Các quỹ đầu tư hay các quỹ tương hỗ ở Việt Nam đã khá phát triển, với
danh mục đầu tư trực tiếp và gián tiếp trong thời gian gần đây . Đây là một
trong những thành viên tích cực của thị trường góp phần làm tăng tính thanh
khoản của trái phiếu. Khác với các nhà tạo lập thị trường, các quỹ đầu tư sẽ tập
hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đầu tư vào
danh mục cổ phiếu và trái phiếu .
65 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3115 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại Cổ phần Sài Gòn (SCB)… vừa công bố kết quả kinh
doanh năm 2008.Tổng vốn điều lệ của HabuBank đạt 2.800 tỷ đồng, tổng tài
sản đạt 24.863 tỷ đồng, tổng huy động vốn ước đạt 19.758 tỷ đồng, tổng dư nợ
đạt 10.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 525 tỷ đồng. Tính đến
31/12/2008, vốn điều lệ và các quỹ của SCB đạt 2.526 tỷ đồng; tổng tài sản
38.598 tỷ đồng, vượt 49% so với năm 2007; tổng huy động vốn 34.392 tỷ
đồng, vượt 51% so với năm 2007; dư nợ tín dụng 23.278 tỷ đồng, vượt 20% so
với năm 2007. Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 658 tỷ đồng, vượt 83%
so với năm 2007 và vượt kế hoạch lợi nhuận điều chỉnh 2008.
2.4.2 Những tồn tại :
2.4.2.1 Quy mô vốn tự có quá nhỏ: Phần lớn các ngân hàng thương mại
(NHTM) có vốn tự có thấp và không đạt tiêu chuẩn an toàn vốn. Vốn tự
có của các NHTM mới chiếm 5,4% tổng nguồn vốn của các tổ chức tín
dụng(TCTD) trong đó vốn điều lệ chiếm 3,4%. Ngân hàng có vốn tự có cao
nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), khoảng
250 triệu USD và thấp nhất là các NHTM cổ phần nông thôn, khoảng 5 triệu
USD. Trong khi đó, ngân hàng trung bình trong khu vực có mức vốn tự có xấp
xỉ 1 tỷ USD. Hệ thống NHTM VN hội nhập quốc tế trong điều kiện điểm xuất
phát thấp về trình độ phát triển. Các NHTM yếu về nguồn vốn, trình độ chuyên
môn quản lý, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động. Năng lực cạnh tranh thấp, tỷ
lệ an toàn vốn bình quân khoảng 3,72% trong khi theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ
an toàn vốn bình quân tối thiểu 8%. Vốn tự có của NHTM VN nhỏ hơn rất
nhiều so với các ngân hàng trong khu vực. Ngần hàng có vốn tự có lớn nhất chỉ
khoảng 200 triệu USD, bằng 1/5 vốn tự có của ngân hàng các nước trong khu
vực. Tốc độ tăng vốn tự có của các NHTM còn thấp trong khi tốc độ tăng tài
sản hiện nay bình quân tăng từ 20%25% nếu không có những biện pháp thiết
thực tăng vốn tự có với lộ trình cụ thể thì e rằng NHTM VN khó đạt được tỷ lệ
an toàn vốn. Năng lực tài chính của các NHTM còn quá yếu, do vậy khó có thể
đủ tiềm lực về vốn khi tham gia hội nhập chỉ trừ một số ngân hàng có quy mô
vốn lớn, tuy nhiên số ngân hàng này chiếm tỷ lệ rất ít.
2.4.2.2 Huy động vốn ngắn hạn, cho vay dài hạn: đây là tình hình chung trên
thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay. Nếu nhìn nhận thị trường chứng khoán là
nơi để các doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho yêu cầu
sản xuất kinh doanh thì thị trường chứng khoán Việt Nam chưa làm được. Năm
2006 khép lại với sự phát triển nhanh chóng của TTCK trong đó góp phần đáng
kể cho sự thành công cho các doanh nghiệp nhà nước IPO, chuyển đổi mô hình
hoạt động. Tuy nhiên sang đầu năm 2007, sự sụt dốc nhanh chóng của TTCK
đã đẩy các doanh nghiệp vào sự bế tắc trong việc huy động vốn, các kế hoạch
IPO bị trì hoãn vô thời hạn nhằm hạn chế nguồn cung cổ phiếu vốn đã trở nên
dồi dào. Đến thời điểm này cùng với điều kiện kinh tế của Việt Nam bị tác
động mạnh mẽ từ kinh tế toàn cầu như: giá dầu liên tiếp phá kỷ lục, khủng
hoãng dưới tiêu chuẩn của Mỹ…kéo theo lạm phát của Việt Nam cao kỷ lục
trong vòng một thập kỷ trở lại. Song song đó ngân hàng nhà nước tiến hành
nhiều biện pháp để bình ổn thị trường tiền tệ như: đặt ra mức huy động trần lãi
suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng, phát hành tín phiếu bắt
buộc, khống chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 30% trong năm 2008 sau
khi tăng quá nóng cuối năm 2007.
Trước sự thay đổi liên tục trong các chính sách điều hành của Chính
phủ và tình hình biến động phức tạp của lạm phát, người gửi tiền hiện tại chỉ
dám gửi vào các kỳ hạn ngắn nhằm thích nghi kịp thời với sự thay đổi bất ngờ
từ các chính sách. Điều này đã đẩy các ngân hàng vào các cuộc đua huy động
vốn chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn. Trái ngược với người gửi tiền, các doanh
nghiệp đi vay nhận thấy rằng cần phải vay dài hạn để phòng ngừa rủi ro lãi
suất. Chính sự trái ngược này cộng với việc cho vay vốn ồ ạt vào cuối năm
2006 vào lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực cần các nguồn vốn trung và dài hạn,
nhằm “hợp thức hoá” tỷ lệ cho vay theo chỉ thị 03 về kiểm soát cho vay chứng
khoán của Chính phủ. Kết hợp các yếu tố trên đây đã dẫn đến hệ quả là các tổ
chức tài chính huy động vốn ngắn hạn, sau đó cho vay dài hạn và khả nặng mất
thanh khoản về kỳ hạn ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ đã xảy ra.
Lãi suất trên thị trường vốn liên ngân hàng lên đến 30%/năm cho kỳ hạn vay
qua đêm (overnight) đã minh chứng cho việc quản lý vốn yếu kém của một số
tố chức tín dụng ở Việt Nam thời gian qua.
Biểu đồ 2.6: Các mốc lãi suất cơ bản trong thời gian qua
(Nguồn: Thomson – Reuters)
Bảng 2.7: Các loại lãi suất cơ bản của Việt Nam
Các loại Lãi suất chính (%)
Ngày tháng01/02/0922/12/0805/12/0821/11/0805/11/0821/10/0811/06/0819/05/0801/02/08
LSCB 7.0 8.5 10.0 11.0 12.0 13.0 14.0 12.0 8.75
LSCK 6.0 7.5 9.0 10.0 11.0 12.0 13.0 11.0 6.0
LSTCK 8.0 9.5 11.0 12.0 13.0 14.0 15.0 13.0 7.5
(Nguồn: Thomson – reuters ngày 23 tháng 01 năm 2009)
2.4.2.3 Quản trị điều hành vốn của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần
chưa phù hợp và chưa hiệu quả:
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng thời gian qua tăng nóng là quản trị điều hành vốn của nhiều
ngân hàng cổ phần chưa hiệu quả và chưa phù hợp.
Để thấy rõ thực trạng vấn đề này, cần phân tích cơ cấu nguồn vốn của ngân
hàng thương mại dựa trên báo cáo tài chính 2007 đã được kiểm toán. Bản báo
cáo này theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đang được các ngân hàng
thương mại công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Nông thôn Mỹ Xuyên thời điểm hết năm 2007, tổng tiền
gửi và vay tổ chức tín dụng khác lên tới 624 tỷ đồng, tăng mạnh so với 166 tỷ
đồng của năm 2006. Trong khi đó, vốn huy động từ khách hàng chỉ có 328,7 tỷ
đồng, tăng hơn 3 lần so với mức 109 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy trong cơ
cấu nguồn vốn 952,7 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường 2, tức là trên thị
trường liên ngân hàng chiếm tới 65,5%. Cũng tại thời điểm này, dư nợ cho vay
khách hàng là 1.266 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 392,9 tỷ đồng cuối
năm 2006. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định có quy mô rất khiêm tốn
trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, cũng tính đến hết năm 2007
tổng số tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 840 tỷ đồng, gấp 5 lần
mức 168 tỷ đồng hết năm 2006; trong khi đó, tiền gửi và huy động từ khách
hàng chỉ đạt 417 tỷ đồng, tăng rất chậm so với mức 332 tỷ đồng năm trước.
Tính chung trong cơ cấu nguồn vốn huy động 1.257 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên
thị trường liên ngân hàng chiếm tới 66,8%; trong khi dư nợ cho vay khách hàng
là 1.049 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2006.
Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn huy động, một số ngân hàng thương mại cổ
phần khác mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần
quy mô nhỏ cũng có tỷ trọng vốn đi vay trên thị trường liên ngân hàng cao
tương tự như hai ngân hàng thương mại cổ phần nói trên. Một ngân hàng khác
thuộc nhóm quy mô khá, đó là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế, cũng
tính đến hết năm 2007 có tổng số tiền gửi và tiền vay các tổ chức tín dụng khác
là 12.846,6 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 3.429,3 tỷ đồng cuối năm 2006.
Vốn huy động từ khách hàng là 17.686,7 tỷ đồng, tăng khoảng 1,7 lần so với
mức 9.813,5 tỷ đồng cuối năm 2006. Tương tự, trong cơ cấu nguồn vốn huy
động là 27.500,2 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm
46,7%. Về sử dụng vốn, riêng dư nợ cho vay khách hàng là 16.611 tỷ đồng,
tăng 1,7 lần so với mức 9.058,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ
phần Quốc tế cũng có số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác là 12.347 tỷ
đồng, gấp gần 4 lần năm 2006.
Cũng thuộc nhóm có quy mô khá, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Kỹ Thương đến hết năm 2007 có tổng tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng
khác là 8.458,9 tỷ đồng, tăng gần 1,7 lần so với mức 5.077,8 tỷ đồng cuối năm
2006. Vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng là 24.476,6 tỷ đồng, tăng
khoảng 2,5 lần so với mức 9.566 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng
nguồn vốn huy động là 32.934,9 tỷ đồng, thì vốn huy động trên thị trường liên
ngân hàng chiếm 25,7%. Tuy nhiên, cũng tại thời điểm nói trên Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Kỹ Thương có số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác là
9.303,6 tỷ đồng, lớn hơn số tiền huy động trên thị trường liên ngân hàng. Dư
nợ cho vay đến hết năm 2007 là 20.486 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với mức 8.696
tỷ đồng cuối năm 2006.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, đến hết năm 2007 có tổng
số dư tiền gửi và tiền vay tổ chức tín dụng khác là 10.805,5 tỷ đồng, gấp hơn
2 lần so với mức 4.858 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động của khách hàng
là 8.467 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 4.484,8 tỷ đồng cuối năm 2006.
Như vậy, trong tổng nguồn vốn huy động 15.290,3 tỷ đồng thì vốn huy
động trên thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng 70,7%. Tuy nhiên, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội cũng có số dư tiền gửi và cho vay
tổ chức tín dụng khác là 10.894 tỷ đồng, gấp 3 lần năm 2006. Tại thời điểm
này, dư nợ cho vay khách hàng là 9.285,8 tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần năm 2006.
Về mức độ vay vốn và hiệu quả kinh doanh: Nhìn qua số liệu trong bảng
cân đối tài chính đã được kiểm toán nói trên về góc độ quản trị điều hành vốn
có thể rút ra một số nhận xét:
· Một là, càng các ngân hàng nhỏ, ngân hàng mới chuyển từ nông thôn lên
đô thị thì mức độ vay mượn vốn trên thị trường liên ngân hàng càng lớn
hơn và tốc độ gia tăng cao. Việc vay nợ này chủ yếu là ngắn hạn, với lãi
suất cao, nên hiệu quả kinh doanh hạn chế vì thu nhập từ chênh lệch
giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay thấp.
· Hai là, mức độ đi vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng quá lớn
thì rủi ro thanh khoản ở mức độ rất cao. Khi có những biến động trên thị
trường tiền tệ, như: Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các
ngân hàng thương mại phải mua một khối lượng lớn tín phiếu bắt buộc,
các ngân hàng thương mại cho vay chủ yếu là ngân hàng thương mại
Nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn, tiến
hành thu hồi nợ và hạn chế hay ngừng cho vay ra, làm cho các ngân
hàng thương mại thiếu hụt tạm thời thanh khoản. Khi đó, các ngân hàng
thương mại thường đi vay trên thị trường liên ngân hàng phải chạy đôn
chạy đáo đi vay các ngân hàng thương mại khác với bất cứ lãi suất nào,
hoặc tăng lãi suất huy động vốn trên thị trường. Đây là nguyên nhân của
đợt lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng lên tới 30% thậm chí
40%/năm và lãi suất huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trên
thị trường tăng lên tới 12%/năm trong khoảng thời gian từ ngày 18/2
1/4/2008 vừa qua.
· Ba là, khả năng huy động vốn trên thị trường 1, tức là thị trường thu hút
tiền gửi của khách hàng của các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô
nhỏ rất hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu do màng lưới hẹp, thương hiệu
và uy tín hạn chế, dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, năng lực cạnh
tranh thấp,... Trong khi đó, nhu cầu tăng trưởng dư nợ cao, cần nhanh
chóng mở rộng quy mô, nên phải đi vay mượn trên thị trường liên ngân
hàng ở mức độ lớn.
· Bốn là, các ngân hàng thương mại cho vay lớn trên thị trường liên ngân
hàng là những ngân hàng có chiến lược quản trị nguồn vốn rất rõ ràng.
Các ngân hàng thương mại này định hướng một tỷ lệ cho vay nhất định
đối với khách hàng. Bởi vì cho vay trực tiếp khách hàng thường có mức
độ rủi ro cao hơn cho vay món nhỏ chi phí lớn hơn, thời gian cho vay
dài. Trong khi đó, cho vay ngân hàng thương mại mại khác trên thị
trường liên ngân hàng rủi ro ít hơn, chi phí thấp hơn. Các món vay
thường ngắn hạn: 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Món vay lại
lớn nên chi phí thấp.
· Năm là, các ngân hàng thương mại quy mô khá và lớn thường đa dạng
hoạt động trên thị trường liên ngân hàng, nhận tiền gửi của các tổ chức
tín dụng khác và lại cho vay tổ chức tín dụng khác. Với uy tín và sự
năng độ kinh doanh, các ngân hàng thương mại này đi vay, hay nhận
được tiền gửi của ngân hàng thương mại khác với lãi suất thấp hơn, thời
gian dài hơn, sau đó đem cho vay ngân hàng thương mại nhỏ có nhu cầu
với lãi suất cao hơn và thời gian ngắn hơn. Tuy chênh lệch lãi suất
không lớn nhưng do số tiền cho vay lớn nên cũng đem lại một khoản thu
nhập đáng kể. Trong bối cảnh cạnh tranh và rủi ro tiềm ẩn thì chiến lược
kinh doanh này cho phép tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng thương
mại. Tuy nhiên, khi có diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ thì
thường gây ảnh hưởng, tác động dây chuyền, tạo căng thẳng và tăng lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng.
· Sáu là, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng trưởng
tín dụng rất nóng, gấp 24 lần, thậm chí tới 78 lần năm trước. Tốc độ
tăng quá nhanh đó đi kèm với tiềm ẩn rủi ro về tín dụng, vượt quá khả
năng quản lý của mình.
Từ thực tế nói trên cũng như từ thực tế cơn sốt nóng trên thị trường tiền
tệ thời gian qua, đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần có chiến lược quản trị
điều hành nguồn vốn hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và luôn sẵn sàng
chủ động đối phó với mọi tình huống, cần chủ động khống chế tỷ lệ đi vay nợ
trên thị trường liên ngân hàng.
Biểu đồ 2.8: Tăng Trưởng Tiền Tệ và Tín Dụng
(Nguồn: theo số liệu của Ngân hàng nhà nước và IMF)
Kết luận chương 2:
Chương 2 khép lại với việc nêu ra và phân tích các vấn đề đang tồn tại
trong công tác bảo toàn vốn tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
trước những biến động nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu và thế giới tài
chính trong thời gian gần đây. Những tồn tại này bắt nguồn từ những thực tại
trong quá khứ mang tính đặc thù của đất nước, kèm theo những quan điểm
mang tính áp đặt trong công tác điều hành, quản trị ở bản thân các đơn vị và cả
các cơ quan quản lý nhà nước.
Tuy nhiên nếu bỏ qua những đặc thù trên, những hạn chế vốn có thì các
ngân hàng thương mại đã đạt được những thành tựu vượt bật trong những năm
vừa qua, những nỗ lực không ngừng để đưa nền tài chính của nước ta càng
hoàn thiện hơn trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt và góp phần làm hoàn
thiện hơn các chính sách điều tiết kinh tế của Nhà nước. Những nỗ lực cạnh
tranh của các NHTMCP đã làm cho nền tài chính của đất nước ngày càng vững
mạnh hơn trong những năm tiếp theo. Các giải pháp mang tính chủ động từ
phía các NHTMCP này góp phần vào công tác điều hành kinh tế từ Chính phủ,
Ngân hàng nhà nước, các cơ quan quản lý kinh tế có liên quan sẽ được nêu ra
trong chương 3.
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA CÁC NHTMCP
VIỆT NAM
3.1 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC NHTMCP VN
3.1.1 Xây dựng cơ cấu huy động và cho vay hợp lý: theo quy định hiện tại
của Ngân hàng nhà nước thì các ngân hàng thương mại được phép sử dụng tối
đa 30% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn, quy định này đã được
thắt chặt hơn từ mức 40% trước đó theo Quy định 457/2005/QĐNHNN ngày
19/04/2005. Dựa trên điều kiện thực tế của mỗi ngân hàng mà Ban quản trị xây
dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hợp lý trong điều kiện cạnh tranh
càng gay gắt. Các điều kiện ở đây bao gồm: vốn tự có, mạng lưới chi nhánh
hoạt động, mạng lưới khách hàng hiện tại và tiềm năng, hình ảnh, tên tuổi, hệ
thống chương trình công nghệ áp dụng, đội ngũ nhân lực quản trị điều hành và
thực hiện, chiến lược marketing và kinh doanh…Còn nhớ trong thời kỳ xảy ra
tình trạng mất thanh khoản ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ thì các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã mất đi phương hướng hoạt động của
mình vì sự ảnh hưởng từ ngân hàng bạn. Vì vậy, các ngân hàng đã nhảy vào
cuộc đua tăng lãi suất huy động mà hiệu quả sử dụng vốn hầu như không có.
Sự mất tính thanh khoản cục bộ này bắt nguồn từ việc cân đối vốn bất hợp lý ở
một số ngân hàng khi đã giải ngân dài hạn ồ ạt để né tránh chỉ thị 03 về cho vay
chứng khoán, vào lĩnh vực bất động sản cuối năm 2007. Và khi Ngân hàng Nhà
nước triển khai các biện pháp can thiệp để kìm chế lạm phát thì hiện tượng mất
thanh khoản đã xãy ra. Hay nói cách khác là các ngân hàng thương mại đã vi
phạm các tỷ lệ trong đảm bảo an toàn vốn, sử dụng quá mức cho phép các
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn.
3.1.2 Tuân thủ các chuẩn mực kiểm soát an toàn vốn: Hiện nay, các tỷ lệ
bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo
quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 của Ngân
hàng Nhà nước. Việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được thực hiện
theo quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐNHNN ngày 22/4/2005 của
Ngân hàng Nhà nước. Các quy định này được xây dựng trên cơ sở áp dụng
chuẩn mực và thông lệ quốc tế phổ biến và thực tiễn hoạt động ngân hàng tại
Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển ngày càng nhanh, mạnh và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì các quy
định này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế và kém hiệu quả trong việc bảo đảm an
toàn hoạt động và quản lý rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Theo đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam gặp phải các vấn đề cơ bản sau:
· Về quản trị rủi ro tín dụng: Chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng
chiến lược tín dụng tổng thể và kế hoạch khả thi để thực hiện chiến lược
này, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc phát triển nguồn lực và ưu
tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng tổ chức tín dụng.
Các tổ chức tín dụng chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro hiện
có và rủi ro tiềm tàng do một số hạn chế như phân loại nợ theo tiêu chí
định lượng là chủ yếu, dẫn tới tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh đúng chất
lượng tín dụng thực tế. Hệ thống thông tin quản trị còn yếu, chưa hỗ trợ
việc phân tích chất lượng tín dụng. Chưa lượng hoá được rủi ro tín dụng
của các đối tác thanh toán cũng như chưa đánh giá thường xuyên năng
lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Nhiều tổ chức tín dụng đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng chưa có
cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực hiện cẩm nang này. Hệ
thống xếp hạng tín dụng là cốt lõi của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng,
nhưng chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng được hệ thống này để
hỗ trợ việc thẩm định, áp dụng chính sách khách hàng, giám sát khách
hàng, phân loại nợ trên cơ sở kết hợp phân tích yếu tố định tính và định
lượng theo thông lệ quốc tế. Chức năng kiểm tra tín dụng độc lập chưa
được phát huy và sử dụng hiệu quả.
· Về quản trị rủi ro thanh khoản: các chiến lược quản lý thanh khoản của
hầu hết các tổ chức tín dụng đều rất bao quát. Các tổ chức tín dụng chưa
có công cụ phù hợp để lượng hoá rủi ro, báo cáo phục vụ quản lý thanh
khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các báo cáo phân
tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu
quả. Mặc dù cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản đã được xây
dựng, nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ
nhạt. Các công cụ như phân tích và quản trị độ lệch thời gian, tình
huống, rủi ro tập trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải
ngân… chưa được áp dụng phổ biến và linh hoạt. Rất ít tổ chức tín dụng
xây dựng kế hoạch (giả định) đối phó tình trạng khủng hoảng thanh
khoản, nếu có xây dựng thì cũng chưa được luyện tập và cập nhật
thường xuyên, liên tục.
· Về quản trị rủi ro lãi suất: Các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được
chính sách lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro và hoạt động của tổ chức
tín dụng, chính sách lãi suất hiện nay của các tổ chức tín dụng rất dễ bị
dẫn dắt bởi các yếu tố thị trường; chưa lượng hoá được rủi ro lãi suất
cho cơ cấu tài sản nợ có hiện tại của tổ chức tín dụng. Hệ thống thông
tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro lãi
suất. Hầu hết các tổ chức tín dụng đều chưa có các công cụ nhằm phân
tích độ nhạy của lãi suất để xác định ảnh hưởng của việc thay đổi lãi
suất đối với kết quả hoạt động kinh doanh khi thị trường thay đổi.
· Về tuân thủ Quyết định số 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng:
Việc xác định nhóm các khách hàng có liên quan hầu như chưa thể thực
hiện và chưa có công cụ để thực hiện. Hầu hết các tổ chức tín dụng
không phản ánh chính xác báo cáo phân tích thang đáo hạn trong 7 ngày
làm việc tiếp theo; thường sử dụng số liệu chưa kiểm toán để báo cáo
Ngân hàng Nhà nước và không báo cáo lại sau khi đã có số liệu kiểm
toán. Một số tổ chức tín dụng sử dụng số liệu ước tính để tính toán tài
sản có rủi ro thay vì số liệu thống kê thực tế.
Từ đó tôi xin đưa ra các giải pháp sau đây nhằm hạn chế các rủi ro trong
hoạt động hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt nam:
· Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: cần
phải có quy định áp dụng riêng cho hoạt động hợp nhất (ngân hàng và
toàn bộ các pháp nhân trực thuộc) và hoạt động của riêng ngân hàng.
Xem xét lại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vì tỷ lệ
này không phát huy tác dụng trong thời gian qua. Cách xác định tỷ lệ
này cũng chưa phù hợp (việc xác định cho vay trung và dài hạn dựa vào
thời gian gốc ban đầu của khoản cho vay, trong khi thời gian vay của
nhiều khoản vay trung, dài hạn chỉ còn lại dưới 12 tháng). Để duy trì tỷ
lệ này, nhiều ngân hàng đã phải cơ cấu lại tài sản và công nợ của mình
bằng cách vay dài hạn từ tổ chức tín dụng nước ngoài và gửi lại chính tổ
chức tín dụng đó dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn. Nên bổ sung thêm tỷ
lệ tài sản thanh toán tối thiểu trên tổng tài sản và áp dụng linh hoạt theo
điều kiện thị trường. Bổ sung vào giới hạn góp vốn mua cổ phần tỷ lệ
biểu quyết của tổ chức tín dụng trong tổ chức kinh tế khác và khống chế
mức góp vốn tối đa của tổ chức tín dụng vào một tổ chức kinh tế.
· Tuân thủ chặt chẽ các quy định, quyết định hiện tại như Quyết định
457/2005/QĐNHNN ban hành ngày 19/04/2005, Quyết định
03/2007/QĐNHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng”. Quyết định 493/2005/QĐNHNN ngày
22/04/2005 của ngân hàng nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng.
· Tiến đến các chuẩn mực quốc tế trong các quy định về quản lý rủi ro và
an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hiện tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam đang thực hiện Hiệp định Basel I theo các hướng
dẫn từ Ngân hàng Nhà nước và tiến đến thực hiện Basel II vào năm
2010. Do đó các ngân hàng cần chuẩn bị cho mình các điều kiện và tiêu
chuẩn để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế theo các cam kết trong lĩnh
vực tài chính trong sân chơi WTO trước những sức ép cạnh tranh gay
gắt từ các ngân hàng ngoại đang và sẽ hoạt động tại Việt Nam.
3.1.3 Tăng quy mô hoạt động: nằm trong lộ trình tăng vốn theo quy định
141/2006/NĐCP ngày 26 tháng 11 năm 2006, các ngân hàng thương mại cổ
phần đang chay đua để tăng vốn điều lệ đúng theo lộ trình của Chính phủ. Xét
trong giai đoạn bùng nổ trở lại của thị trường chứng khoán Việt Nam thì khả
năng tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần dễ dàng hơn thông qua
kênh phát hành thêm cổ phiếu. Việc tăng vốn một mặt nhằm đáp ứng yêu cầu
vốn tối thiểu của Ngân hàng nhà nước, một mặt cũng làm tăng thêm khả năng
kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong điều kiện các chính sách thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế của Chính phủ càng mở rộng thì nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp càng nhiều và các ngân hàng thì đua nhau tăng lãi suất để thu hút khách
hàng.
Theo đó, đối với từng ngân hàng thương mại:
· Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn (phát hành cổ phiếu, trái phiếu..)
một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi ngân hàng trong từng
giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn
chế các nhược điểm của từng biện pháp.
· Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ
xung, kết hợp với việc cải cách ngân hàng theo hướng nâng cao năng
lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực
cạnh tranh cho ngân hàng...làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng dẫn đến
tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại.
· Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi
nhánh (thế mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc
khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị; Các ngân hàng thương mại
Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Tất
cả nhằm mục đích làm tăng uy tín của ngân hàng_Điều này rất quan
trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo.
3.1.4 Thông tin cần được minh bạch, rõ ràng: trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, do các đối tác còn chưa biết gì về nhau thì những thông tin được
công bố rộng rãi ra bên ngoài một cách trung thực và chính xác là những lời
mời chào đầu tư hiệu quả và thành công nhất. Do những đặt thù về cơ chế trong
quá khứ và văn hóa kinh doanh của người Việt Nam thì bản thân các ngân hàng
thương mại cần phải công khai hơn tình hình tài chính của mình trước công
chúng và các nhà đầu tư. Việc công khai không những về các thông tin được
công bố mà còn các chuẩn mực kế toán, ban quản trị điều hành, chế độ kiểm
soát rủi ro, quy trình ra quyết định đầu tư và thi hành,…cần được minh bạch
trong các kỳ đại hội cổ đông.
3.2 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
3.2.1. Phát triển thị trường vốn: thị trường vốn ở nước ta đang ở giai đoạn
đầu của sự phát triển, các thể chế và cấu trúc thị trường đang từng bước được
hoàn thiện. Tuy đã đạt được những kết quả khả quan ban đầu nhưng thị trường
này còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, thúc đẩy thị trường này ngày càng
phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Mục tiêu phát triển
thị trường đã được Nhà nước đưa ra là phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị
trường vốn Việt Nam. Từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành
quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn
cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị
trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu
vực. Vừa qua, Bộ tài chính đã trình Chính phủ đề án phát triển thị trường vốn
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hiện đề án này đang được Chính
phủ xem xét và sẽ quyết định phê duyệt trong thời gian tới…
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thị trường vốn Việt Nam đã thiết lập được
hệ thống thị trường có tổ chức của Nhà nước như cơ chế vận hành, cơ quan
quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các
trung gian hoạt động trên thị trường. Quy mô của thị trường vốn có bước phát
triển khá mạnh: Tính đến hết năm 2006 đã có 3.400 doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hóa với tổng giá trị vốn Nhà nước bán ra là 35.500 tỷ đồng; 26.000 công
ty cổ phần thành lập mới với số vốn cổ phần huy động khoảng 80.000 tỷ đồng;
hơn 400 loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái
phiếu doanh nghiệp được phát hành với tổng dư nợ trên 109.000 tỷ đồng.
Trong đó, 193 loại cổ phiếu đã thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch với
tổng vốn điều lệ là 20.000 tỷ đồng và giá trị vốn hóa thị trường tại thời điểm
31/12/2006 là 221.156 tỷ đồng (bằng 22,4% GDP năm 2006); hệ thống các
định chế trung gian thị trường đã được thiết lập. Ngoài số lượng các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính, kế toán, kiểm toán tham gia cung cấp dịch
vụ trên thị trường thì số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
cũng tăng mạnh. Số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị
trường chứng khoán ngày càng tăng.
Bên cạnh những kết quả đó, thị trường vốn còn gặp trở ngại khi phát triển:
Tính thống nhất trong điều hành các chính sách liên quan còn hạn chế như điều
hành chính sách tiền tệ, lãi suất; chính sách tham gia của các ngân hàng, tổ
chức tín dụng vào thị trường vốn; chính sách đầu tư gián tiếp; cải cách doanh
nghiệp và quản trị doanh nghiệp; quản lý nợ công…Quy mô thị trường vốn còn
nhỏ khi nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế cho thị trường
chưa nhiều. Việc phát hành cổ phiếu mới của các công ty cổ phần trực tiếp trên
thị trường còn ít; Giá trị vốn Nhà nước bán ra tại các doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hóa chưa nhiều (hiện chiếm khoảng 20% tổng giá trị vốn Nhà nước tại
các doanh nghiệp). Hiện nay, thị trường cổ phiếu tự do thiếu sự kiểm soát của
Nhà nước đang chiếm thị phần lớn. Cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp nhà nước
đã cổ phần hóa có quy mô lớn hoặc lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, điện
lực, viễn thông, hàng hải vẫn tự do giao dịch trên thị trường không chính thức,
không công khai, minh bạch…đã tác động tiêu cực tới thị trường có tổ chức và
gây ra những bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Trong khi đó, sự tham gia ồ ạt
của nhiều nhà đầu tư, hoạt động đầu tư theo phong trào trong khi nguồn cung
hạn chế đã làm mất cân đối về cung cầu chứng khoán, đẩy giá chứng khoán
vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp, gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị
trường có tổ chức và thị trường tự do. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung –
dài hạn của ngân hàng vẫn ở hình thức truyền thống. Một khối lượng lớn tài
sản đang tồn tại ở dạng cầm cố, thế chấp vay vốn mà chưa được chứng khoán
hóa. Do vậy, khả năng huy động vốn, thoát vốn và sự liên kết giữa thị trường
tiền tệ với thị trường vốn còn hạn chế.
Từ những kết quả và hạn chế trên, tôi xin đưa ra các giải pháp để phát triển
thị trường vốn trong thời gian tới, bao gồm các nhóm giải pháp sau:
Cần nhanh chóng hoàn thiện về thể chế, đảm bảo tính công khai, minh
bạch và có sự kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ thị trường; từng bước
đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính.
Bên cạnh đó, thị trường vốn cần phát triển đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy
động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm
2010 sẽ hoàn chỉnh cơ bản về cấu trúc thị trường vốn và đến năm 2020 sẽ phát
triển tương đương với các nước trong khu vực. Một số chỉ tiêu cụ thể được dự
báo đến năm 2010 như giá trị vốn hóa thị trường bằng 50%GDP, huy động vốn
cho đầu tư phát triển qua thị trường vốn đạt khoảng 16%GDP; hai tỷ lệ tương
ứng đến năm 2020 dự báo sẽ là 70% và 30%. Mặc dù thị trường vốn phát triển
khá nhanh song quy mô còn nhỏ, chất lượng chưa cao, hàng hóa chưa đa dạng;
tính minh bạch công khai còn hạn chế, số lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp
không nhiều. Bên cạnh đó, công tác quản lý giám sát thị trường, điều hành vĩ
mô còn nhiều bất cập trong khi năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan giám
sát còn yếu và thiếu. Thị trường tự do chiếm thị phần lớn và tiềm ẩn nhiều rủi
ro bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Hoạt động đầu tư thường theo phong trào
trong khi nguồn cung còn hạn chế, xảy ra hiện tượng mất cân đối cung cầu
chứng khoán làm cho giá cổ phiếu vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp và
đã gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu phát triển thị trường vốn như đã
đề ra cho giai đoạn năm 2010 đến năm 2020 thì trước hết cần phát triển số
lượng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu
thị trường.
Điều này được cụ thể hóa bằng việc đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước và
gắn với niêm yết thị trường chứng khoán; thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện niêm yết đồng thời tiến hành rà soát để có
thể bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các công ty mà Nhà nước không cần
nắm cổ phần chi phối. Mặt khác, cần đa dạng hóa các loại hình trái phiếu trên
thị trường trái phiếu như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, trái
phiếu đô thị,…phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh như: quyền chọn
mua, bán chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm từ
chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ…
Thứ hai, thị trường vốn cần phải phát triển theo hướng hiện đại, hoàn
chỉnh về cấu trúc, được quản lý giám sát bởi Nhà nước và có khả năng
liên kết với các thị trường trong khu vực và quốc tế. Để làm được điều
đó cần sớm hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm tạo kênh
huy động vốn; hình thành và phát triển thị trường tương lai cho các công
cụ phái sinh; thị trường chứng khoán hóa cho các khoản cho vay trung –
dài hạn của ngân hàng…hay việc phát triển thị trường cổ phiếu theo
nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều loại hình doanh
nghiệp.
Thứ ba, cần phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường
bằng cách thúc đẩy tăng số lượng, chất lượng hoạt động và năng lực
hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ…cũng như
nghiên cứu thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam và
cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài
vào hoạt động.
Thứ tư, phát triển nhà đầu tư trong và ngoài nước, khuyến khích các
định chế đầu tư chuyên nghiệp như ngân hàng, bảo hiểm, chứng
khoán,…tham gia vào thị trường. Đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư
để thu hút vốn cư dân tham gia; khuyến khích các việc thành lập quỹ
đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam theo quy
định.
Thứ năm, phải nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước;
nghiên cứu các biện pháp kiểm soát vốn chặt chẽ trong những trường
hợp cần thiết trên nguyên tắc được thể chế hóa, công bố công khai cho
nhà đâu tư và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh
của hệ thống tài chính.
(Nguồn: Thời Báo Kinh Tế Việt Nam)
3.2.2 Phát triển thị trường trái phiếu – thị trường nợ: thị trường trái phiếu
Việt Nam bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp (bao gồm trái phiếu ngân hàng
thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ có giá trị khác. Đương
nhiên các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về qui mô
và còn chưa thực sự chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển, thu hút
sự quan tâm của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính nước ngoài.
Vào cuối năm 2006, có khoảng 375 loại trái phiếu chính phủ và trái phiếu
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, với tổng mệnh giá là 5 tỷ
USD. Các loại trái phiếu chính phủ chiếm tỷ lệ chủ yếu của toàn thị trường.
Các số liệu của Trung tâm giao dịch chứng khoán cho thấy nghiệp vụ này tạo
ra khoảng 78% giá trị của toàn thị trường trong khi tổng giá trị vốn hóa cổ
phiếu chỉ tạo ra khoảng 19% giá trị. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của trái
phiếu chính phủ với tư cách là một nguồn vốn đầu tư.
Trong 3 loại trái phiếu đã được phát hành và đang giao dịch tại Việt Nam,
bao gồm trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa
phương và trái phiếu doanh nghiệp thì khối lượng trái phiếu chính
phủ chiếm ưu thế trên thị trường với 81% thị phần, trong khi đó trái phiếu địa
phương là 10%, và trái phiếu doanh nghiệp là 9%. (1)
(1) Tính đến cuối quý III/ 2006, Vụ Ngân hàng và Tài Chính, Bộ Tài Chính
Khối lượng trái phiếu phát hành được minh họa ờ hình sau đây:
Biểu đồ 3.1: Giá trị trái phiếu phát hành giai đoạn 2001 – 2007 ( tỷ VND)
3.2.2.1 Phát triển thị trường giao dịch các giấy tờ có giá:
3.2.2.1.1 Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc ở Việt Nam là các chứng khoán nợ ngắn hạn với kỳ hạn
182.273 hoặc 364 ngày trong khi trái phiếu chính phủ là 7, 10 hay 15 năm. Có
gần 400 loại tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ khác nhau hiện đang
được giao dịch trên thị trường. Khoảng 60.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ
được Kho Bạc Nhà Nước Và Ngân Hàng Phát Triển phát hành hằng năm thông
qua các kênh bảo lãnh và đấu giá. Hiện nay trái phiếu chính phủ chủ yếu được
phát hành thông qua bảo lãnh, hay đấu thầu thông qua các trung tâm giao dịch
chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán nhà nước.
3.2.2.1.2 Trái phiếu chính quyền địa phương
Trái phiếu chính quyền địa phương được chính quyền địa phương phát
hành dưới sự cho phép của chính phủ. Hiện nay chỉ có Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành trái phiếu chính quyền địa phương (trái
phiếu đô thị) để huy động vốn. Các tỉnh thành được phép đến 30% tổng nhu
cầu chi tiêu và phải được chính phủ cho phép phát hành. Số trái phiếu này được
phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát hành. Tuy nhiên,
tính thanh khoản của loại trái phiếu này rất thấp.
3.2.2.1.3 Trái phiếu doanh nghiệp
Các doanh nghiệp phát hành bao gồm các doanh nghiệp nhà nước đang tiến
hành cổ phần hóa, hay các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn. Số trái phiếu này
được phát hành thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh và môi giới. tuy nhiên tính
thanh khoản của loại trái phiếu này cũng không cao.
3.2.2.1.4 Chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ
Chứng chỉ tiền gửi được xem là các chứng khoán nợ có giá trị và thu hút
bảo hiểm tiền gửi. Chứng chỉ tiền gửi thường có thời hạn một năm hoặc lớn
hơn. Việc giới hạn số ngày giao dịch là 90 ngày cho các chứng từ có giá được
áp dụng cho hoạt động thị trường mở trong đó Ngân hàng nhà nước chỉ mua
đứt bán đoạn các chứng từ có giá trị mà không áp dụng cho các giao dịch kỳ
hạn. Việc hạn chế này là nhằm mục đích hướng dẫn thực hiện chính sách tiền
tệ ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước.
3.2.3 Tách biệt giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ phiếu:
Tính chất của giao dịch trái phiếu khác với giao dịch cổ phiếu. Phương thức
giao dịch trái phiếu thường thiên về thỏa thuận chứ không phải khớp lệnh.
Người sử dụng hệ thống là thường là nhà đầu tư cuối cùng, do vậy, nhu cầu
thỏa thuận trực tiếp là rất cao. Hệ thống thường pha trộn giữa hệ thống thỏa
thuận với hệ thống tra cứu thông tin có kèm theo các công cụ phân tích. Nếu
không đáp ứng được nhu cầu này thì thông thường hệ thống không phát huy
hiệu quả. Giao dịch nếu có chỉ là báo cáo giao dịch toàn bộ chứ không cung
cấp đầy đủ các bước của giao dịch như phân tích, ra quyết định đầu tư, thỏa
thuận ra bên ngoài. Sự pha trộn giữa giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ phiếu
như ở Việt Nam hiện nay sẽ cản trở sự phát triển của trái phiếu, làm giảm tính
thanh khoản của thị trường. Ủy ban chứng khoán nhà nước (SSC) còn đặt ra lộ
trình nhằm tách biệt hai thị trường này và chọn ra phương thức mua bán phù
hợp nhất: (i) từ ngày đến năm 2010: ứng dụng hệ thống giao dịch đa định chế:
chỉ bao gồm các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp làm chức năng môi
giới và mua bán cho chính mình, các giao dịch được báo giá qua nhà môi giới.
(ii) từ năm 2010: ứng dụng hệ thống giao dịch liên định chế: cho phép nhà đầu
tư kết nối với nhiều nhà kinh doanh trái phiếu, cho phép xem tất cả các chào
giá, nhà đàu tư được tự liên hệ với nhà kinh doanh có chào giá tốt nhất để thực
hiện giao dịch.
3.2.4 Khuyến khích phát triển các tổ chức xếp hạn tín dụng chuyên
nghiệp
Trong thị trường tài chính kém hiệu quả, xếp hạn tín dụng sẽ là một tiêu
chuẩn giúp các nhà đầu tư hay doanh nghiệp phát hành trong việc đánh giá rủi
ro trái phiếu. Các nhà hoạt định chính sách nên hỗ trợ các công ty tư nhân tham
gia vào lĩnh vực này chứ không phải các doanh nghiệp nhà nước, như trung
tâm thông tin tín dụng (CIC) hiện đang thu thập và công bố các thông tin xếp
hạn tín dụng doanh nghiệp hay xếp hạn trái phiếu. Chỉ duy nhất CIC có quyền
thu thập các báo cáo tài chính của các khách hàng vay vốn do các ngân hàng
cung cấp. Nhưng đôi khi thông tin lại thiếu chính xác và lạc hậu. Sự tham gia
của các tổ chức xếp hạn tín dụng không phải nhà nước này sẽ giúp hoạt động
cung cấp thông tin được khách quan và hiệu quả hơn. Một khi được tư nhân
hóa, tất cả các thông tin trên thị trường sẽ là như nhau giữa các nhà đầu tư, tâm
lý đầu tư sẽ được cải thiện và củng cố hơn. Mô hình thành lập công ty định
mức tín nhiệm khu vực có thể được thành lập một cách linh hoạt ở Việt Nam,
trong bối cảnh nguồn nhân lực của Việt Nam trong lĩnh vực này còn yếu và
thiếu. Việc tận dụng công nghệ và tri thức của các tổ chức định mức tín nhiệm
khu vực và thế giới sẽ giúp các tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam nâng cao
năng lực. Sự tham gia góp vốn của các tổ chức này được sự hâu thuẩn của các
nhân tố sau, đó là: (i) sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động đầu tư gián tiếp
nước ngoài trong vòng 5 đến 10 năm nữa ở Việt Nam, (ii) uy tín của chính các
tổ chức này tại ở thị trường tài chính đang phát triển như Việt Nam. Để đảm
bảo cho các tổ chức này hoạt động hiệu quả, các nhà hoạt định chính sách cũng
cần quan tâm đến các điều kiện sau: các cổ đông phải được khuyến khích hoạt
động một cách độc lập và uy tín; cổ phần phải được chuyển nhượng rộng rãi và
tỷ lệ nắm giữ tối đa là 510%, và sự cân bằng về tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông
lớn để tránh tình trạng thông tin nội gián hay mâu thuẫn về quản trị. Khi đó,
không chỉ cơ quan nhà nước, mà các công ty, ngân hàng và quỹ đầu tư đều có
quyền tham gia góp vốn để thành lập tổ chức định mức tín nhiệm.
3.2.5 Đẩy mạnh sự phát triển của các nhà tạo lập thị trường
Có thể nói rằng, các ngân hàng thương mại vẫn được xem là các nhà tạo lập
thị trường chính trong tương lai, bênh cạnh các công ty bảo hiểm hay công ty
chứng khoán. Hiện tại, các ứng viên này vẫn đang bận mải với các hoạt động
môi giới hay tự doanh chứng khoán hay tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp. Họ
vẫn chưa tìm thấy động lực đê trở thành nhà tạo lập thị trường. Trong bối cảnh
thị trường chứng khoán chìm sâu dưới đáy trong những tháng gần đây, việc
thúc đẩy thị trường trái phiếu đang “ngủ yên” càng trở nên cấp bách.
3.2.6 Đa dạng hóa các loại trái phiếu doanh nghiệp
Hiện tại, các trái phiếu doanh nghiệp phát hành có hai loại chính: (i) lãi suất
cố định trã, lãi hàng năm (coupon) và lãi suất thả nổi theo lãi suất thị trường.
Trừ một số trường hợp một số ngân hàng phát hành trái phiếu có thể chuyển
đổi thành cổ phiếu như Ngân hàng Quân đội hay Ngân hàng Ngoại Thương.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế
giới, chịu tác động ngày càng nhiều của các biến động kinh tế vĩ mô tù nền
kinh tế Mỹ hay các nước Châu Âu, thì việc đảm bảo sự ổn định tương đối của
giá trái phiếu là điều kiện quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. Ví dụ, như việc
phát hành trái phiếu có lãi suất đảm bảo bằng vàng, hay lãi suất thực được đảm
bảo dương trong trường hợp có lạm phát cao.
3.2.7 Khuyến khích sự tham gia của các quỹ đầu tư vào trái phiếu doanh
nghiệp
Các quỹ đầu tư hay các quỹ tương hỗ ở Việt Nam đã khá phát triển, với
danh mục đầu tư trực tiếp và gián tiếp trong thời gian gần đây. Đây là một
trong những thành viên tích cực của thị trường góp phần làm tăng tính thanh
khoản của trái phiếu. Khác với các nhà tạo lập thị trường, các quỹ đầu tư sẽ tập
hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đầu tư vào
danh mục cổ phiếu và trái phiếu. Khi đó, một cách chuyên nghiệp và cơ hội
tiếp cận thông tin đầy đủ hơn, các quỹ đầu tư sẽ thực hiện việc mua bán trái
phiếu kiếm lời.
Theo một nghiên cứu năm 2006 của Ngân Hàng Thế Giới, ở các nước
ASEAN +3, giá trị chứng khoán của các quỹ đầu tư tương hỗ nắm giữ đến
40%60%GDP, tiếp đó là các quỹ hưu trí (20%30%GDP), và cuối cùng là các
công ty bảo hiểm, khoảng từ 5%10% GDP. So sánh với các quỹ đầu tư ở Việt
Nam thì con số này quả là con số “mơ ước”. Có thể nói chính sự tham gia tích
cực của các quỹ tương hỗ và hưu trí làm tăng tính thanh khoản cho thị trường
chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng.
3.2.8 Cần ổn định kinh tế vĩ mô :
Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh
tế. Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất kinh
doanh, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Nguyên tắc cơ bản của điều hành
kinh tế vĩ mô là phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, bảo đảm các
cân đối lớn của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách
tiền tệ và giữa các công cụ của chính sách tiền tệ; xử lý phù hợp mối quan hệ
giữa lãi suất tín dụng với tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế, đặc biệt là cán
cân thương mại; quản lý tốt thị trường ngoại hối và nợ quốc gia; bảo đảm vốn
và tính thanh khoản cho nền kinh tế; phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi; thúc đẩy
đầu tư, tăng trưởng, ngăn ngừa lạm phát và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính,
ngân hàng.
Phải phát huy tốt hơn vai trò điều tiết của Nhà nước, nhất là một nước đang
trong quá trình chuyển đổi như nước ta, khi mà cơ chế thị trường chưa hình
thành đồng bộ, các cân đối của nền kinh tế chưa thật vững chắc và môi trường
cạnh tranh vẫn còn khiếm khuyết. Nhà nước can thiệp vào thị trường là để các
quy luật của kinh tế thị trường được vận hành theo đúng mục tiêu mà không
làm méo mó các quan hệ thị trường và để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Khi
sử dụng các công cụ điều tiết phải hết sức chú ý đến mức độ và thời gian để đạt
hiệu quả cao và chi phí thấp. Phải lường trước các phản ứng của thị trường, nếu
các phản ứng này có nguy cơ làm sai lệch những cân bằng cơ bản và gây mất
ổn định kinh tế vĩ mô thì nhất thiết phải được điều chỉnh kịp thời.
(Trích bài viết của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng viết nhân dịp đầu Năm mới
2010, www.vietnamplus.com)
KẾT LUẬN CHUNG
Từ những cơ sở lý luận mang tính khái niệm nêu trong chương 1 và tình
hình thực tế trong công tác quản lý vốn nói chung ở các ngân hàng thương mại
cổ phần Việt Nam trong chương 2, tôi xin được kiến nghị các giải pháp cũng
như các gợi ý chính sách trong cách bảo toàn và phát triển nguồn vốn tự có tại
các đơn vị là các ngân hàng thương mại cổ phần và các cơ quan quản lý kinh
tế, các nhà tạo lập chính sách, điều phối thị trường tài chính…trong chương 3
của đề tài. Những kiến nghị nhắm vào các công tác quản lý ở bản thân các ngân
hàng vì đây là những giải pháp mang tính chủ động trong điều kiện cụ thể, đặc
thù của nền tài chính Việt Nam và các ngân hàng phải nổ lực học hỏi và áp
dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, hiệu quả từ những nền tài chính đã
phát triển từ những thực tế tại các ngân hàng của mình vì không ai khác ngoài
bản thân các ngân hàng hiểu được tình hình hiện tại như thế nào. Tuy nhiên,
không thể thiếu các giải pháp mang tính vĩ mô từ các nhà làm luật, các cơ quan
quản lý kinh tế trong việc định hướng, hoạch định và đề ra những mục tiêu phát
triển kinh tế, phát triển thị trường tài chính trong một tầm nhìn chiến lược và
lâu dài đặt trong bối cảnh hòa nhập vào sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế
toàn cầu. Các chính sách đề ra phải mang tính kịp thời, thống nhất và linh hoạt
cần thiết để kịp thời, phù hợp với các điều kiện mới của nền tài chính toàn cầu
nền tài chính đang trong giai đoạn phục hồi sau giai đoạn khủng hoảng tồi tệ
nhất kể từ sau thập niên 30 của thế kỷ 19.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. LÊ VINH DANH, Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng
trung ương, NXB Chính trị Quốc Gia, (1996) [3266]
2. NGUYỄN NINH KIỀU, Tiền tệ ngân hàng, NXB Thống Kê, (1998) [75
85]
3. TRẦN VĂN HÙNG, NGUYỄN TRÍ HÙNG, TRƯƠNG QUANG HÙNG,
NGUYỄN THANH TRIỀU, CHÂU VĂN THÀNH, Giáo trình Kinh Tế Vĩ Mô,
NXB Giáo Dục, (1999), [156162] và [167177]
4. GS. TS. DƯƠNG THỊ BÌNH MINH, TS. SỬ ĐÌNH THÀNH, Lý thuyết tài
chính tiền tệ, NXB Thống kê, (2001), [235274]
5. GS.TS. LÊ VĂN TƯ, Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính, NXB TK,
2001.
7. GS.TS LÊ VĂN TƯ, Ngân hàng thương mại , Nxb Tài Chính, [2004]
www.saga.vn
www.vnexpress.net
www.worldbank.com
www.thoibaokinhtesaigon.com.vn
www.vietbao.vn
www.vneconomy.com.vn
www.wikipedia.org
www.dantri.com.vn
www.vnecon.vn
www.vietnamplus.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề Tài- Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.pdf