Vai trò của công tác tư tưởng đối với việc đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong giai đoạn hiện nay

Về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xin được mượn lời đồng chí Phạm Văn Đồng để làm câu kết cho bài tiểu luận: “Hồ Chí Minh vừa là một nhà đạo đức học vừa là biểu tượng toàn vẹn của đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh là hình ảnh sống của một lãnh tụ nhân dân, được nhân dân tin yêu và coi như ngọn cờ của toàn dân tộc, nhưng rất gần gũi với nhân dân, không tự cho phép mình đứng trên nhân dân và đòi hỏi cho mình bất cứ một ngoại lệ nào có tính đặc quyền, đặc lợi. ậ Người toả hào quang của một cuộc đời cao thượng, một tâm hồn trong sáng xưa nay hiếm”.

doc36 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2539 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của công tác tư tưởng đối với việc đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã hội. Đạo đức là một phạm trù lịch sử, kết quả của quá trình phát triển của xã hội loài người. Đạo đức thuộc kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định của cơ sở hạ tầng. Sự thay đổi của hạ tầng kinh tế - xã hội làm thay đổi các chuẩn mực của đạo đức xã hội. Tuy nhiên, nhiều chuẩn mực, giá trị đạo đức như nhân đạo, dũng cảm, vị tha… có ý nghĩa toàn nhân loại và tồn tại phổ biến trong các xã hội khác nhau. Do tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội nên trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp. Trong xã hội có các giai cấp đối kháng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị chiếm vị trí chi phối đạo đức xã hội. Và cũng do hành vi đạo đức bắt nguồn từ ý thức đạo đức nên đạo đức thường tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân. Nhưng không phải cứ có trình độ học vấn cao là có trình độ văn hóa, đạo đức cao và ngược lại, bởi sự khác biệt và có khoảng cách giữa ý thức và hành vi đạo đức, giữa nhận thứ và hành động của mỗi người. Trong đời sống xã hội, đạo đức chiếm một vai trò quan trọng, là nền tảng tinh thần của xã hội. Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Trong xã hội, sự khủng hoảng của đạo đức, sự "lệch chuẩn, loạn chuẩn" đạo đức là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội… Trải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước các chuẩn mực, các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta vẫn được tồn tại và phát triển. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước; gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng; đoàn kết, thủy chung, nhân ái, quý trọng nghĩa tình; cần cù; yêu lao động; dũng cảm, kiên cường, hiếu học, sáng tạo… trong sự nghiệp đổi mới đất nước, truyền thống đạo đức của dân tộc đã được phát triển và bổ sung thêm những giá trị mới. đó là những phẩm chất đạo đức mới, tiến bộ được xã hội thừa nhận như: sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết tâm vượt khó, quyết chí làm giàu, đoàn kết giúp nhau cùng phát triển, xây dựng đời sống văn hóa… Truyền thống đạo đức của dân tộc và những giá trị đạo đức mới tốt đẹp hình thành trong điều kiện mới là xu thế chủ đạo, quy định chiều hướng phát triển của đời sống xã hội ta trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không nên lẫn lộn hai phạm trù: đạo đức và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nói đến đạo đức Hồ Chí Minh, dù người nghiên cứu không quên bình diện lý luận khi phân tích tấm gương đạo đức của Người trong hoạt động thực tiễn, thì ý nghĩa và phạm vi, đối tượng nghiên cứu cũng khác với việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Cũng là nghiên cứu đạo đức Hồ Chí Minh nhưng một khi đã nâng bình diện nghiên cứu không còn dừng ở những phẩm chất và tấm gương của riêng Người mà là hệ thống tư tưởng đạo đức của Người thể hiện trong toàn bộ hoạt động thực tiễn cách mạng do Người lãnh đạo lại là vấn đề khác nhau. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự hiện diện của một tấm gương tuyệt vời và các hành vi ứng xử trong hoạt động thực tiễn của Người. Còn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nếu được nghiên cứu và khẳng định rõ ràng thì đó là một khoa học, khoa học đạo đức hay đạo đức học mang tên Hồ Chí Minh. Đó sẽ là một cống hiến có giá trị lý luận vô cùng quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Như mọi người chúng ta đều biết, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh, như Đại hội IX của đảng chỉ rõ: "là một hệ thống quan điểm sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại". Nói một cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là học thuyết về cách mạng Việt Nam. Nhờ học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn: Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ… Quan điểm về đạo đức của Bác Hồ rất cao sâu, đề cập chung cho tất cả và cho mỗi đối tượng cán bộ và nhân dân. Ai cũng có thể tìm thấy phần mình trong những lời dạy của Bác. Đó là "trung với nước, hiếu với dân"; Là "quan tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng"; "Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc". Là "nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm"; "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Là "không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền - đào núi và lấp biển - quyết chí ắt làm nên". Là "nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", "cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư". Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã từng nói: Bác Hồ của chúng ta là con người mà "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy quyền không thể khuất phục"; con người "cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư". Toàn bộ cuộc đời của Người toát lên chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Về bản thân con người Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngoài về đạo đức cho toàn Đảng, toàn dân ta. Sở dĩ gọi là tấm gương vì mọi người đều thấy Người không phải chỉ nêu lên những tư tưởng đạo đức lớn, mà còn gương mẫu thực hiện những tư tưởng ấy. ở Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức luôn gắn với hành vi đạo đức, động cơ luôn gắn với hiệu quả, nói luôn đi đôi với làm. Đây là điều mà không phải bất cứ nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo nào cũng làm được. Một người có thể là một nhà đạo đức học hay một nhà lãnh đạo nêu ra được những tư tưởng có giá trị về đạo đức, đóng góp vào sự phát triển tư tưởng đạo đức chung nhưng lại không phải là tấm gương đạo đức cho thiên hạ, nếu người đó không thực hiện những tư tưởng đạo đức mà mình đã đề ra. Bản thân Hồ Chí Minh là hiện thân của đạo đức. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tuyệt với trong sáng, tuyệt với trọn vẹn với quan điểm "trung với nước, hiếu với dân", cuộc đời của Bác là cuộc đời của một người tận trung với nước, tận hiếu với dân, nghĩ gì, làm gì cũng đều vì nước, vì dân. Trong "Di chúc" Người đã viết: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa". Khi Bác nói về cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư thì cuộc đời của Bác là cuộc đời của một bậc đại nhân, đại đức, đại trí, đại dũng, đại nghĩa, đại liêm. Là Chủ tịch một nước mà Bác vẫn luôn sống một "cuộc đời thanh bạch chẳng vàng son"; một chiếc giường đơn sơ và những bữa ăn đạm bạc, bộ quần áo kaki và đôi dép cao su… Về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng chí Phạm Văn Đồng lúc sinh thời đã từng viết: "Hồ Chí Minh vừa là một nhà đạo đức học vừa là biểu tượng toàn vẹn của đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh là hình ảnh sống của một lãnh tụ nhân dân, được nhân dân tin yêu và coi như ngọn cờ của toàn dân tộc, nhưng rất gần gũi với nhân dân, không tự cho phép mình đứng trên nhân dân và đòi hỏi cho mình bất cứ một ngoại lệ nào có tính đặc quyền, đặc lợi. ở Người toả ra hào quang của một cuộc đời cao thượng, một tâm hồn trong sáng xưa nay hiếm". 1.3. Nội dung và vai trò của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, Người đã tiếp thu và bồi đắp thêm bằng nhận thức thực tiễn cách mạng và lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, trước hết là đạo đức cách mạng, là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Bác nói: "Cách mạng là phá cái cũ, đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt" (Đường Kách mệnh, 1927). Người cách mạng không chỉ cần có tư tưởng cách mạng, có chủ nghĩa đúng đắn dẫn đường mà còn phải có đạo đức cách mạng: "Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" (Sửa đổi lối làm việc, t.10, 1947). Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng, đạo đức cũ như người di ngược đầu cắm xuống đất… ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng và chính trị có mối quan hệ hữu cơ rất chặt chẽ. Bởi vậy, Người được nhân dân Việt Nam ca ngợi là "Người Việt Nam đẹp nhất", được nhân dân thế giới tôn vinh là "nhân cách của con người thời đại cho mọi thế hệ". Đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội và trong đời sống của mỗi người. Là người mở đường xây dựng nền độc lập cho Tổ quốc, đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, được đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ giai đoạn đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản "Di chúc" bất hủ, Người viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư". Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định, Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam. a. Trung với nước, hiếu với dân. Trung với nước là chuẩn mực phủ định c truyền thống "trung với vua". Theo Hồ Chí Minh: Cả cuộc đời tuyệt đối trung thành với lý tưởng của cách mạng và quân đội; phải luôn luôn dặt lợi ích của dân tộc, của đất nước lên trên lợi ích cá nhân. Bản thân mỗi người phải phấn đấu hết mình vì lợi ích tối cao của dân tộc, vì quyền lợi cơ bản của nhân dân. Hiếu với dân là quan điểm phát triển so với truyền thống. Hiếu với dân là yêu kính nhân dân, là hết lòng phục vụ nhân dân; biết đấu tranh để mang lại quyền lợi cho nhân dân, biết bảo vệ quyền lợi nhân dân. Người cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước phải là "người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của dân". Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước. Và đặc biệt giai đoạn hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa những tác động của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ tới các mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống… đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Tình hình đó đòi hỏi lòng "tận trung với nước, tận hiếu với dân" của mỗi người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ của Đảng của Nhà nước phải càng được nâng cao hơn bao giờ hết. Nhận thức sâu sắc nguy cơ to lớn này, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh… coi đó là cơ sở nền tảng để xây dựng và phát triển đất nước. b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức rất nổi bật, là phẩm chất cơ bản, trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Nó gắn liền với hoạt động hàng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng, của mỗi con người nói chung, được Người xem là nền tảng của đời sống mới, là mối quan hệ "với tự mình". Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thực chất là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí Minh kế thừa, chọn lọc, phát triển. Người khẳng định: "Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà bắt nhân dân ta phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân" (Hồ Chí Minh, toàn tập… t.6, tr.321). Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân". Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết: "Trời có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính Thiếu một mùa thì không thành trời Thiếu một phương thì không thành đất Thiếu một đức thì không thành người". Còn "chí công vô tư" là đề cao chủ nghĩa tập thể. Muốn có chí công vô tư phải kiên quyết chống chủ nghĩa các nhân. Bởi vì chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên sinh ra các bệnh xấu xa. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật. Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. Bồi dưỡng phẩm chất này sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi thử thách: "Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục" và có thể "trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng". c. Tình yêu thương con người. Yêu thương con người, sống có tình, có nghĩa là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa, nâng đỡ con người là đạo lý truyền thống của nhân loại, dân tộc. Là đạo đức của người cộng sản mà lý tưởng đấu tranh là giải phóng con người. Theo Hồ Chí Minh, phải yêu thương những người cùng khổ, người lãnh đạo, người nô lệ trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí: với mọi người bình thường; những người có sai lầm, khuyết điểm đã nhận rõ sai lầm, khuyết điểm; cả những người lầm đường, lạc lối đã hối cải; yêu thương những người trong gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào cả nước và cả loài người. Tình thương của Người bao la: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" - Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, t.4m tr,162. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: "Ông lòng Bác vậy cứ thương ta Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa Chỉ biết quên mình cho hết thảy Như dòng sông chảy, nặng phù sa" Người căn dặn toàn Đảng "phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau", sống với nhau phải có nghĩa, có tình nhưng không "dĩ hòa vi quý". d. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa, thể hiện bản chất tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và tính chất của xã hội xã hội chủ nghĩa… Nội dung của tinh thần quốc tế được Hồ Chí Minh diễn tả trong hai câu thơ: "Quan sơn muôn dặm một nhà Bốn phương vô sản đều là anh em". Với nội dung đạo đức nêu trên Hồ Chí Minh xác định những nguyên tắc, phương pháp tu dưỡng và giáo dục đạo đức cách mạng như: phải tiến hành thường xuyên một cách tích cực; Nói phải đi đôi với làm, vừa học tập quần chúng vừa làm gương cho người khác noi theo; xây dựng, giáo dục phải đi đôi với đấu tranh; phải tiến hành một cách đồng bộ và phát huy dân chủ. 2. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 2.1. Mục đích, yêu cầu. 2.1.1. Mục đích: Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá t rị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã hội, phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. 2.1.2. Yêu cầu: - Tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" sâu rộng, thiết thực, hiệu quả trong cả hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, không phô trương, hình thức. - Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phải gắn liền với việc triển khai thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội X của Đảng, với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với các phong trào thi đua yêu nước. - Tạo ra phong trào thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong Đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội và trong toàn xã hội. Phát hiện và nhân rộng những gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 2.2. Nội dung cuộc vận động từ năm 2007 đến năm 2011. Năm 2007: Nâng cao nhận thức về đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức động viên toàn Đảng, toàn xã hội tích cực tham gia cuộc vận động. Tổ chức nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức trong các tác phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và thực hiện "Di chúc". Kết hợp với việc đẩy mạnh tuyên truyền về cuộc vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng. Năm 2008: Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện cuộc vận động, từng bước đưa nội dung cuộc vận động đi vào chiều sâu. Đồng thời với việc thực hiện các tiêu chí đạo đức theo tấm gương Hồ Chí Minh, cần nhấn mạnh: học tập gương Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Năm 2009: Kỷ niệm 40 năm thực hiện "Di chúc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động theo chủ đề và các tiêu chí đạo đức chung, nhấn mạnh nội dung: Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh "Nâng cao ý thức trách nhiệm hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Năm 2010: Kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng, 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chuẩn bị Đại hội XI của Đảng; tiếp tục các nội dung đã thực hiện các năm trước, đồng thời chú ý nội dung: học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, "là đạo đức, là văn minh". Mỗi người phải tự liên hệ, tự phê bình, kiểm điểm cá nhân; tổ chức để quần chúng ở nơi công tác và nơi cư trú góp ý cho cán bộ, đảng viên. - Các cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần thực hiện phù hợp với tình hình từng cơ quan, đơn vị; Xây dựng chương trình hành động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, yếu kém; xử lý các sai phạm được phát hiện theo đúng kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. 2.3. Vai trò của công tác tư tưởng đối với cuộc vận động này. Thực hiện chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội đã quan tâm chỉ đạo, sớm tổ chức triển khai các bước tiến hành cuộc vận động. Đối với cuộc vận động công tác tư tưởng đã làm tương đối tốt nhiệm vụ của mình, triển khai một cách có hiệu quả nội dung cuộc vận động. Công tác tuyên truyền về cuộc vận động được đẩy mạnh với các nội dung và hình thức phong phú. Tổ chức tốt các buổi nghe giới thiệu các chuyên đề về đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức học tập, liên hệ, thu hoạch. Đưa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào sinh hoạt hàng tháng của tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị. Phát động tổ chức cuộc thi "kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đối với tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị. Qua cuộc thi này mỗi cá nhân sẽ tìm hiểu thêm được về đạo đức Hồ Chí Minh, thông qua những câu chuyện để thấy rõ hơn nhân cách, đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng phát động cuộc thi sáng tác những tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về những cá nhân, tập thể gương mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong đợt tổng kết cuối năm, các đơn vị, địa phương phải có báo cáo sơ kết về kết quả sau một năm thực hiện. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự liên hệ, kiểm điểm về kết quả thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Yêu cầu làm rõ những chuyển biến, tiến bộ cụ thể so với trước đó và lấy ý kiến đánh giá của quần chúng nhân dân. Bước đầu đã thu được nhiều kết quả tốt, tạo tiền đề quan trọng và cần thiết để đẩy mạnh cuộc vận động trong thời gian tới. Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đã nhận thức rõ hơn ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động, đánh giá việc Trung ương phát động cuộc vận động này là đúng và "trúng"., đáp ứng được tình cảm và lòng mong đợi của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân… Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào thành công của cuộc vận động được nâng lên. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền vẫn còn một số hạn chế, chưa mạnh mẽ, chưa huy động được nhiều lực lượng tham gia. Nội dung tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai cuộc vận động chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể của cả hệ thống chính trị để phát huy sức mạnh tổng hợp triển khai cuộc vận động. Việc triển khai cuộc vận động chưa gắn chặt với công tác tư tưởng, tổ chức, kiểm tra, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở ngành và địa phương. Hình thức và phương pháp tuyên truyền phải sinh động, gắn chặt với việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giải pháp các vấn đề cụ thể của lịch sử, tạp phong trào sâu rộng . 3. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Nếu tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng ta trong việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược đưa cuộc cách mạng của chúng ta đi tới thắng lợi thì đạo đức Hồ Chí Minh lại là kim chỉ nam cho hành động của mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân ta trong công tác và đời sống hàng ngày. Đất nước ta trong thời kỳ đổi mới nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp mới xuất hiện nhưng bên cạnh đó thì tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong xã hội diễn ra rất tinh vi, ngày càng tăng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cách mạng nước ta. Đó là: Chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng; là nạn tham nhũng; tệ quan liêu; lối sống thiếu trung thực, cơ hội; lý thuyết suông - nói không đi đôi với làm; sự suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình, quan hệ giữa cá nhân với xã hội; Đạo đức nghề nghiệp bị sa sút… Mà trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi thắng lợi hay sai lầm của đất nước đều không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng, tách rời phẩm chất năng lực của người đảng viên. Chúng ta hiểu vì sao suốt cuộc đời Bác Hồ kiên trì giáo dục đạo đức, để lên hàng đầu "tư cách người cách mệnh", coi đạo đức là gốc của người cán bộ, nêu cao đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị. Người còn chỉ rõ phải thường xuyên chống tham ô, lãng phí, quan liêu, những căn bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân và xác định đó là "giặc nội xâm" là đồng minh của "ngoại xâm" dẫn đến đổ vỡ sự nghiệp cách mạng, làm mất lòng tin của nhân dân. Với tính chất nghiêm trọng như vậy Đại hội Đảng lần X đã coi đây là "một nguy cơ thách thức lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ". Bởi đây chính là lý do dẫn đến nguy cơ làm giảm sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, tác động đến sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội. Ngoài ra sự suy thoái về đạo đức và lối sống đang phá hoại hạnh phúc nhiều gia đình, làm suy giảm nguồn nhân lực, gây hậu quả rất lớn về kinh tế do không phát huy được nguồn lực con người để phát triển đất nước. Hiện nay, trong khi đặt phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm Đảng ta đã khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người, vai trò nền tảng tinh thần và động lực phát triển của văn hóa, đạo đức. Giáo dục đạo đức là một trong những biện pháp đảm bảo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, sự ổn định trong xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững của đất nước thực hiện miêu tả "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong bất cứ một giai đoạn cách mạng nào việc học tập, tu dưỡng đạo đức thường xuyên cũng là cơ sở để hoàn thiện mỗi cá nhân. Vì đạo đức của mỗi con người phải do mỗi người tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn và tiếp thu sự giáo dục quản lý của tổ chức, tập thể, cộng đồng, gia đình và xã hội. Mọi sự buông thả, thiếu tự giác, xa rời sự quản lý là con đường dẫn tới hư hỏng, tự đánh mất bản thân mình. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: "Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội thực dụng. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng và toàn xã hội". Ngày 7/11/2006 Bộ Chính trị khoá X đã ban hành chỉ thị 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong toàn Đảng, hệ thống chính trị ban đầu từ 3/2/2006 đến hết nhiệm kỳ khoá X. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã ban hành hướng dẫn 11-HD/TTVH ngày 06/12/2006 hướng dẫn các địa phương, ban, ngành triển khai cuộc vận động theo chỉ thị của Bộ Chính trị. Hơn lúc nào hết Đảng ta, nhân dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ, phù hợp, tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng, trong nhân dân. Đây cũng là nhiệm vụ của công tác tư tưởng đối với việc rèn luyện, giáo dục đạo đức trong xã hội. Chương II: Thực trạng và giải pháp đối với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 1. Thực trạng. 1.1. Kết quả đạt được và những nguyên nhân của kết quả đó. - Về nhận thức: Qua học tập các chuyên đề, tìm hiểu tấm gương đạo đức của Bác, thi kể chuyện cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn, nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng cuộc vận động với tinh thần phấn khởi và thái độ đồng tình, nhất trí cao. Dư luận trong Đảng và xã hội cho rằng: Việc Trung ương phát động cuộc vận động này là đúng và "trúng", đáp ứng tình cảm và lòng mong đợi của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, đa số rất kỳ vọng vào kết quả của cuộc vận động. Tuy nhiên, vẫn còn một số người băn khoăn về kết quả thực tiễn của cuộc vận động. Sau khi cuộc vận động được triển khai rộng khắp và thống nhất trong cả nước, niềm tin vào thành công của cuộc vận động được nâng lên. Qua nghiên cứu, học tập và chuyên đề về tư tưởng tấm gương Hồ Chí Minh đa số cán bộ, đảng viên, công chức đã có sự chuyển biến bước đầu về nhận thức tư tưởng, về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Đã nhận thức rõ hơn về vị trí, tầm quan trọng của dân tộc đối với sự phát triển của gia đình, xã hội và mỗi cá nhân; nhận thức sâu sắc hơn đạo đức là "gốc" của người cách mạng, những nội dung tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Báo cáo sơ kết của các địa phương, cơ sở và phản ánh của hệ thống dư luận xã hội ở các cấp cho biết: nhiều cán bộ, đảng viên đã có ý thức giữ gìn, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức tốt hơn, nhất là ý thức từ bỏ các thói hư, tật xấu; có chuyển biến nhất định và quan hệ với nhân dân, trách nhiệm với tập thể, cộng đồng xã hội, giữ gìn đoàn kết, kỷ luật… Đó là những kết quả bước đầu có ý nghĩa. Có thể khẳng định, cuộc vận động đang đi vào đời sống, vào lòng người, đã được xã hội đón nhận, trở thành một sinh hoạt chính trị, văn hóa sâu rộng, bước đầu tạo được ấn tượng và hiệu quả. Đây là kết quả tích cực, tạo tiền đề để đẩy mạnh cuộc vận động với những bước tiếp theo có nhiều nội dung công việc khó khăn và phức tạp hơn. - Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo: ở Trung ương, ban chỉ đạo Trung ương đã thành lập và kiện toàn các cơ quan giúp việc và đi vào hoạt động có nề nếp. Ban chỉ đạo Trung ương đã thảo luận, đánh giá những kết quả bước đầu của cuộc vận động; xây dựng kế hoạch triển khai cuộc vận động từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội X; Đẩy mạnh chỉ đạo tuyên truyền về cuộc vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng. Về cơ bản, lãnh đạo các cấp, các ngành đã nhận thức rõ mục đích, yêu cầu và ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động, có quyết tâm cao, quyết tâm lãnh đạo, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng gắn liền với lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Mặc dù bận nhiều công việc, nhưng ban chỉ đạo các cấp đều quyết tâm tổ chức triển khai cuộc vận động: Thành lập Ban chỉ đạo; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện cuộc vận động trong năm 2007 khá chặt chẽ; đưa việc chỉ đạo từng bước đi vào nền nếp. Ban chỉ đạo các cấp đã ban hành các văn bản về quy chế làm việc, hướng dẫn các cấp ủy và ban chỉ đạo cấp dưới triển khai thực hiện nội dung các bước cuộc vận động, tạo sự thống nhất và tương đối đồng bộ giữa mặt công tác và các hoạt động từ Trung ương đến cơ sở. Đây cũng là kết quả, là tiền đề rất quan trọng về mặt tổ chức để tiến hành các nội dung, các bước công việc tiếp theo của cuộc vận động. Từ đó để cuộc vận động ngày càng đi vào chiều sâu, đạt chất lượng và hiệu quả thực tế. Công tác chuẩn bị của các cấp về cơ bản đảm bảo kịp thời để triển khai cuộc vận động. Đội ngũ báo cáo viên nhìn chung được lựa chọn chặt chẽ, có tinh thần trách nhiệm, uy tín chính trị, đạo đức và kinh nghiệm công tác; làm tốt các bước chuẩn bị và tiến hành báo cáo các chuyên đề, đảm bảo nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả. Công tác hướng dẫn và làm điểm hội thi "Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được quan tâm. Nhiều ngành, địa phương đã xuất bản sách, phát hành các sản phẩm văn hóa về Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với ngành, địa phương mình với nội dung thiết thực, hình thức phong phú, đa dạng, số lượng phát hành lớn. 1.2. Nhược điểm và hạn chế. Trước khi triển khai cuộc vận động, việc tổ chức quán triệt mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động chưa được quan tâm đúng mức, nhất là ở các cơ quan Trung ương. Ban chỉ đạo Trung ương mới biên soạn tài liệu học tập, tổ chức tập huấn báo cáo viên mà chưa tổ chức quán triệt kỹ chỉ thị 06-CT/TW của Bộ Chính trị và các hướng dẫn triển khai. Vì vậy, một số ngành,. địa phương còn lúng túng trong việc triển khai thực hiện. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa thật tin tưởng vào kết quả cuộc vận động. Cá biệt, có biểu hiện nhận thức về cuộc vận động chưa đúng tầm, cho rằng đây chỉ là đợt học tập nhằm tiếp tục thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27/03/2003 của Ban Bí thư Trung ương khoá IX hoặc cho rằng đợt học này chỉ giành cho những ai "có vấn đề" về đạo đức hay cán bộ lãnh đạo có chức, có quyền. ở một số cơ quan việc tổ chức học tập có biểu hiện đơn giản: Tổ chức báo cáo chuyên đề quá ngắn gọn, không đúng quy định (một buổi) hoặc chỉ mời chuyên gia báo cáo về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch chưa nghiên cứu một cách sâu sắc về tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người. Nhiều cán bộ chủ chốt chưa gương mẫu, tích cực học tập. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp tổ chức triển khai học tập còn chậm, còn thụ động, công tác tổ chức chưa chặt chẽ, Ban chỉ đạo hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã qua học tập, nghiên cứu các chuyên đề về tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn cho rằng: nội dung học tập lần này không có gì mới; vấn đề là làm theo Người như thế nào? Công tác tuyên truyền chưa ngang tầm với cuộc vấn đề. Lĩnh vực văn học, nghệ thuật chưa được huy động mạnh vào việc tuyên truyền về cuộc vận động. Nội dung tuyên truyền của các báo, đài còn trùng lặp; thiên về sưu tầm, giới thiệu nội dung tư tưởng và những mẩu chuyện về đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rất ít tuyên truyền về những bài học kinh nghiệm, về tấm gương người thực, việc thực đã học, đã thấm nhuần và làm theo tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như thế nào? Việc chuẩn bị nội dung học tập ở cơ sở vẫn chưa có sự đổi mới phù hợp, nhiều nơi vẫn làm theo cách cũ giống như học tập nghị quyết. Nhiều địa phương chưa chuẩn bị thêm tài liệu sát với tình hình và đặc điểm địa phương để đưa vào nội dung học tập. Đội ngũ báo cáo viên còn thiếu và yếu, một bộ phận chưa ngang tầm. Do đó hạn chế đến chất lượng và hiệu quả học tập nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai cuộc vận động tuy có đổi mới so với những cuộc vận động trước đây nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục. Tính chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo và chỉ đạo còn hạn chế. ở Trung ương, việc đầu tư cho cuộc vận động lúc đầu chưa ngang tầm; chỉ đạo còn chậm, thiếu sâu sát, quyết liệt, nhiều văn bản hướng dẫn chưa sáng tỏ, chưa sát cơ sở. Chưa thật sự đổi mới từ quan niệm đến cách chỉ đạo, vẫn theo thói quen nghĩ thay, làm thay địa phương, cơ sở tạo cho địa phương, cơ sở tâm lý chờ đợi, thụ động. Nội dung và hình thức thực hiện cuộc vận động ở địa phương, cơ sở chưa gắn chặt với các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng. Việc học tập các chuyên đề về tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa gắn chặt với công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra nên vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nêu cao trách nhiệm trong học tập; một số cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị doanh nghiệp chưa thật sự coi trọng và chưa giành thời gian cần thiết cho các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, triển khai cuộc vận động; Còn khoán trắng cho cán bộ tuyên giáo. Những khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo đã làm nghèo đi tính sáng tạo của cơ sở và sức hấp dẫn của các nội dung cuộc vận động; xa lạ với tư tưởng và phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì Người luôn tôn trọng, khơi dậy và phát huy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ và nhân dân. 1.3. Một số kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra đối với cuộc vận động. Một là, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, ý nghĩa của cuộc vận động là điều kiện tiên quyết để triển khai cuộc vận động đạt kết quả tốt. Hai là, lồng ghép cuộc vận động với các nhiệm vụ xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội dưới nhiều hình thức sinh động, phù hợp với thực tiễn, chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức, từng giới đào tạo, từng đối tượng trong từng nội dung và từng bước thực hiện. Quá trình lồng ghép này tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức, tiếp thu và thể hiện qua hành động thực tiễn. Ba là, vai trò của người đứng đầu, việc nêu gương, làm gương là điều kiện quan trọng để triển khai cuộc vận động có hiệu quả. Bốn là, không có sự tham gia tích cực, nhiệt tình của đông đảo nhân dân thì cuộc vận động không thể thành công. Đảng ta luôn xem tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén để xây dựng Đảng làm cho Đảng ngày càng thêm mạnh. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân việc làm này chưa đủ mạnh, chưa phát huy được tác dụng vốn có của nó. Nhìn chung, tính tự giác, tự phê bình còn thấp. Do vậy cần có sự hỗ trợ của sức mạnh quần chúng. Nhất là để đạt mục tiêu của cuộc vận động là ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực. Đặc biệt là tệ tham ô, lãng phí, quan liêu trong Đảng, trong cơ quan Nhà nước. Bác Hồ đã dạy: "phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu… phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công". * Những vấn đề đặt ra. Để cuộc vận động trong năm 2008 đi vào chiều sâu, cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, nâng cao nhận thức đồng thời từng bước chuyển trọng tâm sang làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và toàn xã hội. - Thực hiện tốt: Tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. - Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ và toàn hệ thống chính trị tham gia tích cực vào cuộc vận động trong Đảng và toàn xã hội. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về cuộc vận động, về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt tăng cường tuyên truyền những gương điển hình của tập thể và cá nhân hình thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị. Trên cơ sở đó nhân rộng điển hình tiên tiến với các hình thức phong phú, đa dạng. Qua các phong trào thi đua, chọn lựa những người tốt, việc tốt, đơn vị tốt để biểu dương khen thưởng kịp thời. - Tổ chức tốt việc đánh giá tình hình và thực trạng đạo đức, lối sống của chi bộ, cơ quan, đơn vị. 2. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". - Một là, cần nâng cao và tạo sự thống nhất về nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong giai đoạn hiện nay. Có nhận thức đúng mới xây dựng được chương trình hành động thiết thực, cụ thể trong quá trình giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" là giải pháp cơ bản, lâu dài, đồng thời có ý nghĩa cấp bách. Vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội ta, đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; Góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội, vừa phù hợp với yêu cầu xây dựng cơ sở hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đồng. Khi tạo được nhận thức cung thống nhất sẽ huy động được sự tham gia đông đảo, tự giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện cuộc vận động. - Hai là, nêu cao ý thức trách nhiệm và vai trò gương mẫu thực hiện của cấp ủy và những người đứng đầu. Cuộc vận động được phát động trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tham gia sôi nổi, có khí thế, hào hứng và rộng khắp. Sự thông suốt và tự giác về tư tưởng và sự gương mẫu của các cán bộ chủ chốt, cán bộ, đảng viên là những yếu tố bên trong có tính quyết định để tạo ra phong trào và đảm bảo sự thành công của cuộc vần động. Muốn hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị phải tạo bước chuyển lớn trong ý thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên là lãnh đạo các cấp; họ phải thật sự là tấm gương sáng mới có thể giáo dục, thuyết phục người khác hành động theo mình. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Làm gương để người khác bắt chước". Và ngay cả bản thân Hồ Chí Minh, Người cũng đã tự nêu gương để lôi kéo người khác làm theo. Ví dụ, khi đất nước đang đói khổ, Người đã phát động "hũ gạo tiết kiệm" và Chủ tịch là Người thực hiện đầu tiên và rất nghiêm túc. Người nói: "Lúc chúng ta nâng bát cơm ăn,. nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hiện trước: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa (mỗi bữa 1 bơ). Đem gạo đó để cứu dân nghèo". - Ba là, coi trọng và phát huy ý thức tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Học tập tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là để hoạt động, để làm theo. Trong quá trình tổ chức triển khai cuộc vận động, cần dự kiến và khắc phục kịp thời nhận thức sai lạc cho rằng: Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ai cũng đã được học, được biết, vấn đề là cần có biện pháp giáo dục, quản lý như thế nào để mọi người làm theo. Thực tế cho thấy học tập, nghiên cứu tư tưởng và tấm gương giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh càng làm cho mỗi người nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn tư tưởng và tấm gương đạo đức của Bác để tu dưỡng đạo đức suốt đời. Thấm nhuần tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để làm theo là không đơn giản, dễ dàng mà cần phải có nhận thứ đúng và quan tâm cao trong mỗi người. Việc giáo dục, xây dựng ý thức tự giác, thật sự cầu thị trong học tập là bài học thành công mà nhiều địa phương, cơ sở đã làm được và làm tốt. Việc kết hợp cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" với việc nâng cao tính tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc vận động này. Bởi vì, giải pháp này chỉ rõ vai trò quyết định của cán bộ, đảng viên với tư cách vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc phấn đấu rèn luyện đạo đức cách mạng là quá trình đấu tranh gian khổ, phức tạp và quyết liệt giữa cái cũ và cái mới; giữa cái tích cực với cái tiêu cực. Muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh ấy đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ tiếp thu nội dung giáo dục đạo đức mà quan trọng hơn là phải tự giáo dục, tự rèn luyện, tự trau dồi đạo đức cách mạng cho bản thân mình. Nếu không tự giác rèn luyện, tinh thần dễ bị hoang mang, dao động và sa ngã trước sự cám dỗ của vật chất tầm thường. Đúng như Hồ Chí Minh thường dạy, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hình thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Nhưng "đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". - Bốn là, động viên đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực tham gia cuộc vận động, gắn các nội dung và hình thức tiến hành cuộc vận động với các nội dung, các mặt công tác của từng cơ quan, đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên. Chỉ có như vậy, cuộc vận động mới có sức sống, thiết thực và hiệu quả. Trong tổ chức cuộc vận động cần tránh phô trương, hình thức, một trong những căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta. Đồng thời phải kết hợp cuộc vận động với việc đổi mới nội dung, phương thức giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" phải được đổi mới theo hướng: kết hợp giữa giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh với giáo dục các hình thái ý thức xã hội khác. Nhưng tập trung vào những nội dung chủ yếu như: Lòng yêu nước, trung thành với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa; tình đoàn kết; tinh thần quốc tế trong sáng; tinh thần lao động tự giác sáng tạo; ý thức tự lực tự cường… Giáo dục đạo đức cần gắn liền với giáo dục lý luận chính trị, vì người có lập trường chính trị, có tri thức về lý luận chính trị sẽ có nhận thức đúng và giải quyết thoả đáng những vấn đề về đạo đức cách mạng trong điều kiện kinh tế thị trường. Giáo dục đạo đức cách mạng gắn liền với giáo dục pháp luật để cán bộ, đảng viên hiểu và hành động theo đúng quy định của pháp luật. Chính sự tuân thủ luật pháp, từ bắt buộc sẽ dần chuyển hóa con người ta đến hành động tự giác để điều chỉnh hành vi cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Về phương pháp giáo dục, vận động phải kiên trì giáo dục, thuyết phục và vận động. Khắc phục tình trạng truyền thụ một chiều, phải tác động để phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giác của đối tượng giáo dục, giúp họ thay đổi nhận thức, hình thành niềm tin và hành động theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Về hình thác giáo dục, vận động: Để nâng cao chất lượng cuộc vận động này, cần sử dụng và phối hợp giữa nhiều hình thức với nhau: Tổ chức thành lớp học, tổ chức hội thi, báo cáo chuyên đề, tổ chức hội thảo, xây dựng và nhân điển hình tiên tiến, sử dụng báo chí, sử dụng các hình thức văn nghệ… để chuyển tải những nội dung cơ bản, sao cho mọi người dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Đồng thời, mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cơ sở phải xây dựng chương trình hành động cụ thể và tổ chức hội nghị định kỳ sơ kết, rút kinh nghiệm để định hướng hành động cho những giai đoạn tiếp theo. - Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa nội dung của cuộc vận động với việc thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tham ô, hối lộ và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết để chống tệ tham nhũng, tham ô, hối lộ, lãng phí… Nhưng mức độ các loại tệ nạn ngày càng gia tăng với phạm vi, quy mô ngày càng lớn, tổ chức ngày càng phức tạp hơn, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn, số lượng cán bộ, đảng viên phải ra hầu toà và chịu trách nhiệm hình sự ngày càng đông hơn… Vì thế để nâng cao chất lượng cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" phải kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, nâng cao hiệu quả cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Mặt khác, cần làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng. Mục đích của công tác này là nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên và tổ chức Đảng. Phương châm công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật là mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên đều phải được quản lý, kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ. Cấp ủy Đảng phải trực tiếp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và kết hợp với việc tăng cường giám sát của nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng hàng năm phải được chủ động xây dựng và tiến hành kiểm tra theo kế hoạch hàng năm của cấp ủy Đảng nhất là kiểm tra việc chấp hành đường lối, chủ trương, cương lĩnh, điều lệ và nghị quyết của Đảng, chấp hành nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng. Phải xử lý nghiêm và dưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên và vi phạm pháp luật. Như vậy, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ đạt hiệu quả cao. C-Phần kết luận: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vừa là chủ đề, vừa là nội dung của cuộc vận động. Học tập và làm theo là một quá trình đồng thời diễn ra chứ không phải là hai giai đoạn nối tiếp nhau của một quá trình, không phải học tập trước sau đó mới làm theo. Học tập là để hiểu thật rõ, thật đúng những gì Bác Hồ đã nói và đã làm về đạo đức, cũng là để noi gương Bác mà thực hành trong cuộc sống. Làm theo là noi gương Bác nhưng phải nắm vững tinh thần cơ bản những lời dạy của Bác về đạo đức để vận dụng trong hoàn cảnh cụ thể chứ không phải làm y như những gì Bác Hồ làm. Để cuộc vận động đi vào chiều sâu và đạt kết quả cao hơn nữa thì vai trò của công tác tư tưởng càng được nâng cao. Công tác tư tưởng góp phần định hướng, thực hiện tuyên truyền, cổ động cho cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phải tạo được bước chuyển mạnh mẽ, đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu, có những nội dung cụ thể, thiết thực. Bên cạnh việc tiếp tục học tập, quán triệt, cụ thể hoá các nội dung tư tưởng , tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần nhấn mạnh chuyển trọng tâm sang thực hiện làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh tuyên truyền về cuộc vận động về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt tăng cường tuyên truyền những tập thể, cá nhân tích cực, tự giác, điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ. Đây là cuộc vận động lớn có ý nghĩa đặc biệt sâu rộng cho nên phải huy động được toàn bộ hệ thống chính trị ở tất cả các cấp, các ngành tham gia. Có cơ chế phối hợp giữa Công tác tư tưởng , công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát và các lĩnh vực Kinh tế-Xã hội, văn hoá ở các cấp, các ngành mới có thể phát huy được sức mạnh tổng hợp. Năm 2008, năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại Hội X của Đảng, hoàn thành sớm các chỉ tiêu, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006-2010, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức rõ ràng, thực hiện tốt cuộc vận động là một trong những giải pháp để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đã đề ra. Trên cơ sở đó đề ra những tiêu chuẩn đạo đức cụ thể để phấn đấu, rèn luyện thường xuyên. Từ năm 2008 trở đi hàng năm cuộc vận động được sơ kết vào dịp 19-5 và đến đầu năm 2010 sẽ tổng kết. ý nghĩa sâu xa của cuộc vận động là ở chỗ, xét cho cùng, đạo đức là cái quý nhất, là linh hồn của một con người, một xã hội, một chế độ và một nền văn minh. Đạo đức cách mạng là tiền đề tiên quyết, là giá trị thuộc về nhân cách của mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng, mục tiêu của mình. Đối với chúng ta, mỗi sinh viên chuyên ngành Công tác tư tưởng cần phải nhận thức rõ được vai trò, ý nghĩa của cuộc vận động để từ đó học tập và làm theo, xứng đáng với kỳ vọng của Bác đối với thế hệ trẻ và để Việt Nam có thể “sánh vai cùng các cường quốc năm châu khác”. Về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xin được mượn lời đồng chí Phạm Văn Đồng để làm câu kết cho bài tiểu luận: “Hồ Chí Minh vừa là một nhà đạo đức học vừa là biểu tượng toàn vẹn của đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh là hình ảnh sống của một lãnh tụ nhân dân, được nhân dân tin yêu và coi như ngọn cờ của toàn dân tộc, nhưng rất gần gũi với nhân dân, không tự cho phép mình đứng trên nhân dân và đòi hỏi cho mình bất cứ một ngoại lệ nào có tính đặc quyền, đặc lợi. ậ Người toả hào quang của một cuộc đời cao thượng, một tâm hồn trong sáng xưa nay hiếm”. Mục lục Phần mở đầu Chương I: Công tác tư tưởng với cuộc 1. Đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh 1.1. Đạo đức 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 1.3. Nội dung và vai trò của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 2. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay 2.1. Mục đích, yêu cầu 2.2. Nội dung cuộc vận động từ 2007 - 2011 2.3. Vai trò của công tác tư tưởng đối với cuộc vận động 3. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" Chương II: Thực trạng và giải pháp đối với cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" 1. Thực trạng 1.1. Kết quả đạt được và những nguyên nhân của kết quả đó 1.2. Nhược điểm và hạn chế 1.3. Một số kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra đối với cuộc vận động 2. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnguyen_ly_i_hcm_4355.doc