Bài tập học kỳ luật thương mại

MỤC LỤC A/ LỜI MỞ ĐẦU B/ NỘI DUNG I/ Những vấn đề cơ bản về dịch vụ logistics ở Việt Nam 1/ Một số hình ảnh về hoạt động logistics ở Việt Nam . 2 2/ Khái niệm và phân loại dịch vụ logistics .3 3/ Đặc trưng của dịch vụ logistics 5 4/ Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp và đối với nền kinh tế .6 II/ Quy định của pháp luật hiện hành về dịch vụ logistics 1/ Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động logistics ở Việt Nam .7 2/ Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics ở Việt Nam 8 2.1/ Quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics 8 2.2/ Quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ dịch vụ logistics 12 2.2.1/ Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics 13 2.2.2/ Quyền và nghĩa vụ của khách hàng 15 2.3/ Trách nhiệm của người làm dịch vụ logistics 16 2.4/ Quy định về quản lý nhà nước về logistics 18 III/ Thực trạng hoạt động logistics ở Việt Nam cũng như các quy định điều chỉnh về logistics và phương hướng hoàn thiện pháp luật về logistics 1/ Thực tế hoạt động logistics ở Việt Nam .19 2/ Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics . .20 3/ Phương hướng hoàn thiện pháp luật hiện hành về dịch vụ logistics 22 C/ KẾT BÀI

doc27 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3230 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập học kỳ luật thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng hoàn thiện pháp luật hiện hành về dịch vụ logistics…………..…..22 C/ KẾT BÀI A/ LỜI MỞ ĐẦU Logistics là dịch vụ có cái tên rất mới mẻ đối với nhiều người Việt Nam. Nhưng có một vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất – kinh doanh của một ngành và cả nền kinh tế. Với doanh số hàng tỷ đô la thu về mỗi năm, dịch vụ này đang trở thành một hoạt động hấp dẫn rất nhiều các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài đã đem đến một thị trường sôi động cho hoạt động dịch vụ này tại Việt Nam. Dịch vụ logistics là một trong 12 nhóm ngành ưu tiên trong cộng đồng kinh tế ASEAN, cũng như thời hạn cam kết của Vệt Nam sẽ giảm dần và kết thúc vào năm 2014. Khi nước ta mở cửa thị trường này theo như cam kết thì việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp là một điều vô cùng quan trọng. Nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh dịch vụ logistics mà còn giúp cho nước ta tận dụng được cơ hội từ việc hội nhập thị trường này, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam có một ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho chúng ta có một cái nhìn tổng quát về hệ thống pháp luật điều chỉnh loại hình dịch vụ này, từ đó có những định hướng để hoàn thiện pháp luật hơn. Với những lý do như vậy nên em đã lựa chọn đề tài số 10: “ Những nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ logistics ở Việt Nam”. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, đánh giá của các thầy, cô trong tổ bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn! B/ NỘI DUNG I/ Những vấn đề cơ bản về dịch vụ logistic ở Việt Nam 1/ Một số hình ảnh về hoạt động logistic ở Việt Nam 2/ Khái niệm và phân loại dịch vụ logistics. * Khái niệm về logistics Dịch vụ logistics đã xâm nhập vào nước ta khá lâu nhưng người Việt ta chưa thật sự quen với thuật ngữ này, mặc dù đâu đó trong các trang mục quảng cáo về dịch vụ giao nhận, tuyển dụng nhân viên… có đề cập đến dịch vụ logistic, nhân viên logistic… Cách đây vài thế kỷ, thuật ngữ logistic được sử dụng trong quân đội với tư cách là một cách thức tổ chức cung ứng tương đối giống “ dịch vụ hậu cần” trong các đơn vị quân đội ngày nay, và đã từng được hoàng đế Napoleon nhắc đến trong câu nói nổi tiếng “ kẻ nghiệp dư bàn về chiến thuật, người chuyên nghiệp bàn về logistic” để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của dịch vụ này. Sau này, do sự phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý, phương pháp quản trị sản xuất, kinh doanh, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…đã làm cho logistic có bộ mặt mới và có thể thay đổi về chất so với bản chất nguyên thuỷ ban đầu là cung ứng “ dịch vụ hậu cần” của nó. Theo quy định tại Điều 233 của Luật thương mại ( LTM ) 2005: “ Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi mã ký hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao”. Như vậy nói một cách đơn giản, dịch vụ logistics là việc thực hiện và kiểm soát hàng hoá cùng những thông tin có liên quan từ nơi hình thành nên hàng hoá đến nơi tiêu thụ hàng hoá cuối cùng. * Phân loại dịch vụ logistics Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà có nhiều cách phân loại dịch vụ logistics khác nhau. Theo Điều 4 Nghị Định số 140/2007/ NĐ-CP thì dịch vụ logistic được phân loại như sau: Thứ nhất, Các dịch vụ lô-gi-stíc chủ yếu, bao gồm: - Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container; - Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị; - Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa; - Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi lô-gi-stíc; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container. Thứ hai, Các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan đến vận tải, bao gồm: - Dịch vụ vận tải hàng hải; - Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa; - Dịch vụ vận tải hàng không; - Dịch vụ vận tải đường sắt; - Dịch vụ vận tải đường bộ. - Dịch vụ vận tải đường ống. thứ ba, Các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan khác, bao gồm: - Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật; - Dịch vụ bưu chính; - Dịch vụ thương mại bán buôn; - Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng; - Các địch vụ hỗ trợ vận tải khác. 3/ Đặc trưng của dịch vụ logistics Thứ nhất, chủ thể của quan hệ dịch vụ bao gồm 2 bên: Người làm dịch vụ logistics và khách hàng. Người làm dịch vụ phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics. Thủ tục đăng ký kinh doanh được thực hiện theo các đạo luật đơn hành, phụ thuộc vào hình thức pháp lý của thương nhân. Khách hàng là những người có hàng hoá cần gửi hoặc cần nhận và có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics. Như vậy khách hàng có thể là thương nhân, hoặc không phải là thương nhân, có thể là chủ sở hữu hàng hoá hoặc không phải là chủ sở hữu hàng hoá Thứ hai, Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm các công việc như: - Nhận hàng từ người gửi để tổ chức việc vận chuyển; đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, chuyển hàng từ kho của người gửi tới cảng, bến tàu, bến xe và địa điểm giao hàng khác theo thoả thuận giữa người vận chuyển với người thuê vận chuyển. - Làm các thủ tục, giấy tờ cần thiết ( thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển, làm thủ tục gửi giữ hàng hoá…) để gửi hàng hoá hoặc nhận hàng hoá được vận chuyển đến - Giao hàng hóa cho người vận chuyển; xếp hàng hoá lên phương tiện vận chuyển theo quy định; nhận hàng hoá được vận chuyển đến - Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi bảo quản hàng hoá hoặc thực hiện việc giao hàng hoá được vận chuyển đến đến cho người có quyền nhận hàng Thứ ba, Dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ. thương nhân kinh doanh dịch vụ này được khách hàng trả tiền công và các khoản chi phí hợp lý khác từ việc cung ứng. 4/ Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp và đối với nền kinh tế 4.1/ Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp Khi thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc mở cửa thị trường ở các nước đang và chậm phát triển, logistics được các nhà quản lý coi như là công cụ, một phương tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau của chiến lược doanh nghiệp. Logistics tạo ra sự hữu dụng về thời gian và địa điểm cho các hoạt động của doanh nghiệp Logistics giúp giải quyết cả đầu vào lẫn đầu ra cho doanh nghiệp một cách hiệu quả, tối ưu hoá quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ…logistics giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã thành công lớn nhờ có chiến lược và hoạt động logistics đúng đắn. Nhưng cũng không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại vì có những quyết định sai lầm trong hoạt động logistics như: chọn sai vị trí, dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển không hiệu quả… Ngoài ra logistics còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động Maketting. Chính logistics đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến, vào thời điểm thích hợp. Sản phẩm, dịch vụ chỉ có thể làm thoả mãn khách hàng và có giá trị khi và chỉ khi nó đến được với khách hàng đúng thời hạn, địa điểm quy định. 4.2/ Vai trò của logistics đối với nền kinh tế Phát triển dịch vụ logistics một cách hiệu quả sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quốc gia. Trong xu thế toàn cầu mạnh mẽ như hiện nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt hơn. Điều này đã làm cho dịch vụ logistics trở thành một trong các lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Những nước kết nối tốt với mạng lưới dịch vụ logistics toàn cầu thì có thể tiếp cận được nhiều thị trường và người tiêu dùng từ các nước trên thế giới.Chẳng hạn như: Chi lê - một nước mặc dù ở cách xa hầu hết các thị trường lớn, nhưng lại có vai trò rất lớn trong thị trường lương thực thế giới, cung cấp cá tươi và hoa quả khó bảo quản cho người tiêu dùng ở Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Đối với những nước không có khả năng kết nối này, chi phí logistics sẽ rất cao và ngày càng gia tăng, khả năng mất cơ hội cũng rất lớn, nhất là những nước nghèo nằm sâu trong đất liền, mà phần lớn là ở Châu Phi. Phát triển dịch vụ logistics sẽ đem lại nguồn lợi khổng lồ cho nền kinh tế. logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Mỹ và Nhật logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể cao hơn 30%. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng giảm được chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP. GDP năm 2006 ở nước ta chiếm khoảng 57,5 tỷ USD. Như vậy, chi phí logistics chiếm khoảng 8.6-11,1 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn. Nếu chỉ tính riêng khâu quan trọng nhất trong logistics vận tải, chiếm từ 40-60% chi phí thì cũng đã là một thị trường dịch vụ khổng lồ. II/. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS 1/ Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động logistics ở Việt Nam Dịch vụ logistics được điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực cụ thể: Thứ nhất, Luật thương mại 2005, từ Điều 233 đến Điều 240 và Nghị Định số 140/2007/ NĐ-CP ngày 05/9/2007 quy định chi tiết LTM về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Thứ hai, Các quy định pháp luật liên quan điều chỉnh dịch vụ logistics: * Các quy định chung liên quan: - Bộ luật dân sự 2005 - Luật doanh nghiệp 2005 - Luật đầu tư 2005 - Luật cạnh tranh 2004 - Luật Hải quan sửa đổi 2005 - Các quy định khác * Các quy định chuyên ngành: - Luật đường sắt 2005 - Luật giao thông đường bộ 2001 - Thể lệ vận chuyển hàng hoá bằng đường ô tô 1990 - Nghị định số 110/2006/NĐ- CP ngày 28/9/2006 về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô - Luật giao thông đường thuỷ nội địa 2004 - Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 - Điều lệ vận chuyển hàng hoá quốc tế của hãng hàng không quốc gia Việt Nam 1993 - Bộ luật hàng hải 2005 - Nghị định số 49/2006/NĐ-CP về thủ tục đăng ký tàu biển - Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển - Pháp lệnh bưu chính và viễn thông năm 2002 - Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 18/8/2004 quy định chi tiết việc thi hành một số điều khoản về bưu chính của pháp lệnh bưu chính và viễn thông 2002 - Thông tư số 01/2005 hướng dẫn thi hành Nghị định số 157. 2/ Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics ở Việt Nam 2.1/ Quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics Tại Điều 234 LTM 2005 chỉ quy định rất chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics cụ thể: thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật, Chính phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics trong các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics ban hành được coi là hành lang pháp lý quan trọng để phát triển loại hình dịch vụ này tại Việt Nam. * Đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ logistics chủ yếu: Theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải đáp ứng các điều kiện sau: “ 1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam 2. Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật, và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu. 3. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch logistics ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 điều này chỉ được kinh doanh dịch vụ logistics khi tuân thủ các điều kiện cụ thể sau đây: a, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50% b, Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2014; c, trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lện góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, được thành lập công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 2014; d, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.” Trước hết, cần khẳng định thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải là doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện của Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp Nhà nước, cũng như các văn bản hướng dẫn của các luật này. Theo khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp: “ là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Như vậy, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể tốn tại dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân… và tồn tại dưới hình thức nào thì phải đáp ứng điều kiện pháp luật về hình thức ấy. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện của Luật doanh nghiệp hoặc Luật doanh nghiệp nhà nước đều có thể kinh doanh dịch vụ logistics, mà còn phải đáp ứng các điều kiện riêng biệt khác của loại hình dịch vụ này cụ thể: Doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ logistics thì phải có đăng ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về dịch vụ logistics. Đây được coi là một điều kiện rất quan trọng, là cơ sở để phân biệt giữa thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics với những thương nhân kinh doanh dịch vụ đơn lẻ thuộc các công đoạn của hoạt động logistics như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuế hải quan…Bên cạnh đó thì còn phải đáp ứng điều kiện “ có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng nhu cầu”, điều đó có nghĩa là bên cạnh điều kiện “ cần” còn phải có điều kiện “đủ”. Các phương tiện, thiết bị, công cụ ở đây có thể là xe nâng hạ hàng hoá, dây chuyền, băng tải, phương tiện đóng gói mã hoá hàng hoá…đặc biệt là phải có đội ngũ nhân viên được đào tạo đáp ứng nhu cầu công việc. Có nghĩa là đội ngũ này phải đáp ứng các yêu cầu, trình độ, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức hiểu biết pháp luật trong nước cũng như pháp luật quốc tế. Ví dụ, đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải, thì phải thông thuộc mạng lưới giao thông vận tải để có thể tính toán lựa chọn phương án tối ưu theo yêu cầu của chủ hàng, giải quyết việc tiếp chuyển giữa các phương tiện vận tải và các chứng từ hàng hoá liên quan đến quá trình vận chuyển, ngoài ra cũng phải hiểu biết pháp luật Việt Nam và vận dụng có hiệu quả cũng như các tập quán thương mại quốc tế trong công việc. Đối với thương nhân nước ngoài khi tham gia kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam, bên cạnh phải đáp ứng được các điều kiện chung giống như thương nhân Việt Nam được quy định tại khoản 1, 2 Điều 5 của Nghị định số 140/2007 thì còn phải đáp ứng thêm các điều kiện khác về hình thức tồn tại, tỷ lệ góp vốn và tuân thủ các cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường kinh doanh dịch vụ logistics khi gia nhập WTO. Theo khoản 3 Điều 5 Nghị định số 140/2007, về hình thức tồn tại thì thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics tại Việt Nam chỉ được thành lập công ty liên doanh với tỷ lệ vốn góp trong mỗi công đoạn của hoạt động logistics là khác nhau, cụ thể: Đối với trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%; đối với trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2014; trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51% không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 2014; trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì tỷ lệ vốn góp không quá 49%, hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014. * Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải: Theo Điều 6 Nghị định số 140/2007 thì thương nhân kinh doanh dịch vụ này cũng phải đáp ứng được các điều kiện chung giống như các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chủ yếu: “ là thương nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam” ( Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 140), điều kiện thứ hai có sự khác nhau do liên quan đến lĩnh vực khác nhau, đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics này thì ngoài yêu cầu trên, còn phải: “ Tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp luật Việt Nam” ( Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 140). Điều đó có nghĩa là thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải đường biển thì sẽ phải tuân thủ các quy định của Bộ luật hàng hải và các văn bản có liên quan như Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển…, hay thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải hàng không thì phải tuân thủ các quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, điều lệ vận chuyển hàng hoá quốc tế của hãng hàng không quốc gia Việt Nam và các văn bản hướng dẫn Luật Hàng khôn dân dụng… Đối với thương nhân nước ngoài khi kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải tại Việt Nam thì bên cạnh việc đáp ứng các điều kiện chung như trên còn phải đáp ứng thêm các điều kiện riêng khác được quy định ở khoản 3 Điều 6 Nghị định số 140/2007 cụ thể: _ Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hải thì chỉ được thành lập công ty liên doanh vận hành đội tàu từ năm 2009, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; được thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2012; _ Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải thuỷ nội địa thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49% _ Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thì thực hiện theo quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam; _ Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường sắt thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49% _ Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ thì được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm 2010; _ Không được thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. * Đối với các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan khác: theo quy định tại Điều 7 của Nghị định số 140/2007 các thương nhân này cũng phải đáp ứng được các điều kiện chung giống như thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chủ yếu đó là phải “ Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam” ( khoản 1 Điều 7 Nghị định số 140/2007) Đối với thương nhân nước ngoài khi kinh doanh dịch vụ logistics này thì ngoài điều kiện chung đó còn phải đáp ứng được những điều kiện cụ thể quy định ở khoản 2 Điều 7 Nghi định số 140/2007 đó là: _ Trường hợp kinh doanh dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật: Đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ thì chỉ được thực hiện dưới hình thức liên doanh sau ba năm hoặc dưới các hình thức khác sau năm năm, kể từ khi doanh nghiệp được phép kinh doanh các dịch vụ đó. Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận tải. Việc thực hiện dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng. _ Trường hợp kinh doanh dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ thương mại bán lẻ thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ. _ Không được thực hiện các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. Như vậy để có thể là thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics các thương nhân phải đáp ứng rất nhiều điều kiện, và ở loại hình dịch vụ nào thì các thương nhân ngoài việc phải đáp ứng các yêu cầu chung còn phải đáp ứng các điều kiện riêng của dịch vụ ấy theo quy định của pháp luật chuyên ngành. 2.2/ Quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ dịch vụ logistics 2.2.1/ Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là một nội dung cơ bản của quy định pháp luật về dịch vụ logistics. Quyền và nghĩa vụ này được nằm rải rác trong các quy định của hệ thống pháp luật chung và các quy định của hệ thống pháp luật chuyên ngành điều chỉnh dịch vụ này. Theo quy định tại Điều 235 LTM 2005 thì các chủ thể kinh doanh dịch vụ logistics có quyền thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ. Tức là pháp luật bao giờ cũng ưu tiên sự thoả thuận cho các chủ thể lên hàng đầu. Trong trường hợp các chủ thể không thoả thuận được thì theo quy định họ có các quyền và nghĩa vụ tại Điều 235. Cụ thể: * Quyền được hưởng thù lao và chi phí hợp lý khác từ việc thực hiện dịch vụ. Mức thù lao dịch vụ do các bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng. Mức thù lao này có thể đựoc xác định theo số tiền tuyệt đối hoặc theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá. Mức thù lao do các bên thoả thuận và phụ thuộc vào nội dung, mức độ phức tạp của công việc giao nhận hàng hoá mà khách hàng uỷ thác cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá thực hiện. Ngoài tiền thù lao, người làm dịch vụ logistics có thể yêu cầu khách hàng thanh toán các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc thực hiện dịch vụ nếu điều này được các bên thoả thuận trong hợp đồng Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao và các khoản chi phí hợp lý khác, người làm dịch vụ logistics có quyền cầm giữ và định đoạt hàng hoá. Theo Điều 239 LTM 2005 thì: “ thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một số lượng hàng hoá nhất định và các chứng từ liên quan đến số lượng hàng hoá đó để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng”. Tuy nhiên, quyền cầm giữ hàng hóa chỉ phát sinh khi có các điều kiện sau: + Khách hàng không thanh toán nợ đã đến hạn thanh toán cho người làm dịch vụ logistics. + Người làm dịch vụ chỉ được quyền cầm giữ số lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị nợ mà khách hàng chưa thanh toán, không được vượt qúa giá trị khoản nợ đó. + Người làm dịch vụ phải thông báo bằng văn bản ngay cho khách hàng về việc cầm giữ hàng hoá. Quyền định đoạt hàng hoá cầm giữ của người làm dịch vụ logistics chỉ phát sinh nếu sau thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng hoá hoặc chứng từ liên quan đến hàng hoá, nếu khách hàng không trả tiền nợ thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt hàng hoá hoặc chứng từ đó theo quy định của pháp luật, trong trường hợp hàng hoá có dấu hiệu bị hư hỏng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt hàng hoá ngay khi có bất kỳ khoản nợ đến hạn nào của khách hàng. Việc định đoạt hàng hoá cầm giữ phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành đó là, trước khi định đoạt hàng hoá, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải thông báo ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hoá đó. Trường hợp cầm giữ và định đoạt hàng hoá sai trái gây thiệt hại cho khách hàng thì người làm dịch vụ logistics phải bồi thường theo quy định của pháp luật * Bên cạnh quyền thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cũng phải có nghĩa vụ thực hiện các công việc theo đúng thoả thuận với khách hàng. Đây được coi là nghĩa vụ cơ bản nhất của người làm dịch vụ logistics để nhằm đảm bảo được quyền lợi của khách hàng. Các công việc mà người làm dịch vụ logistics phải thực hiện có thể đã được thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ logistics, hoặc được khách hàng hướng dẫn cụ thể trên cơ sở các quy định chung của hợp đồng. Về nguyên tắc thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải làm theo đúng những chỉ dẫn của khách hàng. Tuy nhiên để đảm bảo lợi ích cho khách hàng thì theo điểm b, c khoản 1Điều 235 LTM 2005 quy định: “ Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng; Khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hoặc toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn”. Ngoài ra thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics còn phải có nghĩa vụ thực hiện các công việc cho khách hàng trong một thời gian hợp lý khi mà các bên không có thoả thuận. Riêng đối với dịch vụ logistics liên quan đến vận tải thì thương nhân còn phải có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải. Các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics ngoài các quyền và nghĩa vụ đã nêu ở trên được quy định trong LTM 2005 thì các thương nhân này còn có các quyền và nghĩa vụ cụ thể được quy định trong các Luật chuyên ngành. Chẳng hạn, đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics vận chuyển đường biển thì nghĩa vụ của họ được quy định tại Điều 75 Bộ luật hàng hải: 1. Người vận chuyển phải mẫn cán để trước và khi bắt đầu chuyến đi, tàu biển có đủ khả năng đi biển, có thuyền bộ thích hợp, được cung ứng đầy đủ trang thiết bị và vật phẩm dự trữ, các hầm lạnh và khu vực khác dung để vận chuyển hàng hoá có điều kiện nhận, vận chuyển và bảo quản hàng hoá phù hợp với tính chất của hàng hóa 2. Người vận chuyển chịu trách nhiệm về bốc xếp hàng, dỡ hàng cẩn thận và thích hợp, chăm sóc chu đáo trong quá trình vận chuyển 3. Người vận chuyển phải thông báo trong thời gian hợp lý cho người giao hàng biết trước về nơi bốc hàng lên tàu biển, thời điểm mà tàu sẵn sang nhận hàng và thời hạn tập kết hàng hoá. Việc thông báo này không áp dụng với tàu chuyển tuyến, trừ trường hợp lịch tàu có sự thay đổi. Như vậy căn cứ từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể cũng như việc thực hiện một hay nhiều chuỗi dịch vụ logistics mà các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền, nghĩa vụ quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau. Ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định ở các văn bản pháp luật trong nước thì quyền và nghĩa vụ của các thương nhân kinh doanh dịch vụ này còn được quy định trong các công ước quốc tế, các điều ước mà Việt Nam gia nhập, ký kết như Công ước của Liên Hợp Quốc về vận tải hàng hoá quốc tế đa phương thức năm 1980, công ước Kyoto. 2.2.2/ Quyền và nghĩa vụ của khách hàng Khách hàng khi sử dụng dịch vụ logistics, với tư cách là một bên trong quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics thì cũng được quyền thoả thuận các quyền và nghĩa vụ đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Những gì các bên đã thoả thuận trong hợp đồng mà không trái với pháp luật, đạo đức xã hội thì được pháp luật tôn trọng. Trường hợp các bên không có thoả thuận thì quyền, nghĩa vụ của khách hàng sẽ áp dụng theo quy định trong Điều 236 LTM cụ thể: _ Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng; _ Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics; _ Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hoá cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics _ Đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hoá theo hợp đồng mua bán hàng hoá, trừ trường hợp có thoả thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện công việc này _ Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường hợp do lỗi của mình gây ra; _ Thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến hạn thanh toán. 2.3/ Trách nhiệm của người làm dịch vụ logistics Khi một bên không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ hợp đồng gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm hợp đồng. Theo quy định từ Điều 297 đến Điều 314 LTM 2005 thì trách nhiệm được đặt ra có thể là buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng, tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng. LTM có một số quy định riêng về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng logistics như sau: Thứ nhất, Về giới hạn trách nhiệm: Điều 238 LTM 2005 quy định: “ Trừ khi các bên có thoả thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hoá”. Theo quy định này, giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là một ngoại lệ của chế tài bồi thường thiệt hại trong hoạt động thương mại nói chung khi Điều 302 LTM 2005 quy định: “ Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Và theo nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật dân sự thì bên vi phạm hợp đồng gây ra thiệt hại bao nhiêu thì phải chịu trách nhiệm bồi thường bấy nhiêu. Nhưng riêng đối với hoạt động kinh doanh logistics, thương nhân lại được hưởng giới hạn trách nhiệm không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hoá. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đều được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm này. Trong trường hợp “ nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm do thương nhận kinh doanh dịch vụ logistics cố tình hành động hoặc không hành động”, thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ không được hưởng giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Để cụ thể hoá các quy định này, tại Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định chi tiết về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quy định về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải như sau: 1. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới hạn trách nhiệm trong lĩnh vực vận tải. 2. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không thuộc phạm vi khoản 1 Điều này do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận thì thực hiện như sau: a) Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về giá trị của hàng hoá thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường. b) Trường hợp khách hàng đó thông báo trước về giá trị của hàng hoá và được thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics xác nhận thì giới hạn trách nhiệm là toàn bộ giá trị của hàng hoá đó. 3. Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác nhau thì giới hạn trách nhiệm của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất. Theo khoản 1 điều này thì trong lĩnh vực vận tải, giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh vận tải phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về vận tải, ví dụ: giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh vận tải đa phương thức được quy định tại Điều 121 Bộ luật hàng hải: “ Trường hợp hàng hoá bị mất, hư hỏng xảy ra ở một phương thức vận tải nhất định của quá trình vận chuyển, các quy định của pháp luật tương ứng điều chỉnh phương tiện vận tải đó của vận tải đa phương thức được áp dụng đối với trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức”, tức khi một người kinh doanh vận tải đa phương thức, họ sử dụng rất nhiều phương tiện vận tải khác nhau. Trường hợp họ sử dụng tàu biển để vận chuyển hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm cụ thể được quy định tại Bộ luật hàng hải, Nghị định 115/2007, hay trong trường hợp họ sử dụng ô tô để vận chuyển thì giới hạn trách nhiệm của họ Luật giao thông đường bộ…Tuy nhiên, giới hạn trách nhiệm do các bên thoả thuận vẫn được coi là ưu tiên số một trong hợp đồng. Trong trường hợp họ không thoả thuận thì nhà làm luật cũng đưa ra một mức tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường khi khách hàng không thông báo trước về giá trị của hàng hoá. Trường hợp khách hàng đã có thông báo trước về giá trị của hàng hoá thì “ giới hạn trách nhiệm là toàn bộ giá trị của hàng hoá đó”. Thứ hai, Về các trường hợp miễn trách nhiệm: Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm hợp đồng trong các trường hợp sau: - Việc vi phạm hợp đồng không phải do lỗi của họ. Ví dụ: Người làm dịch vụ đã làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền; hàng hoá bị hư hỏng do khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu hàng hoá không phù hợp, do khuyết tật của hàng hoá, do lỗi của người vận chuyển khác. - Các lý do khách quan nằm ngoài tầm kiểm soát của người làm dịch vụ như: Các trường hợp bất khả kháng ( thiên tai, địch họa), đình công hay do thay đổi chính sách pháp luật. 2.4/ Quy định về quản lý nhà nước về logistics. Quản lý nhà nước đối với hoạt động logistics có vai trò rất quan trọng, nó có vai trò hỗ trợ và định hướng cho các doanh nghiệp phát triển. Vì vậy tại Điều 9 Nghị định số 140/2007/NĐ-CP đã có quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý của các bộ ngành liên quan đối với lĩnh vực này. Theo đó có rất nhiều bộ, ngành cùng tham gia vào quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics như: Bộ Giao thông vận tải, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ Công thương, Bộ tài chính…Trong đó, Bộ Công thương giữ vai trò chủ đạo “ Bộ Công thương chịu trách nhiệm chung trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics” ( khoản 1 Điều 9 Nghị định số 140). Các bộ, ngành chuyên môn như: Bộ giao thông vận tải, Bộ Công thương, Bộ thông tin và truyền thông, Bộ kế hoạch và đầu tư… trong phạm vi quyền hạn của mình sẽ có trách nhiệm quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của mình. Đồng thời các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cũng phải có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành chuyên môn để thực hiện tốt công tác quản lý về kinh doanh dịch vụ logistics. III/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS Ở VIỆT NAM CŨNG NHƯ CÁC QUY ĐỊNH ĐIỀU CHỈNH VỀ LOGISTICS VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LOGISTICS. 1/ Thực tế hoạt động logistics ở Việt Nam Quy mô doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh doanh manh mún. Nguồn lợi hàng tỷ đô la này đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có một phần rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ và đang ngày càng phình to của thị trường dịch vụ logistics. Theo tính toán mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong logistics là vận tải biển thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này thực sự là một thua thiệt lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi có đến 90% hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển. Năm 2006 lượng hàng qua các cảng biển Việt Nam là 153 triệu tấn và tốc độ tăng trưởng lên đến 19,4%. Đây thực sự là một thị trường mơ ước mà các tập đoàn nước ngoài đang them muốn và tập chung khai phá. Hiện tại, trên cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực logistics. Trong đó, VIFFAS có 97 hội viên ( 77 hội viên chính thức và 20 hội viên liên kết). Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng/ doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam hiện chỉ đáp ứng được ¼ nhu cầu thị trường logistics, và mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ khổng lồ này. Ngành công nghiệp logistics của Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất. Hiện nay hạ tầng cơ sở logistics tại Việt Nam nói chung còn nghèo nàn, quy mô nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam bao gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên, chất lượng của hệ thống này là không đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể thạm gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong quá trình container hoá nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container. Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng ( máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân sơn nhất là đón được các máy bay trở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hoá, khu vực hoạt động cho đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, việc vận chuyển các container còn khó khăn, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải đường sắt không được vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hoá. Hiện nay, nước ta đã ra nhập WTO, hạn định 2009 mở của lĩnh vực logistics không còn xa. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Điều này đặt doanh nghiệp Việt Nam trước thách thức cạnh tranh găy gắt trên sân nhà. Áp lực cạnh tranh rất lớn từ việc hội nhập quốc tế, sự lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi hỏi ngày càng tăng từ phía khách hàng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp logistics của Việt Nam cần phải cố gắng nỗ lực rất nhiều. 2/ Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics Cùng với những khó khăn từ thực tế hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics, thì hiện nay trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về dịch vụ logistics vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc đó là: Thứ nhất, về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics: Theo Điều 5 Nghị định số 140 quy định yêu cầu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải “ có đầy đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng nhu cầu” trên thực tế chưa đáp ứng được. Nhìn từ hoạt động thực tế kinh doanh dịch vụ logistics, các thương nhân có thể tham gia một hoặc nhiều công đoạn của chuỗi dịch vụ này. Có thể lấy ví dụ thương nhân đăng ký làm đại lý thủ tục hải quan hay như thương nhân làm trung gian thuê tàu chủ tàu chẳng hạn. Thế nào là có đủ phương tiện, kỹ thuật đảm bảo tiêu chuẩn thì không có một văn bản nào đưa ra tiêu chí cả, điều này sẽ rất khó để thẩm định. Vì vậy, sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trong việc xác định tiêu chuẩn, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, mỗi nơi, mỗi ngành xác định một kiểu. Thứ hai, Nghị định số 140/2007/ NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết LTM về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đã được coi là hành lang pháp lý quan trọng để phát triển loại hình dịch vụ này tại Việt Nam. Tuy nhiên việc nghị định này dành riêng một điều ( trong số 12 điều của nghị định) để đề cập đến điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải cho thấy, Nghị định chưa bao quát được hết hoạt động dịch vụ logistics mà mới chỉ chuyên về lĩnh vực vận tải. Thứ ba, trong quy định tại Điều 235 LTM 2005 về quyền, nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có đề cập đến quyền được hưởng “ thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác”. Tuy nhiên, “ chi phí hợp lý khác” là chi phí gì thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xác định trên thực tế và có thể ảnh hưởng đến lợi ích của một trong các bên của quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics. Hay đối với “ lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng” mà thương nhân có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, thì hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Vì vậy việc xác định thế nào là lý do chính đáng nếu không được các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng thì rất khó giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Thứ tư, về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tại Điều 238 LTM 2005 có quy định: “ trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhận kinh doanh dịch vụ logistics không vượt quá giới hạn tổn thất với khách hàng”. Tuy nhiên, ở đây lại không nói rõ giới hạn tổn thất cho khách hàng là giới hạn tổn thất hiện tại hay tương lai. Vì thực tế có những tổn thất có tính “ tương lai”, chẳng hạn do hàng hoá bị giao chậm ảnh hưởng đến thu nhập hình thành trong tương lai của khách hàng. Cũng liên quan đến vấn đề này, trong Điều 8 Nghị định số 140/2007 có xác định giới hạn trách nhiệm tối đa trong trường hợp các bên không có thoả thuận và khách hàng không có thông báo trước về giá trị của hàng hoá bằng một con số cụ thể “ tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường”. Việc định lượng giới hạn trách nhiệm bằng một số lượng cụ thể như vậy sẽ tạo cho việc áp dụng trên thực tế được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra một bất cập rất lớn đó là trong nhiều trường hợp khối lượng hàng hoá vận chuyển cho khách hàng bị mất mát, hư hỏng lớn hơn nhiều so với mức 500 triệu đồng. Và theo quy định này thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, mở cửa như hiện nay, quy định này sẽ làm hạn chế khách hàng nước ngoài sử dụng dịch vụ logistics liên quan đến vận tải để vận chuyển hàng hoá. Thứ năm, Trong quy định về phân loại dịch vụ logistics tại Điều 4 Nghị định số 140/2007 thì dịch vụ logistics được phân làm 3 loại: Dịch vụ logistics chủ yếu, dịch vụ logistics liên quan đến vận tải và các dịch vụ liên quan khác. Việc phân loại như trên mặc dù rất rõ ràng, cụ thể tuy nhiên vẫn không bao quát được hết các dịch vụ logistics khác hiện đang tồn tại, mà mới chỉ nghiêng về các dịch vụ logistics mang tính vận tải. Ngay trong dịch vụ logistics chủ yếu có dịch vụ bốc xếp, dịch vụ đại lý vận tải, dịch vụ lưu kho, lưu bãi…hầu như chỉ để phục vụ cho dịch vụ logistics liên quan đến vận tải. Đối với dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, Nghị định đề cập đến 6 hình thức dịch vụ vận tải đang được tiến hành trên thực tế. Việc quy định liệt kê như vậy bao giờ cũng dẫn đến thiếu vì có những dịch vụ trong tương lai sẽ được hình thành hoặc có những hình thức vận tải đang tồn tại nhưng chưa được coi là hình thức dịch vụ logistics liên quan đến vận tải. Cũng theo quy định này “ dịch vụ bưu chính” được coi là dịch vụ logistics liên quan. Tuy nhiên, Nghị định số 128/2007 về dịch vụ chuyển phát lại không điều chỉnh hoạt động kinh doanh và sử dụng “ …dịch vụ logistics; dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế; dịch vụ giao nhận bằng phương thức vận tải đường không, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường sắt, đường bộ” (Điều 1). Vấn đề chưa rõ về pháp luật này cần được các nhà lập pháp làm rõ. Thứ sáu, quy định về quản lý nhà nước đối với dịch vụ logistics hiện nay theo Điều 9 Nghị định số 140 thì có rất nhiều các Bộ, Ngành liên quant ham gia quản lý nhưng pháp luật lại chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền của từng cơ quan. Điều này sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn, chồng chéo lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý. 3/ Phương hướng hoàn thiện pháp luật hiện hành về dịch vụ logistics Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam phát triển, đem lại một nguồn lợi nhuận khổng lồ cho nền kinh tế. Đặc biệt để thực hiện cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ logistics vào năm 2009 của nước ta khi gia nhập WTO, thì việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp với xu thế hội nhập là một điều rất cần thiết. Trong phạm vi hiểu biết của mình em xin đưa ra một số phương hướng sau: Thứ nhất, cần tiến hành rà soát, sửa đổi các quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh dịch vụ logistics, mà trước tiên là các quy định về dịch vụ logistics trong LTM 2005 và văn bản hướng dẫn Nghị định số 140 cụ thể: - Về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics: Nghị định số 140 nên có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề có đầy đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân việc đáp ứng yêu cầu đối với từng loại dịch vụ logistics. Và nên đưa ra một tiêu chí xác định như thế nào là đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật. Đồng thời Nghị định 140 cũng nên quy định thêm về điều kiện kinh doanh đối với các hoạt động dịch vụ logistics khác ngoài dịch vụ logistics liên quan đến vận tải như điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, bán lẻ… - Liên quan đến quyền nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, LTM 2005 nên quy định cụ thể chi phí hợp lý khác ở đây là bao gồm những chi phí gì, để giúp cho các bên hạn chế được tranh chấp xảy ra khi xác định chi phí phát sinh từ việc thực hiện dịch vụ logistics. Cũng như quy định về các trường hợp được coi là “ lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng”. Chẳng hạn lý do chính đáng có thể là do thời tiết, hay vì một lý do khách quan nào khác để đảm bảo lợi ích cho khách hàng thương nhân kinh doanh dịch vụ này không làm theo các chỉ dẫn của khách hàng. - Về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tại Điều 238 LTM: nên bổ sung quy định rõ giới hạn trách nhiệm ở đây là “ không vượt quá giới hạn tổn thất thực tế với khách hàng”. Điều này được xuất phát từ cơ sở trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định trong LTM 2005 và Bộ luật dân sự 2005 Đối với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8 Nghị định số 140 về giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doạnh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, thì không nên quy định bằng một con số định lượng cụ thể là “ tối đa 500 triệu đồng” mà nên quy định một tỷ lệ nhất định như 2/3 hoặc 3/4 so với hàng hóa vận chuyển tuỳ từng trường hợp khác nhau - Về phân loại dịch vụ logistics theo Điều 4 Nghị định số 140 thì nên quy định liệt kê theo hướng mở bằng việc cho thêm câu “ các dịch vụ vận tải khác hoặc các dịch vụ logistics liên quan khác do pháp luật quy định” vào cuối mỗi loại dịch vụ logistics, để tránh tình trạng “thiếu” khi phân loại dịch vụ logistics theo hướng liệt kê. - Về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics thì Nghị định 140 nên quy định làm sao cho rõ ràng về thẩm quyền quản lý của các Bộ, Ngành có liên quan để tránh tình trạng chồng lấn nhau trong việc tiến hành quản lý nhà nước về dịch vụ logistics. Thứ hai, ban hành các văn bản mới phù hợp với thực tế và các cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ logistics thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế, các hiệp định đa phương, hiệp định song phương. Sau đó nội luật hoá các văn bản trên. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở Việt Nam chưa thực sự mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực thương mại dịch vụ. Có những dịch vụ chưa có quy định cho người nước ngoài được kinh doanh ( viễn thông, hàng không…). Có những phân ngành dịch vụ logistics còn chưa có các quy định pháp luật cụ thể như dịch vụ đóng gói, dịch vụ hội nghị…vì chưa có các quy định cụ thể nên rất khó khăn cho việc cấp đăng ký kinh doanh cho các nhà kinh doanh các dịch vụ này. Một số dịch vụ còn sử dụng những tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài…Vì vậy trong thời gian tới cần ban hành các văn bản để điều chỉnh các loại hình dịch vụ này. C/ KẾT BÀI Qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về dịch vụ logistics, chúng ta đã thấy được đây là một hoạt động thương mại rất đa dạng gồm một chuỗi các dịch vụ giao nhận hàng hoá: từ lưu kho, lưu bãi đến vận chuyển, làm các thủ tục hải quan…Nói cách khác tức là người kinh doanh dịch vụ logistics là kinh doanh tổng hợp và chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật, văn bản luật khác nhau. Vì vậy để tạo sự thống nhất, chặt chẽ trong các văn bản pháp luật, để là một điều rất cần thiết. Để từ đó tạo thúc đẩy cho dịch vụ logistics phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam hấp dẫn nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo nên nguồn lợi nhuận to lớn cho nền kinh tế cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp. Nhất là trong xu hướng hội nhập, mở cửa thị trường hiện nay, để tận dụng được cơ hội thì bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều vì một thực tế đang diễn ra ở hầu hết các doanh nghiệp trong nước là còn non yếu, chưa có sự liên kết, liên minh với nhau, hoạt động còn mang tính làm thuê. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Giáo trình Luật thương mại - Trường Đại học Luật Hà Nội ( tập 2). Nguyễn Viết tý ( chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006 2/ Giáo trình Luật thương mại – Bùi Ngọc Cường ( chủ biên). Nxb. Giáo dục, 2008 3/ Luật thương mại năm 2005 4/ Bộ luật dân sự năm 2005 6/ Bộ luật hàng hải năm 2005 7/ Luật giao thông đường bộ 2001 8/ Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 9/ Pháp lệnh bưu chính và viễn thông năm 2002 10/ Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 của Chính Phủ quy định chi tiết Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. 11/ Khoá luận tốt nghiệp năm 2009 về quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ logistics. 12/ Tạp chí, một số văn bản hướng dẫn khác và các trang web có liên quan.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ Luật Thương mại (modul 2).doc