CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
I. Việc làm và tạo việc làm
1. Việc làm.
a) Khái niệm và phân loại.
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất nhiều định nghĩa nhằm làm sáng tỏ: “việc làm là gì? ”. Và ở các quốc gia khác nhau do ảnh hưởng của nhiều yếu tố (như điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp ) người ta quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế không có một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
· Theo bộ luật lao động_ Điều 13: “ Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Trên thực tế việc làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức:
+ Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho công việc đó.
+ Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để tiến hành công việc đó.
+ Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc 1 thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Khái niệm trên nói chung là khá bao quát nhưng chúng ta cũng thấy rõ hai hạn chế cơ bản. Hạn chế thứ nhất: hoạt động nội trợ không được coi là việc làm trong khi đó hoạt động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất không hề nhỏ. Hạn chế thứ hai: khó có thể so sánh tỉ lệ người có việc làm giữa các quốc gia với nhau vì quan niệm về việc làm giữa các quốc gia có thể khác nhau phụ thuộc vào luật pháp, phong tục tập quán, Có những nghề ở quốc gia này thì được cho phép và được coi đó là việc làm nhưng ở quốc gia khác lại bị cấm. Ví dụ: đánh bạc ở Việt Nam bị cấm nhưng ở Thái Lan, Mỹ đó lại đựơc coi là một nghề thậm chí là rất phát triển vì nó thu hút khá đông tầng lớp thượng lưu.
· Theo quan điểm của Mac: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vỗn, tư liệu sản xuất, công nghệ, ) để sử dụng sức lao động đó).
Sức lao động do người lao động sở hữu. Những điều kiện cần thiết như vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ, có thể do người lao động có quyền sở hữu, sử dụng hay quản lý hoặc không. Theo quan điểm của Mac thì bất cứ tình huống nào xảy ra gây nên trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm hay mất việc làm.
Tuỳ theo các mục đích nghiên cứu khác nhàu mà người ta phân chia việc làm thành nhiều loại.
Theo mức độ sử dụng thời gian làm việc ta có việc làm chính và việc làm phụ
+ Việc làm chính: là việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian nhất hay có thu
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Việc làm và tạo việc làm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng nên đặc trựng của xuất khẩu lao động trong giai đoạn này là xuất khẩu lao động chịu sự tác động của quy luật thị trường, mang tính cạnh tranh cao hơn và chắc chắn sẽ hiệu quả hơn nhiều. Các kết quả đạt đựơc của xuất khẩu lao động trong giai đoạn này là:
Số lượng lao động đựơc đưa đi làm việc có thời hạn ở nứơc ngoài và số thị trường xuất khẩu lao động.
Trong thời gian qua chúng ta đã đưa đựơc tổng số 279.008 lao động đi làm việc tại 46 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chúng ta có bảng sau:
Bảng 5: Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Năm
Số lao động(người)
Tăng so với năm trước(%)
Thị trườngXKLĐ
1991
1.020
---
1992
810
-20,59
12
1993
3.960
388,89
1994
9.230
133,1
1995
10.050
8,88
15
1996
12.660
25,97
1997
18.470
45,89
1998
12.240
-33,73
27
1999
21.240
78,19
38
2000
31.468
44,28
40
2001
36.168
14,93
2002
46.122
27,52
2003
75.000
62,6
46
Tổng
279.008
46
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn.
Qua bảng trên chúng ta có thể nhận thấy một số điểm mốc quan trọng trong hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.
Năm 1992, 1998 tỷ lệ tăng số lao động được đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài so với năm trước đó đều sụt giảm một cách nghiêm trọng. Liên hệ với bối cảnh kinh tế trong nước, khu vực và thế giới trong khoảng thời gian đó ta giải thích như sau:
+ Cuối thập kỉ 80 đầu thập kỉ 90 sau sự sụp đổ của Liên Xô, hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu cũng liên tiếp sụp đổ. Sau biến cố chính trị này tất cả lao động nước ngoài ở các nước này đều phải trở về nước trong đó có lao động Việt Nam. Mặt khác, từ trước cho đến thời điểm đó Liên Xô và các nước Đông Âu vốn là thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam nên khi xảy ra biến cố này Việt Nam thực sự rơi vào tình thế bị động trong cả việc giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người lao động về nước và việc tiếp tục duy trì hoạt động xuất khẩu lao động. Vì thế số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài năm 1992 chỉ dừng lại ở con số 810 người.
+ Năm 1997 diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu á mà đầu tiên là ở ThaiLan. Cuộc khủng hoảng kéo theo nó là sự sụp đổ, trì trệ nền kinh tế của các nước trong khu vực, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động nước ngoài tại các nước này.
Bảng 2: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực tại một số nứơc châu á.
Nước, lãnh thổ
Tỷ lệ tăng trưởng GDP(%)
Tỷ lệ thất nghiệp(%)
Sự giảm giá đồng tiền
6/97-5/98
Số lao động nứơc ngoài
Chính sách điều chỉnh về lao động
95-97
1998
1997
1998
Nhật Bản
2
2,0
3,4
4,3
-
1354
+Duy trì c/t TNS.
+G/hạn HĐ về ĐT
Singapo
7,8
2,5
1,8
-
-19 (12/97)
H/chế nhập l/đ phổ thông
Hàn Quốc
7,2
<1,0
2,6
6,5
-55 (12/97)
210
Tạm dừng
Malaysia
8,6
2,0
2,5
3,7
-48(1/98)
2500
Hồi hương lao động bất hợp pháp
Đài Loan
297
Nhập lao động xd, dịch vụ các nước ĐNA
Hồng Kông
5,00
3,5
2,9
4,0
Hạn chế
Nguồn: Niên giám thống kê di dân châu á.
Những năm sau đó tỷ lệ tăng so với năm trước được khôi phục (93, 94) và rồi lại có xu hướng giảm dần. Điều đó cho thấy:
+ Thứ nhất, chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng các biện pháp khắc phục kịp thời, nhạy bén với thời cuộc để chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Trong thời gian ngắn hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam lại nhanh chóng đi vào sự ổn định.
+ Thứ hai, hoạt động xuất khẩu lao động thực sự đã bị yếu tố thị trường chi phối nghĩa là phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu trên thị trường, xuất hiện tính cạnh tranh gay gắt với các nứơc xuất khẩu lao động khác, đặc biệt là các nứơc trong khu vực như ThaiLan, Philippin, Indonexia. Dù vậy, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam vẫn khởi sắc. Năm 2003 số lao động được đưa đi làm việc ở nứơc ngoài chiếm tới 26,88% tổng số lao động trong cả giai đoạn 1990-2003.
Về thị trường xuất khẩu lao động: không ngừng đựơc mở rộng và khai thác. Từ chỗ chỉ có 12 thị trường năm 1992 lên tới 46 thị trường vào năm 2003. Những kết quả đó cho thấy trong tương lai hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ còn gặt hái nhiều thành công hơn nữa.
Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động.
Hiện nay lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đang tham gia lao động ở 30 nhóm ngành, nghề khác nhau như: xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt, máy, chế biến thuỷ sản, vận tải biển, đánh bắt hải sản, dịch vụ, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, Cụ thể là: 45% lao động làm trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ, 26% trong lĩnh vực xây dựng, 20% trong lĩnh vực cơ khí, 6% trong lĩnh vực nông nghiệp và chế biến thuỷ sản, 3% trong lĩnh vực khác.
Tỷ lệ lao động có tay nghề là khoảng 65%; ở một số nước như Nhật Bản, Libia tỷ lệ này đạt gần 100%. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu lao động phổ thông có xu hướng giảm và tăng nhu cầu lao động có tay nghề (trước khi đi làm việc ở nứơc ngoài đã được đào tạo).
Bảng 6: Lao động trong các ngành giai đoạn 1991-1999.
Lĩnh vực
Số lao động(người)
Tỷ lệ lao động (%)
Xây dựng
23.000
29,43
Dệt may
11.000
14,08
Thuyền viên, đánh cá
14.500
18,56
Các nghề p/thông khác
29640
37,93
Tổng
78140
100
Nguồn: tổng hợp từ nhiều nguồn
Yêu cầu một số ngành nghề mà các nước nhập khẩu lao động đòi hỏi.
+ Thuyền viên: cường độ làm việc cao dù là thuyền trưởng hay thuyền viên, tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, đòi hỏi người thuyền viên phải có thể lực tốt, chịu được sóng gió, có tay nghề, có tác phong công nghiệp và vốn ngoại ngữ khá để thực hiện chính xác mệnh lệnh của thuyền trưởng.
Thuyền viên Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được những yêu cầu trên đây.
+ Thợ xây dựng: là loại lao động nặng nhọc chủ yếu diễn ra ngoài trời, công nghệ và máy móc xây dựng khá hiện đại, tổ chức thi công trên công trường rất khoa học, kỉ luật lao động nghiêm khắc, tiền công không cao, bình quân 250 USD/ người/tháng.
Thợ lao động xây dựng Việt Nam khéo léo, dễ tiếp thu công nghệ nhưng tính vô kỷ luật cao nên chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số lao động bị trả về nước.
+ Công nhân nhà máy: làm việc trong các nhà máy có trình độ tự động và chuyên môn hoá cao, đòi hỏi người lao động phải có sức chịu đựng, cường độ lao động cao, tính bền bỉ trong công việc cao, ý thức kỷ luật lao động cao để hoà nhập với công nhân nước khác. Thu nhập bình quân 500 USD/người/ tháng _ bằng 50-60% thu nhập của công nhân nước sở tại.
Lao động Việt Nam ở nhóm này nói chung trình độ kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu nhưng trình độ ngoại ngữ kém, vô kỷ luật_ nhiều lao động phá vỡ hợp đồng bỏ ra làm ngoài.
+ Lao động giúp việc gia đình: Yêu cầu ngoại ngữ tốt để giao tiếp hàng ngày với đối tượng phục vụ, phải sử dụng thành thạo các dụng cụ sinh hoạt, trung thực, tận tụy với công việc.
Lao động Việt Nam làm việc trong lĩnh vực này chưa nhiều, một phần do ngoại ngữ yếu, một phần do quan niệm xã hội Việt Nam mấy năm gần đây mới coi giúp việc gia đình là một nghề. Tuy nhiên lao động Việt Nam trong lĩnh vực này cũng được đánh giá khá cao.
Thị trường xuất khẩu lao động.
Nếu như giai đoạn 1980-1990: Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam thì đến giai đoạn 1991-2003 thị trường đó lại là: Hàn Quốc, Nhật Bản, Lybia, CHDCND Lào. Các thị trường mới tiềm năng như: Đài Loan, Malaysia. Thị trường Trung Đông và Châu Phi: chủ yếu là xuất khẩu chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục. Chúng ta đang dần tiến đến các thị trường khó tính nhưng đầy sức hấp dẫn như Mỹ, Nga, Canada, Singapor, Hylap, CH Ailen. Sau đây là tình hình cụ thể về lao động Việt Nam tại một số thị trường:
Tại Trung Đông.
+ Lybia: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1990 thông qua hai hình thức:
Một là, hợp tác trực tiếp theo thoả thuận giữa bộ quốc phòng hai nước. 1990-1994 đưa gần 2000 lao động cơ khí và lắp ráp sang làm việc tại các nhà máy của Lybia. Năm 1994 sự hợp tác tạm dừng. Năm 1997 chương trình hợp tác được tiếp nối và triển khai với quy mô tính đến năm 2002 là 1000 người.
Hai là, hợp tác gián tiếp thông qua một số công ty của Hàn Quốc, CHLB Đức, Hylap, Thụy Điển, Manta, Ba Lan trúng thầu tại Lybia. Từ năm 1992-2002 có 9000 người lao động trong đó 99% làm việc trong lĩnh vực xây dựng, còn lại là nghề khác. Thu nhập bình quân khoảng 210 USD/ người/ tháng.
Tại thị trường này ít xảy ra các vấn đề với người lao động và đặc biệt là không có lao động bỏ trốn ra làm việc ngoài hợp đồng.
+ Coet: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ 1996.
Từ 1996-2002 mới có 4 công ty (VINACONEX, CONSTREXIM, OLECO, LOD) ký kết và thực hiện hợp đồng nhận thầu xây dựng trên 1000 biệt thự 2 tầng, đưa được trên 200 lao động đi làm việc tại Coet. Tuy nhiên, do đối tác chưa thực sự nghiêm túc trong thực hiện hợp đồng. Mặt khác thời tiết nắng nóng, vật liệu cũng quá nặng so với sức khoẻ của người lao động Việt Nam, kỹ thuật khác xa với Việt Nam,…nên đến nay đây vẫn là thị trường bỏ ngỏ.
+ Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất (UAE): bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1995.
Trong giai đoạn 1995- 2002 Việt Nam đã đưa được trên 1000 lao động đi làm việc ở khu vực này. Số ở lại tính đến năm 2002 là 500 người. Ngành nghề chủ yếu là may mặc, xây dựng, phục vụ nhà hàng. Thu nhập của công nhân xây dựng khoảng 180-280 USD/ người/tháng, nghề may khoảng 150 USD/ người/tháng.
Tại châu á.
+ Nhật Bản: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1992.
Hình thức hợp tác chủ yếu là thông qua “chương trình tu nghiệp sinh nghề và thực tập kỹ thuật” cho phép lao động Việt Nam (gọi là tu nghiệp sinh) tham gia thu nghiệp nghề và thực hành tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản.
Thị trường Nhật Bản là thị trường khó tính vì: thứ nhất, người Nhật ít thiện cảm với lao động ngụ cư nước ngoài nên có quy định khá ngặt nghèo với lao động làm thuê nước ngoài; thứ hai, đặc điểm nổi bật của thị trường Nhật Bản là chỉ nhận lao động có tay nghề kỹ thuật từ một số cơ sở sản xuất công nghiệp như điện tử, xây dựng,… và lao động phải được học tiếng Nhật trước khi đi.
Nhưng thị trường Nhật Bản cũng rất hấp dẫn bởi mức thu nhập cao. Mức lương cho người học nghề Việt Nam ở năm đầu tiên khoảng 700 USD/ tháng, sau khi thi tay nghề là 800 USD/ tháng. Khi làm thêm giờ người lao động sẽ được trả 150%so với mức lương chính. Từ năm 1992-2002: có 40 doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam phối hợp với tổ chức hợp tác lao động quốc tế Nhật Bản (JITCO) đưa được khoảng 10.000 lao động sang Nhật Bản tu nghiệp, chủ yếu trong lĩnh vực dệt, may, cơ khí, xây dựng phân bố trên khắp nước Nhật. Từ năm 1994 theo thoả thuận về chương trình tiếp nhận tu nghiệp sinh y tá. Theo đó, hàng năm Việt Nam đưa 15-20 người sang học ở một số trường y tá Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp các y tá này đựơc làm việc 4 năm tại bệnh viên Nhật Bản và được hưởng lương + chế độ khác như lao động Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản ít coi trọng tầm vóc, ngôn ngữ của người lao động nước ngoài nhưng lại rất đề cao tính trung thực và kỷ luật trong lao động. Thế nhưng, lao động Việt Nam sang tu nghiệp tại Nhật đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài không ít gây thịêt hại về kinh tế cho cả hai bên và sự mất uy tín cho phía Việt Nam. Trong tương lai do dân số Nhật đang già hoá nên sẽ có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu lao động nhưng chủ yếu là các lao động có trình độ kỹ thuật cao.
+ Hàn Quốc: chính thức đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1993 chủ yếu thông qua chế độ tu nghiệp sinh.
Tính đến năm 2000 có 8 doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam được phép cung ứng TNS cho Hàn Quốc. Đó là: LOD, TRACIMEXCO, TRACODI, VINACONEX, OLECO, IMS, SULECO, SOVILACO đưa được tổng số lao động sang làm việc tại Hàn Quốc là 29.000 người chiếm khoảng 40% thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam kể từ khi thực hiện theo cơ chế mới. Năm 1996 số lao động đưa đi đạt mức kỷ lực ở con số 6.275 người.
Năm
Số lao động (người)
1996
6275
1999
3700
Đầu 2000
5500
2003
Trên 4000
Mức thu nhập bình quân là 500. 000 WON/tháng (trên 400USD/ tháng theo tỷ giá năm 2000: 1USD = 1.100 WON).
Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc thường phải làm các công việc 3D (nặng nhọc, kém hấp dẫn, độc hại) nên thu nhập thường không cao. Với các TNS thì trong 3 tháng đầu chỉ được hưởng mức lương bằng 60-70% lương chính thức. Người lao động nước ngoài trong đó có lao động Việt Nam không được hưởng các quyền lợi về lao động như lao động Hàn Quốc nên nhiều lao động đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài. Năm 2003 có tới 14.000 lao động Việt Nam là lao động bất hợp pháp. Theo ông Phạm Tiến Vân_ đại biện lâm thời đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc “ khoảng 60% số lao động Việt Nam tại Hàn Quốc đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài”.
+ Đài Loan: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm tháng 11/1999.
Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu rất lớn đối với lao động làm việc trong các nhà máy, giúp việc gia đình và khán hộ công. Lao động nước ngoài được hưởng các quyền lợi gần như lao động trong nước, mức tiền công chênh lệch không nhiều. Thời hạn hợp đồng làm việc ở Đài Loan là 2 năm, đựơc gia hạn hợp đồng 1 lần tối đa không quá 1 năm nhưng chi phí môi giới rất cao khoảng 5-6 tháng tiền lương tiết kiệm của người lao động. Tính đến năm 2000 có 139 doanh nghiệp Việt Nam chuyên doanh xuất khẩu lao động được phép cung ứng lao động cho Đài Loan trong đó có 34 doanh nghiệp được phép thí điểm cung ứng lao động khán hộ công và giúp việc gia đình. Cũng trong năm 2000 có 30/139 doanh nghiệp đã ký kết đựơc hợp đồng xuất khẩu lao động đưa được 6000 lao động (3256 nữ) sang làm việc tập trung ở ngành như điện tử, may mặc, dệt, xây dựng, thuyền viên đánh cá, riêng khán hộ công và giúp việc gia đình là 1950 người. Trong năm 2000 có 306 lao động bị trả về nước trước thời hạn chiếm 5,7% số lao động đưa sang. Nguyên nhân 108 người (35,3%) vì lý do sức khoẻ; 127 (41,5%) do tiếng Hoa kém; 11 người (3,59%) vi phạm kỷ luật; 6 người (1,96%) do phía chủ và công ty môi giới không chấp nhận. Từ tháng 11/1999 đến 2002 có 26.500 lao động phân bố ở 28 ngành nghề khác nhau trong đó làm việc sản xuất chế tạo chiếm 50%, giúp việc gia đình và khán hộ công là 32%, thuyền viên la 7%. Thu nhập bình quân là 250-300 USD/tháng. Năm 2003: 1500 lao động Việt Nam bị bắt giữ vì làm ngoài.
+ Malaysia: chính thức hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ cuối tháng 4/2002.
Đây là quốc gia có diện tích bằng diện tích của Việt Nam nhưng dân số chỉ bằng 1/3; tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 8%/năm. Luật pháp Malaysia quy định người lao động nước ngoài ở Malaysia được hưởng sự đối xử như đối với lao động bản xứ về tiền lương và các lợi ích khác. Thời hạn hợp đồng là 3 năm, có thể gia hạn 5 năm đối với lao động tay nghề thấp và 6 năm với lao động tay nghề cao. Thu nhập bình quân khoảng 200 USD/ tháng. Từ tháng 4 đến tháng 8/2002 đưa trên 4000 người đi làm việc, tính bình quân mỗi tháng đưa trên 1000 lao động. Từ tháng 4/2002 đến cuối 2003 có 70 doanh nghiệp được chính phủ cho phép làm thí điểm xuất khẩu lao động sang Malai đã đưa 70.000 lao động đi làm việc, chủ yếu là lao động phổ thông cho lĩnh vực xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Năm 2003 đưa được 40.000 lao động. Đầu năm 2004, hơn 700 lao động Việt Nam trong ngành xây dựng bị mất việc. Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu về lao động có tay nghề và chuyên môn vừa phải, chi phí đi lại thấp. Trong tương lai thị trường Malai có thể tiếp nhận tới 200.000 lao động Việt Nam.
Tóm lại, ta thấy rằng thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam tập trung chủ yếu mới chỉ ở khu vực châu á, chưa phát triển được ở các khu vực khác. Mặt khác, ngay trên chính thị trừơng truyền thống của mình thì tỷ lệ lao động Việt Nam trong tổng số lao động nước ngoài vẫn còn rất thấp.
Doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Năm 1996 mới có 20 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động thì đến năm 2003 con số này đã lên tới 156 trong đó có 15 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu lao động, 141 doanh nghiệp ngành nghề khác được bổ sung chức năng xuất khẩu lao động; cũng trong số này thì có 85 doanh nghiệp thuộc 19 bộ, ngành, cơ quan trực thuộc chính phủ, 57 doanh nghiệp thuộc 31 tỉnh, thành phố, 11 doanh nghiệp thuộc 5 đoàn thể ở trung ương và 3 doanh nghiệp tư nhân đựơc làm thí điểm xuất khẩu lao động. Các công ty có uy tín lớn, đóng góp nhiều cho hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian qua như: công ty SONA, VIETRACIMEX ( thuộc bộ GTVT), VINACONEX ( thuộc bộ xây dựng). Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu quả. Năm 2001, 1 doanh nghiệp đã bị thu hồi giấy phép do vi phạm nghiêm trọng nghị định 152/CP và 4 doanh nghiệp do hoạt động kém hiệu quả; đình chỉ hoạt động của 1 doanh nghiệp; khiển trách, cảnh cáo một số doanh nghiệp; công bố huỷ giấy phép hết thời hạn hoạt động của 7 doanh nghiệp.
Đây chỉ là những con số thống kê trên sổ sách, trên thực tế còn tồn tại rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này không hiệu quả nhưng chưa bị khiển trách và còn rất nhiều doanh nghiệp ma mà các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này chưa nắm rõ hết đựơc.
Cơ chế tài chính.
Trong giai đoạn đầu (1980-1990) người lao động được sự bao cấp từ phía nhà nước và nước tiếp nhận lao động nên vấn đề tài chính không phải là một sức ép với người lao động. Nhưng trong giai đoạn này (từ 1991 trở đi) khi xuất khẩu lao động chịu sự tác động của quy luật thị trường thì nhà nước thôi không bao cấp nữa. Thay vào đó nhà nứơc ban hành một loạt các nghị định và thông tư hướng dẫn chế độ tài chính đối với ngưới lao động đi làm việc ở nước ngoài trong đó phân định rõ trách nhiệm thu chi tài chính đối với người lao động, các tổ chức kinh tế và nghĩa vụ của họ với nhà nứơc. Luật xem ra là hợp lý nhưng vấn đề thực hiện nó thì còn gây nhiều bức xúc, tồn tại. Thứ nhất, vì lợi nhuận nhiều tổ chức kinh tế vẫn thu phí cao hơn so với pháp luật quy định và dĩ nhiên người lao động không biết điều này. Thứ hai, chưa có một cơ quan tài chính nào chính thức ra đời để hỗ trợ về tài chính cho người lao động. Người lao động muốn vay vốn thì phải thế chấp rất lớn ở ngân hàng, số tiền vay được cũng chỉ bằng 80% tổng chi phí hợp pháp ghi trong hợp đồng, thủ tục lại rườm rà, lãi suất cao.
Nói chung, các thủ tục của khâu tài chính chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động. Cung cấp tài chính cho người lao động đi làm việc ở nứơc ngoài chưa phải là lĩnh vực quan tâm của các ngân hàng và quỹ tín dụng.
LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ TỪ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
1.Lợi ích
Hiệu quả về kinh tế.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh doanh nên lợi ích về kinh tế bao giờ cũng được đặt làm đầu.
Lợi ích của nhà nứơc.
Trong thời kỳ 1980-1990 thông qua các hiệp định liên chính phủ, nghị định thư nhà nước ta đã được tổng số là 277.183 lao động và chuyên gia đi làm việc ở các nước XHCN, trực tiếp thu về 263.062 triệu đồng (thời giá 1990) tức 482,1 triệu rúp phi mậu dịch. Riêng số lao động ở Iraq cuối 1989 nộp ngân sách nhà nứơc 4,1 triệu rúp và 9 triệu USD.
Bảng7: Số ngoại tệ thu về cho ngân sách nhà nước.
Đơn vị (triệu đồng)
Năm
Ngoại tệ thu về quy đổi đồngVN
1989
102.940
1990
120.174
1991
161.358
1992
187.612
1993
174.013
1994
77.128
Tổng
823.225
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn.
Nếu tính bình quân hàng năm mức chi phí quản lý cho một lao động đi làm việc ở nước ngoài là khoảng 30 USD và mức thu về khoảng 36,7 USD thì nhà nước lãi 6,7 USD/ người/ năm. Nếu hàng năm chúng ta đưa hàng chục nghìn thậm chí hàng trăm nghìn lao động đi làm việc ở nứơc ngoài thì ngân sách nhà nước sẽ tăng lên đáng kể.
Lợi ích kinh tế của nhà nứơc còn được thể hiện ở việc giảm được hàng chục tỷ đồng cho ngân sách nhà nước do không phải giải quyết việc làm cho những người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và một bộ phận nhỏ những người ăn theo (những người gián tiếp được tạo việc làm nhờ những lao động đi xuất khẩu).
Lợi ích với người lao động.
Động cơ chủ yếu thúc đẩy họ đi làm việc ở nước ngoài chính là thu nhập cao. Theo các con số thống kê thì thu nhập bình quân của người lao động đi làm việc ở nước ngoài bằng 10-15 lần so với thu nhập của lao động trong nước. Chúng ta có thể lấy ví dụ như sau:
Bảng 8: Thu nhập của lao động nước ngoài tại một số thị trường.
Đơn vị tính: USD/người/ năm.
Nước
Nghề
Nhật Bản
Hàn Quốc
Lybia
Đài Loan
Laođộng phổ thông
4.800
4.800
2.640
3.065
Thợ nề, mộc
6.000
3.042
Thợ điện
6.000
6.000
3.042
Thợ hàn
7.200
7.200
5.292
Thợ dệt
6.000
6.000
4.800
Thợ may
6.000
6.000
4.800
Khán hộ công
3.065
Nguồn: Tạp chí thị trường- giá cả số 3-2001, trang 27.
Như vậy, sau khi hết hạn lao động ở nước ngoài (thường là 2 năm) người lao động có thể tích luỹ được 70-80 triệu đồng với lao động phổ thông và 200-210 triệu đồng với lao động có tay nghề .
Trong giai đoạn 1980-1990 số hàng hoá mà người lao động Việt Nam ở các nước XHCN gửi về cho gia đình ước trị giá 720 tỷ đồng Việt Nam và ở các nước khác là trên 7 triệu USD. Từ năm 1991 đến nay theo lời phát biểu của thủ tướng Phan Văn Khải tại hội nghị xuất khẩu lao động và chuyên gia họp tại Hà Nội ngày 10,11-9/2001 thì tính đến năm 2001 thu nhập ròng mà người lao động làm việc ở nước ngoài chuyển về nước là 1,2 tỷ USD/ năm. Riêng năm 2000 là 1,25 tỷ USD trong đó 250 triệu USD là của người đi lao động xuất khẩu theo các hợp đồng mới và 1 tỷ USD là do số lao động cũ ở lại làm việc và hoạt động kinh tế khác.. Năm 2002 con số này là 1,4 tỷ USD.
Lợi ích với doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Chưa có một thống kê cụ thể nào về lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này nhưng qua báo cáo cho thấy tỷ suất lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động xuất khẩu lao động ở một số doanh nghiệp đạt 15-20%.
Bảng 9: Số ngoại tệ thu về qua các doanh nghiệp xuất khẩu lao động giai đoạn 1991-1999.
Năm
Số ngoại tệ thu về (1.000USD)
1991
2.500
1992
6.800
1993
15.800
1994
43.100
1995
77.900
1996
100.800
1997
129.200
1998
148.300
1999
150.800
Tổng
675.200
Nguồn: Tạp chí thương mại số 15/2000, trang 6.
Tóm lại, dù mới bước vào hoạt động xuất khẩu lao động đựơc 24 năm_ một thời gian quá ít so với kinh nghiệm hàng chục năm của các nước trong khu vực như Thai Lan, Indonexia, …, song chúng ta cũng bước đầu gặt hái được những thành công nhất định. Dẫu vậy chúng ta không khỏi trăn trở khi đặt các kết quả trên lên bàn cân so sánh với kết quả đạt được của các quốc gia xuất khẩu lao động khác trong khu vực.
Ví dụ:
ở Philipin trong 2 năm 1997, 1998 lao động đi làm việc ở nước ngoài đã chuyển về nước gần 11 tỷ USD (bằng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 1999).
b) Hiệu quả về xã hội.
Trước hết là, xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm tạm thời cho người lao động. Trong giai đoạn 1980-1990 giải quyết việc làm cho 3% lao động trong độ tuổi lao động (gần 27 vạn người), trong đó gần 60% là chưa có nghề và gần 4 vạn là lực lượng vũ trang đã hết hạn phục vụ trong quân ngũ.
Hai là, với số tiền tích luỹ được cộng thêm kinh nghiệm sản xuất và tác phong công nghiệp đã học được người lao động đi làm việc ở nước ngoài sau khi trở về nước có thể tự tạo việc làm cho bản thân mình và cho người khác.
Ba là, một điều dễ thấy là thu nhập của người lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên, góp phần cải thiện, ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ. Đời sống nhân dân được ổn định đó cũng là nền tảng cho sự ổn định của xã hội, giảm bớt tệ nạn xã hội.
Bốn là, thông qua xuất khẩu lao động góp phần làm tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Kết luận lại, ta thấy rằng hiệu quả kinh tế là cái quan tâm trước mắt và góp phần tạo ra hiệu quả xã hội_ cái quan tâm lâu dài. Và hiệu quả xã hội mới là cái đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi.
NHỮNG HẠN CHẾ VÀ RỦI RO TRONG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ NGUYÊN NHÂN.
1. Hạn chế.
Sức cạnh tranh của hàng hoá sức lao động Việt Nam còn kém hơn so với các nước khá
+ Chất lượng lao động:
Về sức khoẻ: nói chung sức khoẻ lao động Việt Nam phù hợp với công việc giúp việc gia đình, làm việc trong nhà máy. Còn với các công việc như đi biển, công nghiệp xây dựng nhất là ở khu vực Trung Đông thì chưa đạt yêu cầu. Nhiều lao động không chịu nổi điều kiện làm việc nặng nhọc và điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã bỏ về nước.
Về trình độ tay nghề: còn khá kém, chưa đáp ứng đựơc yêu cầu của người sử dụng lao động. Lao động nước ta hiện nay tập trung chủ yếu làm các công vịêc lao động phổ thông và các công việc có hàm lượng kỹ thuật thấp vì thế thu nhập của người lao động thường không cao. Ví dụ: muốn vào làm việc ở Nhật Bản, Hàn Quốc chúng ta phải đưa lao động đi với danh nghĩa là TNS vì những nước này chưa cho phép nhập khẩu lao động không có trình độ chuyên môn hay trình độ chuyên môn thấp. Họ chỉ nhận những lao động có trình độ kỹ thụât cao. Đây cũng là thịêt thòi với lao động Việt Nam vì TNS không được hưởng chế độ đãi ngộ về lương bổng ngang bằng lao động. Hãy so sánh với Ân Độ, hàng năm số lao động đi làm việc ở nước ngoài không nhiều nhưng đã chuyển về trong nước một số tiền khổng lồ là 11 tỷ USD/năm là do lao động của họ chủ yếu làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật cao, công nghệ cao.
Về trình độ ngoại ngữ: rất kém. Nhiều tranh chấp lao động xảy ra cũng bắt nguồn do người lao động không hiểu ý của người sử dụng lao động bởi sự bất đồng ngôn ngữ. Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ. Có thể nói nếu người lao động không biết một tý gì về ngoại ngữ thì không thể đưa đi làm việc ở nước ngoài được.
+ Kỷ luật lao động: lao động Việt Nam được tiếng là cần cù, chịu khó, thông minh nhưng cũng được biết đến với tiếng tăm là kỷ luật lao động kém bởi tỷ lệ lao động bỏ trốn, phá vỡ hợp đồng khá cao gây thiệt hại cho người sử dụng lao động. Mà ở các nước công nghiệp kỷ luật lao động là vấn đề rất được coi trọng.
Nguyên nhân của vấn đề trên bắt nguồn từ chỗ: đối tượng được đưa đi làm việc ở nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao động này phần lớn là chưa qua một lớp đào tạo chính quy nào về nghề cả. Cuộc sống làm nghề nông ở một nước còn kém phát triển như Việt Nam đã vô tình hình thành nên trong họ tác phong chậm chạp, làm liều, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao động, thiếu hiểu biết về sản xuất công nghiệp. Nhiều người trong số họ còn chưa học hết phổ thông. Mặt khác, những lao động này hầu hết đều có cuộc sống rất khó khăn, khi đi làm việc ở nước ngoài luôn mang trên vai gánh nặng thu nhập rất lớn nên họ thường bất chấp tất cả miễn là kiếm được tiền cao.
Thị trường xuất khẩu lao động còn nghèo nàn.
Hiện nay số nước tiếp nhận lao động Việt Nam đã lên tới 46 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu lại là các quốc gia trong khu vực Đông Nam á, Trung Bắc á, Trung Đông, một số nước ở Bắc Phi. Thị trường châu Âu và châu Mỹ là những thị trường rất hấp dẫn song chúng ta chưa tiếp cận được nhiều nếu không nói là quá ít. Đây mới chính là những thị trường đem về cho Việt Nam nguồn ngoại tệ lớn.
Nguyên nhân: do chúng ta thiếu thông tin về thị trường lao động nước ngoài; thiếu sự quảng bá, tiếp thị hàng hoá sức lao động Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, trên thực tế chất lượng hàng hoá sức lao động Việt Nam còn thấp lại mới xâm nhập vào trong lĩnh vực này nên các thị trường tiềm năng đều đã có đối thủ dày dặn kinh nghiệm hơn nhiều.
Công tác quản lý xuất khẩu lao động còn yếu kém.
+ Trong thời gian qua, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà nước với các cơ quan cấp địa phương và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Chính vì thế, các cơ quan quản lý chưa nắm rõ tình hình hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Từ đó, có phương hướng chỉ đạo hay sự chấn chỉnh kịp thời để công tác xuất khẩu lao động đạt hiệu quả cao hơn.
+ Các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực này chưa tổ chức việc cung cấp một cách có hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài làm cơ sở cho hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp cũng như phổ cập hiểu biết cho người dân về xuất khẩu lao động.
+ Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và thường đi sau thực tế.
+ Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà, phức tạp gây mất nhiều thời gian và tiền của.
+ Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động được tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả.
Nguyên nhân: do sự tồn tại của các tư tưởng quản lý lỗi thời như quan liêu, chủ quan, nóng vội, nể nang của các cán bộ quản lý; do sự thiếu kính phí và sự nhận thức chưa rõ ràng về tầm quan trọng của công tác quản lý xuất khẩu lao động.
2. Rủi ro trong xuất khẩu lao động.
Trong thời gian trên sự rủi ro trong hoạt động xuất khẩu lao động bắt nguồn từ phía người sử dụng lao động không nhiều mà chủ yếu lại là từ người lao động. Điều này cũng cho thấy tình hình kinh tế của nước tiếp nhận lao động khá ổn định. Tuy nhiên, đầu năm 2004 vừa qua một rủi ro không may đã xảy ra với lao động Việt Nam: hơn 700 công nhân trong lĩnh vực xây dựng ở Malaysia đã bị mất việc làm.
Cũng trong thời gian trên thì tỷ lệ lao động Việt Nam phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ, đặc biệt là ở thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Số vụ lừa đảo đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nứơc ngoài tăng lên về cả số vụ và tính nghiêm trọng.
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
I, QUAN ĐIỂM VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NHẰM GIẢI QUÝÊT VIỆC LÀM .
Hội nhập kinh tế quốc tế và xuất khẩu lao động là quá trình tất yếu của bất cứ một quốc gia nào. Việt Nam đã tham gia vào quá trình ấy trong rất nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực hợp tác lao động quốc tế. Xuất khẩu lao động là một trong những khía cạnh của lĩnh vực hợp tác lao động quốc tế. Không phải lúc nào hội nhập cũng đem lại thuận lợi, và cũng không phải lúc nào cũng gây ra những khó khăn. Vấn đề là ở chỗ phải biết tìm ra cơ hội, nắm lấy cơ hội, sử dụng triệt để cơ hội. Nhưng hội nhập phải luôn nhớ một nguyên tắc: “hoà nhập nhưng không hoà tan”. Hiểu nguyên tắc đó trong xuất khẩu lao động có nghĩa là làm sao để người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài sau khi hết hạn đều sẵn sàng trở về nước, đều nhanh chóng bắt nhịp với cuộc sống, với bối cảnh kinh tế- xã hội cuả nước mình và sẵn lòng đem những kiến thức, kinh nghiệm mà mình đã có được để phục vụ cho đất nước.
Muốn xuất khẩu lao động thực sự có hiệu quả thì trước tiên cần nhận thức đúng đắn về nó. Sau nữa cần có các kế hoạch phát triển dài hạn hay các chiến lược xuất khẩu lao động, trong đó phải xác định rõ đối tượng được đưa đi xuất khẩu lao động, thị trường xuất khẩu lao động cần hướng tới trong từng giai đoạn và các biện pháp thực hiện.
Là một nước đi sau trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tất nhiên việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước là rất quan trọng nhưng chúng ta cũng không nên quá phụ thuộc vì đây là một loại hình kinh doanh đặc biệt và nền kinh tế thì luôn luôn biến đổi. Cái chúng ta cần phải làm là: “đi tắt, đón đầu”. Chúng ta cần xác định cầu lao động ở thế giới trong tương lai để có chiến lược cho phù hợp.
MỤC TIÊU CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.
Mục tiêu trước mắt.
+ Làm thế nào để tăng số người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
+ Xây dựng thương hiệu cho hàng hoá sức lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế.
Mục tiêu lâu dài
Giảm số lượng xuất khẩu lao động nhưng lại tăng giá trị xuất khẩu lao động. Điều đó có nghĩa là số lượng lao động đưa đi xuất khẩu lao động thì ít đi nhưng thu nhập ròng mà người lao động đi xuất khẩu gửi về trong nước thì tăng lên đáng kể, hơn cả so với giai đoạn trước.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
Các biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt.
Làm thay đổi nhận thức về xuất khẩu lao động và thực hiện xã hội hoá về xuất khẩu lao động.
+ Nhà nước và nhân dân cần hiểu đúng về xuất khẩu lao động, những lợi ích cũng như thiệt hại xuất khẩu lao động đem lại. Hiểu đúng thể hiện ở chỗ hành động phải đúng với tư duy, nhận thức; phù hợp với tình hình thực tế. Đây là quá trình lâu dài và chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đầu tiên cần thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo từ cấp trung ương đến cấp địa phương đặc biệt là các cán bộ quản lý chuyên trách về lĩnh vực xuất khẩu lao động hoặc cán bộ làm công tác quản lý lao động. Muốn vậy, cơ quan quản lý cấp nhà nước về xuất khẩu lao động (cục hợp tác với nước ngoài thuộc bộ lao động – thương binh và xã hội ) cần tổ chức thường xuyên, liên tục các khoá học bồi dưỡng, bổ sung kiến thức về xuất khẩu lao động. Sau đó chính những cán bộ này sẽ chịu trách nhiệm phổ biến kiến thức về xuất khẩu lao động cho nhân dân địa phương. Phương hướng thực hiện sẽ do cục hợp tác với nước ngoài chỉ đạo còn biện pháp thực hiện cụ thể thì do cán bộ địa phương tự quyết cho phù hợp với tình hình của địa phương mình. Trong quá trình thực hiện để đạt được kết quả tốt đẹp, cần thiết lập một kênh thông tin hai chiều giữa cục hợp tác lao động với nước ngoài và các địa phương. Mục đích của kênh thông tin này là nhằm thông báo chính xác tình hình xuất khẩu lao động và một số vấn đề khác có liên quan của địa phương cho cục biết đồng thời thông qua đó các địa phương có thể có được những thông tin cập nhật nhất về xuất khẩu lao động.
+ Xã hội hoá về xuất khẩu lao động: nghĩa là làm cho mọi người dân đều có những hiểu biết cơ bản về xuất khẩu lao động. Muốn vậy, nhà nước cần tuyên truyền, quảng bá công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về xuất khẩu lao động. Để dân chúng có thể tiếp thu một cách dễ dàng nhất thì nhà nước nên xây dựng các chương trình tuyên truyền thật sinh động và gắn với cuộc sống thường ngày của người dân. Ví dụ, làm những thước phim tư liệu ngắn về đời sống, công việc của những người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài, xây dựng những bộ phim hài mang tính giáo dục về xuất khẩu lao động và cho phát trên các chương trình giải trí của truyền hình, cung cấp những thông tin về tình hình thực hiện xuất khẩu lao động của cả nước, từng vùng trong một khoảng thời gian nhất định trên các bản tin thời sự….
Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài và cung cấp miễn phí, công khai.
+ Đại diện cho nhà nước trong lĩnh vực này là bộ Lao động- Thương binh và xã hội cần phỗi hợp chặt chẽ với bộ ngoại giao, đại sứ quán nước ngoài ở Việt Nam và đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài để luôn có những tin tức cập nhật về thị trường lao động nước ngoài. Thông tin thị trường lao động nước ngoài bao gồm các thông tin về: cung, cầu lao động chung ở trên thị trường và với riêng từng khu vực, ngành nghề; giá cả sức lao động với nhân công nước ngoài; các chế độ ưu đãi, quyền lợi của người lao động, điều kiện làm việc; loại công việc và yêu cầu của công việc với người lao động; số lượng lao động của các nước khác trên quốc gia đó; quan điểm và luật pháp của quốc gia tiếp nhận về nhập khẩu lao động nước ngoài. Ngoài ra, còn một số thông tin về kinh tế, chính trị, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động. Yêu cầu đối với thông tin: thông tin phải tương đối chính xác, kịp thời, khá đầy đủ, phải được thực hiện xây dựng một cách nghiêm túc vì đây là nền tảng quyết định sự thành công của nhiều khâu tiếp sau.
Muốn xây dựng hệ thống thông tin về thị trường lao động nước ngoài thì trước tiên bộ lao động – thương binh và xã hội cụ thể là cục hợp tác lao động với nước ngoài nên có một tờ báo riêng làm cơ quan phát ngôn cho mình. Trong tờ báo đó sẽ cho đăng tải tất cả chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, các văn bản pháp quy mới nhất về xuất khẩu lao động cũng như tình hình thực hiện xuất khẩu lao động trên toàn quốc và ở các tỉnh. Nếu chưa có điều kiện để phát hành tờ báo riêng cho mình về lĩnh vực xuất khẩu lao động thì bộ có thể cho xuất bản các chuyên đề về xuất khẩu lao động thường kỳ theo một ấn định thời gian nào đó (theo tháng, theo quý). Sau đó, tiến xa hơn nữa bộ có thể chỉ đạo thành lập các trung tâm hỗ trợ thông tin chuyên về một thị trường nào đó để phục vụ chủ yếu cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Công tác cung cấp thông tin thị trường lao động nước ngoài rất quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, liên tục của nhiều cơ quan chức năng. Công tác này cần được thực hiện ngay và phải được tiến hành thường xuyên.
Làm tôt công tác Marketting trong xuất khẩu lao động.
Khâu này chủ yếu được thực hiện bởi các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và có thể có sự trợ giúp của nhà nước. Bao gồm hai nội dung chủ yếu là: nghiên cứu thị trường xuất khẩu lao động và quảng bá hàng hoá sức lao động Việt Nam ra thị trường lao động quốc tế.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu lao động:
Là khâu trọng yếu của hoạt động Marketting nhằm mục đích tìm hiểu rõ các cơ hội và thách thức đang chờ đón ở thị trường đang nghiên cứu. Qua đó cho biết nên tiến vào thị trường nào là có lợi nhất và cách tiếp cận sao cho thành công nhất. Muốn vậy cần thực hiện các bước sau:
+ Sử dụng triệt để thông tin thị trường lao động nước ngoài mà nhà nước cung cấp đồng thời tự khai thác thêm nếu có thể. Khâu này doanh nghiệp xuất khẩu lao động nên chủ động vì nhà nước cung cấp thông tin dù đầy đủ đến đâu cũng không thể bao quát hết tình hình thực tế đang diễn ra. Mặt khác, thông tin cũng là một vũ khí cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cho nên doanh nghiệp càng có nhiều thông tin bí mật thì sức cạnh tranh càng cao. Và lấy thông tin như thế nào, từ đâu (trừ nguồn từ nhà nước) thì mỗi doanh nghiệp sẽ có cách làm khác nhau.
+ Phân tích các thông tin có được bằng các phương pháp tin cậy và đánh giá các kết quả rồi cho kết luận. ở Việt Nam hiện nay chưa có những trung tâm chuyên về thực hiện các công việc trên cho nên rất có thể để thực hiện công việc trên các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải thuê chuyên gia nước ngoài hoặc chuyên gia trong nước có kinh nghiệm nhưng nếu vậy thì chi phí phải nộp của người lao động sẽ rất lớn. Vì thế nhà nước nên nghiên cứu có phương án xây dựng thí điểm sự hoạt động của một vài trung tâm chuyên hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác phân tích thông tin. Sau đó, dưới sức ép của cầu trong lĩnh vực này cùng với sự chỉ đạo của nhà nước thì các trung tâm dạng này tự khắc sẽ phát triển.
+ Xây dựng các chiến lược, sách lược cho hoạt động xuất khẩu lao động và các biện pháp tiến hành cho phù hợp với điều kiện cụ thể, dựa trên cơ sở các kết quả đã phân tích. Đây là một bước rất quan trọng quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Quảng bá hàng hoá sức lao động Việt Nam ra thị trường lao động quốc tế.
Đây chính là việc xây dựng thương hiệu cho hàng hoá sức lao động Việt Nam. Các biện pháp cụ thể như sau:
+ Tuyển chọn thật kỹ, đào tạo kỹ trước khi đưa lao động đi.
Muốn vậy, bản thân doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải chủ động trong việc cung cấp nguồn lao động nghĩa là luôn có sẵn trong tay lực lượng lao động có trình độ sẵn sàng đi xuất khẩu lao động bất cứ lúc nào.
+ Có biện pháp quản lý chặt chẽ người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Để thực hiện được điều này cần có sự phối chặt chẽ giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động, đại sứ quán của Việt Nam tại quốc gia đó, cục hợp tác với nước ngoài và gia đình người lao động đi xuất khẩu lao động. Cần có những biện pháp xử phạt hành chính và tài chính thật nghiêm để phạt những người lao động đi xuất khẩu vô kỷ luật, vi phạm luật pháp nước ngoài.
+ Có các biện pháp để người sử dụng nước ngoài tin và quen dùng lao động Việt Nam.
Đối với từng thị trường có những đặc điểm riêng nên cần căn cứ vào đó để giáo dục ý thức của người lao động đi xuất khẩu để họ có những hành vi cư xử phù hợp, không làm mất lòng người sử dụng lao động thậm chí là còn phải gây được thiện cảm với người sử dụng lao động.
+ Có các biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho lao động Việt Nam tránh xảy ra tranh chấp gây thiệt hại cho các bên. Chúng ta rất cần lấy lòng của người sử dụng lao động nước ngoài nhưng không phải vì thế mà chúng ta nhân nhượng cho những hành vi xâm phạm đến quyền lợi của người lao động, xâm phạm đến danh dự của người lao động. Vì thế doanh nghiệp cần lưu ý điều này khi ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài. Để doanh nghiệp bảo vệ lợi ích cho người lao động tránh vì lợi nhuận mà bán rẻ lao động trong nước thì nhà nước cần có những quy định luật pháp rõ ràng về vấn đề này.
Phối hợp chặt chẽ bộ, ngành có liên quan với các địa phương và với doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Cần có sự cải cách thủ tục hành chính ở các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này để tăng cường sự hợp tác giữa các thành phần trên. Mục tiêu của biện pháp trên là để tránh các vụ lừa đảo đồng thời tăng quản lý nhà nước trong xuất khẩu lao động. Các rủi ro trong xuất khẩu lao động sẽ giảm xuống do có sự ràng buộc giữa các bên. Sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động xuất khẩu lao động cũng là điều kiện tiền đề để hoạt động này đạt kết quả tốt hơn. Bộ lao động – thương binh và xã hội cần tổ chức theo định kỳ các buổi báo cáo về tình hình xuất khẩu lao động của các địa phương trong cả nước, các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, các hội nghị tổng kết đánh giá tình hình xuất khẩu lao động chung, đánh giá vai trò cũng như điểm mạnh, điểm yếu của các địa phương, các doanh nghiệp trong xuất khẩu lao động chung của cả nước. Bên cạnh đó bộ cần thường xuyên hướng dẫn chỉ đạo thực hiện xuất khẩu lao động tăng cường công tác kiểm tra trong lĩnh vực này cũng như lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía các doanh nghiệp, các địa phương để có những biện pháp điều chỉnh cho hợp lý hay có các văn bản giải thích thắc mắc kịp thời.
Về cơ chế tài chính.
Cần có sự thông thoáng hơn. Nhà nước cần có các biện pháp để giảm chi phí đi xuất khẩu cho người lao động, khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu lao động như:
+ Cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, có chính sách ưu đãi về thuế, nghiên cứu khả năng miễn thuế thu nhập cá nhân cho người lao động ít nhất là trong giai đoạn đầu.
+ Có chính sách cho người nghèo vay vốn với lãi suất thấp.
+ Nghiên cứu khả năng thành lập một quỹ tiền cho người lao động đi xuất khẩu lao động vay vốn (số tiền vay <= số tiền chi phí phải nộp hợp pháp) mà không phải thế chấp hoặc thế chấp ít, thủ tục vay vốn đơn giản, gọn nhẹ.
Để làm được việc này bộ lao động – thương binh và xã hội cần có sự phối hợp với bộ tài chính nghiên cứu khả năng tài chính cho các phương án trên. Nếu thấy khả thi thì lập ngay báo cáo đề nghị chính phủ phê duyệt. Bộ cũng nên xây dựng các phương án kêu gọi sự đầu tư, kinh doanh của các ngân hàng trong lĩnh vực này.
Thành lập hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Mục tiêu của biện pháp trên là để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đồng thời khắc phục sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp sẽ chia sẻ thông tin cho nhau, liên thông trong lĩnh vực đào tạo người lao động. Hiệp hội cũng sẽ thành lập quỹ tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu lao động gặp rủi ro. Quỹ này do các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đóng góp theo quy định của hiệp hội. Các biện pháp cụ thể:
+ Nhà nước cần có văn bản pháp quy công nhận sự tồn tại của hiệp hội này. Sau đó nó nên được thành lập ngay dưới sự chỉ đạo của bộ Lao động- Thương binh và xã hội mà đại diện là cục hợp tác với nước ngoài. Bản thân hiệp hội cũng phải xây dựng quy chế hoạt động riêng cho tổ chức của mình nhưng không được trái pháp luật.
+ Trong quá trình hoạt động thì hiệp hội cũng cần có sự ưu tiên của nhà nước để dần phát huy vai trò của mình. Chính phủ nên lắng nghe những bức xúc, phản hồi từ phía hiệp hội.
Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần được công nhận là một bộ phận của hiệp hội các doanh nghiệp Việt Nam, được tham gia hoạt động và được hưởng các quyền lợi của hiệp hội.
Về luật pháp.
Hiện nay chưa có bộ luật nào về xuất khẩu lao động. Vì thế, nhà nước cần xây dựng và ban hành ngay luật về xuất khẩu lao động trong đó quy định rõ các chế tài khen thưởng, xử phạt với các bên vi phạm, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia xuất khẩu lao động, cơ chế tài chính…. Trong quá trình xây dựng luật nên tham khảo ý kiến từ phía bộ chủ quản, các địa phương và được thực hiện bởi cơ quan chuyên trách về luật. Nhà nước cũng cần chú ý lượng hoá tình hình và dự báo các biến động có thể xảy ra,… để luật không phải sửa đổi liên tục khi đi vào thực tế. Sau khi xây dựng luật xong, công tác ban hành luật cũng cần được coi trọng vì nếu thực hiện không đúng có thể đánh mất hết ý nghĩa của việc xây dựng luật. Nhà nước có thể thành lập một tổ điều tra viên thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động có tuân thủ theo đúng luật pháp hay không để có chế tài điều chỉnh cho phù hợp. Tổ điều tra viên này nên chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ bộ tư pháp và có sự phối hợp nhịp nhàng với bộ lao động – thương binh và xã hội.
Về công tác giáo dục người lao động đi xuất khẩu lao động.
Trước mắt, công tác đào tạo ngoại ngữ cho người lao động cần được chú trọng đảm bảo cho người lao động có khả năng giao tiếp, hiểu mệnh lệnh của người sử dụng lao động. Muốn vây:
+ Bộ lao động – thương binh và xã hội cần chỉ đạo việc ban hành giáo trình giảng dạy từng ngoại ngữ thống nhất. Giáo trình này được biên soạn bởi các nhà sư phạm có uy tín, sự đóng góp ý kiến của đại sứ quán Việt Nam tại quốc gia đó. Nội dung của giáo trình sẽ xoay quanh các chủ đề về đàm thoại trong cuộc sống sinh hoạt, trong sản xuất tại nước ngoài, đặc biệt chú ý đến một số thuật ngữ chuyên dùng trong một số ngành, nghề. Giáo trình nên viết dễ hiểu, chú trọng về văn phong giao tiếp chứ không phải ngữ pháp hay văn phong viết.
+ Tuyển chọn giáo viên có trình độ ngoại ngữ tốt, kỹ năng sư phạm giỏi, có thể sử dụng những người lao động đã đi xuất khẩu lao động về có trình độ ngoại ngữ tốt (đã qua sát hạch và đạt tiêu chuẩn) và bồi dưỡng thêm cho họ kỹ năng sư phạm.
+ Thi sát hạch ngoại ngữ trước khi đưa lao động đi. Vì thế, cần xây dựng tiêu chuẩn sát hạch. Để đạt được ý nghĩa của công tác đào tạo ngoại ngữ cho người lao động thì việc sát hạch ngoại ngữ trước khi đưa lao động đi là điều thiết yếu và cần thực hiện nghiêm túc. Việc xây dựng tiêu chuẩn sát hạch cũng nên tham khảo ý kiến của đại sứ quán Việt Nam tại các quốc gia nước ngoài.
Về giáo dục nghề trước hết nên tuyển chọn từ các trường dạy nghề, trung cấp đến đại học để tiết kiệm chi phí đào tạo cho doanh nghiệp cũng như người lao động. Còn về lâu dài thì doanh nghiệp cần chủ động tự tạo nguồn cho mình bằng cách tuyển người lao động có nhu cầu đi xuất khẩu lao động và tổ chức lớp đào tạo nghề cho họ trong dài hạn. Dù là người lao động đã được đào tạo nhưng để họ không khỏi ngỡ ngàng khi đi làm việc nước ngoài các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nên tổ chức các khoá học ngắn hạn bồi dưỡng cho người lao động những kỹ năng cần thiết, cho người lao động biết môi trường làm việc của mình cũng như những phẩm chất cần thiết của người lao động trong xã hội công nghiệp hiện đại.
Về công tác giáo dục ý thức kỷ luật của người lao động, chỉ thực sự phát huy được hiệu quả nếu nó được tiến hành trong một thời gian nhất định song song với quá trình đào tạo nghề cho người lao động do doanh nghiệp tiến hành. Trong quá trình học tập người lao động sẽ dần dần làm quen với các tác phong công nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần biến lớp học của mình thành mô hình thu nhỏ của nơi làm việc mà người lao động sẽ làm việc khi đi xuất khẩu.
Các biện pháp thực hiện mục tiêu lâu dài.
Trong tương lai nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh, vì thế sẽ tạo ra nhiều chỗ làm mới. Kèm theo đó, tốc độ tăng dân số Việt Nam đang giảm dần khiến cung và cầu lao động sẽ chênh lệch không nhiều. Nhu cầu giải quyết việc làm sẽ không còn gây áp lực như giai đoạn trước. Do vậy, xuất khẩu lao động cần có sự chuyển hướng. Cụ thể là:
+ Xuất khẩu lao động vẫn được coi là hoạt động kinh tế mang tính chiến lược nghĩa là vẫn cần được đẩy mạnh và phát triển.
+ Thay vì đẩy mạnh số lượng ta đẩy mạnh giá trị xuất khẩu lao động. Nghĩa là đẩy mạnh lao động đi làm việc trong các lĩnh vực công nghệ cao.
Muốn vậy, công tác giáo dục người lao động trong tương lai cần phải coi trọng hàng đầu. Ngành nghề đào tạo chủ yếu là đào tạo lao động trong ngành công nghệ kỹ thuật cao từ bậc đại học trở lên. Chúng ta hoàn toàn có thể làm được điều này vì thực tế hiện nay Việt Nam có thế mạnh trong lĩnh vực này song thực hành còn yếu nên chất lượng chưa cao. Vì thế chính phủ cần đầu tư chi phí xây dựng cơ sở vật chất cho việc giảng dạy ngành này. Bên cạnh đó, do đặc trưng của ngành là biến đổi theo từng giây, từng phút nên cần cập nhật lên tục, thường xuyên sự thay đổi công nghệ thông tin trên thế giới để điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp với thực tế. Không chỉ có vậy, chúng ta cần vươn lên đứng trong tốp các nước dẫn đầu về phát triển công nghệ thông tin. Có như vậy cầu lao động Việt Nam trong lĩnh vực này mới tăng cao và giá cả cũng tương xứng với chất xám, chi phí chúng ta đã bỏ ra. Chúng ta cần đào tạo với số lượng nhiều để phục vụ cho xuất khẩu lao động và cho nhu cầu CNH-HDH đất nước.
Bên cạnh việc tiến vào thị trường lao động của các nước phát triển ở lĩnh vực công nghệ cao, chúng ta còn có thể tiến vào thị trường lao động của các nước kém phát triển và đang phát triển ở Châu Phi thông qua việc xuất khẩu chuyên gia trong lĩnh vực y tế, nông nghiệp. Lĩnh vực này sẽ không tốn nhiều chi phí như lĩnh vực đào tạo lao động cho ngành công nghệ cao.
Điều tiếp theo cần làm là đào tạo cho người lao động có trình độ ngoại ngữ tốt: làm tốt 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết (ở mức độ thành thạo) đặc biêt chú trọng đào tạo các thuật ngữ chuyên ngành.
Giáo dục ý thức cho người lao động, xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động là công việc cần được thực hiện thường xuyên, liên tục. Người lao động ở đây hầu hết đều có trình độ cao nên công tác giáo dục hệ tư tưởng cũng cần có sự điều chỉnh khác với giai đoạn trước. Nhà nước vừa phải có biện pháp khuyến khích, vừa phải có biện pháp ràng buộc để tránh tình trạng chảy máu chất xám hay di cư lao động bất hợp pháp.
Tóm lại, trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của xuất khẩu lao động. Trong quá trình thực hiện cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo Việc làm và tạo việc làm.doc