Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong chiến lược phát triển của đất nước, vấn đề nông nghiệp - nông thôn - nông dân có vị trí đặc biệt. Các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng đều xác định quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước phụ thuộc rất lớn vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn. Giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp - nông thôn và nông dân đã, đang và sẽ là bài toán then chốt tạo tiền đề cơ bản cho chúng ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH. Với khoảng 80% dân số sinh sống trên địa bàn nông thôn, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia hay từng khu vực đều phải đặt nông nghiệp - nông thôn như một khu vực kinh tế - xã hội trọng điểm và giàu tiềm năng, có tính quyết định đối với sự phát triển. Trong bối cảnh này, nếu giải quyết tốt các vấn đề văn hóa ở nông thôn chúng ta sẽ có những tiền đề và điều kiện cơ bản để giải quyết các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa khu vực, bởi phát triển văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, khu vực và cả nước. Văn hóa phải được gắn kết với quá trình phát triển kinh tế - xã hội với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động văn hóa ở nông thôn phải có mục tiêu, nội dung, các biện pháp và bước đi thích hợp để thực sự đóng vai trò là động lực và mục tiêu của sự phát triển nông nghiệp - nông thôn. Đây là những vấn đề có tính chiến lược mà nếu giải quyết tốt sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho sự phát triển văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung và Quảng Nam nói riêng trong giai đoạn sắp tới. Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã và đang được phát động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nông thôn là một khu vực bao gồm hai thực thể xã hội cơ bản: làng - xã và các thị tứ, thị trấn; trong đó làng xã là thực thể xã hội cơ bản, tiêu biểu cho xã hội nông thôn, là một khu vực tụ cư của cư dân nông thôn. Trong biến thiên lịch sử, làng - xã và văn hóa làng - xã có một vị trí đặc biệt. Do đó, nói đến nông thôn trước hết là phải nói đến làng - xã, từ làng - xã ta có thể có một bức tranh khá toàn diện về xã hội nông thôn trong quá trình phát triển. Làng - xã có thể hình dung như một quốc gia thu nhỏ, có đời sống vật chất và tinh thần bền vững. Vì vậy, trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, phát huy những giá trị văn hóa làng, kết hợp với những yếu tố hiện đại của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa thực chất là quá trình "tiếp biến văn hóa", là quy luật vận động tất yếu của văn hóa đương đại trong việc kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. Xây dựng làng văn hóa là sự kế thừa và phát triển làng - xã Việt Nam trong điều kiện mới phù hợp với sự tiến bộ văn hóa xã hội. Làng là cái nôi văn hóa được ví như tấm gương phản chiếu sinh động nhất truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, thuần phong mỹ tục, mối quan hệ xóm giềng, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình .tất cả kết thành tinh hoa văn hóa và bản lĩnh văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa bởi các thế lực xâm lược đô hộ. Tinh hoa ấy cần được phát huy mạnh mẽ biến thành động lực tinh thần cho công cuộc xây dựng làng văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở nông thôn, làm nền tảng cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Làng văn hóa chính là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng và phát triển các giá trị đạo đức, tình cảm, lối sống của cộng đồng .Và đây cũng chính là mảnh đất có khả năng tiềm tàng trong việc ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng văn hóa tiêu cực đã và đang tác động dữ dội đến mọi mặt của đời sống xã hội và gây ra những thay đổi đáng kể trong thang giá trị xã hội ở thời điểm hiện nay. Mặt trái của kinh tế thị trường đang có nguy cơ phá vỡ những giá trị văn hóa truyền thống. Bản sắc văn hóa dân tộc có những lúc, những nơi bị xâm hại bởi các sức mạnh ghê gớm của nó như: chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng .Kinh tế thị trường phát triển, lũy tre làng không còn là vành đai cát cứ. Nhưng tính cục bộ, địa phương chủ nghĩa, "phép vua thua lệ làng", tệ cường hào ở nông thôn lại trỗi dậy. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự xáo trộn các mối quan hệ trong làng và giữa các làng, làm nảy sinh hàng loạt vấn đề về ý thức đoàn kết cộng đồng, diện mạo văn hóa, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội . Cơ chế thị trường đang len lỏi vào những miền quê xa xôi nhất và có nguy cơ phá vỡ nét thanh bình của làng - xã xa xưa. "Cây đa, bến nước, sân đình"- hình ảnh tiêu biểu của làng quê đang có dấu hiệu bị biến dạng. Các tệ nạn xã hội đang có cơ hội và điều kiện chuyển dịch về nông thôn. Ma chay, cưới xin vẫn có xu hướng quay lại với tập tục rườm rà, tốn kém, xen lẫn cả mê tín dị đoan . Chính vì vậy, việc xây dựng làng văn hóa là nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị của văn hóa làng, phát huy tính tích cực của nó. Văn hóa làng vừa là kết quả hoạt động của những con người ở làng, đồng thời là môi trường, động lực làm cho từng thành viên trong cộng đồng làng giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp tục tạo ra những giá trị văn hóa tiên tiến. Và, chỉ khi đó làng văn hóa mới thực sự khẳng định vai trò góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cơ chế thị trường, làm động lực phát triển nông thôn ở nước ta hiện nay. Quảng Nam cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước đã và đang thực hiện chủ trương xây dựng làng văn hóa. Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam tuy mới được chú trọng từ khi tái lập tỉnh (1997), song đã đóng góp một phần tích cực vào nhiệm vụ chính trị của địa phương, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình hưởng ứng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ những vướng mắc về lý luận và thực tiễn, chưa tạo ra được những mô hình đảm bảo chắc chắn và phù hợp với từng miền, vùng dân cư, diện của phong trào còn hạn chế . Xác định tầm quan trọng và tính bức thiết hiện nay của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu "Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp, nhằm nhận diện và phân tích rõ hơn đặc trưng văn hóa làng, đặc sắc văn hóa làng Quảng Nam và công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Lý luận và thực tiễn xây dựng làng văn hóa không hoàn toàn mới xét ở bình diện cả nước. Nhiều công trình đã được công bố với các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa như: "Văn hóa làng và làng văn hóa" của GS.TS Nguyễn Duy Quý, PGS.TS Thành Duy và PGS Vũ Ngọc Khánh; "Văn hóa làng và sự phát triển" của GS.TS Nguyễn Duy Quý; "Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội" của GS. Phan Đại Doãn; "Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay" của Tô Duy Hợp; "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" của tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; "Mô hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay" của Thu Linh; "Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng" của Tô Duy Hợp; "Tín ngưỡng làng xã" của PGS Vũ Ngọc Khánh; "Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam" của Toan Ánh; "Hương ước hồn quê" của Toan Ánh; "Bản sắc văn hóa làng trong xây dựng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ" của TS. Lê Quý Đức . Ở những công trình trên, các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất ở làng xã. Nhiều tác giả đã đề cập đến hội làng, nếp sống, phong tục, tôn giáo, sân khấu dân gian, văn hóa nghệ thuật dân gian . Một số chuyên luận không những có ý kiến nhận xét về di sản của làng xã, về các mặt kinh tế - xã hội, văn hóa; mà còn nêu lên những điểm tích cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá trình dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, đối với tỉnh Quảng Nam đây là vấn đề tương đối mới vì cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam mới được phát động vào ngày 12/7/1997 với Chỉ thị 04/CT-TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy. Do vậy, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống dưới dạng một luận văn khoa học giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề giữa lý luận và thực tiễn xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng làng văn hóa trong xu thế phát triển toàn diện ở nước ta nói chung và ở Quảng Nam nói riêng; đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước. Nhiệm vụ của luận văn: - Xác định rõ khái niệm văn hóa làng và làng văn hóa làm cơ sở lý luận chung cho toàn bộ luận văn. - Khảo sát các làng văn hóa ở Quảng Nam, tiến hành phân loại và rút ra những đặc trưng của văn hóa làng và làng văn hóa Quảng Nam. - Đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay. 4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn Xây dựng làng văn hóa là một nội dung lớn trong sự nghiệp chung của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh hiện nay, do đó có rất nhiều vấn đề mới cần đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ văn hóa, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa (chủ yếu tập trung nghiên cứu làng người Việt - đại diện tiêu biểu nhất của làng Việt Nam); phân tích thực trạng xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam và đề xuất các phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng làng văn hóa và đời sống văn hóa cơ sở ở Quảng Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. 5. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa. - Phân tích cơ sở lý luận chung về xây dựng làng văn hóa trong thời kỳ CNH, HĐH. - Thuyết minh có căn cứ khoa học về sự tiếp nối biện chứng từ di sản văn hóa làng đến việc xây dựng làng văn hóa trong bối cảnh hiện nay. - Bổ sung một số quan niệm về làng văn hóa và công tác xây dựng làng văn hóa. - Tiến hành phân loại và rút ra những đặc trưng cơ bản của văn hóa làng và làng văn hóa ở Quảng Nam. - Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam nói riêng và ở nước ta nói chung. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở . 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu là phương pháp điều tra, điền dã, phân tích khảo cứu, phương pháp diễn giải và quy nạp, phương pháp so sánh, đối chiếu . trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn khách quan. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có nội dung gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa. Chương 2: Làng và văn hóa làng Quảng Nam. Chương 3: Thực trạng công tác xây dựng làng văn hóa và phương hướng, giải pháp đẩy mạnh công tác xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay.

doc148 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4571 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đòi hỏi vừa phải có sự phấn đấu nỗ lực của từng địa phương vừa phải có sự quan tâm đầu tư đúng mức của Nhà nước, tỉnh, huyện và các ngành chức năng về cơ sở vật chất, thiết chế hạ tầng cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho các vùng sâu, vùng xa có cơ hội triển khai xây dựng làng, bản văn hóa. Điều đó có nghĩa là, đầu tư cho văn hóa trước hết phải đầu tư cho cơ sở; từ mỗi làng (thôn, bản) cụ thể, từ tình hình thực tiễn cũng như yêu cầu bức thiết về các mặt của mỗi vùng dân cư cần có phương pháp thích ứng để trong một thời gian không dài nữa chúng ta xác lập được sự cân bằng về các mặt giữa các vùng ở Quảng Nam. 3.4.5. Tiếp tục tìm tòi và áp dụng các nội dung và hình thức hoạt động thích hợp; xây dựng được những mô hình hoạt động mới, phù hợp với đặc thù ở từng làng, từng khu vực ở địa phương Báo cáo tổng kết công tác văn hóa thông tin năm 1996 của Bộ Văn hóa - thông tin về công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có viết: "Các địa phương tiếp tục tìm tòi và áp dụng các hình thức hoạt động thích hợp với cơ sở ở từng vùng, từng khu vực, địa phương"; điều này chứng tỏ việc xác định mô hình hoạt động, nội dung và tiêu chí cụ thể để xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở nói chung và ở làng văn hóa nói riêng là một việc hết sức khó khăn. Thực tế này cũng đang diễn ra ở Quảng Nam, đặc biệt là ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhiều địa bàn chưa tìm được mô hình cụ thể, phương pháp hoạt động và kinh phí để tổ chức hoạt động nên hoạt động văn hóa ở nhiều làng quê trở nên buồn tẻ và đơn điệu. Do vậy, để tăng cường hiệu quả công tác xây dựng đời sống văn hóa ở các làng cần phải chỉ ra những nội dung cơ bản; những mặt hoạt động thiết thực có khả năng động viên mọi người, tích cực tham gia xây dựng làng văn hóa. Ở Quảng Nam, trong thời gian tới cần phải đặc biệt chú trọng các hoạt động sau: - Hoạt động nghệ thuật quần chúng phải đảm bảo để quần chúng tham gia một cách tích cực và thực sự trở thành chủ thể sáng tạo. Điều này nhằm khẳng định rằng, quần chúng nhân dân không phải chỉ là người hưởng thụ nghệ thuật mà còn là người sáng tạo nghệ thuật. Dưới góc độ tiếp cận này có thể lấy làng Đại Bình làm điển hình để triển khai. Hát đối đáp, hát bài chòi... ở Quảng Nam là những loại thể rất dễ phát huy tác dụng dưới mô thức này. Đời sống tinh thần của nhân dân chỉ thực sự được nâng lên khi họ có đủ điều kiện và khả năng để tham gia vào hoạt động nghệ thuật. Quần chúng không chỉ có nhu cầu thưởng thức mà còn có nhu cầu hoạt động sáng tạo. Những tác phẩm nghệ thuật quần chúng thường phản ánh sát thực cuộc sống thường nhật của họ như: ươm tơ, dệt lụa, chèo đò, gặt hái, cày bừa...Vì thế, nhờ những hoạt động nghệ thuật này mà đất Quảng cho đến bây giờ còn lưu giữ được những bài vè, dân ca, hát bội, bài chòi, đối đáp...rất có giá trị và tiếp tục lưu truyền trong môi trường xã hội. Mặt khác, cũng chính từ phong trào nghệ thuật quần chúng có thể chọn được nhiều hạt nhân tích cực cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Thực tiễn cho thấy, hoạt động nghệ thuật quần chúng ở nơi nào mạnh thì các tệ nạn xã hội cũng giảm mạnh, các giá trị tích cực của văn hóa làng sống dậy. Do vậy, các hình thức hoạt động như: hát cho nhau nghe (Đại Bình); hát cho chúng mình nghe (Hà Trung), đi ba bước làm một bài thơ (Châu Lâu)... là những mô hình sáng tạo cần tiếp tục phát huy và nhân rộng ra trong phạm vi toàn tỉnh trong thời gian tới. - Đặc biệt chú trọng xây dựng nếp sống văn minh trong cộng đồng dân cư, xây dựng gia đình văn hóa là một nội dung hết sức thiết thực đòi hỏi phải làm thường xuyên và triển khai ở mọi cấp, mọi ngành, mọi gia đình. Thực tiễn ở Quảng Nam cho thấy, trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phong trào xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa của tỉnh đã góp phần tích cực vào việc xây dựng cuộc sống mới, con người mới. Nhiều địa phương đã chủ động trong việc đề ra qui ước gia đình, tộc họ nhằm xây dựng nếp sống văn minh tiến bộ. Tuy nhiên, phong trào xây dựng nếp sống văn hóa phát triển không đồng đều và chưa sâu rộng. Nếp sống văn hóa chưa trở thành phổ biến, có những hiện tượng tiếp thu văn hóa lai căng và kế thừa văn hóa truyền thống thiếu chọn lọc. Các hủ tục, mê tín, dị đoan ở một số nơi có xu hướng phục hồi. Nhiều nơi việc cưới tổ chức phô trương, đua đòi; việc tang tổ chức phúng viếng linh đình, lãng phí thời gian và tiền bạc, làm cho xã hội quan tâm lo lắng. Những sinh hoạt như tổ chức sinh nhật, mừng thọ, lên đồng, gọi hồn... đang diễn ra ở một số nơi ở các làng quê. Vấn đề này cần sớm có các giải pháp khắc phục. 3.4.6. Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ở nông thôn Quảng Nam Để thực hiện Chỉ thị 27/CT-TW ngày 12/1/1998 của Bộ chính trị - Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII); Chỉ thị 14/1998/CT-TTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 04/1998/TT-B,VHTT ngày 11/7/1998 của Bộ VHTT về "thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội"... các sở, ban, ngành cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, xã ở Quảng Nam cần kết hợp với Ban chỉ đạo xây dựng làng văn hóa tổ chức thực hiện tốt một số việc sau đây nhằm khắc phục các lệch lạc trong việc cưới, việc tang, lễ hội. a) Tổ chức quán triệt nội dung Chỉ thị 27/CT-TW của Bộ chính trị, Chỉ thị 14/1998/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ đến cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Xây dựng chương trình phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể tổ chức đợt vận động rộng rãi trong nhân dân thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, bài trừ mê tín, dị đoan. Cuộc vận động này gắn bó chặt chẽ với cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa; làng (thôn, bản) văn hóa theo tinh thần Chỉ thị 04/CT-TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam. b) Ở các làng xã có chương trình cụ thể thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới xin, việc tang, lễ hội và bài trừ mê tín dị đoạn theo hướng dẫn của ngành văn hóa - thông tin. Chính quyền ở các xã thông qua việc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và trên cơ sở hướng dẫn của ngành VH-TT xây dựng qui ước cụ thể sát hợp với hoàn cảnh của từng địa phương, đáp ứng tốt nhu cầu về đời sống tinh thần của đông đảo nhân dân. c) Các cơ quan thông tấn, báo chí, văn hóa thông tin thường xuyên tuyên truyền cuộc vận động bằng các hình thức phong phú, cổ vũ gương người tốt việc tốt trong việc xây dựng nếp sống văn hóa; phê phán các hiện tượng không lành mạnh, trái với đạo đức, truyền thống trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Các ngành thuộc khối nội chính tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật. Kiên quyết xử lý các tụ điểm đồng bóng, bói toán, làm lành mạnh môi trường văn hóa xã hội, bài trừ triệt để việc lưu hành, phổ biến, buôn bán các loại ấn phẩm mê tín, dị đoan, văn hóa phẩm đồi trụy, phản động. Sở Văn hóa Thông tin cần nghiên cứu hướng dẫn việc cưới, việc tang, lễ hội theo tinh thần Thông tư hướng dẫn của Bộ Văn hóa Thông tin sát hợp với thuần phong mỹ tục của từng vùng trong tỉnh. Đời sống văn hóa ở cơ sở rất phong phú và đa dạng. Chính vì thế, việc loại trừ những hiện tượng đi ngược lại những giá trị văn hóa truyền thống; tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị của văn hóa làng là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, những con người sống trên mảnh đất " địa linh nhân kiệt" của xứ Quảng với đức tính cần cù, chân thật và thông minh sẽ phấn đấu tạo dựng cho chính mình và cộng đồng một cuộc sống ấm no hơn, hạnh phúc hơn, tạo lập nhiều hơn những làng văn hóa ở Quảng Nam trong thời gian tới. 3.5. NHỮNG KIẾN NGHỊ 3.5.1. Đối với Trung ương - Cần sớm ban hành các chính sách về cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính phục vụ cho cuộc vận động xây dựng làng văn hóa và "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Hiện nay, từ tỉnh đến xã Ban chỉ đạo xây dựng làng văn hóa đều do một đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch làm trưởng ban; trong khi đó Trung ương lại giao cho Bộ văn hóa thông tin mà trực tiếp là Cục văn hóa thông tin cơ sở chỉ đạo phong trào. Điều này chưa nói đến tính hiệu lực pháp lý, chỉ tính riêng khả năng chủ động phối hợp với các ngành, đoàn thể trong quá trình chỉ đạo cuộc vận động đã xuất hiện những khó khăn chưa giải quyết được. Chính vì vậy, trong thời gian tới Trung ương tiếp tục nghiên cứu quá trình phân bổ cán bộ để cơ cấu cán bộ chỉ đạo cuộc vận động xây dựng làng văn hóa thống nhất từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã; tạo ra một "guồng máy" vận hành đồng bộ và hài hòa nhằm " sản xuất" ra được nhiều những sản phẩm có chất lượng, phục vụ một cách thiết thực nhất cho cộng đồng. Mặt khác, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng của đời sống văn hóa cũng như từng bước chuyên môn hóa cán bộ làm công tác xây dựng làng văn hóa; đề nghị Chính phủ nghiên cứu, xem xét giải quyết để có định biên chuyên trách cụ thể và kế hoạch đào tạo cán bộ một cách qui mô, kịp thời đáp ứng lực lượng cán bộ phục vụ phong trào trong thời gian tới. - Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa là một phong trào có qui mô lớn, lâu dài; có tầm quan trọng đặc biệt đối với xã hội; vì vậy đề nghị Chính phủ xem xét đưa cuộc vận động này trở thành chương trình mục tiêu quốc gia, kèm theo cơ chế vận hành, điều kiện về tài chính ngân sách phù hợp để cuộc vận động đạt nhiều kết quả tích cực hơn trong đời sống nhân dân. Đề nghị Ban chỉ đạo Trung ương nghiên cứu, xem xét để ban hành danh hiệu Làng văn hóa cấp Trung ương khi hiện nay đã có danh hiệu làng văn hóa cấp tỉnh - huyện - xã; nhằm khẳng đinh được tầm vóc thực sự của cuộc vận động, kịp thời động viên nhân dân ở các làng hoạt động có hiệu quả, tạo điều kiện nhân rộng phong trào dưới cả hai góc độ: chiều rộng và chiều sâu. 3.5.2 Đối với tỉnh Quảng Nam - Để thúc đẩy nhanh, mạnh cuộc vận động xây dựng làng văn hóa; đề nghị ngành văn hóa - thông tin tham mưu cho UBND tỉnh tổ chức hội thảo xung quanh chủ đề: " Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam" tập hợp trí tuệ của những nhà khoa học trong tỉnh và trong cả nước. Trên cơ sở đó rút ra những vấn đề lý luận và thực tiễn sâu sắc, giải quyết tình trạng lúng túng, nôn nóng trong quá trình xây dựng làng văn hóa. Bên cạnh đó, tiếp tục tiến hành qui hoạch, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ theo yêu cầu cấp bách của cuộc vận động hiện nay của tỉnh. Trong thời gian tới, đề nghị giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu cán bộ ở một số địa bàn hoặc thừa cán bộ nhưng lại thiếu chuyên môn nghiệp vụ như đã xảy ra trong thời gian qua. Khắc phục tình trạng cán bộ kiêm nhiệm nhiều việc hoặc thay đổi công tác liên tục, không ổn định, gây khó khăn cho việc chỉ đạo, kiểm tra trong công tác xây dựng làng văn hóa. - Đề nghị Sở Văn hóa - thông tin kết hợp với các nhà khoa học tiến hành khảo sát, tập hợp lại toàn bộ các giá trị văn hóa làng truyền thống ở Quảng Nam và cho biên soạn để phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Công việc này một mặt góp phần tái hiện lại bản sắc văn hóa của địa phương trong môi trường xã hội hiện đại; mặt khác, đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng làng văn hóa đã và đang diễn ra ở Quảng Nam. KẾT LUẬN Văn hóa làng Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng vốn là cái nôi bảo tồn, lưu truyền văn hóa dân tộc; là nơi ẩn chứa sức mạnh truyền thống, tinh thần nhân bản, sắc thái địa phương. Xây dựng làng văn hóa trên những giá trị tích cực của văn hóa làng là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Xây dựng làng văn hóa hôm nay chính là sự tiếp nối những giá trị văn hóa nhân bản của cha ông bắt nguồn từ văn hóa làng. Truyền thống "mỹ tục khả phong" thời trước được tiếp nối bằng làng văn hóa hôm nay là biểu hiện của một dân tộc văn hiến. Làng văn hóa là nội dung văn hóa mới mà mỗi cộng đồng làng hiện nay ở nước ta đang thực hiện, trên cơ sở phát huy những tinh hoa của văn hóa làng truyền thống, thích ứng với sự phát triển mới về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Văn hóa làng ngày xưa vô cùng phong phú và đa dạng. Vì vậy ngày nay xây dựng làng văn hóa cũng không thể có một khuôn mẫu thống nhất. Tùy theo điều kiện hoàn cảnh mỗi làng mà có những quy ước, hương ước văn hóa mới, những phương cách, những mô hình xây dựng làng văn hóa phù hợp; xây dựng gia đình ấm no hòa thuận, làng xã sạch đẹp yên vui hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" theo định hướng XHCN. Ngày xưa, cha ông ta nghìn đời xây dựng, sống với văn hóa làng, lấy đó làm điểm tựa, niềm tin để trụ vững và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Ngày nay, xây dựng làng văn hóa trong bối cảnh CNH, HĐH; tiếp thu văn hóa hiện đại, tiên tiến thế giới, đồng thời bảo tồn phát huy tinh hoa văn hóa cổ truyền dân tộc là nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và Nghị quyết đại hội IX về xây dựng ở nước ta một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng làng văn hóa là cuộc vận động phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa ở nông thôn nước ta hiện nay. Nó góp phần tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao để xây dựng đời sống văn hóa và thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Với những kết quả đạt được ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng làng văn hóa, Quảng Nam trong thời gian tới cần phát huy nội lực để xây dựng được nhiều làng văn hóa, nhiều gia đình văn hóa hơn nữa, để làng văn hóa thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy trong đời sống tinh thần của nhân dân các làng quê. Chỉ có vậy, làng văn hóa mới có thể trở thành cầu nối vĩnh hằng, bảo lưu và phát huy các giá trị làng văn hóa xứ Quảng trong thời đại mới. Trong xu thế vận động chung cùng với cả nước, Quảng Nam từ nay đến năm 2005: "Tiếp tục đưa các hoạt động văn hóa thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc; phát động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình, bản, làng văn hóa; tiến tới hoàn chỉnh hệ thống thiết chế văn hóa bằng nguồn lực Nhà nước và mở rộng xã hội hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người. Phấn đấu 80% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa; 50% làng xóm, khu phố đạt chuẩn văn hóa quốc gia; 78% xã phường có nhà văn hóa; bình quân mỗi người dân có 4 bản sách/năm" [26, tr. 297]. Văn hóa càng thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống và hoạt động của xã hội và của con người thì khả năng trở thành là nền tảng, động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên thiết thực và vững bền. Và, trong thời gian tới, con người xứ Quảng chắc chắn sẽ nỗ lực phấn đấu không ngừng để văn hóa thực sự hóa thân trong mọi người trong làng; nhân lên trong họ niềm say mê sáng tạo những giá trị văn hóa mới để làm nhịp cầu kết dính một cách hiệu quả nhất quá trình xây dựng làng văn hóa của quê hương mình với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Toan Ánh (1999), Hương ước hồn quê, Nxb Thanh niên. Toan Ánh (1992), Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Huỳnh Thanh Ân (1997), Ý kiến trao đổi về công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, Nxb Hà Nội. Ban Nông nghiệp Trung ương (1991), Kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay, tập 3, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội. Vũ Văn Biên (1999), Văn hiến làng xã vùng đất tổ Hùng Vương, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam và Sở Văn hóa thông tin thể thao tỉnh Phú Thọ xuất bản, Hà Nội. Trần Văn Bính (chủ biên) (1996), Văn hóa dân tộc trong quá trình mở cửa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Bính (chủ biên) (1997), Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Bính (chủ biên) (2000), Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Văn hóa - Thông tin (1993), Hội nghị - Hội thảo về lễ hội, vụ văn hóa quần chúng và thư viện. Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (1992), Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Hà Nội. Bộ Văn hóa - Thông tin (1997), Một số vấn đề xây dựng làng, ấp văn hóa hiện nay, Hà Nội. Bộ Văn hóa - Thông tin (1998), Tín ngưỡng - mê tín, Nxb Thanh niên. Nguyễn Văn Bổn (Chủ biên) (2001), Văn học dân gian Quảng Nam, Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Nam. Chỉ thị số 24/1998/TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, qui ước làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Vũ Chước (1995), Biển và nghề biển ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Hội đồng hương Quảng Nam - Đà Nẵng tại thành phố Hồ Chí Minh. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xưng, Trần Xán (1984), Đại Nam nhất thống chí, Nguyễn Tạo dịch, Nxb Văn hóa. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 30/CT/TW 18/2/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết 06 ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bùi Xuân Đính (1993), "Một vài suy nghĩ về hiện tượng: "tái lập hương ước" ở nông thôn hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 6-7. Bùi Xuân Đính (1993), "Lệ làng và sự phát triển kinh tế hàng hóa", Xã hội học, (4), tr. 40-42. Bùi Xuân Đính (1995), Lệ làng và phép nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Bùi Xuân Đình (2000), "Hương ước và pháp luật", Văn hóa dân gian, (1). Lê Quý Đức, (2001), "Bản sắc văn hóa làng trong xây dựng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ", Văn hóa nghệ thuật, (6). Phùng Tấn Đông (1998), "Hát bả trạo Cầu Ngư, một nhu cầu văn hóa tâm linh", Văn hóa Quảng Nam, (8). Trần Văn Giàu (1996), Các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Diệp Đình Hoa (1993), Làng Nguyễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Diệp Đình Hoa (1990), Tìm hiểu làng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Thái Văn Hòa (chủ biên) (1996), Quảng Nam - Đà Nẵng xưa và nay, Nxb Đà Nẵng. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hỏi và đáp về xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tô Duy Hợp (2000), Nông thôn trong bước quá độ sang kinh tế thị trường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tô Duy Hợp (Chủ biên) (2000), Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Huy - Trường Lưu (1990) Bản sắc dân tộc của văn hóa, Viện Văn hóa, Hà Nội. Vũ Ngọc Khánh (1994) Tín ngưỡng làng xã, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (1993), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Khiêu (1996) Vai trò của văn hóa trong sự phát triển của nông thôn Việt Nam ngày nay, Ủy ban thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa của Việt Nam, Hà Nội. Lê Văn Liêm (1994), "Về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn", Sinh hoạt lý luận, (2). Lê Văn Liêm (1997), "Kinh nghiệm rút ra từ mô hình "làng văn hóa, gia đình văn hóa" ở tỉnh Quảng trị", Công tác tư tưởng văn hóa, (12). Lê Văn Liêm (1997), Du lịch lễ hội và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái", Thông tin môi trường, (2). Lê Văn Liêm (1998), "Ô nhiễm môi trường xã hội - một vấn đề cấp thiết", Hoạt động khoa học, (5). Thu Linh (1994), "Mô hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 46-48. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Long - Trần Hiệp (1993), Tâm lý cộng đồng làng và di sản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. F. May-ơ (1993), "Ban đầu và cuối cùng là văn hóa", Người đưa tin UNESCO, (10). Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000) Về các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Sơn Nam (1994), Đình miếu và lễ hội dân gian, Nxb Đồng Tháp. Hữu Ngọc (1989), Tên làng xã Việt Nam cuối thế kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Hoàng Anh Nhân (1996), Văn hóa làng và làng văn hóa xứ Thanh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Hoàng Anh Nhân - Lê Huy Trâm (1993), Khảo sát văn hóa làng xứ Thanh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nhiều tác giả (1999), Bảo An đất và người, Nxb Đà Nẵng. Nhiều tác giả (1998), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Nhiều tác giả (1998), Gò Nổi đất học, Nxb Đà Nẵng. Nhiều tác giả (1997), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nhiều tác giả (1997), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nhiều tác giả (1995), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội. Nhiều tác giả (1996), Văn hóa và sự phát triển các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Nguyễn Hồng Phong (1996), Xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Dương Bá Phượng (2001) Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trương Đình Quang (1997), "Nghe rao trống chiến, không khiến cũng đi", Văn hóa Quảng Nam, (1). Đào Duy Quát (chủ biên) (2000), Công tác tư tưởng văn hóa ở cấp huyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Duy Quý (1998), "Văn hóa làng và sự phát triển", Tâm lý học, (4), tr. 1-4. Nguyễn Duy Quý, Thành Duy, Vũ Ngọc Khánh (1996), Văn hóa làng và làng văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Sở Văn hóa Thông tin và Thể thao Quảng Nam (11/1997), Một số vấn đề về xây dựng thôn - bản văn hóa. Sở Văn hóa thông tin Quảng Nam (1998), Chương trình hành động xây dựng làng văn hóa. Sở Văn hóa thông tin Quảng Nam (2000), Công tác xây dựng đời sống văn hóa. Hà Văn Tấn (1989), Làng, liên làng và siêu làng - Mấy suy nghĩ về phương pháp, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Minh Thảo - Trần Văn An (1997), Thành hoàng Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Phạm Văn Tích (2000), "Đánh bắt và tái tạo tài nguyên thủy sản tỉnh Quảng Nam", Thông tin - công nghệ và môi trường Quảng Nam, (1). Tỉnh ủy Quảng Nam (2000), Công tác xây dựng đời sống văn hóa, Sở Văn hóa thông tin Quảng Nam xuất bản. Tỉnh ủy Quảng Nam (2001), Sổ tay tuyên truyền, Ban Tuyên giáo xuất bản. Hồ Hữu Thọ (1999), Lệ làng Việt Nam, Nxb Hà Nội. Trần Hữu Tòng (1997), Một số vấn đề về xây dựng làng - ấp văn hóa hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tổng kết, đánh giá hai năm thực hiện chỉ thị 04/CT-TU về "Xây dựng thôn - bản văn hóa, gia đình văn hóa" của Ban chỉ đạo nếp sống văn hóa Quảng Nam. B. Tylor (2001), "Văn hóa nguyên thủy", Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội. Tổng cục thống kê (2000), Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, Nxb Thống kê, Hà Nội. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa - Khái niệm và thực tiễn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Trần Từ (1989), Cơ cấu làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Ủy ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa - Viện KHXH Việt Nam - UBQG UNESCO của Việt Nam (1993), Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Dân tộc - Văn hóa - Tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Quảng Nam lần thứ XVIII (2001), Nxb Đà Nẵng. Văn phòng Ban nếp sống mới Trung ương (1999), Hội hè Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc. Hoàng Vinh (1999), Lý luận văn hóa, Trường Cao đẳng văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề lý luận về văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Sĩ Vịnh (Chủ biên) (1993), Tìm về bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật xuất bản, Hà Nội. Hồ Sĩ Vịnh (1993), "Văn hóa vì con người", Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội. Viện dự báo và chiến lược khoa học và công nghệ (1993), Mấy suy nghĩ về môi trường kinh tế - xã hội cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Mác - Lênin (1983), Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. Viện xã hội học - Khoa xã hội học thuộc Đại học Gothenburg Thụy điển (1991), Những nghiên cứu xã hội học và gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Văn hóa (1985), Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Vụ Văn hóa quần chúng (1991), Đời sống văn hóa ở cơ sở - Thực trạng và những vấn đề cần giải pháp, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy nghĩ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, Xây dựng làng văn hóa mới ở Hà Bắc (1991), Sở Văn hóa thông tin Hà Bắc xuất bản. Phụ lục 1 QUY ƯỚC THÔN VĂN HÓA (Thôn Hà Trung - xã Cẩm Nam - thị xã Hội An - tỉnh Quảng Nam) Soạn thảo 7/1997 PHẦN MỞ ĐẦU Thôn Hà Trung có lịch sử hình thành, phát triển gắn liền với quá trình khai hoang, chiêu dân lập ấp của các vị thủy tổ, tiền hiền làng Cẩm Phô, từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVII. Theo lời người xưa để lại, nơi đây ngày trước là một bãi đất bồi hoang sơ đầy lau lách... có tên gọi là cồn Tân Bồn. Mưa gió. lũ lụt xói lở cắt đôi cồn Tân Bồi. phía bên Bắc Cồn có tên là Bắc Ngạn rồi đổi thành Hà Trung. Diện tích còn lại ngày nay chỉ bằng một phần nhỏ ngày trước. Do nhiều biến cố thiên tai, địch họa nên các sổ sách ghi chép bị thất lạc. Đến đời nay, chúng ta chưa có điều kiện xác định được người có công đầu tiên dựng ấp lập thôn. Nhưng rõ ràng, Hà Trung đã tồn tại, phát triển ít nhất trên 400 năm nay. Suốt bấy năm qua, tuy thôn ấp không có người đỗ đạt khoa bảng, cùng chẳng có người làm quan, làm tướng. Nhưng lớp lớp nhân dân Hà Trung luôn có mặt trong các cuộc đấu tranh chống áp bức, phong kiến, chống đế quốc xâm lăng, góp phần cùng cả nước làm nên một Việt Nam độc lập, tự do. Khu vực lăng Ngũ Hành, từ những ngày đầu tháng 8 năm 1945 đã là điểm truyền bá quốc ngữ, là văn phòng Ủy ban cách mạng lâm thời khu Nam Hội An. Những ngày đầu kháng chiến chống Mỹ. Chi bộ thôn do ông Huỳnh Đáng là bí thư đã kịp thời tập hợp quần chúng, lãnh đạo quần chúng bền bỉ đấu tranh đến ngày toàn thắng... Biết bao lớp con em Hà Trung đã ra đi cứu nước, góp phần làm vẻ vang một vùng đất quê hương. Sau ngày thống nhất đất nước, theo con đường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân Hà Trung bắt tay xây dựng lại thôn xóm. No ấm, hạnh phúc đã đến từng nhà, từng ngõ xóm. Từ thực tế cuộc sống, nhân dân Hà Trung hiểu rõ muốn có một đất nước giàu mạnh - công bằng - văn minh, trước hết phải có nhiều gia đình văn hóa, thôn văn hóa. Từ tháng 2 năm 1997, cán bộ nhân dân Hà Trung tiến hành xây dựng thôn mình thành thôn văn hóa. Quy ước thôn ra đời với các điều khoản, chương mục được xây dựng bằng tất cả tấm lòng vì một quê hương đoàn kết - giàu đẹp - văn minh. Nhân dân Hà Trung biết đoàn kết chống thiên tai, địch họa, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, nhất định sẽ đoàn kết để xây dựng một ước vọng thôn văn hóa sớm thành hiện thực. Chương 1 XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA - THÔN XÓM VĂN MINH Điều 1: Tất cả mọi người thôn phấn đấu xây dựng gia đình văn hóa theo 4 tiêu chuẩn như: + Xây dựng gia đình hòa thuận hạnh phúc. + Đoàn kết tương trợ láng giềng. + Giữ gìn thuần phong mỹ tục, chăm lo xây dựng nếp sống văn minh. + Thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Điều 2: Để tỏ lòng tôn kính vì lãnh tụ của dân tộc, mỗi nhà đều có ảnh Bác Hồ đặt ở vị trí trang trọng nhất. Các ngày lễ, tết đều treo quốc kỳ theo thông báo của trên. Hàng năm, cứ 6 tháng và cuối năm mỗi gia đình đều tham gia bình chọn gia đình văn hóa. Phấn đấu hàng năm toàn thôn có ít nhất 70% số hộ được công nhận đạt danh hiệu này. Điều 3: Trong quan hệ làng giếng, lấy ôn hòa, nhường nhịn, lấy tôn trọng, thông cảm lẫn nhau mà xử sự. Không được gây mâu thuẫn, chia rẽ các hộ gia đình, họ tộc, thôn này thôn khác. Điều 4: Phát huy truyền thống tương thân, tương trợ từ xưa nay thôn ta vốn có. Bằng nhiều cách đỡ đần nhau theo nghĩa: "Lá lành đùm lá rách", mỗi năm giảm bớt 5% số hộ nghèo. Không để trong thôn có người nợ nần dây dưa. Điều 5: Mọi người trong thôn đều có trách nhiệm nhắc nhở nhau cùng thực hiện tốt các chương trình dân số, chăm sóc sức khỏe, rèn luyện thân thể. Mỗi nhà có ít nhất phải có một người tham gia các hoạt động thể thao cộng đồng mới được xét gia đình văn hóa. Điều 6: Mọi người trong thôn không tham gia, không chứa chấp các tệ nạn xã hội, không tàng trữ, lưu hành các ấn phẩm văn hóa độc hại. Điều 7: Mọi người phải có ý thức thực hiện đạo lý: "Uống nước nhớ nguồn", bằng cách tốt nhất thể hiện sự quan tâm: "Đền ơn đáp nghĩa". Những người già neo đơn, trẻ em không nơi nương tựa cũng phải được chú ý giúp đỡ. Khi có chủ trương ủng hộ các trường hợp trên thì mọi người tích cực tham gia đóng góp. Điều 8: Mọi người trong thôn có trách nhiệm tham gia đầy đủ, đúng kỳ hạn các quy định đóng góp tiền của theo chủ trương trên quy định. Thanh niên đến độ tuổi nghĩa vụ quân sự phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Khi trong thôn có người nhập ngũ, thôn sẽ tổ chức họp mặt tiễn đưa và tặng quà. Điều 9: Mọi người trong thôn phải tham gia đầy đủ các lần sinh hoạt. Đi họp đúng giờ, ăn bận lịch sự, phát biểu đóng góp đúng trọng tâm. Ngoài các sinh hoạt bất thường, mỗi tháng toàn thôn sẽ họp một lần vào tối 16 âm lịch. Điều 10: Những người sản xuất kinh doanh trong thôn phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Trong mua bán phải lấy chữ "Tín" làm đầu. Nghiêm cấm việc cho vay nặng lãi, làm hàng giả. Điều 11: Các tộc họ trong thôn có nhà thờ (từ đường) nên xây dựng hoàn chỉnh quy ước gia tộc. Con cháu các tộc đã có tộc ước phải tuân theo tộc ước của tộc mình. Chương 2 QUY ĐỊNH GIỖ CHẠP, CƯỚI XIN, TANG TẾ, LỄ HỘI TRONG THÔN Điều 12: Việc giỗ chạp của từng gia đình, tộc phái là những sinh hoạt mang tính truyền thống. Thôn tôn trọng các sinh hoạt này, nhưng lưu ý mọi người nên tổ chức tiết kiệm đừng phô trương lãng phí... để dành tiền của làm những việc cần thiết hơn. Điều 13: Hàng năm, đến ngày 8/2 âm lịch thôn sẽ tổ chức lễ tế Kỳ Yên để tưởng nhớ công đức tiền nhân, đồng thời kết hợp sinh hoạt toàn dân đánh giá quy ước. Việc tế lễ sẽ làm hết sức tiết kiệm, không tổ chức ăn uống lãng phí. Điều 14: Việc tổ chức cưới hỏi trong thôn phải thực hiện theo đúng Luật hôn nhân và gia đình. Tổ chức sao cho phù hợp khả năng kinh tế gia đình, tiết kiệm, văn minh. Các cặp vợ chồng phải hoàn tất thủ tục đăng ký kết hôn ở UBND xã trước ngày cưới. Chủ hộ phải báo cáo với thôn có cam kết không tổ chức ăn uống quá mức, gây say sưa làm mất an ninh trật tự thôn xóm. Điều 15: Khi trong gia đình có người qua đời, chủ hộ hoặc người chủ tang phải kịp thời lập thủ tục báo tử với UBND xã và báo cho thôn biết. Người chế không để quá 48 giờ. Trường hợp chết do các bệnh truyền nhiễm thì phải tuân thủ theo quy định của y tế. Cấm không được tổ chức cầu hồn, soi môi hoặc bất cứ việc làm mê tín nào. Điều 16: Hội trợ tang của thôn có trách nhiệm huy động mọi người trong thôn tam gia đưa người quá cố đến nơi an nghỉ mà không đòi hỏi bất cứ khoản thù lao nào. Tùy theo mức độ tuổi tác của người mất mà thôn sẽ tổ chức đưa tiễn theo nghi thức cổ truyền. Nhân dân trong thôn ngoài việc phúng điếu chia buồn, lúc di quan nên đưa tiễn đông đủ ít nhất phải đến địa phận xã nhà. Điều 17: Hàng năm, vào dịp rằm tháng 7 âm lịch thôn sẽ tổ chức mừng thọ các cụ tròn tuổi 70 - 80 - 90 - 100 trở lên. Việc tổ chức mừng thọ sẽ gọn nhẹ, tiết kiệm nhưng bảo đảm trang nghiêm ấm lòng các cụ. Điều 18: Ngày rằm tháng 8 hàng năm, ban công tác mặt trận thôn đứng ra chủ trì phối hợp với chính quyền và đoàn thể lo tổ chức tết Trung thu cho các cháu đầy đủ, hợp khả năng địa phương. Chương 3 VIỆC KHUYẾN HỌC - LẬP THÂN, LẬP NGHIỆP Điều 19: Mọi gia đình trong thôn phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện để con em mình ở độ tuổi đi học đều được đến trường. Phấn đấu toàn thôn không có trẻ em bỏ học ở độ tuổi cấp I, cấp II. Những người không có điều kiện đến trường thì phải tham gia học các lớp bổ túc đến năm 2005 thì toàn thôn phổ cập cấp II. Điều 20: Thôn tổ chức một phân hội khuyến học, hàng năm đến dịp 2/9 (Quốc khánh) sẽ tổ chức khen thưởng cho các em học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó. Riêng các em thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học, trước ngày nhập trường thôn sẽ tổ chức gặp mặt dặn dò và tặng quà. Điều 21: Thôn khuyến khích các cháu trưởng thành lo lập thân, lập nghiệp. Những người có nghề nghiệp ổn định, kinh doanh cần lao động nên ưu tiên cho các cháu thanh niên, nhất là các cháu đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Phấn đấu đến năm 2000 toàn thôn không có người ở độ tuổi lao động mà không có việc làm. Chương 4 QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HÓA PHÚC LỢI, BẢO VỆ SẢN XUẤT VÀ MÔI TRƯỜNG Điều 22: Mọi người phải có trách nhiệm bảo vệ, tôn tạo di tích lăng ngũ hành, coi đây là tài sản quý báu của toàn thôn. Cấm xâm lấn đất đai, thả súc vật vào ăn cỏ, cấm trẻ em chơi đùa, đá bóng hoặc phơi phóng các loại. Điều 23: Các công trình phục vụ đời sống như trường học, sân chơi thể thao, phòng đọc sách báo, kè chống xói lở, đường giao thông v.v... là tài sản chung của toàn thôn, mọi người phải có trách nhiệm gìn giữ. Cấm lấn chiếm, xây cất, tháo gỡ. Ai vi phạm phải hoàn trả nguyên dạng chức năng công trình, nếu không thực hiện sẽ bị lập thủ tục chuyển trên truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 24: Thôn khuyến khích các hộ chăn nuôi, nhưng phải đầy đủ chuồng trại, không được thả rông phá hoại sản xuất, làm bẩn đường sá. Các vật nuôi phải được tiêm phòng theo quy định của ngành thú y. Nếu để súc vật gây thương tích người khác thì chủ hộ phải lo đầy đủ tiền thuốc men, viện phí, tiền đền bù công lao động cho người bị hại trong suốt thời gian điều trị. Điều 25: Mỗi nhà trong thôn đều phải có thùng đựng rác, hàng ngày xử lý rác bằng cách đốt hoặc chôn, không được đổ ra sông. Cấm vứt rác, đổ nước bẩn, vứt xác súc vật chết ra đường. Điều 26: Tùy theo điều kiện, từng gia đình cố gắng xây dựng một hố xí, giếng ăn hợp vệ sinh. Không phóng uế bừa bãi, không phơi phong các loại ra đường. Hàng tháng toàn thôn dọn vệ sinh một lần vào chiều ngày 14 âm lịch. Chương 5 QUY ĐỊNH BẢO VỆ AN NINH - TRẬT TỰ Điều 27: Mọi người trong thôn sống và làm việc theo pháp luật, có trách nhiệm nhắc nhở giám sát người khác cùng thực hiện. Khi có người tạm trú thì chủ hộ phải kịp thời trình báo với thôn phó phụ trách an ninh, đồng thời phải chịu trách nhiệm các vụ việc do người đó gây nên. Điều 28: Căn cứ theo tính chất nghề nghiệp ở thôn để đảm bảo sức khỏe mọi người, cấm các hoạt động ồn ào sau 23 giờ đêm. Buổi sáng các người có sử dụng xe máy không nên rồ ga, bóp còi inh ỏi làm ảnh hưởng giấc ngủ người khác. Điều 29: Đối với các quán có sử dụng máy hát, các điểm Karaokê đều phải ngừng trước 22 giờ. Các hộ có bán các loại thức uống có men phải có cam kết với chính quyền thôn về giờ giấc. Không bán rượu cho trẻ em dưới 16 tuổi uống. Không bán uống say tại quán mình. Điều 30: Người dùng rượu, bia không được mượn men để gây ồn ào làm ảnh hưởng trật tự thôn xóm, hoặc lăng mạ người khác. Điều 31: Mọi người trong thôn có ý thức tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác. Nhưng kiên quyết không tham gia, chứa chấp hoạt động của các tà đạo, giáo phái chưa được nhà nước công nhận. Chương 6 VIỆC THƯỞNG, PHẠT VÀ CÁC ĐIỀU KHOẢN CHUNG Điều 32: Mọi người trong thôn có trách nhiệm thực hiện mọi điều khoản trong quy ước này. Nếu vi phạm phải chịu các hình thức xử lý từ kiểm điểm trong tổ, kiểm điểm trước toàn thôn, nếu nặng thì chuyển trên truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu làm tốt sẽ được biểu dương toàn thôn hoặc đề nghị lên trên khen thưởng. Điều 33: Các trường hợp khen thưởng hoặc xử lý khuyết điểm phải được họp toàn dân xem xét và quyết định (có văn bản cụ thể). Điều 34: Bản quy ước thôn văn hóa Hà Trung do toàn dân trong thôn đóng góp, xây dựng và cùng thống nhất, được UBND xã Cẩm Nam phê chuẩn. Nếu cần thay đổi phải được toàn dân thảo luận và UBND xã phê duyệt. Hàng năm lấy ngày 8/2 âm lịch để sinh hoạt đánh giá việc thực hiện quy ước. THAY MẶT NHÂN DÂN TOÀN THÔN Đại diện chi bộ Đại diện chính quyền Đại diện mặt trận Đại diện hội người cao tuổi Đại diện thanh niên Nguyễn Sanh Lương Ngọc Hùng Phụ lục 2 TỘC ƯỚC (Soạn thảo lại và chỉnh lý 06/8/1996) Trần Trung Lộc Làng Cẩm Phô, thị xã Hội An, Quảng Nam PHẦN MỞ ĐẦU A. LỊCH SỬ XUẤT XỨ CỦA TRẦN TRUNG TỘC Thủy tổ của Trần Trung Tộc là một trong bốn vị tiền hiền của bốn tộc họ (Trần - Huỳnh - Lê - Nguyễn đã có công lao to lớn trong việc sáng lập ra làng Cẩm Phô cũ (trong đó có xã Cẩm Nam hiện nay) và dựng nên những công trình văn hóa ngày nay đã được Nhà nước công nhận là di tích cổ như: Văn miếu, chùa Viên Giác, mộ Tiền Hiền, ngôi đình làng, nhà thờ tộc... Vị Thủy tổ của Trần Trung Tộc là ông Trần Trung Lộc, quê ở Thanh Hóa. Tước hiệu Phó Đề Đốc Lãnh Thiểm - Lộc Hầu Thủy Cần Thận Công. Năm 1695, hưởng ứng khai hoang đất đai ở phía nam của Chúa Nguyễn, ông đã cùng 3 người kết nghĩa bạn thâm tình của tộc Huỳnh - Lê - Nguyễn vượt qua nhiều gian lao, khó khăn nguy hiểm vào đây và có công thăm dò, khảo sát, khai hoang, chiêu dân, lập ấp. B. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỘC Sau khi đã hình thành làng ấp, ông Trần Trung Lộc về lại quê cũ vận động bà con và đưa gia đình vào làm ăn sinh sống ở đây. Từ đó đến nay, Trần Trung Tộc ngày càng lớn mạnh, sinh đẻ con cháu rất đông. Để tiện việc sinh hoạt, quản lý giáo dục con cháu và hội chạp nên hội đã phân thành 4 phái lớn. C. NHỮNG CÔNG TÍCH CỦA CÁC VỊ TIỀN HIỀN - HẬU HIỀN TRONG TỘC Từ khi hình thành và phát triển tộc họ đến nay, Trần Trung Tộc đã có nhiều vị lập nên những công ích lớn điển hình như: 1. Ông Trần Trung Nhiên và ông Trần Trung Thảo (Hai anh em thuộc đệ Ngũ đội): Những người đã có công lập bộ công điền của làng Cẩm Phô cũ giao cho dân làng canh tác. 2. Ông Trần Trung Lành (Thuộc Đệ Lục đội): Người kiến canh điền bộ đầu tiên của làng. Ông là người rất trung thực, tính thẳng thắn, vô vụ lợi, không dĩ công vi tư, rất gan dạ và có lòng vị tha rất lớn. Noi gương và tỏ lòng biết ơn các tiền bối của Tứ Đại Tộc, ông đã ký lập bộ khai trưng công điền thổ (600 mẫu) để cho mọi người trong làng xã làm ăn sinh sống và phát triển kinh tế. 3. Ông Trần Trung Hóa: Người đầu tiên thi đỗ tú tài của làng. Ông đã đem sở học của mình ra giúp đỡ bà con trong làng xã về mọi mặt và được mọi người trong làng kính yêu. 4. Ông Trần Trung Tri: sinh năm 1830, giữ chức Chánh Tổng Phú Triêm. Với ý thức giác ngộ và lòng yêu dân yêu nước nồng nàn, ông đã lợi dụng chức quyền, tham gia vào Nghĩa Hội và trở thành một nhân vật quan trọng của cụ Nguyễn Duy Hiệu trên địa bàn Hội An. Năm 1887, ông được lệnh chỉ huy một đội nghĩa quân từ Chợ Đồn (Kim Bồng) vượt sông tiến vào Hội An để tiếp viện cho cảnh quân của Nghĩa hội đánh úp đồn lính khố xanh. Khi chiến sự đang quyết liệt, quân Pháp điều thêm một lực lượng lớn vây chặt vòng ngoài, chặn đường rút lui của quân ta. Ông cùng nghĩa quân bị bắt. Ngày 23/3/1887 (tức ngày 29/2 năm Đinh Hợi) ông đã bị chính quyền thực dân phong kiến Quảng Nam xử chém tại ấp Trung Gia Thươnông nghiệp. Miếu thờ của ông do nhân dân góp sức xây dựng nhưng đã bị quân Pháp triệt phá vào năm 1949. Sau đó chùa Bảo Thắng dựng lên trên khu vực miếu nên di tích lịch sử này không còn nữa (trích điểm 3 - chương I - lịch sử đấu tranh của xã Cẩm Nam 1945 - 1975). "... Một cây cổ thụ vững bền. Bốn cháu kiều tùng rực rỡ. Trải qua nhiều thời đại đổi thay, tang thương canh cải, văn tự đã đành thất lạc mà quan niệm nhớ mãi không phai. Suy tôn tiền hiền hậu tiền thì Trần - Huynh - Lê - Nguyễn bia miệng không quên.." (trích gia phả Trần Trung Lộc). D. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ Ý NGHĨA CỦA TỘC ƯỚC - Căn cứ chỉ thị 06 của Ban thường vụ Thị ủy Hội An ngày 26/3/1993 về cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa mới và vai trò đóng góp của các tộc họ trong công cuộc này. - Căn cứ bản dự thảo hướng dẫn soạn thảo tộc ước ban xây dựng NSVM - GĐVH thị xã nhằm giữ gìn phát huy những nét đẹp về văn hóa truyền thống của tộc họ trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay... - Để giữ gìn phát huy những mỹ tục, quy ước tốt đẹp của Tộc đã được lưu truyền nhằm giáo dục con cháu noi gương học tập, sống và giữ gìn thanh danh của tộc đã để lại nhằm góp phần lớn trong công tác xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa mới... Nay Hội đồng Gia tộc Trần Trung Tộc soạn thảo và chỉnh lý lại tộc ước nhau sau: Chương 2 NỘI DUNG CỦA TỘC ƯỚC A. TRUYỀN THỐNG - ĐẠO ĐỨC - KỶ CƯƠNG * Đối với mỗi thành viên 1. Tôn trọng giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của tộc. Chăm lo vun đắp hạnh phúc gia đình, quan hệ dòng họ hòa thuận, đoàn kết thương yêu đùm bọc giúp đỡ nhau cả về tinh thần lẫn vật chất. 2. Luôn nêu cao thanh danh của Tộc, tự trau dồi đạo đức phẩm hạnh. Chấp hành tốt pháp luật nhà nước. Có mối quan hệ với thân tộc, láng giềng và thực hiện tốt nghĩa vụ công dân với cộng đồng xã hội cũng như đối với Tộc. 3. Luôn lễ phép tôn trọng kỷ cương thứ bậc trong tộc họ, cung kính với người trên, khoan hòa với người dưới. Trung thực, hướng thiện biết nghe lời khuyên bảo tốt đẹp của dòng họ. Tích cực sửa chữa lỗi lầm để trở thành người tốt, nêu gương cho lớp trẻ học tập. 4. Thực hiện tốt việc kết hôn ngoài dòng tộc và xem đây như là một biểu hiện đạo đức truyền thống của tộc nói riêng và của dân tộc nói chung. Tự giác thông báo sớm với gia đình khi có quan hệ tình ái hay kết hôn với người mà mình chưa rõ về quan hệ huyết thống. 5. Phải trung thực góp ý hoặc báo cáo với gia đình, phái hoặc tộc khi phát hiện có thành viên trong phái, vi phạm về truyền thống đạo đức, kỷ cương để gia đình, hay phái tộc kịp thời phê phán, uốn nắn, giáo dục. * Đối với gia đình 1. Thực hiện tốt các quy ước về nếp sống văn minh - gia đình văn hóa mới, chăm lo dạy bảo con em giữ vững truyền thống gia tộc, sống đạo đức nhân ái. 2. Cùng với phái, tộc có trách nhiệm dạy dỗ giúp con em thực hiện tốt Tộc ước. 3. Phải thông báo sớm với phái, tộc về việc chọn vợ, gả chồng cho con em mình để phái, tộc sưu tra về mối quan hệ huyết thống, tránh vi phạm việc kết hôn sai trái với đạo lý. 4. Thực hiện tốt chủ trương về dân số kế hoạch hóa gia đình trong việc sinh con đẻ cháu. * Đối với phái - tộc 1. Các bậc trưởng thượng phải sống mẫu mực về đạo đức, phẩm hạnh để con cháu học tập. Luôn nhắc nhở con cháu nói lời hay ý đẹp làm việc tốt để tôn cao thanh danh, uy tín của tộc. Cùng con cháu bàn bạc các việc hệ trọng của Tộc - Phái với tinh thần khoan dung, nhân ái, đoàn kết và phù hợp với sự tiến bộ của xã hội. 2. Tộc họ có trách nhiệm giáo dục lối sống đạo đức cho con cháu. Răn dạy chỉ bảo, giúp đỡ cho con cháu khi bị lầm lỗi, biểu dương những gương sáng của con cháu. 3. Khuyến khích con cháu thực hiện kết hôn đúng với truyền thống đạo lý và Luật hôn nhân gia đình, Luật Dân sự... Xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ, trọng già khinh trẻ... 4. Vận động con cháu trong phái - tộc thực hiện chủ trương về dân số - kế hoạch hóa gia đình. 5. Chăm lo gìn giữ các giềng mối kỷ cương của tộc - phái. Đoàn kết giữa chi phái tộc với tình cảm huyết thống. Tôn trọng các tộc họ láng giềng. Giữ gìn mối đoàn kết giữa các tộc họ. Đặc biệt về quan hệ với tộc Trân Văn (theo di ngôn của ông bà) để xứng đáng với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. B. THỜ PHỤNG - CÔNG ÍCH * Đối với mỗi thành viên 1. Luôn luôn coi trọng việc thờ phụng tổ tiên ông bà là nghĩa cử biểu hiện đạo đức cao quý "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "Cây có cội, nước có nguồn" của dân tộc. 2. Có bổn phận và trách nhiệm thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Tự nguyện tham gia và chấp hành nghiêm túc các sinh hoạt gia tộc, phái theo nề nếp quy định. Luông giữ gìn thuần phong mỹ tục trong các lễ nghi. Cùng gia đình, phái, tộc tổ chức viếng mộ, dâng hương, lễ bái vào các ngày Tết, Xuân Kỳ thu tế, giỗ Tổ, chạp hàng năm, kỳ. 3. Có trách nhiệm góp phần tôn tạo, giữ gìn các công trình thờ tự của phái tộc (nhà thờ, mồ mả...), Tộc phả, Tộc ước... Tham gia đầy đủ việc đóng góp xây dựng quỹ công đức vì những công việc tốt đẹp, tiến bộ mà phái - tộc vận động (quỹ tôn tạo đền tờ, mồ mả, quỹ tương trợ thân tộc, quỹ khuyến học...). 4. Kịp thời thông báo với phái - tộc khi có người thân qua đời để phái, tộc tổ chức phúng điếu, lễ tang đưa đám, không được tự ý làm theo ý muốn của mình. * Đối với tộc: 1. Có bổn phận chăm lo việc thờ tự tổ tiên, thực hiện nghi lễ truyền thống nhưng phải phù hợp với điều kiện xã hội, văn hóa, văn minh hiện nay. 2. Quy định kịp thời lẽ lệ của phái tộc hàng năm, kỳ. Kịp thời thực hiện đúng tập tục tang lễ cho người thân trong tộc do Hội đồng Gia tộc quy định và chịu trách nhiệm (triệu tập ban lễ tang, sắm lễ phúng điếu, lễ nghi đưa đám...). Tích cực chăm lo việc công ích cho dòng họ, tránh xa hoa, lãng phí tiền của... Chú trọng việc tương trợ giúp thân tộc không rơi vào diện đói kém, nợ nần dây dưa, giúp đỡ khi thân tộc gặp hoạn nạn, khó khăn, bần hàn hoặc ốm đau dài hạn... C. HỌC HÀNH - LẬP THÂN - LẬP NGHIỆP * Đối với mỗi thành viên 1. Luôn tự hào với truyền thống hiếu học của tộc quyết tâm chăm học chăm làm để đạt những thành tựu to lớn làm sáng danh cho tộc. 2. Tích cực hưởng ứng việc khuyến học. Tham gia đóng góp công sức và tiền của cho việc khuyến học hoạt động. 3. Luôn trau dồi hoàn thiện ngành nghề của mình, có ý chí vượt khó để thành công. Khi thành đạt không kiêu căng, tự mãn và luôn có ý thức dìu dắt, giúp đỡ mọi người trong phái, tộc tiến bộ. 4. Khi sống xa tộc hoặc tha phương cầu thực vẫn phải luôn có ý thức về cội nguồn như tham gia đóng góp đầy đủ các khoản quỹ do tộc, phái quy định, thường xuyên có thư từ thăm hỏi và báo tin với mọi người trong tộc. * Đối với phái - tộc 1. Có trách nhiệm chăm lo việc khuyến học lập nghiệp, lập thân của mỗi con cháu. Toàn phái hoặc tộc bàn bạc định mức khen thưởng cho người nào đỗ đạt thành tựu tốt đẹp về học hành, lập nghiệp. Dạy bảo, khuyên răn và có biện pháp thích hợp đối với những người nhụt chí, sống thực dụng, thiển cận nhận thức về học tập, lập thân. 2. Lập sổ truyền thống của phái - tộc để ghi nhận biểu dương các công trạng của con cháu mỗi khi thành đạt. Xây dựng quỹ khuyến học để giúp đỡ động viên con cháu có hoàn cảnh nghèo mà hiếu học. Tuyệt đối không để trong phái - tộc có người bị thất học, mù chữ... Chương 3 CÁC ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH 1. Nếu mỗi thành viên trong tộc vi phạm một trong các điều khoản của Tộc ước: a) Lần thứ nhất: Giao cho gia đình chịu trách nhiệm uốn nắn, giáo dục. b) Lần thứ hai: Đưa ra trước phái kiểm điểm, để phái có biện pháp giáo dục. c) Lần thứ ba: Đưa ra trước tộc để kiểm điểm, cảnh cáo và tự dâng hương khấn nguyện tại nhà thờ tổ tiên và tự hứa sẽ sửa chữa sai lầm. d) Lần thứ 4: Sau nhiều lần được gia tộc khuyên dăn dạy bảo uốn nắn nhưng vẫn tái phạm lỗi lầm cũ thì: - Sẽ không được công nhận còn là một thành viên trong tộc phái. - Riêng đối với các hành vi có liên quan đến an ninh trật tự công cộng, vi phạm pháp luật của Nhà nước thì Hội đồng Gia tộc họp, xem xét lập văn bản đề nghị các đoàn thể, chính quyền xử lý. 2. Thực hiện đúng quy định về việc bầu cử, thành lập và phân công nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng Gia tộc theo nhiệm kỳ 4 năm/lần. Cơ cấu Hội đồng Gia tộc gồm: a) Trưởng tộc: Có trách nhiệm điều hành chung tất cả mọi việc của Tộc, chủ trì mọi cuộc họp Tộc, giỗ Tổ, tu sửa phần mộ tổ tiên, chạp mã tộc. Đồng thời là trưởng ban Khen thưởng - Kỷ luật của tộc. Tham dự các cuộc họp của các phái trong tộc. b) Phó trưởng Tộc: Trợ lý cho trưởng Tộc để điều hành công việc chung. Có trách nhiệm đôn đốc, sắp xếp chương trình cho những ngày tết lễ, chạp mã Tộc. Tổ chức thăm viếng sắm lễ vật phúng điếu, chỉ đạo lễ tang và đưa tang khi trong tộc có người qua đời. c) Thư ký: Ghi chép, lưu giữ các hồ sơ của tộc, ghi chép các biên bản cuộc họp tộc. d) Thủ quỹ: Có trách nhiệm quản lý thu chi thường xuyên các loại quỹ của tộc. Quản lý và chịu trách nhiệm về sự mất còn các tài sản của tộc. e) Ủy viên Xây dựng - Bảo quản Di sản của tộc: Có trách nhiệm chăm nom, bảo quản, tu sửa, xây dựng mới các di sản và công trình thờ phụng của tộc. Kịp thời phát hiện và thông báo ngay cho Hội đồng Gia tộc biết khi có di sản, công trình thờ phụng nào bị hư hỏng, mất mát để Tộc có biện pháp tu sửa, mua sắm lại và phải đền bù các di sản đó nếu do thiếu trách nhiệm. Mỗi phái phải có ít nhất một người bầu vào Hội đồng Gia tộc. Chương 4 KẾT LUẬN Trên đây là nội dung cụ thể của bản Tộc ước của Trần Trung Tộc, Hội đồng Gia Tộc yêu cầu mỗi thành viên, gia đình và phái nghiêm chỉnh thực hiện tốt để góp phần lớn vào công tác xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa mới và giữ thanh danh của tộc ngày càng rạng rỡ. Cẩm Nam, ngày 06 tháng 08 năm 1996. Trần Trung Tộc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVăn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay.DOC
Luận văn liên quan