến cho không ít người xem đã đạt đến đỉnh của cảm xúc.  Chính điều này đã làm tôi suy nghĩ về những cử hành phụng vụ, nhất là những cử hành phụng vụ trong tam nhật vượt qua. Những quy luật phụng vụ theo đúng chữ đỏ không đơn thuần là kỷ luật chung về phụng vụ mà còn là những chỉ dẫn để làm nổi bật ý nghĩa của cử hành. Thế nhưng, dường như việc cử hành những việc đạo đức nơi nhiều giáo xứ trong những ngày này, không chỉ là vi phạm kỷ luật mà còn phá vỡ cả ý nghĩa của cử hành nữa. Theo tôi, xét dưới góc độ tâm lý, dường như những vi phạm này đã phá hỏng cả đỉnh cao của phụng vụ: đêm vọng phục sinh. Việc quá tập trung kéo dài những việc đạo đức có vẻ "tang chế" không có khoảng thinh lặng cần thiết của ngày thứ bảy đã không đủ sức để tạo nên một cảm giác mới của đêm vọng phục sinh. Bởi lẽ những cử hành của những ngày trước đã "vượt ngưỡng" và người tham dự đã chuyển sang trạng thái chịu chi phối bởi quy luật "thích ứng cảm giác". Phải chăng đây cũng chính là tâm lý của Maria Madalena - vì chỉ mãi sống trong tâm trạng của sự chết chóc mà không đủ sức khám phá ra sự phục sinh? Việc sử dụng ánh sáng, âm thanh. . . trong những cử hành phụng vụ, những giờ sinh hoạt đạo đức, suy niệm. . . hiện nay cũng đang ít được chúng ta chú ý. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta chưa tậân dụng hết những điều kiện có thể để tạo nên những cảm giác mới lạ trong đời sống đạo đức cho những người tham dự. Nếu ai đó đã có một lần đến tham dự những ngày đại hội giới trẻ, chúng ta cũng sẽ dễ cảm nhận được: đèn pin xanh đỏ nhấp nháy thật đẹp mắt, nhưng để làm gì nếu như nó không tạo nên được một cảm xúc, một tâm tình đạo đức cho chính những người tham dự. Trái lại, ai đã có một lần lặng im bên linh đài mẹ Lavang giữa trời đêm, không thể không trào lên những cảm xúc kỳ diệu từ những ánh nến bập bùng. . .  4. Một kỹ thuật khác không thể không nói đến như một sự thành công của bộ phim đó là sự liên tưởng, nhớ lại của các nhân vật. Điều này đã được tác giả thực hiện một cách khác thường so với những bộ phim chúng ta đã có dịp thưởng thức. Thông thường khi làm thực hiện những cảnh quay liên tưởng này, tác giả bao giờ cũng làm thay đổi màu sắc của hình ảnh để tạo nên sự cũ kỹ - hình ảnh trong quá khứ. Nhưng với M. Gibson, tất cả đều được đặt ở "tông màu" thì hiện tại.  Chính kỹ thuật này đã làm cho người xem có tâm tình cùng với nhân vật. Cùng với Maria Mad. , tôi đang cảm nghiệm được lời tha thứ ngay chính khi tôi đang kết án Ngài; cùng với Gioan, tôi đang cảm nghiệm những giọt máu Ngài đổ ra trên thập giá đang vẫn tiếp tục trong hy lễ Thánh Thể hôm nay và tấâm thân Ngài nát tan vì tội của tôi lại đang là của ăn mỗi ngày cho tôi. . . .  Phần chúng ta, cử hành phụng vụ là việc "hiện tại hóa mầu nhiệm của Chúa Kitô". Lẽ dĩ nhiên, đây là công cuộc của Chúa Thánh Thần trên những người tham dự cử hành. Bởi lẽ, khi cử hành, thừa tác viên không cử hành nhân danh mình nhưng nhân chính chính Đức kitô là Đầu. Tuy thế, chúng ta cũng có thể góp phần vào đó trong cung cách cử hành của mình. Nhưng liệu chúng ta, trong khi cử hành, thái độ của chúng ta có hình thành nơi người tham dự những hiện tượng tâm lý như: ký ức, liên tưởng, nhớ lại, . . . để có thể cảm nghiệm được "hy lễ hiện tại" họ cũng đang được tham dự với Chúa Kitô. Những cử hành theo những nhịp độ quá mau sẽ khó tạo nên được những cảm xúc khởi đi từ những hiện tượng này.  Những kiểu trang trí bàn thờ, phông lễ đài, âm nhạc, bài suy niệm. . . cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên những liên tưởng.  *** Mel Gibson là một nhà tâm lý? Chắc chắn không. Anh là một nhà đạo diễn kinh nghiệm? Điều này cũng hoàn toàn không. Anh đã có một khởi đầu với sự nghiệp điện ảnh không sáng sủa mấy: rớt đại học nhiếp ảnh, trở thành diễn viên không chuyên, phấn đấu thành diễn viên xuất sắc và nay anh là đạo diễn.  Xét cho cùng, cả hai lĩnh vực: tâm lý và đạo diễn, anh đều là người không chuyên.  Việc hoàn thành bộ phim không phải là công lao của mình đạo diễn. Người quay phim, các diễn viên, đạo cụ. . . cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên sự thành công này. Phải chăng họ là những người tài năng? Ngọai trừ Monica Belluci trong vai Maria Madalena và Maia Morgenstern trong vai mẹ Maria, các diễn viên khác cũng chỉ là những diễn viên ít tên tuổi. Ngay cả diễn viên chính của bộ phim, Jim Caviezel cũng không phải là một diễn viên xuất sắc lắm trước khi tham gia bộ phim này. Đâu là điều đã giúp anh thành công?  Có thể giải thích điều này bằng cấu trúc hoạt động của nhà tâm lý học họat động A. N. Léontiev- một trường phái tâm lý không "mặn mà" lắm với "con nhà đạo" - như sau: Theo Léontiev, cuộc sống con người là một dòng liên tục các hoạt động khác nhau, nối tiếp khác nhau. Mỗi hoạt động của con người đều có cấu trúc cụ thể: một bên là hoạt động bao trùm. Dưới nó là các hành động và cuối cùng là các thao tác. Bên kia, họat động bao giờ cũng gắn với động cơ. Hành động bao giờ cũng gắn với mục đích và thao tác luôn luôn phụ thuộc vào điều kiện.  Mel Gibson đã hoàn thành bộ phim khởi đi từ một động cơ, một mục đích quá rõ ràng: "bộ phim của tôi nói về đức tin, đức cậy, đức mến và tha thứ. Đó là nội dung của bộ phim bộ phim nói về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. . . bộ phim không nhằm tố cáo, không nhắm quy trách nhiệm cho ai là kẻ đã giết Chúa Giêsu. . . tôi muốn làm cho khán giả hiểu được rằng có một người đã chịu đựng được những hành hạ đến tận cùng như thế, mà vẫn còn có thể yêu thương và tha thứ. . . " (CNA 16/2/2004). Chính điều đó đã thúc đẩy M. Gibson suy tư, tìm tòi khám phá và thể hiện. . . và anh đã thành công với sự trợ giúp của các nhà quay phim, diễn viên. Nói cách khác, anh đã thành công từ chính con tim đã cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình và cảm thấy cần phải có trách nhiệm loan báo tình yêu ấy bằng khả năng của mình. Anh đã hoàn thành công trình của mình bằng con tim yêu thương.  Phần chúng ta, chúng ta không phải là những nhà tâm lý. Nhưng chắc chắn kiến thức tâm lý học của chúng ta cũng không thể kém hơn M. Gibson. Chúng ta là linh mục, là tu sĩ nam nữ, . . . chúng ta hơn hẳn M. Gibson về động cơ thúc đẩy, mục đích hoạt động cho sứ vụ loan báo tin mừng (?). Chúng ta đang sống trong một xã hội có nhiều điều kiện để thi hành sứ vụ.  Công việc mục vụ của chúng ta ngày đang được mở rộng ở nhiều lĩnh vực. Việc ứng dụng những kiến thức tâm lý học như là một sự cộng tác với ơn Chúa bằng khả năng của mình luôn là điều cần thiết. Nhưng ứng dụng như thế nào? Lẽ dĩ nhiên, câu trả lời sẽ của các nhà chuyên môn. Vấn đề còn đặt ra cho chúng ta: tại sao tôi vẫn chưa có thể làm được điều gì đó cho Ngài và cho anh em tôi? Câu trả lời vẫn còn tùy thuộc vào từng mỗi người trong chúng ta. Mong thay!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận ứng dụng của tâm lý trong đời sống.doc