Việc phun thuốc bằng bình xịt tay đeo trên vai là chủ yếu còn việc sử dụng những
máy phun tự chế gồm có thêm một cái bơm dầu, một bình để trộn và một cái cần
dài gắn với một cái que và một miệng vòi hình nón rỗng có thể điều chỉnh được thì
rất hạn chế. Sự chấp nhận dùng bình xịt bằng máy thì chậm và có lẽ sẽ còn chậm
hơn trên các khu vườn có diện tích nhỏ vì người ta cho rằng chỉ cần một bình xịt
đeo trên vai là đủ và chỉ tốn có một người phun thuốc trong khi dùng máy phun
phải cần đến hai người. Chất lượng của bình xịt tay đeo trên vai cũng thay đổi tuỳ
loại và tiếc là chỉ có một số nhỏ người trồng trọt sử dụng những bình xịt tay bằng
kim loại có chất lượng tốt mà có thể cho áp suất đạt theo yêu cầu. Người dùng
những bình xịt rẻ tiền bằng nhựa thì rất là phổ biến. Những nổ lực nên làm đối với
dự án này là chỉ cho người nông dân hiểu được lợi ích của một bình phun thuốc chất
lượng cao.
16 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2740 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu 036/04VIE: Đánh giá hiệu quả của các lớp huấn luyện nông dân FFS trong việc quản lý dịch hại tổng hợp IPM trên cây có múi tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Chính Phủ Úc
Tổ chức tài trợ AusAID
BÁO CÁO TIẾN ĐỘ
036/04VIE: Đánh giá hiệu quả của các lớp huấn
luyện nông dân FFS trong việc quản lý dịch hại tổng
hợp IPM trên cây có múi tại Việt Nam
MS4: Báo cáo 6 tháng lần thứ hai
1
1. Tóm lược dự án:
Cây có múi là một chủng loại cây ăn trái quan trọng tại Việt Nam nhưng hiện
trạng sản xuất và sản lượng cây có múi đang bị trở ngại bởi một loạt các đối tượng
dịch hạiù quan trọng. Việc quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) được thừa nhận như một
phương pháp kiểm soát dịch hại có hiệu quả và chấp nhận được. Việt Nam có một
Chương Trình Quốc Gia về IPM phát triển rất tốt với sự tham gia của các nông dân
được huấn luyện và nghiên cứu qua các lớp huấn luyện nông dân (FFS). Chương
trình này đã huấn luyện trên 500.000 nông dân về các kỹ thuật IPM trên lúa, rau,
bông vải, trà, đậu nành, đậu phọng, và khoai lang. Dự án này đã là sự khởi đầu cho
việc mở các lớp huấn luyện nông dân trồng cây có múi với 98 huấn luyện viên
tham dự các lớp huấn luyện chủ lực trong các tháng 4 và 5 của năm 2005 và sau đó
những huấn luyện viên này đã hướng dẫn 24 lớp FFS của 12 tỉnh Đồng Bằng Sông
Cửu Long và các tỉnh Duyên Hải miền Trung của Việt Nam. Các nông dân đã tham
dự các lớp FFS hàng tuần suốt trong 21 tuần lễ và cũng đã tham gia trong việc
giảng dạy thông qua các thí nghiệm trình diễn. Việc tài trợ từ bên ngoài ngân sách
dự án đã cho phép tổ chức được các chuyến tham quan cho nông dân ở các tỉnh
Đồng Bằng Sông Cửu Long qua lại các tỉnh lân cận để trao đổi và học tập kinh
nghiệm lẫn nhau, cũng như tổ chức các cuộc hội thảo duyệt xét lại kết quả của dự
án tại 3 địa điểm với sự tham dự của các đại biểu của cả 12 tỉnh có liên quan.
Những thông tin phản hồi của những người tham dự sẽ giúp điều chỉnh các chương
trình huấn luyện cho năm 2006 để tăng tính thích nghi và hiệu quả.
2. Tóm lược liên quan đến việc quản lý và thực hiện kế hoạch
Việt Nam có một Chương Trình Quốc Gia IPM được phát triển rất tốt, đưa đến kết
quả là hơn 500.000 nông dân được huấn luyện về các kỹ thuật IPM đã được ứng
dụng trên lúa, rau, bông vải, trà, đậu nành, đậu phọng, và khoai lang. Trước dự án
này, không có chương trình huấn luyện IPM nào được tổ chức về quản lý cây cam
quýt, dù rằng đây là chủng loại trái cây quan trọng ở Việt Nam. Trong năm đầu của
dự án này, việc thực hiện kế hoạch đã rất hiệu quả là nhờ vào sự nổ lực cao của tất
cả các thành viên trong dự án, kết quả là đã đào tạo được 98 huấn luyện viên chủ
lực từ 10 nhà khoa học chủ chốt, và những huấn luyện viên này đã hướng dẫn thành
công 24 lớp FFS ở 12 Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long và các tỉnh Duyên Hải miền
Trung của Việt Nam. FFS tổ chức tập huấn nông dân hàng tuần và kéo dài 21 tuần
lễ. Các huấn luyện viên đã lên một lịch hoạt động trong suốt chương trình huấn
luyện và những hoạt động này được huớng dẫn đồng bộ tại tất cả các FFS. Các thí
nghiệm trình diễn cũng đã được thực hiện tại 16 FFS. Một cuộc khảo sát trắc
nghiệm về kiến thức thực tiễn cơ bản của nông dân cũng đã được tiến hành tại 15
địa điểm và tất cả những nông dân mà tham gia trong các FFS đều được trắc
nghiệm bằng 52 câu hỏi trước và sau khi tham dự lớp huấn luyện. Các kết quả của
cuộc phỏng vấn nói trên gồm 727 người trước và 694 người sau khi tham dự các
FFS đang được phân tích. Tất cả các phần đã dự trù của khung dự án cho năm 2005
đã được hoàn tất. Hai đầu ra chính đã được dự trù trong khung dự án cũng đã hoàn
2
tất và chính điều này sẽ làm tăng tính thích ứng của dự án đối với cả huấn luyện
viên và nông dân trồng cây có múi một cách có ý nghĩa.
Những chuyến tham quan đã được tổ chức cho các nông dân ở các tỉnh lân cận nhau
qua lại để tham quan học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau được Tổ Chức Úc tài trợ và 3
cuộc hội thảo xem xét lại kết quả những công việc đã thực hiện được trong năm
qua do Công Ty BAYER Việt Nam và Tập đoàn dầu khoáng SK Hàn Quốc tài trợ
giúp cho ban tổ chức có được những phản hồi rất quan trọng về chương trình huấn
luyện trong năm 2005 từ các tham dự viên. Tại các cuộc hội thảo này, mọi người đã
thống nhất rằng chương trình huấn luyện cho năm 2006 phải được điều chỉnh để
làm tăng tính thích ứng và hiệu quả của việc huấn luyện. Các điều chỉnh này gồm
TOT phải được tổ chức sớm trong năm, tăng cường những bài thực hành hơn và FFS
bắt đầu sớm hơn nhưng kết thúc muộn hơn, thời gian mở những lớp học linh động
hơn trong suốt giai đoạn từ lúc cây ra hoa đến thu hoạch nhưng vẫn đảm bảo những
nội dung trong chương trình.
3. Giới thiệu và bối cảnh :
Cây có múi là một trong những chủng loại cây ăn trái chủ lực ở Việt Nam (Bộ NN
& PTNT, 2004) và sản xuất trái cây có múi là một nguồn thu nhập quan trọng của
nhiều nông dân Việt Nam. Tuy nhiên, năng suất và sản lượng trái cây có múi tại
Việt Nam lại khá thấp hơn so với ở Úc và những nước sản xuất cam quýt chủ lực
của thế giới như Braxin và Hoa Kỳ. Bộ Nông nghiệp & PTNT đã chỉ rõ rằng “Nhìn
chung, việc canh tác cây có múi chưa được phát triển lắm trong vài năm vừa qua,
chủ yếu là do bị phá hoại trầm trọng bởi những dịch hại đặc biệt là bệnh vàng lá
Greening (mà còn được gọi là Huanglongbing) và do đó các cuộc khảo sát về
những phương pháp kiểm soát các loại dịch bệnh, kết hợp với việc quản lý vườn
vây có múi và sử dụng những kỹ thuật tiến bộ và chuyên sâu là điều hết sức cần
thiết”.
Các mục tiêu của dự án này là hướng dẫn việc huấn luyện cho những huấn luyện
viên (Training Of Trainers). Đào tạo họ trở thành những huấn luyện viên chủ lực
trong việc huấn luyện IPM trên cây có múi cho nông dân, họ sẽ hướng dẫn những
lớp FFS tại địa phương của họ và qua đó có thể đánh giá được hiệu quả của mô
hình FFS trong việc gia tăng kiến thức cho người nông dân cũng như việc sử dụng
thuốc trừ sâu hợp lý trong canh tác. Những mục tiêu này sẽ góp phần giúp cho
người nông dân có những quyết định tốt hơn trong phạm vi khả năng của họ về việc
quản lý những loại dịch hại thông qua sự chấp nhận chiến lược quản lý dịch hại
tổng hợp IPM trên cây có múi tại Việt Nam. Một khi một mạng lưới những huấn
luyện viên chủ lực về IPM cây có múi được thiết lập và những huấn luyện viên này
thực chất đã có được những kinh nghiệm thực tiễn trong việc huấn luyện IPM cây
có múi qua ít nhất một mùa làm việc với các FFS, Việt Nam sẽ có khả năng nổi bật
đáng kể để phát triển các chương trình IPM trên cây có múi.
Những sản phẩm đầu ra từ dự án huấn luyện IPM được thể hiện trong những hệ
thống mùa vụ khác, bao gồm quyền quyết định của người nông dân nhờ vào kiến
thức về hệ sinh thái nông nghiệp được nâng cao; ý thức bảo vệ tính đa dạng sinh
3
học và bảo vệ môi trường nhờ vào việc giảm sử dụng thuốc trừ sâu đó là kết quả
của việc nâng cao kiến thức về nhận diện sâu bệnh cũng như là những biện pháp
quản lý sâu bệnh đạt hiệu quả; tăng cường an toàn thực phẩm thông qua việc gia
tăng sản lượng; và việc bảo vệ sức khỏe của cộng đồng nông dân và người tiêu
dùng trái cây nhờ vào việc giảm sử dụng thuốc trừ sâu trong việc sản xuất trái cây
Những phương pháp chính được chấp nhận trong dự án này là tham gia dựa trên
việc học hỏi và hành động dựa trên việc nghiên cứu. Mục tiêu của cả hai kỹ thuật
này là để thu hút trọn vẹn những người tham gia và để cho họ nhằm vào việc học
và nghiên cứu để đạt được những nhu cầu của chính họ.
4. Tiến độ thực hiện được cho đến nay:
1. Những điểm nổi bật trong việc thực hiện:
Việc thực hiện thành công của chương trình năm 2005 là đã huấn luyện được 98 Huấn
Luyện Viên huấn luyện rất hiệu quả. Những Huấn Luyện Viên này đã hướng dẫn FFS tại
24 địa điểm ở 8 tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long và 4 tỉnh Duyên Hải Miền Trung của Việt
Nam (Bảng 1). Ngoài ra, Chính Quyền Địa Phương của tỉnh Tiền Giang còn tài trợ để tổ
chức thêm 2 FFS, và 2 lớp FFS nữa cũng đã được cam kết sẽ tổ chức thêm cho năm 2006.
Đây là một sự minh chứng rất có ý nghĩa về tính thích ứng và hữu ích của chương trình
huấn luyện này và người ta mong chương trình FFS này sẽ được tổ chức rộng rãi hơn tại
nhiều địa phương hơn.
Bảng 1: Các địa điểm của FFS
Tỉnh Số FFS
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tiền Giang
Đồng Tháp
Vĩnh Long
Cần Tho
Trà Vinh
Hậu Giang
Sóc Trăng
Bến Tre
DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG
Khánh Hòa
Bình Định
Quảng Nam
Nghệ An
TỔNG CỘNG
3+2*
2
3
3
1
2
1
3
2
1
1
2
___
24
* Được tài trợ bởi chính quyền địa phương
FFS được khởi sự vào tháng 06 và kéo dài 21 tuần lễ liên tiếp, với một lịch hoạt
động được bố trí linh động bởi các Huấn Luyện Viên trong suốt chương trình huấn
4
luyện (xin coi bản báo cáo 6 tháng đầu). Các nhà khoa học chủ chốt trong dự án đã
tham dự lễ khai mạc của 16 FFS và trong những cuộc khai mạc này, một cuộc khảo
sát về kiến thức thực tiễn của nông dân đã được thực hiện và việc giảng dạy cách
làm những thí nghiệm trình diễn cũng đã được thực hiện. Những phát hiện chính
trong cuộc khảo sát kiến thức thực tiễn của nông dân là:
* Có những khác biệt đáng kể trong các hệ thống sinh thái nông nghiệp và đặc
điểm canh tác cây có múi tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và vùng Duyên Hải
miền Trung (gồm cả Tỉnh Nghệ An).
* Các nông dân cần có nhiều kỹ năng hơn nữa trong việc nhận ra sâu bệnh và mối
liên hệ giữa những sâu bệnh này với sự phát triển của cây có múi.
* Việc phun xịt chủ yếu sử dụng các bình xịt tay (đeo trên vai).
* Từ tình hình kinh tế hiện tại và tính không thực tế của các chiến lược phòng trừ
sâu bệnh trước đó như là dự án ACIAR mã số CS2/2000/043 (Phun dầu khoáng) và
dự án CIRAD (quét imidaclorid lên thân) đã dẫn đến một chiến lược mới mà đang
được chấp nhận đó là kết hợp kết hợp những yếu tố của cả hai chiến lược trên mà
hiện taiï đang được người nông dân áp dụng (một lần dùng imidaclorid và sau đó là
phun hai lần dầu khoáng vào mỗi đợt cây ra chồi).
Những chi tiết về việc điều tra phỏng vấn nông dân được trình bày cụ thể trong phụ
lục 1.
Trong tháng 9, Tổ Chức Úc đã đồng ý tài trợ những chuyến tham quan cho nông
dân trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long từ nguồn khác ngoài ngân sách dự án,
và tổng số là 2,494 đô la đã được chuyển cho Việt Nam (phụ lục 2). Những tham
quan của nông dân được tiến hành từ 24 đến 29 tháng 10 với tổng số 540 nông dân
từ 18 FFS trong 8 Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long đi tham quan một FFS ở một
tỉnh khác. Các nông dân từ 7 tỉnh đã đến tham quan ở Huyện Lai Vung, Tỉnh Đồng
Tháp và các nông dân của Huyện Lai Vung đã đến tham quan tại Huyện Cái Bè
của Tỉnh Tiền Giang.
Mục tiêu bổ sung thứ hai về việc tổ chức các cuộc hội thảo đánh giá lại kết quả
công việc đã thực hiện qua một năm triển khai dự án tại Cần Thơ, Mỹ Tho, Vinh
cũng đã được thực hiện vào tháng 11 dưới sự tài trợ của công ty BAYER. Tại các
cuộc họp này, kết quả của các thí nghiệm trình diễn đã được báo cáo bởi các Huấn
Luyện Viên, các chương trình huấn luyện TOT và FFS đã được đánh giá, những
thông tin phản hồi đã được nêu ra và những nội dung của các lớp TOT và FFS cũng
đã được chỉnh sửa (phụ lục 3).
Xây dựng năng lực:
5
PPD có khả năng rất cao trong việc huấn luyện những nông dân tham gia dự án và
dự án này nổi bật hơn nữa là nhờ vào khả năng nhận ra và lấp những khoảng trống
trong kiến thức của nông dân trồng cây có múi bằng những kiến thức chuyên môn
về quản lý sâu bệnh tổng hợp. Suốt trong năm đầu tiên của dự án này, thực tế đã
cho thấy những kỹ năng và năng lực chuyên môn cần thiết thì sẳn có tại các trường
đại học và viện nghiên cứu ở Việt Nam, nhưng ngân sách bị giới hạn ở các cơ quan
địa phương này làm cho sự tiếp cận với những năng lực chuyên môn này nghèo
nàn. Dự án này đã cung cấp một số kinh phí để cho chuyên giaViệt Nam đi du khảo
nhưng không đủ và chúng tôi nhận thấy rằng nên tạo một số quỹ để dùng cho việc
du khảo tại Việt Nam cho các dự án sau này. Tổ chức phía Úc đã cung cấp thêm
tiền du khảo cho tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Cúc thuộc Đại Học Cần Thơ tham quan
Vùng Bờ Biển miền Trung của Việt Nam như đã được mô tả trong bản báo cáo 6
tháng đầu.
Việc tạo ra những kết hợp cũng là điểm then chốt cho việc xây dựng năng lực và
tất cả những nỗ lực đang được thực hiện để xây dựng những liên kết giữa dự án này
và các dự án liên quan khác. Qua phần điều tra khảo sát trình độ canh tác cây có
múi của nông dân cho thấy bệnh Phytophthora đã xảy ra ở mọi vùng và mọi tỉnh
mà chúng tôi đã đến và rằng đây có thể là một vấn đề nghiêm trọng như là bệnh
Huanglongbing. Tuy nhiên, các nông dân thường thường không biết đến vấn đề này
và trong chương trình huấn luyện của TOT của năm 2005, vấn đề bệnh
Phytophthora chỉ là một phần nhỏ trong chương trình mà thôi. Một dự án CARD
khác mang mã số 052/04VIE “Quản lý bệnh Phytophthora trong nghề làm vườn ở
Việt Nam” hiện tại đang hoạt động, Các thành viên UWS đã làm việc với Giáo Sư
David Guest, người Úc đang điều phối dự án bệnh Phytophthora nói trên, để thảo
luận về vấn đề bệnh Phytopthora trên cây có múi. Giáo sư Guest đã cung cấp
những thông tin rất hữu hiệu và cũng cho danh sách các nhân viên Việt Nam có
tham dự trong dự án Bệnh Phytophthora (Phụ Lục 4). Tất cả những thông tin trên
đã được chuyển đến nhóm điều phối dự án, và Ông Hồ Văn Chiến, người tạo ra
những sự kết hợp giữa các dự án. Ông Dương Minh ở Trường Đại Học Cần Thơ
hiện đã tham dự 2 trong 3 cuộc họp đánh gia kết quả của dự án này được tổ chức
vào tháng 12/2005, và ông sẽ tham dự TOT vào năm 2006.
Các chương trình huấn luyện
Việc huấn luyện là một thành phần chủ yếu của dự án này và nó đã được thực hiện
ở hai mức độ vào năm 2005. Tổng số 98 nhân viên PPD có kinh nghiệm đã được
huấn luyện về IPM cam quýt và những Huấn Luyện Viên này đã tổ chức triển khai
một cách hiệu quả được 24 FFS trong các địa phương của họ. Thêm vào số FFS
được tài trợ bởi dự án, Tỉnh Tiền Giang cũng tổ chức thêm 2 FFS do quỹ chính
quyền địa phương tài trợ. Các chi tiết của các chương trình huấn luyện sẽ được thảo
luận trong “Những Điểm Nổi Bật trong việc thực hiện” của dự án này.
6
Việc quảng bá:
Một phát hiện thông qua việc điều tra nông dân ở đầu khoá đó là nông dân sẽ tiếp
nhận được thông tin một cách tốt nhất đó là qua TV bởi vì hơn 90% nông dân có
một TV tại nhà riêng. Mỗi tỉnh ở Việt Nam có một đài truyền hình địa phương và vì
70% dân số sống ở các vùng nông thôn, nên nội dung các buổi phát hình liên quan
đến các vấn đề canh nông rất nhiều. Các phóng viên truyền hình đã được mời tới
dự các buổi sinh hoạt chính của dự án như các buổi hội thảo, các lễ khai giảng và
bế giảng của FFS. Nhiều bản báo cáo trên truyền hình về dự án đã được phát đi
trong năm 2005 và các chi tiết của những báo cáo đó được phát trên đài truyền hình
Quốc Gia VTV, truyền hình Cần Thơ CVTV và truyền hình Vĩnh Long VLTV được
ghi trong bảng 2 dưới đây. Vào tháng 07 và tháng 09, Đài Truyền Hình Tiền Giang
cũng dành 60 phút để phát chương trình “Nhịp Cầu Nhà Nông” trong đó các nông
dân có thể gọi điện đến Đài Truyền Hình để đưa ra những câu hỏi và cách sử dụng
những công nghệ mới trong các vườn cây có múi và các Nhà Khoa Học đều đã trả
lời.
Bảng 2: Các chi tiết về các chương trình truyền hình liên quan đến các hoạt động
của dự án.
Đề mục Tên chương
trình
Thời lượng
của chương
trình (tính
bằng phút)
Ngày phát
hình
Kênh Truyền
Hình
“IPM” một kỹ
thuật mới trong
việc sản xuất
trái cây hàng
hoá.
Các chuyên
đề về Nghề
làm vườn
30 31/08 VTV
Các kỹ thuật để
chăm sóc tốt
các vườn cam
quýt vào cuối
mùa mưa (sử
dụng phân hữu
cơ với
Trichoderma,
và thoát nước
nhanh)
Các chuyên
đề về Nghề
làm vườn
30 26/11 VTV
IPM trên cây có
múi- Các kinh
nghiệm để quản
lý vườn cam
quýt bằng cách
Các chuyên
đề về Nghề
làm vườn
30 15/9 VTV
7
tỉa cành trong
suốt mùa mưa.
IPM trên cây có
múi - Phương
pháp mới để
chăm sóc và
quản lý sản xuất
chất lượng trái
quýt hồng trước
và sau thu
hoạch để “định
hướng tiếp thị”
trong ngày
Tết”.
Nhịp cầu nhà
nông
60 17/11 VTV
IPM - Những kỹ
thuật được áp
dụng trong canh
tác để giảm giá
thành (đầu vào
thấp) cho ngành
sản xuất cây có
múi tại ĐBSCL
Nhịp cầu nhà
nông
70 27/11 CVTV
Phát triển và sử
dụng phân hữu
cơ trong việc
sản xuất nông
nghiệp có xác
nhận
Nhịp cầu nhà
nông.
70 11/12 CVTV
Phòng chống và
xử lý ngập úng
cho các vườn
cam quýt
Chuyên đề
nông nghiệp
15 15/9 CVTV
IPM - tăng
cường hiệu quả
của năng suất
và cải tiến chất
lượng trái cam
quýt bằng cách
sử dụng PSO.
Nhịp cầu nông
gia.
120 9/7 CVTV
IPM trong
chương trình
cam quýt tại
Vĩnh Long của
PPD và WSU.
Bản tường
trình về nông
nghiệp và
nông thôn.
11 20/9 VLTV
8
Bệnh Greening
tấn công Cam
sành và cần
phải mở rộng về
IPM để ngăn
chặn.
Bản tường
trình về nông
nghiệp và
nông thôn.
10 25/10 VLTV
IPM - phương
pháp quản lý tốt
bệnh thối rễ do
Fusarium solani
và thối gốc, chảy
nhựa do nấm
Phytophthora
spp.
Bản tường
trình về nông
nghiệp và
nông thôn.
15 29/11 VLTV
IPM như là một
phương pháp
cải tiến
Bản tin tức 03.40 30/11 VLTV
Bản tóm tắt của một bài báo tựa đề “Khả năng phục hồi của công nghệ trồng cây
có múi ở Việt Nam: Nông dân Việt Nam học cách sống chung với bệnh
Huanglongbing” đã được đệ trình tại Hội Nghị Nghề Làm Vườn Quốc Tế Lần Thứ
27 tại Seoul, Hàn Quốc từ 13-19-2006 (Xin xem Phụ Lục 5.)
Việc quản lý dự án
Nhóm điều phối dự án Việt Nam đã chứng tỏ những kỹ năng quản lý dự án rất đặc
biệt và có tính năng động cao. Ngoài việc hợp tác huấn luyện 98 Huấn Luyện Viên
và thực hiện thành công 24 FFS trong 12 Tỉnh Thành vào năm 2005, ông Hồ Văn
Chiến đã đề xướng một loạt những hoạt động ngoài phạm vi gốc của dự án. Những
việc này bao gồm việc cung cấp kính lúp cho tất cả các FFS, việc chuẩn bị các
chuyến tham quan cho các nông dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đi thăm
viếng các vườn cam quýt ở các tỉnh khác nhau, và tổ chức 3 cuộc hội thảo duyệt xét
vào tháng 11/2006. Việc tài trợ cho tất cả những hoạt động này đều do những
nguồn bên ngoài ngân sách dự án. Viện Nghiên Cứu Ăn Quả Miền Nam cũng đã
đóng góp rất lớn cho chương trình huấn luyện bằng cách cung cấp 3 bài giảng cho
chương trình TOT vào năm 2005. Việc này đã không được dự kiến trong hồ sơ dự
án và như thế thời gian bỏ ra của họ cũng không được kể ra như là một phần trong
việc đóng góp đó. Kinh nghiệm của Các Nhà Nghiên Cứu của SOFRI đã làm tăng
thêm kiến thức cho các Huấn Luyện Viên. Tổ chức Úc cũng đã chứng tỏ sự tận tâm
rất lớn đối với dự án và đã giúp cho những hoạt động huấn luyện tại Việt Nam được
dễ dàng bằng cách chuyển ngân quỹ cho cơ quan phía Việt Nam trước khi họ được
nhận từ tổ chức tài trợ. Tổ chức Úc cũng đã cung cấp thêm những quỹ ngoài ngân
sách để tổ chức các chuyến tham quan cho các Tham Dự Viên FFS tại Đồng Bằng
Sông Cửu Long. Tuy nhiên việc cung cấp thêm những quỹ này không thể chống đở
nổi tình trạng Kinh Tế Khó Khăn mà những trường đại học Úc hiện đang phải đối
9
mặt. Oleg Nicetic đã góp thêm thời gian cho dự án này ở Việt Nam khi ông ấy đến
Việt nam để nghiên cứu một dự án được tài trợ bởi Tổng Công Ty SK. Tất cả những
chi phí đi lại đều được dự án SK chi trả.
5. Báo cáo về các sản phẩm đạt được từ dự án:
Về môi trường
Tiêu điểm của FFS là tăng cường hiểu biết cho nông dân về hệ thống sinh thái và
tác động của các ảnh hưởng của con người đối với sự hiểu biết đó. Phương pháp
này có tiềm lực làm giảm các tác động có hại của các hoạt động con người trên
môi trường. Các nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long đang báo cáo rằng các chiến
lược IPM mà họ học được trong các FFS và đã chấp nhận ứng dụng ngay trong
chính vườn cây của họ, đã khiến cho họ tăng được lượng cá nuôi trong các con
mương giữa các vườn cây cam quýt. Đây là một bằng chứng rõ ràng của việc gia
tăng sức khoẻ của hệ sinh thái.
Về giới tính và xã hội
Trong việc huấn luyện những Huấn Luyện Viên chủ lực, gồm có 69 nam và 29 nữ
đã được huấn luyện. Tỉ lệ nam, nữ này đã phản ảnh sự cân bằng về giới tính của
các huấn luyện viên PPD. Ở các tỉnh duyên hải miền Trung, tỉ số nông dân nam, nữ
tham dự FFS cũng tương tự với như ở các lớp TOT. Tuy nhiên, ở vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long, tỉ số nữ tham dự FFS thì thấp hơn. Điều này có thể liên quan đến
những vai trò truyền thống của phụ nữ trong vùng đồng bằng này vốn có khuynh
hướng chăn nuôi gia súc nhiều hơn.
Các đại diện của tổ chức VACVINA, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ và Hội Liên Hiệp
Nông Dân luôn luôn được mời đến dự các cuộc hội thảo về kế hoạch dự án và cũng
cho thấy đầu vào cũng có liên quan đến giới tính và vấn đề xã hội.
6. Thực hiện dự án
Những thành quả và những hạn chế
Một hạn chế quan trọng của dự án là những nguồn vốn có sẳn ở địa phương thì có
giới hạn cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và huấn luyện viên của Việt Nam
đi lại để tìm hiểu hoặc cung cấp kinh nghiệm và chuyển giao thông tin. Có một vài
trở ngại đối với sự trao đổi thông tin giữa những vùng, chẳn hạn như sử dụng từ ngữ
địa phương khác nhau... song đây chỉ là những hạn chế thứ yếu. Những hạn chế
chính là các ngân sách địa phương rất ít ỏi cho việc đi lại giữa các nơi, và thậm chí
để gọi điện thoại nội hạt ở Việt Nam. Việc đi lại bằng xe lửa và xe buýt thì tương
đối rẽ so với máy bay, nhưng hệ thống đường xá nghèo nàn và thường dừng lại làm
cho việc đi lại tốn mất nhiều thời gian. Việc cung cấp thêm các ngân sách cho
thành viên của dự án Việt Nam để đi lại bằng đường hàng không giữa các vùng sẽ
10
làm dễ dàng rất nhiều cho việc thiết lập những quan hệ chuyên môn mà sau đó có
thể được duy trì bằng cách sử dụng Email.
Việc chuyển giao thông tin giữa các nông dân ở một số địa phương đôi khi cũng bị
hạn chế. Các chuyến tham quan của nông dân đã được tài trợ từ những nguồn bên
ngoài ngân sách dự án giúp cho việc trao đổi thông tin giữa các nông dân ở các tỉnh
khác nhau được thuận tiện hơn. Các chuyến tham quan này cũng được các nông
dân nhiệt liệt hoan nghênh, và các huấn luyện viên tham dự các cuộc hội thảo đánh
giá kết quả dự án cho biết rằng hầu hết các nông dân đều muốn có thêm nhiều cuộc
tham quan học hỏi khác. Các nguồn quỹ bổ sung đang được xem xét, nhưng vào
giai đoạn này khả năng được tài trợ thì vẫn chưa được biết tới.
Các Sự lựa chọn
Tại các cuộc hội thảo đánh giá kết quả dự án, đề nghị gia tăng con số của FFS lên
50% (tức là từ 24 ở năm 2005 lên 36 lớp cho năm 2006) thì ít hơn là tăng lên 100%
(tức là từ 24 đến 48) so với kế hoạch, để gia tăng theo đề nghị này các nguồn kinh
phí cho mỗi FFS cũng đã được đề xuất. Sự chọn lựa này không thể thực hiện được,
vì nhu cầu cực cao của FFS. Những nguồn tài trợ bổ sung cho các hoạt động của dự
án sẽ tiếp tục được tìm kiếm.
Phản hồi từ các cuộc hội thảo đánh giá kết quả mà đã được tổ chức vào tháng 11
cho thấy sự cần thiết phải chỉnh sửa các chương trình huấn luyện. Các tham dự viên
đã yêu cầu tăng cường các phần thực hành cho các lớp TOT và FFS, thời gian hoạt
động FFS nên dài hơn đủ cho các giai đoạn của cây cam quýt từ lúc ra hoa cho đến
lúc thu hoạch. Các nhà khoa học chủ chốt điều phối chương trình TOT phải điều
chỉnh lại chương trình giảng dạy của họ để gồm có một bài học lý thuyết vào buổi
sáng và bài học thực hành vào buổi chiều. Chiến lược kéo dài thời gian của các
FFS từ lúc ra hoa đến lúc thu hoạch đã được chấp nhận và vẫn duy trì 21 bài giảng
như ở năm 2005, nhưng những khóa học này không phải đều đặn hàng tuần mà tập
trung vào những giai đoạn sinh trưởng quan trọng của cây cam quýt cũng như có
các loại sâu bệnh hại chúng.
7. Kết luận:
Sự nhiệt tình dành cho dự án này cao, kế hoạch đưa ra có hiệu quả, việc liên lạc
giữa các thành viên của dự án và những nổ lực đã được duy trì là những yếu tố quan
trọng làm cho khung của dự án trong năm 2005 đã được hoàn tất. Những mục tiêu
bổ sung cũng đã đạt được bằng cách sử dụng ngân quỹ được cung cấp từ những
nguồn ngoài ngân sách của dự án. Những cuộc họp đánh giá kết quả công việc đã
được triển khai trong năm giúp nhận biết được những phản hồi từ những tham dự
viên và các chương trình huấn luyện sẽ được bổ sung trong năm 2006 để cải thiện
sự thích ứng và hiệu quả của chương trình.
11
Phụ Lục 1:
Khảo sát trình độ thực tiễn của nông dân
Từ ngày 06/06 tới ngày 19/06 những nhân viên, phụ trách dự án gồm có OLEG
NICETIC, Hồ Văn Chiến, Tiến Sĩ Nguyễn Thị Thu Cúc, Tiến Sĩ Trần Văn Hai và
ông Cường đã viếng thăm 16 FFS tại Đồng Bằng Sông Cửu Long và các vùng
Duyên Hải miền Trung của Việt Nam (Bảng 1). Tại mỗi địa điểm, những nông dân
đã được hướng dẫn làm thí nghiệm trình diễn FFS trên khu vườn của họ đã được
phỏng vấn, và các cuộc thảo luận đã được tổ chức với những nông dân khác đang
tham dự trong các FFS về những kỹ thuật trồng cây cam quýt, đặc biệt là về việc
kiểm soát sâu bệnh. Họ cũng đã đến thăm một đại lý bán vật tư nông nghiệp địa
phương và phỏng vấn người bán vật tư để xem những thuốc trừ sâu quan trọng nhất
nào đã được bán cho những nhà trồng cây cam quýt địa phương.
Những thông tin thu thập được từ những cuộc phỏng vấn này đã bổ sung cho những
thông tin chi tiết thu lượm được từ mỗi người nông dân tham dự trong những cuộc
điều tra trước và sau khi tham dự chương trình . Những mục tiêu chủ yếu của các
cuộc phỏng vấn này là:
* Nhận được một bản mô tả ngắn gọn về kỹ thuật trồng cây cam quýt hiện
tại ở các nơi được khảo sát
* Những cuộc thực hành về phun thuốc và sử dụng thuốc trừ sâu.
* Xác định xem nếu các chiến lược IPM dựa trên dầu khoáng (mục tiêu
chính của dự án ACIAR CS2/2000/043) và imidacloprid (mục tiêu chính của
chương trình nghiên cứu CIRAD) có dễ dàng áp dụng cho những người nông dân
với hoàn cảnh kinh tế của họ.
* Xác định những khoảng trống trong kiến thức của nông dân để có thể đưa
những đề tài này vào FFS.
Những phát hiện
Những giống cam quýt quan trọng nhất:
Trong khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, quýt (Cam sành, Quýt tiều) là những
giống được trồng phổ biến nhất, nhưng diện tích trồng bưởi thì lại đang được mở
rộng một cách nhanh chóng (Bảng 1). Tại vùng Duyên Hải miền Trung, bưởi là
giống quan trọng nhất trong khi ở Nghệ An, cam lại được trồng phổ biến hơn.
Mật độ trồng
Trong đa số các tỉnh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, các nông dân trồng cây với
mật độ rất cao với khoảng 2000 đến 4000 cây trên một hecta (Bảng 2). Hai hàng
cây thường được trồng trên các mô đất giữa các con mương. Trường hợp đặc biệt là
ở Tiền Giang và Đồng Tháp, người ta trồng khoảng từ 800 đến 2000 cây trên một
12
hecta. Mật độ cây trồng thấp hơn đáng kể ở vùng duyên hải miền Trung với
khoảng từ 330 và 400 cây trên một hecta trong khi ở tỉnh Nghệ An lại từ 600-700
cây trên một hecta.
Việc trồng cây với mật độ cao tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có lẽ đã phát
sinh do người nông dân muốn duy trì một nguồn thu nhập tương đối liên tục từ cây
cam quýt trên các miếng đất nhỏ của họ, thậm chí những cây này đang bị huỷ diệt
bởi bệnh Huanglongbing hoặc những bệnh khác. Khi cây được 4-6 năm, họ trồng
xen các cây có múi mới. Khi cây cũ được 10-12 năm tuổi thì chúng bị đốn bỏ và
những cây con khác lại được trồng tiếp và như thế là việc sản xuất cây có múi được
liên tục trong cùng một khu vườn. Đây là một chiến lược rất hiệu quả, nhưng cần
phải phân tích so sánh hơn nữa để xác định xem mật độ cây trồng hiệu quả nhất là
bao nhiêu. Nhưng rõ ràng rằng mật độ cây trồng đến 4000 cây trên một hecta là
không thể chấp nhận được và khi trồng dày như thế thì không thể phun thuốc trừ
sâu được cũng như là thu hoạch có hiệu quả. Tuy nhiên, trong ngưỡng mật độ trồng
từ 1000 đến 2000 cây thì cần phải xác định thêm mật độ nào cho lơi nhuận thuần
cao hơn và đất có thể chịu đựng được cũng như quan điểm về quản ly ùnhững bệnh
hại trong đất. Từ khảo sát của chúng tôi, các tiểu nông với mảnh đất chỉ vài ngàn
mét vuông có khuynh hướng trồng cây với mật độ cao hơn, trong khi những nông
dân có từ một hecta đất trở lên lại có khuynh hướng trồng cây ít dày hơn. Thu nhập
thuần của những đại gia được xem là do những yếu tố khác chứ không phải là do
mật độ cây dầy hơn, chẳn hạn như bón phân nhiều hơn, kiểm soát được dịch bệnh
tốt hơn, sử dụng bình xịt máy và cây giống sạch bệnh. Những vấn đề có tính khoa
học cần phải được trả lời trong tương lai là nên có những mật độ cây trồng tốí ưu
khác nhau liên quan đến diện tích đất nông trại hay không.
Để tạo thuận tiện cho việc tranh luận về mật độ cây trồng tối ưu, những chuyến
tham quan bằng xe buýt đã được tổ chức cho các thành viên FFS từ tất cả các tỉnh
mà áp dụng việc trồng cây với mật độ cao đi đến tỉnh Đồng Tháp để học tập và
trao đổi kinh nghiệm với những nông dân trồng cây với mật độ thấp hơn.
Những sâu bệnh quan trọng nhất
Các nông dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận dạng sâu bệnh, và trong
nhiều trường hợp, lại không thể phân biệt được những thiệt hại gây ra bởi sâu hoặc
bệnh hay đã can thiệp quá trễ khi có sâu hay bệnh tấn công chẳn hạn như đối với
sâu vẽ bùa. Đôi khi họ cũng phun những loại thuốc trừ sâu khi không cần thiết lắm
để phòng trị những côn trùng mà họ phát hiện được nhưng không gây thiệt hại về
kinh tế ví dụ như đối với rầy mềm.
Tất cả nông dân trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đều cho rằng loài rệp sáp ở
rễ cây là vấn đề chính (Bảng 3). Loại rệp sáp này trước đây là loài dịch hại không
quan trọng vì chúng được kiểm soát một cách tự nhiên khi cây bị ngập nước. Việc
khống chế nước ngập khiến rệp sáp phát triển quanh năm và đến nay, nông dân đã
13
coi nó là một vấn đề nghiêm trọng. Loài rệp sáp này hiện chưa được định danh do
đó cũng chưa có những biện pháp kiểm soát chúng một cách hiệu quả. Tuy nhiên,
nếu chưa có những đánh giá cụ thể về các thiệt hại gây ra bởi loại rệp sáp này thì
thực sự nó cũng chưa phải là loại dịch hại trầm trọng hay nếu nông dân có quan
tâm đi nữa thì chẳng qua nó là một hiện tượng mới mà thôi. Cần phải điều tra thêm
nữa về sự quan trọng của loại dịch hại này trong năm thứ hai của dự án.
Những loại sâu chính khác được nông dân nêu ra là sâu vẽ bùa, rầy chổng cánh và
nhện hại (Bảng3). Mặc dù sâu vẽ bùa tấn công không gây hại về kinh tế, nhưng
nông dân vẫn quan tâm vì thiệt hại xuất hiện trên lá sau khi ấu trùng sâu vẽ bùa
hoá nhộng và bướm đẻ trứng dễ dàng được nhìn thấy. Thuốc cũng thường được
phun vào giai đoạn này, nhưng như thế là việc phòng trừ đã quá trễ. Các nông dân
biết rằng bệnh vàng lá huanglongbing được truyền bởi rầy chổng cánh, nhưng
ngoại trừ ở tỉnh Đồng Tháp, dường như việc phòng trừ rầy chổng cánh không được
hiệu quả vì việc phun thuốc quá trễ. Tuy nhiên dường như rằng các nông dân vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long đã học được cách sống chung với bệnh huanglongbing
bằng cách liên tục trồng lại cây mới như đã được thảo luận ở phần trước. Nhưng
đáng tiếc, đa số nông dân lại dùng vật liệu trồng từ cây chiết. Trước đây phần lớn
vật liệu trồng này có nguồn gốc không rõ ràng, được bán bởi những người buôn bán
trái phép từ các ghe thuyền, nhưng các nông dân đã cho biết rằng gần đây, cây
trồng trong vườn là do họ tự chiết hoặc mua từ lối xóm để đảm bảo rằng vật liệu
cây trồng được lấy từ các cây khoẻ mạnh không mang mầm bệnh.
Tại vùng Duyên Hải miền Trung (không bao gồm Nghệ An), nông dân không coi
rầy chổng cánh và bệnh huanglongbing là một vấn đề đáng quan tâm, thậm chí
cũng không thấy có cây bệnh. Chỉ có các loại sâu đục thân, cành, quả và sâu vẽ
bùa là những loại sâu mà nông dân coi là quan trọng. Sự gây hại của sâu đục thân
là nghiêm trọng, nhưng loại sâu này chưa được định danh và cho đến nay, không có
chiến lược kiểm soát hiệu quả nào được triển khai. Cần phải nhấn mạnh thêm về
loại sâu này trong năm thứ hai của dự án. Tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long,
sâu vẽ bùa không phải là loại sâu gây hại về kinh tế, nhưng nông dân vẫn phun
thuốc sau khi có sự tấn công của sâu xảy ra.
Tại tỉnh Nghệ An, những nông dân được phỏng vấn đều coi nhện hại và bệnh
Phytophthora là những vấn đề chính, nhưng bệnh huanglongbing được thấy là trầm
trọng và phổ biến hơn bất kỳ tỉnh nào được khảo sát. Nông dân biết rằng rầy chổng
cánh truyền bệnh huanglongbing, và việc sử dụng vật liệu trồng sạch bệnh thì
nhiều hơn ở các tỉnh phía Nam, nhưng có một quan niệm sai lầm rất lớn đó là chỉ
cần kiểm soát rầy chổng cánh vào đợt lộc mùa xuân (mà sẽ mang quả vào mùa thu
tiếp theo) là đủ. Thực ra, để ngăn ngừa bệnh huanglongbing, cần phải kiểm soát
rầy chổng cánh quanh năm. Điểm này sẽ được nhấn mạnh trong việc huấn luyện
vào năm thứ hai của dự án.
Bệnh phytophthora đã được thấy ở mỗi vùng và mỗi tỉnh mà chúng tôi đến khảo sát
và mặc dầu dường như đây cũng là một bệnh hại quan trọng như bệnh
14
huanglongbing, phần đông nông dân đã không biết gì về bệnh này. Việc tăng thêm
nhiều hiểu biết về bệnh này và tìm những phương pháp hiệu quả để khống chế
bệnh là rất cần thiết và phải được coi là một tiêu điểm trong việc huấn luyện của
năm 2006. Vì một dự án CARD mang mã số 05204VIE khác “quản lý bệnh
phytophthora cho nghề vườn tại Việt Nam” hiện đang được triển khai, ban điều
phối UWS đã làm việc với người điều phối dự án - Giáo Sư David Guest – người
Úc, để thảo luận về vấn đề bệnh phytophthora trên cây cam quýt. Những mối liên
kết đã được thực hiện giữa các dự án bằng cách liên hệ với các thành viên Việt
Nam tham dự trong dự án và ông Dương Minh thuộc Đại Học Cần Thơ hiện nay đã
tham dự 2 trong 3 cuộc hội thảo đánh giá kết quả cho dự án này vào tháng 11/2005.
Các loại thuốc trừ sâu nhìn chung không có sử dụng quá liều ở những vùng và
những tỉnh mà chúng tôi đã đến. Tuy nhiên thời gian phun thuốc và các loại thuốc
trừ sâu đã được sử dụng thì cần phải được đánh giá một cách khách quan . Tại tỉnh
Nghệ An, số lần phun thuốc có thể nên giảm đi, nhưng ở vùng duyên hải miền
Trung, số lần phun cần phải tăng thêm để việc kiểm soát sâu bệnh có hiệu quả hơn.
Các nông dân hầu như đã sử dụng những sản phẩm rẻ tiền là những thuốc trừ sâu
thuộc thế hệ cũ (Bảng 3). Việc sử dụng dầu khoáng được thấy là không đáng kể
chính đều này làm thất vọng cho nơi đầu tư là hãng Caltex và thông qua những dự
án ACIAR và CARD trước đây. Lý do chính của việc ít sử dụng dầu khoáng là vấn
đề ngộ độc cho cây mà được nhiều nhà trồng cây lâu năm nhận ra. Tình trạng gây
độc cho cây là do nhiều yếu tố như nhiệt độ và độ ẩm cao, sử dụng sai chủ yếu là
do pha chế không thích hợp, phun xịt quá thường xuyên được khuyến cáo bởi các
nhà nghiên cứu và tính nhạy cảm của một vài giống quýt. Ngoài những vấn đề gây
ngộ độc cho cây, tính hiệu quả của dầu thì đạt được trong vài trường hợp là do các
dụng cụ phun thuốc nghèo nàn. Qua kết quả điều tra nông dân cho thấy rằng ngoài
trừ ở 2 Tỉnh Đồng Tháp và Nghệ An, những bình xịt tay đeo trên vai được sử dụng
rất phổ biến (Bảng 3). Dầu khoáng là một thành phần quan trọng của dự án này,
nhưng nó chỉ là một phần của chương trình và sẽ còn một loạt của những thuốc trừ
sâu khác (imidaclorid) cũng như những phương pháp quản lý sinh học. Việc sử
dụng kiến vàng (Oecophyllla smargdina) như một tác nhân kiểm soát sinh học thì
rất phổ biến. Sự hiểu biết tuyệt vời về phương pháp phòng trừ sinh học của nông
dân là một cơ sở quan trọng mà có thể được xây dựng thêm để phát triển những kỹ
thuật phòng trừ sinh học khác, như sử dụng nấm đối kháng và phân hữu cơ để
khống chế bệnh phytophthora tốt hơn.
Một số kết luận
Thật rõ ràng rằng những thông tin thu thập được từ các cuộc phỏng vấn và các cuộc
khảo sát cho thấy có những khác biệt đáng chú ý trong các hệ sinh thái nông nghiệp
và cách trồng cây có múi đã sử dụng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long và vùng Duyên
Hải miền Trung (gồm cả Tỉnh Nghệ An). Mặc dầu trong phạm vi của dự án này
không thể phát triển thành 2 chương trình huấn luyện độc lập, điều quan trọng là
15
các chương trình huấn luyện cho cả huấn luyện viên và nông dân và những lời
khuyến cáo về việc quản lý sâu bệnh phải kể đến sự khác biệt giữa 2 vùng vừa nói.
Nông dân cần có được nhiều kỹ năng hơn để nhận ra được sâu bệnh và sự liên hệ
giữa các loại sâu bệnh này với các giai đoạn phát triển của cây có múi. Trong năm
2005, các chiến lược IPM đã thử và giảng dạy dựa trên những giả định của các dự
án ACIAR CS2/2000/043 và CIRAD. Từ những phản hồi của nông dân và huấn
luyện viên đã đi đến kết luận rằng không có chiến lược nào có thể hoàn thiện được
trong kiểu canh tác và tình trạng kinh tế hiện tại của người nông dân vì những sự
thiếu thực tế và chi phí cao. Chiến lược mới được chấp nhận trong năm 2006 kết
hợp với những yếu tố của cả hai dự án, nhưng cũng phải dựa trên kiểu canh tác hiện
hành của nông dân vốn chấp nhận rằng bệnh huanglongbing không thể trừ tiệt
được, nhưng việc sản xuất vẫn có thể đạt được. Chiến lược mới thật giản đơn, tiếp
theo những chu kỳ ra chồi non và sẽ sử dụng một lần quết gốc bằng imidaclopid,
tiếp theo đó là hai lần phun dầu khoáng có nồng độ 0.25%. Những loại thuốc trừ
sâu khác sẽ được sử dụng khi cần, dựa trên những kết quả điều tra.
Việc phun thuốc bằng bình xịt tay đeo trên vai là chủ yếu còn việc sử dụng những
máy phun tự chế gồm có thêm một cái bơm dầu, một bình để trộn và một cái cần
dài gắn với một cái que và một miệng vòi hình nón rỗng có thể điều chỉnh được thì
rất hạn chế. Sự chấp nhận dùng bình xịt bằng máy thì chậm và có lẽ sẽ còn chậm
hơn trên các khu vườn có diện tích nhỏ vì người ta cho rằng chỉ cần một bình xịt
đeo trên vai là đủ và chỉ tốn có một người phun thuốc trong khi dùng máy phun
phải cần đến hai người. Chất lượng của bình xịt tay đeo trên vai cũng thay đổi tuỳ
loại và tiếc là chỉ có một số nhỏ người trồng trọt sử dụng những bình xịt tay bằng
kim loại có chất lượng tốt mà có thể cho áp suất đạt theo yêu cầu. Người dùng
những bình xịt rẻ tiền bằng nhựa thì rất là phổ biến. Những nổ lực nên làm đối với
dự án này là chỉ cho người nông dân hiểu được lợi ích của một bình phun thuốc chất
lượng cao.
16
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nong_nghiep_66__9079.pdf