Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới

Tình hình XK dược phẩm của VN và Một số Giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới Lời nói đầu 1 Chương I Một số lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3 I. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 3 1Khái niệm 3 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 4 II.Tầm quan trọng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 7 1.Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế 7 2.Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 9 Chương II Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam giai đoạn 1990-2003 10 I.Thực trạng hoạt động xuất khẩu 10 1.Về quy mô và tốc độ tăng trưởng 10 2. Cơ cấu thuốc, nguyên liệu và thị trường xuất khẩu 11 II. Những khó khăn và tồn tại hoạt động xuất khẩu dược phẩm 12 1.Khó khăn 12 2. Tồn tại 14 Chương III Phương hướng và một số giải pháp nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong những năm tới 17 I.Phương hướng 17 1.Phương hướng quản lý hoạt động xuất khẩu các năm tới 17 II. Một số giải pháp 18 1.Khuyến khích đầu tư vốn cho sản xuất dược phẩm 18 2.Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu 20 3. Tăng cường hoạt động huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ 20 4. Các vấn đề công nghệ 22 5.Đẩy mạnh công tác khai thác thông tin, thị trường 23 6. Đẩy mạnh cải cách hành chính 25 Kết luận 28

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3914 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Sự phát triển vượt bậc của hoạt động xuất khẩu trong những năm vừa qua có thể coi là một trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới nền kinh tế của Việt Nam. Nếu như năm 1976, năm đầu tiên sau giải phóng, kim ngạch xuất khẩu mới đạt xấp xỉ 200 triệu USD, năm 1986 là 789 triệu USD thì tới năm 1996 kim ngạch đã tăng lên 7.255 triệu USD, gấp hơn 36 lần kim ngạch của năm 1976 và gần 10 lần kim ngạch của năm 1986. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đã đạt trên 11 tỷ USD. Từ chỗ chỉ đơn thuần xuất khẩu một vài loại nguyên liệu thô chưa qua chế biến như than đá, thiếc, gỗ tròn,..và một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản, chủng loại hàng hoá tới nay đã đa dạng hơn, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao vào hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới như gạo và cà phê. Cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng đã có những thay đổi tích cực. Tỷ trọng hàng đã qua chế biến tăng khá nhanh, thị trường xuất khẩu được mở rộng và đa dạng hơn. Đặc biệt, trong nhiều năm liền, xuất khẩu đã trở thành động lực chính của tăng trưởng GDP và góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Trên đà phát triển của hoạt động xuất khẩu nói chung, hoạt động xuất khẩu dược phẩm cũng đã và đang khẳng định được vị trí của mình. Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, không chỉ tiêu dùng thuốc tăng nhanh mà xuất khẩu thuốc cũng khá phát triển đem lại nhiều tín hiệu khả quan cho dược phẩm Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu dược phẩm của ta còn khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực và khoảng cách này còn xa hơn nếu không có giải pháp để mang lại những biến chuyển cơ bản, mang tính động lực cho hoạt động xuất khẩu. Xuất phát từ những yêu cầu trên, tôi xin chọn đề tài: “Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới” để nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000. Chương III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu trong những năm tới. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết của tôi khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 1.Khái niệm Xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương. Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu mỗi nhiệm vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu Đối với người tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước, giá cả, xu hướng biến động của nó. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu để nắm bắt được những cơ hội trong kinh doanh thương mại quốc tế. 2.1 Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới, lựa chọn bạn hàng giao dịch Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất và lưu thông ở đó có thị trường. Ta có thể hiểu thị trường theo hai giác độ: Thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá-tiền tệ. Theo cách khác, thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và khối lượng cung có khả năng đáp ứng theo mỗi mức giá nhất định. Để nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường nhằm ứng xử kịp thời, mỗi nhà kinh doanh nhất thiết phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các qua hệ kinh tế, đặc biệt trong công tác xuất khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả hàng hoá trên thế giới là tiền đề quan trọng đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nghiên cứu thị trường phải trả lời các câu hỏi: xuất khẩu cái gì, dung lượng thị trường đó ra sao, sự biến động của hàng hoá trên thị trường như thế nào, thương nhân trong giao dịch là ai, phương thức giao dịch như thế nào, chiến lược kinh doanh cho từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đề ra. +Nhận biết mặt hàng xuất khẩu. Việc nhận biết mặt hàng xuất khẩu, trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về quy cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó, xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Về khía cạnh thương phẩm, phải hiểu rõ giá trị công dụng, các đặc tính, quy cách phẩm chất, mẫu mã. Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một nhân tố quan trọng là phải tính toán được tỷ suất ngoại tệ hàng xuất nhập khẩu. Trong trường hợp xuất khẩu, tỷ suất ngoại tệ là số lượng bản tệ phải chi ra để có thể thu về 1 đồng ngoại tệ. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ giá hối đoái thì việc xuất khẩu có hiệu quả. Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không chỉ dựa vào những tính toán hay ước tính, những biểu hiện cụ thể của hàng hoá, mà còn phải dựa vào những kinh nghiệm của người ngoài thị trường để dự đoán được các xu hướng biến động trong thị trường nước ngoài cũng như trong nước, khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện mua bán có ưu thế hơn. +Lựa chọn đối tượng giao dịch. Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người hoặc tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hay các loại dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay hợp tác kỹ thuật liên quan tới việc cung cấp hàng hoá. Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế, song nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm công tác giao dịch. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong kinh doanh xuất khẩu là hết sức cần thiết. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế có hiệu quả cao nhất. 2.2 Nghiên cứu giá cả hàng hoá. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời thể hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế. Giá cả quốc tế luôn gắn liền với thị trường và là một nhân tố cấu thành thị trường. Giá cả thị trường luôn biến động và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường lại càng trở nên phức tạp do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong một thời gian dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan khác nhau. Do vậy, để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh trên thị trường quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh phải nắm được giá cả và xu hướng vận động của giá cả trên thị trường quốc tế. Đồng thời phải có các biện pháp để tính toán giá cả một cách chính xác và khoa học để giá cả thực sự trở thành một đòn bẩy trong buôn bán quốc tế. Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với mỗi loại hàng hoá trên thị trường, giá đó phải là giá của những giao dịch thông thường không kèm theo bất kỳ một điều kiện thương mại đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Trong thực tế, giá quốc tế của mỗi loại hàng hoá thường biến động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau nên việc dự đoán và nắm bắt giá cả, xu hướng vận động của giá cả là một công việc rất khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều thông tin. Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả quốc tế của hàng hoá trước hết phải căn cứ vào kết quả nghiên cứu và dự đoán về tình hình thị trường của hàng hoá đó, đánh giá đúng các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả và xu hướng vận động của giá cả hàng hoá. 2.3 Thanh toán trong kinh doanh thương mại quốc tế Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực xuất khẩu một phần lớn nhờ vào chất lượng của khâu thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho người xuất khẩu được thu tiền về và người nhập khẩu được nhận hàng hoá. Thanh toán quốc tế trong thương mại quốc tế được hiểu là việc chi trả những khoản tiền, tín dụng có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá được thoả thuận trong các quy định của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, việc thanh toán phải chú ý đến các vấn đề sau: -Tỷ giá hối đoái. -Tiền tệ trong thanh toán quốc tế. -Thời hạn thanh toán. -Các phương thức thanh toán. -Các điều kiện đảm bảo hối đoái. Có nhiều loại tiền tệ được sử dụng trong thanh toán quốc tế, cần phải biết cách lựa chọn đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán và các điều kiện thanh toán sao cho có lợi nhất, tránh những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. II. TẦM QUAN TRỌNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. 1.Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế -Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiến tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: liên doanh đầu tư với nước ngoài, vay nợ, viện trợ, tài trợ, thu từ hoạt động dịch vụ, du lịch, xuất khẩu sức lao động, ....Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ,.. cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. -Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau: +Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta ra nước ngoài. +Xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. +Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. +Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. +Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiến tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. +Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường. +Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. -Xuất khẩu tạo thêm công ăn, việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. -Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho kinh tế nước ta gắn chặt với phần công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế,....Đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2. Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu -Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có. -Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật-công nghệ chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh. -Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu đê tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. -Tạo ra những mặt hàng và nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU DƯỢC PHẨM CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1990- 2000 I.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 1.Về quy mô và tốc độ tăng trưởng Theo số liệu thống kê cho thấy, hiện nay cả nước có 47 doanh nghiệp đang hoạt động xuất nhập khẩu thuốc trực tiếp, trong đó: + Các doanh nghiệp được xuất nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm:31 doanh nghiệp. + Các doanh nghiệp chỉ nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất của chính doanh nghiệp mình và xuất khẩu thành phẩm: 8 doanh nghiệp. + Các liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép nhập khẩu nguyên liệu sản xuất và xuất khẩu thành phẩm: 8 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu chủ yếu tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội do ở đây có các doanh nghiệp TW cũng như thành phố đóng, điều kiện cơ sở, vốn, cán bộ cũng như quan hệ với bên ngoài thuận lợi hơn. Như vậy là con số các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu dược phẩm của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với khả năng có thể. Kim ngạch xuất khẩu thuốc còn thấp thể hiện qua bảng 1. Bảng 1: Giá trị xuất khẩu thuốc qua các năm Năm Giá trị xuất khẩu (USD) Tỷ lệ tăng trưởng 1990 4.987.330 1991 4.723.852 -5,30% 1992 5.309.439 12,40% 1993 5.415.201 2,00% 1994 5.816.332 7,41% 1995 13.695.680 135,00% 1996 11.997.000 -12,40% 1997 11.627.000 -3,08% 1998 17.050.930 1,46% 1999 11.428.000 -3,30% (Nguồn: Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu thuốc của Việt Nam - Cục quản lý dược) Mặc dù giá trị xuất khẩu có tăng dần qua các năm, song tốc độ tăng còn quá chậm, thậm chí còn giảm so với năm trước. 2. Cơ cấu Thuốc, nguyên liệu và thị trường xuất khẩu Dược phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong những năm qua là tinh dầu, thuốc đông dược và một số thuốc thông thường. Như vậy, danh mục mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn quá hạn chế, nghèo nàn, không đa dạng phong phú. Việt Nam chưa tận dụng được tối đa tiềm lực trong nước. Bảng 2 Cơ cấu một số loại thuốc, nguyên liệu xuất khẩu qua các năm (USD) Năm Loại 1995 1996 1997 1998 1999 Thuèc TT 2.000.000 2.500.000 3.000.000 5.000.000 1.500.000 Thuèc cæ truyÒn 1.000.000 1.500.000 1.000.000 1.000.000 1.500.000 R­îi bæ, trµ 3.000.000 3.000.000 3.000.000 3.500.000 3.000.000 Tinh dÇu 5.000.000 3.000.000 3.500.000 6.000.000 3.500.000 Nguyªn liÖu 2.000.000 1.000.000 1.000.000 1.500.000 1.500.000 ThÞ tr­êng xuÊt khÈu cña ViÖt Nam cßn h¹n chÕ, tËp trung chñ yÕu ë mét sè n­íc §«ng ¢u, Cuba, Lµo,Campuchia,....§ång thêi kh¶ n¨ng ®¸p øng cho c¸c thÞ tr­êng nµy còng cßn qu¸ nhá bÐ. C¸c doanh nghiÖp d­îc cña ViÖt Nam chñ yÕu chØ míi xuÊt khÈu tiÓu ng¹ch, ch­a cã nh÷ng s¶n phÈm mòi nhän vµ hîp ®ång æn ®Þnh víi c¸c c«ng ty n­íc ngoµi. II. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU DƯỢC PHẨM. 1.Khó khăn. - Sự phát triển của thương mại quốc tế, tiến trình hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng đặt ra nhiều thách thức đôi với các nước đang phát triển. Bởi vì tự do hoá thương mại sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, không những giữa sản phẩm với sản phẩm mà còn giữa công ty với công ty do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia (mở cửa cho công ty nước ngoài vào kinh doanh trên lãnh thổ nước mình). Toàn cầu hoá sẽ dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ chế quản lý. Nghị định của Chính phủ số 89/CP ban hành ngày 15/12/1995 về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá từng chuyến đánh dấu một thay đổi quan trọng trong công tác quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm Thủ tướng Chính phủ có quyết định về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước, tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu cấp bách về công tác cải cách hành chính. Căn cứ quy định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư hướng dẫn của Bộ Thương mại, các Bộ quản lý chuyên ngành đề ra quy định cụ thể cho ngành mình. Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 242/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000, tại điều 9 quy định: “Giao các Bộ, ngành hữu quan sau khi thống nhất với Bộ Thương mại, công bố danh mục và hướng dẫn việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thuộc danh mục hàng quản lý chuyên ngành theo nguyên tắc: chỉ quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng sử dụng, điều kiện được xuất khẩu, nhập khẩu để doanh nghiệp có cơ sở làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu tại hải quan cửa khẩu, không cấp giấy phép hoặc duyệt mặt hàng, số lượng, trị giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu”. Do tính chất đặc thù của loại hàng hoá này, Bộ Y tế đã có trao đổi với Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan và xin ý kiến Chính phủ duy trì một số quy định về quản lý, cụ thể đã ban hành Thông tư 07/2000/TT-BYT. Thông tư 07/2000/TT-BYT đánh dấu một bước phát triển trong công tác quản lý, tạo thông thoáng cho doanh nghiệp, đồng thời đi sâu vào quản lý chất lượng và khuyến khích việc đăng ký thuốc lưu hành tại Việt Nam, quy định mở rộng đối tượng tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, kinh nghiệm quản lý và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế trong lĩnh vực dược của Việt Nam còn quá ít ỏi, các doanh nghiệp mới chỉ tiếp cận thương mại quốc tế khoảng 10 năm nay, thuốc trong nước chưa đủ cạnh tranh với thuốc nước ngoài. - Chính sách quản lý sản xuất, xuất, nhập khẩu còn nặng về các biện pháp hành chính , chưa có điều kiện triển khai các giải pháp kỹ thuật về kiểm tra chất lượng một cách tối ưu. Các thủ tục về đăng ký nhãn mác sản phẩm còn quá rườm rà, thiếu tính đồng bộ từ trên xuống dưới. - Sự khác nhau và không hài hoà giữa hệ thống quy chế Dược của các nước: +Quy định về đăng ký, xuất khẩu, nhập khẩu thuốc khác nhau giữa các nước. Danh mục thuốc, thực phẩm, mỹ phẩm và các sản phẩm được coi như thuốc của các nước chưa thống nhất. + Thiếu thông tin và mất nhiều thời gian để liên hệ với Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép sản xuất, xuất nhập khẩu thuốc của một số nước khi cần thẩm tra những vấn đề cụ thể. + Những quy định về quản lý khác nhau giữa các nước như: danh mục, hàm lượng thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần,.... 2.Tồn tại. 2.1. Về phía cơ quan quản lý. Bối cảnh bên ngoài và hoàn cảnh bên trong đang thay đổi với tốc độ nhanh. Bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để bắt kịp các thay đổi nhưng nhìn chung thì hoạt động của toàn hệ thống vẫn còn khá thụ động và trì trệ. Xuất khẩu dược phẩm vì thế chưa có được những định hướng rõ ràng và dài hạn ở tầm vĩ mô. Quản lý xuất nhập khẩu sản phẩm dược vẫn do chính phủ ban hành theo từng năm chưa trở thành một quy định nhất quán, ổn định trong cả thời kỳ dài nên vừa khó cho doanh nghiệp vừa khó cho cơ quan quản lý. Sự liên kết giữa các định chế quản lý còn khá lỏng lẻo, chưa tạo thành một thể thống nhất với chuyển động có hướng đích. Công tác quy hoạch, kế hoạch, thu thập và phổ cập thông tin, xúc tiến thương mại còn có những bất cập nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu nói chung và dược phẩm nói riêng. - Hệ thống văn bản pháp quy chưa đồng bộ, nhiều văn bản ban hành trước đây chưa được thay thế, bổ sung, khó vận dụng. - Quyết định 547/TTg có quy định nhiệm vụ của Cục Quản lý Dược về thanh tra. Tuy nhiên do có sự chồng chéo trong các văn bản quy định nên đến nay chức năng này chưa thể triển khai được. - Kiểm tra hậu mãi đối với ngành dược hiện vẫn là điều khó khăn vì hệ thống quản lý dược chưa hoàn thiện, đặc biệt ở tuyến tỉnh do thiếu cán bộ. 2.2. Về phía doanh nghiệp Phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam đều có sức cạnh tranh yếu, thậm chí rất yếu trên thị trường thế giới. Giá thành cao, chất lượng không ổn định, mẫu mã chủng loại nghèo nàn, bao bì kém hấp dẫn, khả năng giao hàng không chắc chắn, dịch vụ hậu mãi kém,...là những nét đặc trưng phổ biến của rất nhiều chủng loại hàng hoá xuất khẩu. Sản phẩm dược mặc dù có những đặc thù riêng song vẫn không tránh khỏi những tồn tại trên. Khi được hỏi về nguyên nhân của tình trạng này, thì hầu như các doanh nghiệp đổ lỗi nhiều cho “thiếu vốn” và “thiết bị lạc hậu”. Hai yếu tố này tác động qua lại và tạo thành vòng xoáy khiến doanh nghiệp dù “rất mong muốn nhưng không thể thoát ra được”. Vốn và thiết bị đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm nhưng bên cạnh vốn và thiết bị còn rất nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm. Những yếu tố này có thể là yếu tố vĩ mô (như lãi suất, thuế suất,....) nhưng cũng có thể là yếu tố vi mô (như quy trình sản xuất và khả năng quản lý của từng doanh nghiệp,....). Nếu có thể cải tổ những yếu tố này thì vấn đề vốn và thiết bị nhiều khi lại trở thành vấn đề thứ yếu trong việc nâng cao sức cạnh tranh. Một tài liệu nghiên cứu gần đây chỉ ra rất rõ rằng “ Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên mức lương thấp và các nguồn tài nguyên thiên nhiên”. Đây là nhận xét hoàn toàn chính xác. Có thể nói phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang theo đuổi một chiến lược cạnh tranh thụ động là dựa vào các “lợi thế vốn có”. Các yếu tố như lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí độc quyền, trợ cấp riêng rẽ, lãi suất ưu đãi, ... được nhiều doanh nghiệp coi như là cơ sở để tồn tại và phát triển. Rất ít doanh nghiệp dám theo đuổi một chiến lược chủ động mà điểm cót lõi của nó là tạo ra một vị thế cạnh tranh khác biệt, mang tính dài hạn, dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành và khả năng tạo ra các sản phẩm độc đáo hơn cũng như quy trình sản xuất hợp lý hơn. Hơn nữa do đặc thù của ngành, một số doanh nghiệp chưa nghiên cứu kỹ quy định về xuất nhập khẩu thuốc và các quy chế chuyên môn dẫn đến việc lập đơn hàng có nhiều sai sót gây mất thời gian cho chính doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Một số doanh nghiệp cả trong nước và nước ngoài vi phạm về lập đơn hàng dẫn đến vi phạm về những quy định lưu thông phân phối thuốc. Hiện nay xuất hiện tình trạng vi phạm về chất lượng thuốc. Bộ phận đảm bảo chất lượng thuốc của một số doanh nghiệp hoạt động chưa thực sự có hiệu quả. Vấn đề chất lượng thuốc phải được quan tâm ngay từ khâu lựa chọn nguyên liệu đầu vào. Nếu nhà sản xuất không quan tâm đến các điều kiện kỹ thuật, nguyên liệu đầu vào thì có thể sẽ sản xuất ra những loại thuốc kém chất lượng. Hoạt động tái xuất khẩu không có ý kiến của Bộ Y tế (Cục quản lý Dược).. Một số trường hợp thuốc không đạt chất lượng đã có công văn yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ nhưng doanh nghiệp vẫn tái xuất khẩu có thể để sử dụng hoặc tái chế ở nước ngoài, gây những hậu quả và ảnh hưởng không tốt đối với thị trường thuốc. Như vậy, xét về tổng thể , tuy đã đạt nhiều thành tích đáng khích lệ nhưng hoạt động xuất khẩu dược phẩm vẫn còn khá nhiều mặt tồn tại và bất cập. Những tồn tại và bất cập này đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân nhưng cũng lại là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt khoát và có hệ thống trong thời gian tới đây. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HỖ TRỢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU DƯỢC PHẨM CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI. I.PHƯƠNG HƯỚNG 1.Phương hướng quản lý hoạt động xuất khẩu các năm tới Việc quản lý xuất nhập khẩu thuốc đã được luật hoá và thông qua hoạt động quản lý, Bộ Y tế có trách nhiệm đối với chất lượng thuốc. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng tại công văn số 2961/VPCP-KTTH của Văn phòng Chính phủ: “Để hoạt động xuất nhập khẩu được điều hành nhất quán, ổn định và đạt mục tiêu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, kiểm soát được nhập khẩu ( đáp ứng được yêu cầu của đầu tư và sản xuất trong nước) chủ yếu bằng các biện pháp thuế quan và các chính sách bảo hộ có mục tiêu, có thời hạn, đồng thời phải phù hợp với yêu cầu cấp bách về công tác cải cách hành chính cũng như tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế”, trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm quản lý các năm qua, nhằm đảm bảo tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, Bộ Y tế đã dự kiến cơ chế và quy định điều hành xuất nhập khẩu áp dụng cho nhiều năm. Dự thảo của Bộ Y tế trên nguyên tắc tạo thông thoáng, thuận lợi cho các doanh nghiệp, khuyến khích xuất khẩu nhưng vẫn phải đảm bảo thực hiện đúng các quy chế chuyên môn nhằm đảm bảo chất lượng thuốc, giữ uy tín cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế; đề cao trách nhiệm Giám đốc doanh nghiệp; đảm bảo trật tự thị trường thuốc trong nước; chống việc sản xuất và lưu hành thuốc sai quy chế; gian lận thương mại, xin sản xuất thuốc xuất khẩu nhưng thực tế tiêu thụ tại thị trường trong nước. Xuất khẩu thuốc và nguyên liệu làm thuốc đã có số đăng ký, không chứa hoạt chất thuộc danh mục thuốc gây nghiện, tiền chất. Khi có nhu cầu xuất khẩu các mặt hàng thuốc, nguyên liệu dược sản xuất trong nước thì doanh nghiệp chỉ cần làm thủ tục xuất khẩu tại Hải quan cửa khẩu theo quy định của Hải quan. Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đảm bảo thuốc xuất khẩu đúng các chỉ tiêu đã đăng ký như: tên thuốc, số đăng ký, tên nhà sản xuất, thành phần, hàm lượng,thời hạn sử dụng, tiêu chuẩn chất lượng, nhãn mác,....Nếu thuốc xuất khẩu có thay đổi so với thuốc đã đăng ký thì doanh nghiệp phải xin phép Cục Quản lý Dược đồng thời phải cung cấp các tài liệu cần thiết có liên quan cho Hài quan. Đối với hoạt động xuất khẩu thuốc, nguyên liệu thuốc nước ngoài đã nhập khẩu vào Việt Nam thì: doanh nghiệp phải có giấy uỷ quyền của công ty nước ngoài và ý kiến đồng ý của Cục Quản lý Dược Việt Nam. Đối với hoạt động xuất khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc chưa có số đăng ký: Căn cứ Nghị định 89/CP, thuốc là hàng hoá đặc biệt, mỗi thuốc có chỉ tiêu kỹ thuật khác nhau, Bộ Y tế không thể đưa ra các chỉ tiêu kỹ thuật chung cho tất cả các thuốc để Hải quan làm căn cứ cho phép xuất khẩu. Do đó, đối với thuốc, nguyên liệu làm thuốc chưa có số đăng ký, các doanh nghiệp phải lập đơn hàng xuất khẩu kèm theo hồ sơ kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế (Cục Quản lý Dược) để được cho phép xuất khẩu. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 1.Khuyến khích đầu tư vốn cho sản xuất dược phẩm Hoạt động thương mại bắt nguồn từ hoạt động sản xuất. Vì lý do đó hoạt động đầu tư cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh nguồn hàng với khối lượng lớn và chất lượng cao, tạo được nhiều ngành hàng chủ lực, đáp ứng đúng nhu cầu và thị hiếu trên thị trường ngoài là yếu tố hết sức quan trọng. Chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu cần được thi hành một cách triệt để và nhất quán hơn theo nguyên tắc sản xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một. Các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu, nhất là hoạt động xuất khẩu dược phẩm trong thời gian hiện nay. Để xuất khẩu dược phẩm có được nguồn vốn đầu tư cần thiết trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ có hạn cần phải thực hiện một số biện pháp như: - Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu: cho phép vay vốn với lãi suất ưu đãi thấp, giảm hoặc miễn nộp thuế lợi tức một số năm đối với một số sản phẩm làm ra trong những năm đầu chưa có lãi hoặc lãi thấp, Nhà nước có thể áp dụng chính sách trợ cấp có điều kiện,.... - Xoá bỏ ngay các thủ tục phiền hà, đặc biệt là việc phê duyệt nhập khẩu máy móc thiết bị. Hiện nay, do các doanh nghiệp dược phẩm của Việt nam có trình độ và điều kiện về vốn còn thấp nên nhu cầu về đổi mới công nghệ là cần thiết song không phải ở mức độ cao, mà điều đó còn phụ thuộc vào thực tế của doanh nghiệp và không phải doanh nghiệp nào cũng cần những máy móc, thiết bị hiện đại nhất. Do vậy các chính sách về nhập khẩu máy móc,thiết bị cũng cần linh động sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng dựa trên các tiêu chí như tính chủ lực, cấp độ chế biến,....để tránh tình trạng khuyến khích dàn đều, không có định hướng xây dựng sản phẩm chủ lực. Chúng ta cần dựa vào những thế mạnh về nguồn nguyên liệu dược phẩm rất phong phú và đa dạng, nguồn nhân công rẻ,.... để xây dựng cho mình một chiến lược xuất khẩu chủ động, có tính tập trung vào sản phẩm chủ lực. Đồng thời cần ưu đãi, khuyến khích mạnh đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị. Song song với việc đề cao vị trí của đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, cần hết sức chú ý ổn định môi trường đầu tư. Trong các yếu tố của tổng cầu thì hoật động đầu tư là yếu tố tự thân, phụ thuộc rất nhiều vào nhận định chủ quan của nhà đầu tư, không biến thiên theo thu nhập. Vì lý do đó, ngoài việc ban hành các chính sách khuyến khích, việc duy trì môi trường đầu tư ổn định nhằm tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. 2.Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là hai yếu tố quyết định sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu khai thác được thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể đóng góp được nhiều hơn nữa cho xuất khẩu nếu sự tham gia của họ vào hoạt động kinh tế là sự tham gia bình đẳng với thành phần kinh tế quốc doanh. Trước hết là phải bảo đảm bình đẳng hoàn toàn trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào (vốn tín dụng, đất đai, lao động) sau đó là sự bình đẳng trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ kinh doanh từ phía Nhà nước. Cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức xuất khẩu dược phẩm để từ đó tạo ra nhiều cơ hội cho sự tham gia của các chủ thể kinh tế tư nhân. Đơn giản hoá đến mức tối đa các thủ tục thành lập doanh nghiệp để kích thích các cá nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. Nhận thức rõ các yếu tố dân sự trong hoạt động kinh tế như nợ nần, phá sản, mất khả năng chi trả,.... để chấm dứt tình trạng hình sự hoá các vấn đề dân sự gây nản lòng các nhà đầu tư tư nhân. Tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng trong việc nhận định rủi ro để giảm dần hình thức cho vay bảo đảm bằng thế chấp sang cho vay trên cơ sở thẩm định tính khả thi của dự án. 3. Tăng cường hoạt động huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ Cơ cấu nguồn thu ngân sách cần được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận tái đầu tư cho xuất khẩu. Hiện nay số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đang chiếm trên dưới 30% tổng số thu từ thuế các loại. Thuế xuất nhập khẩu, do dễ thu và dễ cưỡng chế, đã được huy động một cách tối đa. Thực tiễn này vừa góp phần làm giảm động lực phát triển ngoại thương vừa không phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại trên toàn thế giới, vừa đưa ngân sách vào tình trạng cực kỳ khó khăn khi những cam kết giảm thuế có hiệu lực và làm cho nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm mạnh. Để giải quyết tình trạng này, cần gấp rút thay đổi cơ cấu nguồn thu, tăng tỷ trọng cuả các sắc thuế khác như các loại thuế trực thu, thuế hàng hoá, tháo bỏ những cản trở đối với việc thu một số loại thuế như thuế chuyển quyền sử dụng đất để giảm dần tỷ trong của số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đi đôi với việc tạo tiền đề cho đa dạng hoá nguồn vốn; khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho khu vực sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro. Tại các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc,... . đều có các tổ chức xúc tiến xuất khẩu độc lập. Tổ chức này có trách nhiệm hỗ trợ tối đa cho người xuất khẩu trên cơ sở phi lợi nhuận (chỉ thu của người xuất khẩu một khoản đủ để bù đắp chi phí). Qua tổ chức này, người xuất khẩu có thể thu thập được nhiều thông tin hữu ích về thị trường nước ngoài, về bạn hàng nhập khẩu,....Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu tới nay đã được mở cho tất cả các doanh nghiệp nên đã đến lúc cần có sự thay đổi cơ bản về phương thức quản lý hoạt động của các doanh nghiệp và phương pháp phổ cập thông tin (bao gồm thông tin về hàng hoá, thị trường, giá cả cũng như các quy định về quản lý xuất nhập khẩu,.....). Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa thực hiện được quyền mà Chính phủ trao cho họ chỉ vì hiểu biết hạn chế về thị trường nước ngoài, nghiệp vụ ngoại thương cũng như các quy định của Nhà nước có liên quan tới hoạt động quản lý xuất nhập khẩu. Trong thời gian tới, cần tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Các công cụ như tỷ giá hối đoái, bảo lãnh bán hàng trả chậm, cho vay theo thành tích xuất khẩu, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn,..... đều có thể tác động nhanh và mạnh đến xuất khẩu. Cần khẩn trương cải cách hệ thống trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng thương mại để tránh hiện tượng co cụm, giảm dư nợ như đã xảy ra tại Thái Lan khi số lượng các khoản nợ khó đòi tăng nhanh. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy việc cải tổ hệ thống ngân hàng thương mại, từ đó giải quyết vấn đề vốn cho kinh doanh là việc làm có tầm quan trọng hàng đầu trong tiến trình “chấn hưng” kinh tế và đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu. Ngoài ra, việc cơ cấu lại hệ thống trung gian tài chính, trong đó có cả ngân hàng, còn góp phần quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh và thúc đẩy cạnh tranh phát triển. 4.Các vấn đề công nghệ Thực trạng công nghệ yếu kém và lạc hậu đã ảnh hưởng rất mạnh đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Riêng đối với ngành Dược thì điều này thể hiện khá rõ nét. Dây chuyền sản xuất ở Việt Nam còn mang nặng tính chất thủ công, tốn nhiều thời gian mà đặc điểm của sản phẩm lại đòi hỏi đảm bảo chất lượng ở mức độ cao, có kiểm tra độ an toàn chặt chẽ.Điều này cho thấy sự đổi mới công nghệ sản xuất là hết sức cần thiết và cấp bách. Chú trọng nhập khẩu các loại công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn. Đòi hỏi phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kế khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử dụng thiết bị thực chất không kém gì nhập khẩu thiết bị lạc hậu. Các loại thiết bị công nghệ cao thường sử dụng ít hoặc rất ít lao động. Trong một số trường hợp, việc nhập khẩu các loại thiết bị này sẽ không giúp ích nhiều cho việc tạo công ăn việc làm và tận dụng thế mạnh lao động rẻ để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Giá thiết bị cao còn làm tăng giá thành sản phẩm và làm suy yếu khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Vì lý do đó, việc nhập khẩu thiết bị tiên tiến cần được tính toán kỹ về mặt hiệu quả. Nhà nước cần đầu tư thành lập Ngân hàng dữ liệu công nghệ để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp. Một phần vốn đầu tư cho khoa học công nghệ nên được dành để thành lập Ngân hàng dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã được làm nhưng quy mô còn nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất ít doanh nghiệp biết về sự tồn tại của một trung tâm như vậy. Tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến đến doanh nghiệp để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết định đầu tư. Tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một hàng hoá đặc biệt. Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển, đồng thời rút ngắn được khoảng cách thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng. Để tạo lập thị trường công nghệ, nên khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư phát triển công nghệ quốc gia. Quỹ này sẽ cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các Viện nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách Nhà nước. 5. Đẩy mạnh công tác khai thác thông tin, thị trường Việc hoạch định một chiến lược tổng thể về thị trường là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Để xây dựng được chiến lược này, Bộ Thương mại và hệ thống thương vụ phải nắm rõ được năng lực và hiện trạng sản xuất trong nước cũng như đặc điểm, tính chất và thể chế của từng thị trường ngoài để từ đó trả lời cho các câu hỏi: mặt hàng nào, đi vào đâu, với số lượng bao nhiêu, đi như thế nào và cần giải quyết vấn đề gì trong quan hệ song phương. Trên cơ sở đó sẽ xác định tốc độ phát triển cho từng thị trường và cơ cấu tổng thể về thị trường ngoài. Một khi đã xác định, các mục tiêu trên sẽ trở thành chỉ tiêu phấn đấu của cả Bộ, trong đó có các tham tán thương mại tại nước ngoài. Nếu thị trường nào đó không đạt được mức chỉ tiêu phấn đấu thì tham tán sẽ là người đầu tiên phaỉ trả lời. Tham tán cần phải giải thích được lý do không đạt chỉ tiêu và trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường có liên quan. Một trong những chỉ tiêu cần phấn đấu đối với từng thị trường là giảm nhập siêu. Những mặt hàng và thị trường cần có sự đàm phán ở cấp Chính phủ phải lên kế hoạch đàm phán cụ thể để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp. Trong các mục tiêu đàm phán sẽ có : đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà Việt nam thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi thuế quan. Trong việc này, thông tin về kinh nghiệm của các nước khác trên thị trường có liên quan cũng như chính sách của nước sở tại với các đối tác khác nhau sẽ là những thông tin tối quan trọng. Khi đã phối hợp được các lực lượng có liên quan trong một hệ thống thống nhất, cần có phân công trách nhiệm rõ ràng thì vấn đề thu thập thông tin sẽ mặc nhiên được giải quyết bởi từng khâu sẽ thấy rõ được mình phải thu thập những thông tin gì. Trong quá trình thu thập thông tin, cần hết sức lưu ý đến việc phát triên các sản phẩm xuất khẩu mới vào thị trường có liên quan. Sản phẩm mới ở đây được hiểu theo hai nghĩa. Có thể là sản phẩm mà Việt Nam có tiềm năng nhưng chưa xuất khẩu được vào thị trường có liên quan hoặc đã xuất khẩu được nhưng kim ngạch còn nhỏ bé, không tương xứng với tiềm năng. Trách nhiệm còn lại trong khâu thông tin là phổ biến thông tin. Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần xây dựng ngay cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web) của riêng mình đồng thời tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề. Khi đã có sản phẩm, nắm chắc thị trường, tức là đã có những tiền đề thì việc tổ chức thị trường và hoạt động xúc tiến cụ thể là rất quan trọng. Thông qua hai khâu này sản phẩm xuất khẩu mới đến được thị trường nhập khẩu, đến với người tiêu dùng. Vì vậy, tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại là việc mà các doanh nghiệp phải quan tâm. Các tham tán phải là tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường mà tham tán hoạt động. Để thực hiện được vai trò đó, phải đặt mối quan hệ giữa các cơ quan hữu quan trên một truc dọc và phải tăng tốc độ chuyển động đi đôi với đảm bảo sự chuyển động hướng đích của toàn bộ trục này. Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ, triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt thị trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất và kinh doanh, tự mình lo tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá. Tiến hành sâu rộng một chiến dịch nhằm cải thiện hình ảnh hàng hoá Việt Nam nói chung và sản phẩm dược nói riêng trên thị trường thế giới. Trước mắt có thể ra một tạp chí chính thức về các sản phẩm của Việt Nam phát hành miễn phí ra nước ngoài thông qua hệ thống sứ quán và thương vụ. Chỉ các sản phẩm tiêu biểu có chất lượng cao hoặc đã từng đạt huy chương tại các hội chợ quốc tế mới được xem xét đưa vào tạp chí này. Nói tóm lại, công tác xúc tiến thương mại thông qua các hình thức như tham tán ở nước ngoài, quảng cáo, đẩy mạnh quan hệ ngoại giao,....có một vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. 6. Đẩy mạnh cải cách hành chính Công khai hoá và luật pháp hoá là việc đầu tiên cần làm trong tiến trình đổi mới công tác quản lý. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Đây là yếu điểm lớn cần được khắc phục nhanh, nhất là trong điều kiện quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đã được mở ra cho hàng chục nghìn doanh nghiệp. Mọi văn bản về quản lý Nhà nước chỉ nên có hiệu lực thi hành sau khi đã được đăng trên Công báo. Hiện nay tuy Luật đã quy định về vấn đề này nhưng chỉ quy định chung là “phải đăng”. Theo Bộ Thương mại, cần đặt vấn đề theo hướng “chỉ có hiệu lực khi đã đăng” mới đảm bảo cho các quy định đến được với doanh nghiệp một cách kịp thời. Ngoài ra, cần gấp rút ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những “mảng trống” trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh do các cơ quan hữu trách thiếu cơ sở để nhận định hành vi của họ. Chúng ta cần hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu. Gần đây, trong quá trình cải cách hành chính, một số thủ tục giấy phép trong lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu đã được đơn giản hoá hoặc được bãi bỏ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến vẫn đề nghị phải đi xa hơn, bãi bỏ gần như hoàn toàn mọi thủ tục giấy phép, mọi biện pháp quản lý hạn ngạch, đầu mối,.. để “tạo thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu” và phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu. Không một nước nào cho phép tiến hành thương mại tự do theo nghĩa tuyệt đối. Kinh tế thị trường không có nghĩa là loại bỏ sự quản lý của Nhà nước, chỉ có điều sự quản lý đó được thực hiện chủ yếu bằng các công cụ kinh tế vĩ mô chứ không phải bằng các biện pháp hành chính. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực, chỉ có thể sử dụng biện pháp hành chính để đạt tới sự hài hoà quyền lợi giữa cá nhân và cộng đồng. Cần nhanh chóng ổn định môi trường pháp lý. Đây là việc làm hết sức cần thiết để tạo tâm lý tin tưởng cho doanh nghiệp, khiến họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Ngoài ra, với hàng chục nghìn doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, nếu không ổn định môi trường pháp lý thì sẽ không có cách nào phổ biến thông tin kịp thời tới các doanh nghiệp. Điển hình của sự bất ổn định trong chính sách là thuế suất thuế nhập khẩu. Khung thuế rộng, quyền hạn thay đổi thuế suất của ngành hành pháp lại lớn nên thuế suất thay đổi luôn, nhiều khi 3 tháng một lần. Sự thay đổi nhiều đến nỗi cho đến nay không ai có một biểu thuế hoàn chỉnh và chính xác trừ các chuyên viên làm việc tại các cơ quan ban hành chế độ thuế và chịu trách nhiệm thu thuế. Việc làm đó gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tính toán hiệu quả kinh doanh, vừa làm triệt tiêu khả năng định hướng của công cụ thuế. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn gặp phải các lệnh cấm có hiệu lực ngay lập tức, các lệnh ngừng tạm thời và vô thời hạn, các thay đổi chính sách có hiệu lực “hồi tố” gây rất nhiều thắc mắc,.... KẾT LUẬN Như chúng ta đã biết, hoạt động xuất khẩu giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế. Vì vậy việc đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước ta nói chung cũng như của các doanh nghiệp nói riêng. Riêng đối với ngành Dược, trong những năm vừa qua đã có những bước củng cố và phát triển. Công tác xuất nhập khẩu đã đi vào nền nếp, đảm bảo cung ứng đủ thuốc, sử dụng an toàn hợp lý và hiệu quả, tăng cường nội lực sản xuất thuốc trong nước thông qua các chính sách đúng đắn về xuất nhập khẩu. Đã có những tiến bộ trong công tác xuất nhập khẩu thuốc, lành mạnh hoá thị trường đồng thời phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Song bên cạnh đó cũng còn tồn tại khá nhiều nhược điểm đòi hỏi cần có sự nỗ lực của ngành và các cơ quan chức năng để khắc phục, từng bước đưa ngành Dược phát triển đi lên, đáp ứng không chỉ thị trường trong nước mà cả thị trường thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình thương mại quốc tế- Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 2.Giáo trình kinh tế ngoại thương- GS.TS Bùi Xuân Lưu. 3. Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương- PGS Đinh Xuân Trình. 4. Các thông tư, nghị định về công tác xuất nhập khẩu dược phẩm của Cục Quản Lý Dược Việt Nam. 5. Báo: Đầu tư các số 14,16,18 /2000. 6. Báo: Thời báo Kinh tế Việt Nam các số 42, 57, 61/ 1999; 26, 58, 89 /2000. 7. Báo: Kinh doanh tiếp thị các số 210, 217, 222 /2000. 8. Báo: Sài Gòn tiếp thị. 9. Một số tài liệu tham khảo của Bộ Thương Mại về tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1990 đến nay. 10. Một số luận văn của các khoá trước. PHỤ LỤC Lời nói đầu 1 CHƯƠNG I Một số lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3 I. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 3 1Khái niệm 3 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 4 II.Tầm quan trọng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 7 1.Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế 7 2.Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 9 CHƯƠNG II Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam giai đoạn 1990-2000 10 I.Thực trạng hoạt động xuất khẩu 10 1.Về quy mô và tốc độ tăng trưởng 10 2. Cơ cấu thuốc, nguyên liệu và thị trường xuất khẩu 11 II. Những khó khăn và tồn tại hoạt động xuất khẩu dược phẩm 12 1.Khó khăn 12 2. Tồn tại 14 CHƯƠNG III Phương hướng và một số giải pháp nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong những năm tới 17 I.Phương hướng 17 1.Phương hướng quản lý hoạt động xuất khẩu các năm tới 17 II. Một số giải pháp 18 1.Khuyến khích đầu tư vốn cho sản xuất dược phẩm 18 2.Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu 20 3. Tăng cường hoạt động huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ 20 4. Các vấn đề công nghệ 22 5.Đẩy mạnh công tác khai thác thông tin, thị trường 23 6. Đẩy mạnh cải cách hành chính 25 Kết luận 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và Một số Giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới.doc