Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu I.Một số lý luận về An sinh xã hội. 1.Khái niệm 2.Bộ phận hợp thành của An sinh xã hội. 2.1.Hệ thống an sinh xã hội theo quy định của ILO 2.2.Hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam 3.Vai trò của hệ thống An sinh xã hội II.Bảo hiểm xã hội tại Việt Nam 1.Lịch sử phát triển Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam 2.Vị trí và tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam 3.Thực trạng BHXH Việt Nam hiện nay : 3.1.Công tác quản lý và thực hiện BHXH 3.2.Vấn đề nợ đọng và chậm đóng BHXH III.Những Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chế độ BHXH. 1.Cải thiện một số các chính sách , Luật BHXH 2.Nâng cao hiệu quả công tác thực hiện BHXH và quản lý nguồn quỹ BHXH 3.Giải pháp khắc phục tình trạng nợ đọng và chậm đóng BHXH Kết luận Tài liệu tham Khảo Lời mở đầu An sinh xã hội thể hiện quyền cơ bản của con người và là công cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh và không có sự loại trừ. An sinh xã hội có nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ cộng đồng đối với các rủi ro trong đời sống, do vậy có tác dụng thúc đẩy sự đồng thuận, bình đẳng và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống an sinh xã hội thông qua tác động tích cực của các chính sách chăm sóc sức khỏe, an toàn thu nhập và các dịch vụ xã hội, sẽ nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu lao động nói riêng và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế nói chung. Trong các bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội thì Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng một vai trò chủ đạo và quan trọng nhất. BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở mức đóng góp vào Quỹ BHXH. BHXH góp phần tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro , nâng cao tính cộng đồng xã hội , củng cố truyền thống đoàn kết , gắn bó giữa các thành viên trong xã hội, ngoài ra BHXH còn có vai trò to lớn đối với sư phát triển kinh tế của mỗi quốc gia v.v Chính vì những ý nghĩa quan trọng như vậy mà BHXH đã trở thành một cấu phần cơ bản, quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội , là cơ sở để phát triển các bộ phận an sinh xã hội khác. Nhìn lại chặng đường phát triển của ngành BHXH Việt Nam từ trước tới nay , tuy đã đạt được nhiều thành tựu đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an sinh xã hội , nhưng bên cạnh đó BHXH nước ta vẫn còn có những mặt hạn chế nhất định về cơ chế , chính sách cũng như cơ chế hoạt động nên những mục tiêu đạt được trong những năm vừa qua có thể nói là chưa tương xứng với tiềm lực phát triển. Nghiên cứu về BHXH Việt Nam tìm ra những ưu nhược điểm và đưa ra nhưng giải pháp để nâng cao hiệu quả , lợi ích từ BHXH đối với các mục tiêu an sinh xã hội là điều cần thiết. Vì vậy để nghiên cứu vấn đề nay nhất thiết là cần phải “Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam”.

doc20 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4895 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu I.Một số lý luận về An sinh xã hội. 1.Khái niệm 2.Bộ phận hợp thành của An sinh xã hội. 2.1.Hệ thống an sinh xã hội theo quy định của ILO 2.2.Hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam 3.Vai trò của hệ thống An sinh xã hội II.Bảo hiểm xã hội tại Việt Nam 1.Lịch sử phát triển Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam 2.Vị trí và tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam 3.Thực trạng BHXH Việt Nam hiện nay : 3.1.Công tác quản lý và thực hiện BHXH 3.2.Vấn đề nợ đọng và chậm đóng BHXH III.Những Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chế độ BHXH. 1.Cải thiện một số các chính sách , Luật BHXH 2.Nâng cao hiệu quả công tác thực hiện BHXH và quản lý nguồn quỹ BHXH 3.Giải pháp khắc phục tình trạng nợ đọng và chậm đóng BHXH Kết luận Tài liệu tham Khảo Lời mở đầu An sinh xã hội thể hiện quyền cơ bản của con người và là công cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh và không có sự loại trừ. An sinh xã hội có nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ cộng đồng đối với các rủi ro trong đời sống, do vậy có tác dụng thúc đẩy sự đồng thuận, bình đẳng và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống an sinh xã hội thông qua tác động tích cực của các chính sách chăm sóc sức khỏe, an toàn thu nhập và các dịch vụ xã hội, sẽ nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu lao động nói riêng và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế nói chung. Trong các bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội thì Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng một vai trò chủ đạo và quan trọng nhất. BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở mức đóng góp vào Quỹ BHXH. BHXH góp phần tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro , nâng cao tính cộng đồng xã hội , củng cố truyền thống đoàn kết , gắn bó giữa các thành viên trong xã hội, ngoài ra BHXH còn có vai trò to lớn đối với sư phát triển kinh tế của mỗi quốc gia v.v…Chính vì những ý nghĩa quan trọng như vậy mà BHXH đã trở thành một cấu phần cơ bản, quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội , là cơ sở để phát triển các bộ phận an sinh xã hội khác. Nhìn lại chặng đường phát triển của ngành BHXH Việt Nam từ trước tới nay , tuy đã đạt được nhiều thành tựu đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an sinh xã hội , nhưng bên cạnh đó BHXH nước ta vẫn còn có những mặt hạn chế nhất định về cơ chế , chính sách cũng như cơ chế hoạt động nên những mục tiêu đạt được trong những năm vừa qua có thể nói là chưa tương xứng với tiềm lực phát triển. Nghiên cứu về BHXH Việt Nam tìm ra những ưu nhược điểm và đưa ra nhưng giải pháp để nâng cao hiệu quả , lợi ích từ BHXH đối với các mục tiêu an sinh xã hội là điều cần thiết. Vì vậy để nghiên cứu vấn đề nay nhất thiết là cần phải “Bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam”. I.Một số lý luận về An sinh xã hội. 1.Khái niệm Các khái niệm về an sinh xã hôi ở mỗi quốc gia , mỗi khu vực trên thế giới có sự khác nhau nhưng về cơ bản thì mục đích cao nhất của nó vẫn là góp phần bảo đảm đời sống và thu nhập cho mọi người trong xã hội, thuật ngữ “an sinh xã hội” mỗi nước lại sử dụng thành những từ khác nhau, mặc dù nội dung đều hiểu như nhau nhưng do được dịch từ nhiều ngôn ngữ khác nhau như Bảo đảm xã hội, An toàn xã hội, Bảo trợ xã hội hoặc An sinh xã hội đối với Việt Nam. An sinh xã hội theo định nghĩa của Tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) được định nghĩa như sau : An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ. . Ngoài ra, khái niệm về an sinh xã hội (bảo đảm xã hội) trên thế giới cũng xác định theo các nghĩa rộng, hẹp khác nhau như: Hiến chương Đại Tây Dương an sinh xã hội có định nghĩa khá rộng : “Sự bảo đảm thực hiện quyền con người sống trong hoà bình, được tự do làm ăn cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ của pháp luật, được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật, được học tập, làm việc, nghỉ ngơi, có nhà ở, được chăm sóc y tế và bảo đảm thu nhập để có thể thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, ốm đau, tuổi già... Trong hội nghị trù bị về vấn đề “An sinh xã hội ASEAN” vào tháng 6 năm 2001 tai Singapore, người ta đã đưa ra một khái niệm khá rộng về an sinh xã hội mà theo đó hệ thống an sinh xã hội bao gồm : Bảo hiểm xã hội và tiết kiệm; Bảo hiểm tai nạn công nghiệp, y tế, người già, thất nghiệp. Đó là hệ thống có sự tham gia đóng góp của các bên tạo nguồn dự trữ để sử dụng cho các trường hợp lúc tuổi già, ốm đau, thai sản, chết, tàn tật, thương tật, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp; Trợ giúp xã hội và những dịch vụ xã hội (trợ cấp). Đó là loại phúc lợi xã hội trích từ thuế và các nhà tài trợ và chính sách thị trường lao động (bao gồm cả thị trường lao động tích cực và thụ động); tạo cơ hội việc làm, hình thành nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm (thông tin, giới thiệu việc làm; đào tạo lại; hỗ trợ việc làm… Ở Việt Nam cũng có nhiều luồng ý kiến và định nghĩa về khái niệm “an sinh xã hội” của nhiều học giả khác nhau , tưu trung lại có thể khái quát về định nghĩa An sinh xã hội tại việt Nam như sau : an sinh xã hội là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng đối với những người “Yếu thế” trong xã hội bằng các biện pháp khác nhau nhằm hỗ trợ cho các đối tượng khi họ bị suy giảm khả năng lao động, giảm sút thu nhập hoặc là bị rủi ro, bất hạnh, hoặc là trong tình trạng nghèo đói, hoặc là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất sức lao động, già yếu...động viên, khuyến khích tự lực vươn lên giải quyết vấn đề của chính họ. 2.Bộ phận hợp thành của An sinh xã hội. 2.1.Hệ thống an sinh xã hội theo quy định của ILO ILO đã đưa ra những nội quy định tối thiểu về nội dung của hệ thống An sinh xã hội nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như con người trong xã hội và đã được tất cả các nước thừa nhận như là một trong những quyền của con người. Ngày 25/6/1952 Hội nghị toàn thể thành viên của ILO đã thông qua Công ước số 102 - Công ước về qui phạm tối thiểu. Nội dung của an sinh xã hội bao gồm 9 chế độ trợ cấp cụ thể: 1. Chăm sóc y tế. 2. Trợ cấp ốm đau. 3. Trợ cấp thất nghiệp. 4. Trợ cấp tuổi già (hưu bổng) 5. Trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp 6. Trợ cấp thai sản. 7. Trợ cấp tàn tật. 8. Trợ cấp tiền tuất 9. Trợ cấp gia đình Trong số 9 chế độ này trừ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình, 7 chế độ còn lại đều dùng trợ cấp bằng tiền mặt. An sinh xã hội hiện nay đã được áp dụng ở hầu hết các nước. Tuy nhiên, Công ước cũng chỉ rõ do điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước khác nhau nên sự đáp ứng các chế độ của hệ thống an sinh xã hội cũng có phạm vi rộng hẹp khác nhau. Vì vậy mà Công ước 102 cũng chỉ đưa ra những qui phạm tối thiểu về an sinh xã hội, hơn thế nữa, Công ước cũng qui định rõ các nước phê chuẩn Công ước này phải thiết lập ít nhất 3 chế độ trong 9 chế độ và phải đảm bảo bao gồm: hoặc chế độ trợ cấp thất nghiệp, hoặc trợ cấp tuổi già, hoặc trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, hoặc trợ cấp tàn tật, hoặc trợ cấp tiền tuất, tuỳ theo sự lựa chọn của mỗi quốc gia. Như vậy, nếu xem xét nội dung của an sinh xã hội dưới góc độ các chế độ thì an sinh xã hội được cấu thành cơ bản bởi 9 chế độ. Song qua các tài liệu nghiên cứu của ILO thì an sinh xã hội được biết đến với những bộ phận như sau : * Bảo hiểm xã hội (BHXH) Đây là bộ phận chủ yếu, trụ cột, đóng vai trò quyết định của hệ thống An sinh xã hội. BHXH theo định nghĩa của ILO là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. BHXH là sự bảo vệ mang tính chất xã hội đối với người lao động và gia đình họ thông qua việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp cho người lao động trong các trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập gây ra bởi các biến cố như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già, thất nghiệp... BHXH có những vai trò to lớn đối với người lao động , người sử dụng lao động cũng như nhà nước và góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. *Cứu trợ xã hội (Trợ giúp xã hội) Đây chính là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất hạnh rủi ro, nghèo đói không đủ khả năng để tự lo cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Nguồn tài chính đảm bảo thực hiện cứu trợ xã hội được hình thành chủ yếu từ Nhà nước, sự hảo tâm, từ thiện của các tổ chức, cộng đồng dân cư mà đối tượng hưởng không phải đóng góp trực tiếp. * Trợ cấp từ quĩ công cộng Hình thức trợ cấp này cho phép tất cả công dân và cả những người đã định cư dài hạn trong khu vực gặp phải những khó khăn, bất hạnh được hưởng các trợ cấp, trước tiên là người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, goá bụa... Nét đặc biệt của hệ thống này là nguồn tài chính được đảm bảo bởi Nhà nước, toàn bộ hoặc phần lớn được lấy từ các quĩ công cộng mà đối tượng không phải đóng góp, mức trợ cấp thường là đồng nhất. Một số nước phát triển còn thiết lập các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ miễn phí toàn dân hoặc một số dịch vụ chăm sóc khác mà chi phí phần lớn từ các quĩ công cộng, còn lại đối tượng đóng góp một phần... * Trợ cấp gia đình Mục đích của Trợ cấp gia đình nhằm đáp ứng một nhu cầu xã hội, làm giảm bớt sự phân biệt mức sống giữa các gia đình đông con, ít con và các gia đinh khác, tạo sự bình đẳng, cơ may trong đời sống cho mọi trẻ em. Mức trợ cấp gia đình ở phần lớn các nước là thấp và thường do chủ sử dụng lao động đóng góp có sự đỡ đầu của Nhà nước. Một số nước tiến bộ có hệ thống trợ cấp gia đình do Nhà nước thiết lập và thực hiện dựa trên nguyên tắc dịch vụ công cộng với danh nghĩa bù đắp chi tiêu gia đình, không liên quan đến lao động, việc làm. * Chế độ bảo vệ của chủ sử dụng lao động Chế độ bảo vệ của chủ sử dụng lao động được hình thành trên cơ sở trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với các tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xảy ra với người lao động trong quá trình lao động. Hầu hết các nước đều qui định chủ sử dụng phải trả một khoản trợ cấp và chăm sóc y tế cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Người sử dụng lao động có thể tự chi trả các cơ quan bảo hiểm bằng việc mua trước bảo hiểm cho người lao động. * Các dịch vụ xã hội Dịch vụ xã hội ở đây bao gồm dịch vụ y tế, dự phòng y tế, dự phòng tai nạn, dịch vụ đặc biệt đối với người tàn tật, người già yếu bảo vệ trẻ em, kế hoạch gia đình... Việc đưa những loại dịch vụ này vào hệ thống An sinh xã hội là tuỳ thuộc theo lịch sử phát triển An sinh xã hội, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở mỗi nước và theo thứ tự ưu tiên trong cơ cấu và phạm vi của các dịch vụ. * Quỹ dự phòng Đây chỉ là hình thức tiết kiệm bắt buộc đơn thuần của người lao động và người sử dụng lao động vào một quĩ chung và chỉ khi gặp rủi ro, tàn tật, già chết... người lao động hoặc người thừa kế mới được quyền rút toàn bộ số tiền này cả vốn lẫn lãi (cũng có trường hợp cho rút một phần khi người lao động ốm đau, tai nạn hoặc cần mua nhà, xe cộ...). Quỹ này cũng không dùng chi cho các trợ cấp định kỳ thay thu nhập khi nghỉ hưu, tàn tật, chết...và cũng không dùng để tương trợ cho những người khác khi gặp rủi ro, không mang ý nghĩa thông thường của An sinh xã hội, do vậy đây chỉ được coi là một bước quá độ để tiến tới thiết lập quĩ bảo hiểm xã hội mà thôi. Một số tài liệu của ILO cũng gộp những nội dung trên thành ba cơ chế chính đó là cơ chế Bảo hiểm xã hội; Trợ giúp xã hội (cứu trợ xã hội) và cơ chế tuỳ nghi (Cơ chế tuỳ nghi bao gồm các nội dung còn lại). Trên thực tế chưa có nước nào tự cho rằng hệ thống An sinh xã hội của mình là đầy đủ và hoàn thiện. Hơn thế nữa, các bộ phận của An sinh xã hội không chỉ dừng lại ở những nội dung vừa nêu mà với ý nghĩa cao đẹp của nó, An sinh xã hội còn mở rộng các chế độ bảo vệ khác nhằm hướng tới sự bảo vệ toàn diện đầy đủ hơn cho các thành viên của mình. 2.2.Hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam Ở Việt Nam hiện nay cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề an sinh xã hội và các bộ phận cấu thành. Tuy nhiên, có thể thấy rằng hiện tại, an sinh xã hội ở Việt Nam là một ngành luật tương đối mới mẻ được cấu thành gồm ba bộ phận chính là: Bảo hiểm xã hội, Cứu trợ xã hội và Ưu đãi xã hội. *Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa rất lớn đối với người lao động trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam. Nếu như trước đây, ở nước ta bảo hiểm xã hội bó hẹp về phạm vi đối tượng, tài chính phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước, các chế độ bảo hiểm xã hội còn đan xen với nhiều các chính sách chế độ khác như ưu đãi xã hội, kế hoạch hoá dân số... Hiện nay bảo hiểm xã hội Việt Nam đã được cải cách và ngày càng phát huy vai trò của mình đối với đời sống người lao động. Đối tượng bảo hiểm xã hội đã được mở rộng tới mọi người lao động với hai hình thức tham gia bắt buộc và tự nguyện. Chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm các khoản trợ cấp dài hạn, trợ cấp ngắn hạn và bảo hiểm y tế. Quản lý và thực hiện bảo hiểm xã hội được tập trung thống nhất, quĩ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo trợ. *Cứu trợ xã hội Cứu trợ xã hội là một công tác trọng tâm trong chính sách xã hội ở nước ta. Cứu trợ xã hội ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu theo hai chế độ: cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất. Cứu trợ thường xuyên áp dụng với các đối tượng người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật nặng... với các hình thức bằng tiền, hiện vật để giúp đỡ các đối tượng này ổn định cuộc sống. Cứu trợ xã hội đột xuất áp dụng với các đối tượng gặp rủi ro, hoạn nạn, thiên tai hạn hán, hoả hoạn... Chế độ cứu trợ này có tính chất tức thời giúp đỡ con người vượt qua hoạn nạn, khó khăn. *Ưu đãi xã hội Là một bộ phận đặc thù trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Đối tượng hưởng ưu đãi xã hội là những người tham gia bảo vệ giải phóng đất nước. Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước với dân, với cách mạng (và thành viên của gia đình) nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ. Điều này chẳng những thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng và toàn xã hội, mà còn nói lên đạo lý của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Tóm lại, an sinh xã hội là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội đã được nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001):  “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động... Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cho cuộc sống của các thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội đối với người gặp rủi ro, bất hạnh, ... thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận dụng toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa...”. Để triển khai thực hiện chủ trương này, thời gian qua chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật với mục đích nhằm tiến tới xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, là “tấm lá chắn” cho mọi thành viên xã hội, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ và phát triển bền vững. 3.Vai trò của hệ thống An sinh xã hội An sinh xã hội khi được thực hiện đúng và đầy đủ sẽ mang lại nhiều lợi ích lớn cho xã hội : An sinh xã hội đảm bảo cho các đối tượng “yếu thế” nói riêng và người lao động nói chung được chăm sóc, bảo vệ khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt; tạo cho những người bất hạnh có thêm những điều kiện cần thiết để khắc phục những “rủi ro xã hội”, có cơ hội để phát triển, có cơ hội hoà nhập vào cộng đồng. An sinh xã hội với các chức năng của mình, kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, hướng tới những chuẩn mực của chân thiện mỹ. An sinh xã hội nhằm hướng tới những điều cao đẹp trong cuộc sống, hoà đồng mọi người không phân biệt chính kiến, tôn giáo, dân tộc, giới tính... vào một xã hội nhân ái, công bằng, và an toàn cho mọi thành viên. An sinh xã hội thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái giữa những con người trong xã hội. Sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội đồng thời nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người giúp cho xã hội phát triển lành mạnh. An sinh xã hội dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và biện pháp khác nhau. Trên bình diện xã hội, an sinh xã hội là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp dân cư đặc biệt là những người nghèo khó, những nhóm dân cư yếu thế trong xã hội. Dưới giác độ kinh tế, an sinh xã hội là công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. Nếu xây dựng được hệ thống an sinh xã hội tốt thì sẽ giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Đây là nền tảng để xây dựng một xã hội bác ái, công bằng, vì an sinh xã hội không chỉ giải quyết các vấn đề xã hội mà nó còn góp phần thiết yếu trong việc phát triển xã hội, thể hiện sự chuyển giao xã hội làm cho xã hội tốt đẹp hơn, văn minh hơn. Bởi vậy, trong xã hội hiện đại, an sinh xã hội ngày càng được củng cố và hoàn thiện để trở thành một hệ thống thiết yếu trong bộ máy Nhà nước. Nó có chức năng tổng hợp và tập trung các nguồn lực vào việc phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. An sinh xã hội còn đóng vai trò tích cực đối với sự ổn định tình hình chính trị của đất nước. Điều này cũng dễ nhận ra bởi vì tình hình kinh tế xã hội của đất nước có ổn định, có vững mạnh thì tình hình chính trị mới ổn định và vững mạnh. Mặt khác khi cuộc sống của người lao động thường xuyên bị đe doạ bởi những thiếu thốn do ốm đau, do thất nghiệp, do già yếu... thì cũng ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình chính trị. Trên thế giới thường xảy ra những cuộc biểu tình, gây xáo động về nội các của một số chính phủ bởi không đáp ứng về trợ cấp cho công nhân khi ốm đau, khi thất nghiệp, hưu trí... An sinh xã hội góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Xét cho cùng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia đều có chung một mục đích cuối cùng là: đảm bảo và có những cải thiện nhất định cho hạnh phúc của mỗi người và đem lại lợi ích cho mọi người. Trong sự phát triển đó an sinh xã hội có những đóng góp quan trọng. Bằng những biện pháp của mình, an sinh xã hội tạo ra “lưới chắn” an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp nhằm bảo vệ cho mọi thành viên trong cộng đồng khi bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là những “rủi ro xã hội”. An sinh xã hội không chỉ có ý nghĩa với quốc gia mà còn có ý nghĩa quốc tế. Ngoài việc thuộc phạm trù quyền con người, là biểu hiện trình độ văn minh tiến bộ của mỗi quốc gia, ngày nay trong xã hội hiện đại mỗi nước đều nhận thức được rằng an sinh xã hội là vấn đề được toàn nhân loại quan tâm. Việc thực hiện an sinh xã hội không bị giới hạn bởi bất kỳ rào cản chính trị hay địa lý nào, thể hiện rõ nhất đó là các hoạt động cứu trợ xã hội, các hiệp định hợp tác về bảo hiểm xã hội giữa các quốc gia vì một thế giới hoà bình ổn định và phát triển. II.Bảo hiểm xã hội tại Việt Nam 1.Lịch sử phát triển Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam *Giai đoạn từ tháng 8/1945 đến 1960. Ngay từ năm đầu kháng chiến chống Pháp chính phủ đã áp dụng chế độ hưu chí cũ của Pháp để giải quyết quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp sau đó đi theo kháng chiêns nay đã già yếu. Đến năm 1950, Hồ Chủ Tịch dã kí sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế công chức và sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy chế công nhân. Nhìn lại các chế độ ban hành ở giai đoạn nay cho thấy: Các chính sách được ban hành ngay sau khi giàng được độc lập, trong tình trạng kinh tế còn nhiều thiếu thốn nên chưa đầy đủ chỉ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho công nhân viên chức Nhà nước. Mức hưởng mang tính bình quân, đồng cam cộng khổ, chưa có tính lâu dài. Các khoản chi còn lẫn lộn với tiền lương, chính sách BHXH chưa có quỹ riêng để thực hiện. Tuy nhiên, chính sách BHXH có ý nghĩa giải quyết khó khăn cho công nhân viên chức khi tuổi già hoặc mất sức lao động. * Giai đoạn từ 1961 đến 1/1995. Trong giai đoạn này kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đòi hỏi số đông lực lượng lao động. Vì vậy, ngày 27/12/1961 Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời theo nghị định số 218/Chính phủ về các chế độ BHXH cho công nhân viên chức nhà nước. Đối tượng tham gia BHXH là công nhân viên chức lực lượng vũ trang. Đã hình thành nguồn để chi trả các chế độ BHXH trong ngân sách nhà nước trên cơ sở đóng góp của xí nghiệp (4,7% so với tổng quỹ lương) và nhà nước cấp. Áp dụng 6 chế độ BHXH là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất cho công nhân viên chức. Ngày 18/9/1985 Hội đồng bộ trưởng ban hành nghị định 236/HĐBT về việc bổ xung, sửa đổi chế độ BHXH. Như vậy qua hơn 35 năm thực hiện hnàg triệu người đã được hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH, nên đã có tác dụng làm cho đội ngũ công nhân viên chức gắn bó với cách mạng với chính quyền, khuyến khích họ hăng say chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như trong lao động sản xuất xây dựng đất nước. Chính sách BHXH này đã đảm bảo điều kiện thiết yếu về vật chất và tinh thần cho người lao động trong trường hợp gặp rủi ro không làm việc được góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Tuy nhiên, các chính sách BHXH đã ban hành cũng bộc lộ một số mặt tồn tại như: phạm vi đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn chưa thể hiện rõ sự công bằng đối với người lao động làm việc trong và ngoài khu vực nhà nước, quyền lợi trách nhiệm các bên tham gia chưa được thiết lập đầy đủ... *Giai đoạn từ 1995 đến nay : Bộ luật lao động đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua tại kì họp thứ V Quốc hội khoá IX ngày 28/6/1994, qui định tại chương XII về BHXH áp dụng cho người lao động cho mọi thành phần kinh tế. Chính phủ ban hành điều lệ BHXH kèm theo nghị định số 12/CP hướng dẫn qui định thi hành. Chính sách BHXH trong giai đoạn này đã mở rộng phạm vi đối tượng tham gia đối với lao động làm công hưởng lương ở các đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng 10 lao động trở lên thuộc mọi thành phần kinh tế. Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua một số Luật quan trọng trong đó có Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) số 71/2006/QH11 và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh số 13/2006/L-CTN ban hành ngày 12/7/2006. Với 11 chương 141 điều Luật BHXH quy định về chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia Bảo hiểm xã hội; tổ chức Bảo hiểm xã hội; quỹ Bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện Bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về Bảo hiểm xã hội. Điểm mới của văn bản Luật này là, ngoài hình thức BHXH bắt buộc, việc mở rộng hình thức BHXH tự nguyện và hình thức BH thất nghiệp, đã được quy định tại Chương IV và Chương V . Đây là đổi mới quan trọng trong chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước ta để tiến tới BHXH cho mọi người lao động ở bất cứ thành phần kinh tế nào cũng đều có nghĩa vụ tham gia và thụ hưởng những quyền lợi về chế độ BHXH đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy các chế độ Bảo hiểm xã hội bao gồm: - Bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm các chế độ ốm đau; Thai sản; Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Hưu trí; Tử tuất. - Bảo hiểm xã hội tự nguyện gồm các chế độ: Hưu trí; Tử tuất. - Bảo hiểm thất nghiệp gồm các chế độ Trợ cấp thất nghiệp; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ tìm việc làm Nếu hiệu lực chung của Luật này là thi hành từ ngày 1/1/2007, thì BHXH tự nguyện có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2008 còn BHXH thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009. Luật BHXH này không áp dụng đối với bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm mang tính kinh doanh. Đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước qui định mức bình quân của tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp một lần đối với người lao động tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 đến trước ngày Luật BHXH có hiệu lực trước khi nghỉ hưu được qui định tại mục 4 điều 59 như sau: “Tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 đến ngày 31-12 năm 2000 thì tính bình quân của tiền luơng tháng đóng BHXH của 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu; Tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 01tháng 01 năm 2001 đến ngày 31-12-2006 thì tính bình quân của tiền luơng tháng đóng BHXH của 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu” (Đối với ngưòi lao động bắt đầu tham gia BHXH trước ngày ngày 01 tháng 01 năm 1995 thì cách tính lương hưu vẫn như qui định hiện hành). Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp một lần đối với người lao động tham gia BHXH, từ ngày Luật BHXH có hiệu lực được qui định tại điều 60 mục 1: “Người lao động thuộc 2 đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước qui định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của mười năm cuối trước khi nghỉ hưu”. Mức đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung. Mức hưởng Bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng Bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia Bảo hiểm xã hội. Người lao động vừa có thời gian đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng Bảo hiểm xã hội. Một điểm khác nữa là Luật không khống chế số tháng được hưởng trợ cấp 1 lần khi nghỉ hưu mà “Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ ba mươi mốt trở đi đối với nam và năm thứ hai mươi sáu trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương,tiền công tháng đóng BHXH” – Khoản 2 điều 54. Hằng năm Chính phủ báo cáo Quốc hội về quản lý và sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội. Định kỳ ba năm, Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán quỹ Bảo hiểm xã hội và báo cáo kết quả với Quốc hội. Trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ, quỹ Bảo hiểm xã hội được kiểm toán đột xuất… 2.Vị trí và tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam Trong hệ thống an sinh xã hội thì hệ thống BHXH giữ vai trò trụ cột, bền vững nhất. Phát triển BHXH sẽ là tiền đề và điều kiện để thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về mặt kinh tế - xã hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho người sử dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh. Trong hoạt động BHXH , Nhà nước tiến hành xây dựng chính sách, chế độ, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát quá trình thực hiện nhằm bảo đảm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHXH. Như vậy Nhà nước giữ vai trò quản lý về BHXH, bảo hộ cho quỹ BHXH mà không phải chi từ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong suốt quá trình. Theo quy định của Luật BHXH thì người lao động tham gia đóng BHXH từ 20 năm trở lên mà hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp hằng tháng. Với nguồn lương hưu và trợ cấp BHXH, người cao tuổi có thu nhập ổn định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay cả nước đã có khoảng 2,5 triệu người hết tuổi lao động đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng với số tiền chi trả từ quỹ BHXH hàng nghìn tỷ đồng mỗi tháng. Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh phù hợp mức sống chung toàn xã hội tại từng thời điểm, bảo đảm cuộc sống của người về hưu, tạo sự an tâm, tin tưởng của người về hưu sau cả cuộc đời lao động. Chính sách BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản "đóng - hưởng" được hình thành và phát triển, đã tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của người lao động về chính sách BHXH. Khi đó, mọi người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau, làm việc trong các ngành nghề khác nhau, ở từng địa bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được tham gia thực hiện các chính sách BHXH. Phạm vi đối tượng tham gia BHXH, BHYT không ngừng được mở rộng đã thu hút được hàng triệu người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau tham gia, khuyến khích họ tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, tạo được sự an tâm, tin tưởng và yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh. Người lao động tham gia BHXH, BHYT khi ốm đau sẽ được khám, chữa bệnh và được quỹ BHYT chi trả phần lớn chi phí; được nhận tiền trợ cấp ốm đau do không đi làm việc được, được nghỉ chăm con khi con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai, được nghỉ vì sinh đẻ và nuôi con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai sản; khi bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ nhận được phần trợ cấp do giảm khả năng lao động do tai nạn, bệnh nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra người lao động còn được nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực. Khi người lao động mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và được giới thiệu việc làm hoặc gửi đi học nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm mới. Những quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH, BHYT đã góp phần thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho người lao động trong suốt quá trình lao động, sản xuất. Sự an tâm của người lao động cũng như sự bảo vệ sức lao động của họ thông qua chính sách BHXH, BHYT đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền vững. BHXH đều được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, có nghĩa là người nào tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, thì người đó mới được hưởng quyền lợi về BHXH,. Như vậy, nguồn để thực hiện chính sách là do người lao động đóng góp, Nhà nước không phải bỏ ngân sách ra nhưng vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài. 3.Thực trạng BHXH Việt Nam hiện nay : 3.1.Công tác quản lý và thực hiện BHXH. Trước đây, cũng do đặc điểm cơ chế quản lý kinh tế-xã hội, chế độ đảm bảo của BHXH và ASXH chỉ mới chăm lo cho công nhân – viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang, người có đóng góp cho cách mạng chứ chưa thực sự mở rộng đảm bảo cho mọi người lao động trong xã hội. Hiện nay, hệ thống ASXH nói chung, hệ thống BHXH nói riêng ở Việt Nam đã bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới và đang đứng trước một đói hỏi bức bách là phải nhanh chóng hoàn thiện các chế độ đảm bảo (số lượng, nội dung đảm bảo, nguồn huy động,…), nhằm đảm bảo tốt cho mọi người lao động (hưởng lương và cả tự do, công chức nhà nước lẫn hợp đồng lao động với mọi chủ sử dụng lao động khác) trong một điều kiện mới (kinh tế thị trường, phát triển khu vực kinh tế tư nhân, hội nhập quốc tế) Luật BHXH hiện hành với 03 loại hình bảo hiểm, gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, và bảo hiểm thất nghiệp đã tạo cơ hội cho người lao động, đặc biệt là lao động trong khu vực phi chính thức tham gia BHXH. Là trụ cột vững chắc của hệ thống chính sách an sinh xã hội đất nước, từ năm 1995 – 2009, BHXH Việt Nam đã giải quyết kịp thời, đúng chế độ chính sách cho 1,2 triệu người hưởng BHXH thường xuyên, trong đó có gần 850 nghìn người hưởng chế độ hưu trí (chiếm 70,8%). Số người hưởng BHXH thường xuyên tăng nhanh qua các năm: 1996 là gần 22 nghìn người, năm 2009 tăng gấp 6 lần với 130 nghìn người. Giải quyết chế độ trợ cấp 1 lần cho 2,9 triệu người; chế độ ốm đau cho 21,6 triệu người, thai sản cho 3,5 triệu người và dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho 5,7 triệu người. Số người hưởng BHXH thường xuyên tăng nhanh qua các năm: 1996 là gần 22 nghìn người, năm 2009 tăng gấp 6 lần với 130 nghìn người. Về BHYT, trong 7 năm (2003 – 2009) toàn ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế đảm bảo quyền lợi cho trên 400 triệu lượt người đi khám, chữa bệnh BHYT. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ. Từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên khoảng 9,4 triệu người năm 2009, chiếm 18% tổng số lực lượng lao động. Nguồn thu quỹ BHXH bắt buộc tăng nhanh, từ 6.348 tỷ đồng vào năm 2001 lên 36,8 nghìn tỷ đồng vào năm 2009. Tổng chi BHXH bắt buộc cũng tăng nhanh, từ 1.856 tỷ đồng năm 2001 lên khoảng 54,9 nghìn tỷ đồng trong năm 2009 (trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là 26,8 nghìn tỷ đồng). Năm 2008 BHXH tự nguyện được triển khai , số người tham gia đạt gần 50 nghìn người. Nguồn thu quỹ BHXH tự nguyện ước tính đạt 69,5 tỷ đồng và chi khoảng 10,9 tỷ đồng năm 2009.Cũng trong năm 2009, có khoảng 9% dân số từ 50 tuổi trở lên sống bằng lương hưu. Công tác quản l‎ý BHXH ngày càng đi vào nề nếp; công tác giám sát ngày càng được tăng cường; mạng lưới thu-chi ngày càng mở rộng. Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước. Với mức đóng góp 5% của người lao động và 15% của người sử dụng lao động theo Điều lệ BHXH đã làm cho quỹ BHXH hình thành trên thực tế và trở thành quỹ tài chính độc lập với ngân sách Nhà nước. Như vậy, các quan hệ tài chính trong BHXH đã được thể hiện rõ ràng các nguồn thu và các khoản chi BHXH đã được cân đối một cách tổng thể. Sự đóng góp BHXH của các bên còn thể hiện quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong BHXH. Ngoài việc thực hiện chế độ BHXH cho người tham gia, nguồn quỹ BHXH còn được phân bổ dưới hình thức cho Ngân sách nhà nước vay, mua trái phiếu Chính phủ, mua công trái giáo dục và cho các ngân hàng thương mại vay. Với tỷ lệ lãi suất bình quân năm là 9,1 %, khả năng sinh lời của nguồn quỹ là chưa nhiều, tăng trưởng quỹ chưa cao, từ đó hạn chế việc điều chỉnh tăng lương hưu, tăng mức thụ hưởng cho người tham gia. Trong năm 2009, số lãi thu được cũng chỉ khoảng 8.400 tỷ đồng. Để tăng nguồn quỹ BHXH, về lâu dài cần tăng khả năng sinh lời quỹ thông qua các hình thức đầu tư hơn là tăng sức đóng. Hiện nay chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn những tồn tại và bất cập bao gồm cả BhXH bắt buộc lẫn tự nguyện. ĐỐi với BHXH bắt buộc Vẫn còn một bộ phận người lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt tỷ lệ tham gia của lao động làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước còn thấp. Nguy cơ mất cân đối quỹ BHXH cao  do cơ chế tài chính BHXH dựa trên phương thức “tọa thu, tọa chi” thực hiện trong điều kiện tuổi thọ bình quân có xu hướng gia tăng, mức đóng – mức hưởng không có quan hệ chặt chẽ và phù hợp , cơ chế và phương thức đầu tư quỹ BHXH chưa thực sự hiệu quả. Công tác tổ chức thực hiện các chế độ của BHXH còn nhiều bất cập dẫn đến việc thực thi các qui định của Luật Bảo hiểm xã hội còn bị hạn chế , ngoài ra công tác truyền thông vận động nên số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chưa cao, quỹ chưa được tăng vốn đáng kể . Đối với bảo hiểm thất nghiệp, Luật chỉ cho phép đơn vị sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên mới được tham gia bảo hiểm thất nghiệp nên đã hạn chế khả năng tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ có dưới 10 lao động Đối với BHXH tự nguyện : đa số các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là những người đã tham gia BHXH bắt buộc được một vài năm và tiếp tục tham gia để đáp ứng điều kiện tối thiểu có 20 năm để hưởng chế độ BHXH; Số lao động trong khu vực phi chính thức, đặc biệt là nông dân nông thôn, lao động trẻ tham gia chưa nhiều, một phần là do nhận thức về tự nguyện không cao, công tác tuyên truyền thông tin còn yếu và lý do chính là do thu nhập hàng tháng thấp nên không đủ khả năng tham gia. Bên cạnh đó lại thiếu cơ chế để thu hút và chính sách hỗ trợ người lao động khu vực phi chính thức, đặc biệt là người lao động nghèo, người không đủ điều kiện về tuổi tham gia Cơ sở hạ tầng của hệ thống quản lý BHXH vẫn còn yếu, mạng lưới các dịch vụ thu và chi BHXH cũng như đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện các nghiệp vụ BHXH vẫn còn bất cập.Công tác theo dõi giám sát đối tượng tham gia còn gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, hệ thống BHXH sẽ gặp nhiều khó khăn khi số lượng đối tượng được dự báo là sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. 3.2.Vấn đề nợ đọng và chậm đóng BHXH Nợ đọng và chậm đóng BHXH ở Việt Nam hiện nay vẫn là một hiện tượng phổ biến. Khối các doanh nghiệp là đối tượng nợ đọng BHXH lớn nhất với khoảng 80%. Việc thu BHXH bắt buộc được thực hiện bởi các doanh nghiệp đây thực chất là quá trình phân phối chi phí cho người lao động , vừa đảm bảo được sử dụng hiệu quả một phần tiền lương của người lao động vừa thể hiện được trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với những nhân viên , người lao động của họ trong quá trình sử dụng lao động cũng như bảo đảm cuộc sống sau này cho người lao động khi không còn khả năng lao động.Điều này có ý nghĩa to lớn đối với người lao động để họ cảm thấy yên tâm công tác , làm việc và gắn bó với doanh nghiệp của mình , từ đó hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới được ổn định. Ở hầu hết các địa phương trong cả nước đều có doanh nghiệp nợ BHXH, ít thì vài chục triệu, nhiều thì vài trăm triệu tới hàng chục tỷ đồng.Năm 2008 quỹ BHXH đã thu được gần 30.217 tỷ đồng từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, tăng 27% so với năm 2007. Tuy nhiên, số nợ đóng và chậm đóng đến cuối năm 2008 là 1.895 tỷ đồng và 80% số này thuộc về các doanh nghiệp. Theo BHXH Việt Nam, phần lớn các khoản nợ là dưới 6 tháng (chiếm 65,5%), số nợ từ hai năm trở lên chiếm 5,4%. Ngay tại Hà Nội, trong 6 tháng đầu năm 2010, đã có 106 doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô nợ đọng bảo hiểm xã hội với tổng số tiền lên đến trên 84 tỷ đồng, trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn nợ đọng với số tiền lên đến hàng tỷ đồng. Phần lớn các DN này thuộc lĩnh vực giao thông, xây dựng, dệt may, có DN nợ tới 8 tỷ đồng. Tại Hải Phòng, đến hết quý 2-2010, vẫn còn 149 đơn vị nợ đọng BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với số tiền trên 152 tỷ đồng còn trên địa bàn tỉnh Hà Nam tính đến cuối tháng 7-2010 số nợ đọng BHXH là gần 20 tỷ đồng; tại Đà Nẵng là 44,8 tỷ đồng…, nhiều trường hợp doanh nghiệp đã bị khởi kiện do trốn tránh nghĩa vụ BHXH... và nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều doanh nghiệp đã đến kỳ quyết toán nhưng không chịu dồn tiền trả nợ bảo hiểm xã hội cho người lao động, tháng sau chồng lên tháng trước , điều này lại là do người sử dụng lao động luôn tìm cách đối phó, trốn tránh hoặc chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động. Một thực tế nữa cho thấy quá trình cải cách thể chế, chính sách an sinh xã hội thì các chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHXH đã được đề ra khá chi tiết và đầy đủ . Tuy nhiên, mức xử phạt vi phạm hành chính còn khá thấp, khả năng cưỡng chế luật pháp và tính khả thi của các biện pháp thực hiện còn chưa cao , một ví dụ cụ thể như lãi suất chậm đóng của nợ BHXH luôn thấp hơn lãi suất vay ngân hàng , mức xử phạt nợ, chậm đóng BHXH dù đã được nâng cao trong Nghị định 86/2010/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 135/2007/NĐ-CP, nhưng vẫn còn quá nhẹ, không đủ sức ngăn chặn việc trục lợi trong việc chậm đóng BHXH. Đây cũng chính là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trốn tránh và nợ đọng BHXH tại các doanh nghiệp Ngoài ra, một lý do khác nữa, đó là vai trò của cấp uỷ, chính quyền địa phương, đặc biệt là các cơ quan chức năng có thẩm quyền, trách nhiệm trong vấn đề này chưa tiến hành một cách tích cực, thậm chí thờ ơ, khiến doanh nghiệp, đơn vị nợ đọng BHXH càng có cơ hội tái diễn vi phạm. III.Những Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chế độ BHXH. 1.Cải thiện một số các chính sách , Luật BHXH Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật trên hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi, hệ thống hoá các văn bản pháp luật hiện có trên cơ sở kế thừa và phát triển chính sách BHXH hiện hành, xem xét điều kiện kinh tế – xã hội và tham khảo kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới. Cần đảm bảo tính đồng bộ giữa các chế độ ASXH, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, đảm bảo mọi người dân đều có quyền được hưởng  Xây dựng chiến lược phát triển BHXH, mở rộng đối tượng tham gia BHXH buộc, đặc biệt là đối tượng làm công ăn lương trong khu vực doanh nghiệp tư nhân để đạt khoảng 90% đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc vào năm 2015. Việc thu BHXH bắt buộc phải được thực hiện đúng quy định của pháp luật, đảm bảo thu đúng, thu đủ; chống thất thu, nợ đọng để đảm bảo quyền lợi người lao động và đảm bảo khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong tương lai. Tiếp tuc đẩy mạnh thực hiện BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp một cách hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật; trên cơ sở đó xem xét, rút kinh nghiệm và tiếp tục cải cách, hoàn thiện cơ chế chính sách. 2.Nâng cao hiệu quả công tác thực hiện BHXH và quản lý nguồn quỹ BHXH Để nâng cao hiệu quả công tác thực hiện BHXH cần có những giải pháp : Trước hết phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thu BHXH từ trung ương đến địa phương để đáp ứng nhu cầu công việc, đồng thời phải có cơ chế khuyến khích cán bộ BHXH phát hiện và truy thu BHXH. Thứ hai : cần sư liên kết giữa BHXH với các cơ quan Thuế , sở lao động ở các địa phương nhằm đảm bảo việc quản lý , xác định truy thu BHXH tại các doanh nghiệp , các cơ sở , đơn vị Thứ ba : Từng bước đổi mới phương pháp chỉ đạo, phương pháp hoạt động, đồng thời chủ động phát hiện và giải quyết kịp thời các vướng mắc của người dân trong quá trình phục vụ. Tiếp đến là việc cụ thể hóa các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao thành kế hoạch, chương trình hành động và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình hành động đề ra. Để cân đối quỹ BHXH trong tương lai, cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất là tăng mức đóng : từ các năm tiếp theo có thể tăng dân mức đóng góp vào các quỹ BHXH để để đảm bảo sự bền vững của quỹ Thứ hai thực hiện đóng BHXH trên thu nhập thực tế của người lao động ở các khối doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp Thứ ba là thay đổi cách tính mức hưởng BHXH một cách hợp lý nhằm đảm bảo tính công bằng một cách tương đối giữa mức đóng góp và mức lợi ích được hưởng của các đối tượng. Về thời gian hưởng BHXH, cần từng bước loại bỏ những quy định nghỉ hưu trước tuổi và xem xét kéo dài thời gian lao động và đóng góp BHXH Thứ tư là phải có kế hoạch tổng thể về trích ngân sách nhà nước để đóng vào quỹ BHXH cho cán bộ công nhân viên chức đã có thời gian làm việc trước năm 1995 theo quy định của Luật BHXH (trước khi thành lập BHXH). Cuối cùng là phải nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của các quỹ BHXH. 3.Giải pháp khắc phục tình trạng nợ đọng và chậm đóng BHXH. Đầu tiên các quan chức năng cần xúc tiến đồng bộ nhiều giải pháp, tích cực thanh tra, kiểm tra, xử phạt nghiêm minh nhưng đồng thời cũng tăng cường công tác tuyên truyền vận động đối với các doanh nghiệp và người lao động Thứ hai : Tiếp tục ban hành các văn bản chỉ đạo , giải thích , hướng dẫn thực hiện các nội dung của luật BHXH đặc biệt là các nội dung về giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động. Đặc biệt là tích cực tuyên truyền các nội dung , chính sách BHXH đến với người lao động để họ hiêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình và những thái độ đấu tranh đối với những chủ sử dụng lao động vi phạm luật BHXH. Thứ ba : Tăng cường các chế tài xử phạt cũng như mức phạt có thể đủ sức răn đe đối với các doanh nghiệp . Kết luận Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự lớn mạnh không ngừng của hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã phát huy vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần tích cực vào việc ổn định xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên , thực trạng phát triển ngành BHXH nước ta vẫn còn nhiều bất cập về các chính sách, pháp luật ,khung pháp lý của BHXH , khâu quản lý thực hiện BHXH cũng như vấn đề nóng hổi nhât hiện nay là tình trạng nợ đọng , dây dưa trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH của các doanh nghiệp trong cả nước. Phân tích các thực trạng này đã cho thấy nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan , nhưng nhìn nhận một cách sâu xa đó vẫn là nguyên nhân thuộc về trách nhiệm , ý thức của các đối tượng liên quan đó là của các cơ quan chức năng , của người dân và của doanh nghiệp. Vai trò và vị trí của BHXH trong các chính sách an sinh xã hội có ý nghĩa quan trọng , nên muốn thực hiện các biện pháp , chính sách an sinh xã hội để đạt được kết quả tốt cần có những giải pháp đồng bộ đối với hệ thống bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó các hợp phần khác của an sinh xã hội cũng phải được chú trọng , tuy nhiên nên dành trọng tâm cho việc phát triển và hoàn thiện hệ thống , chính sách BHXH , bởi BHXH mới là bộ phận chủ đạo , có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong vấn đề đảm bảo an sinh xã hội cũng như để tạo động lực phát triển các bộ phận khác trong hệ thống an sinh xã hội. Tài liệu tham Khảo 1.Giáo trình : An sinh xã hội …. 2. Wed site www.tapchibaohiemxahoi.org 3.Bộ lao động thương binh xã hội ( 2010 ): Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội bảo hiểm y tế đối với an sinh xã hội của đất nước. Được lấy từ : 4.Thông Tấn Xã Việt Nam. ( 2010).Đánh giá hệ thống Bảo hiểm xã hội Việ Nam và những đề xuất cải cách. Được lấy từ : 5. Đàm Hữu Đắc (2009), Việt Nam đang hướng đến hệ thống ASXH năng động và hiệu quả , Tạp chí Cộng sản (2009) 6.Đỗ Ngọc Huỳnh (2010). Bàn về cải cách hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam.ĐƯơc lấy từ : 7.Minh Lý (2010). Nợ đọng Bảo hiểm xã hội lớn: Chế tài xử phạt còn thiếu và yếu.ĐƯợc lấy từ : 8. Đặng Đức San (2002). về thuật ngữ an sinh xã hội, Tạp chí khoa học Kinh tế - Luật , số 1/2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam.doc
Luận văn liên quan