Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Các quỹ đầu tư hay các quỹ tương hỗ ở Việt Nam đã khá phát triển, với danh mục đầu tư trực tiếp và gián tiếp trong thời gian gần đây . Đây là một trong những thành viên tích cực của thị trường góp phần làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Khác với các nhà tạo lập thị trường, các quỹ đầu tư sẽ tập hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đầu tư vào danh mục cổ phiếu và trái phiếu .

pdf65 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3115 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 mại Cổ phần Sài Gòn (SCB)… vừa công bố kết quả kinh  doanh năm 2008.Tổng vốn điều  lệ của HabuBank đạt 2.800  tỷ đồng,  tổng  tài  sản đạt 24.863 tỷ đồng, tổng huy động vốn ước đạt 19.758 tỷ đồng, tổng dư nợ  đạt  10.000  tỷ  đồng  và  lợi  nhuận  trước  thuế  đạt  525  tỷ  đồng. Tính  đến  31/12/2008,  vốn điều  lệ và các  quỹ của  SCB  đạt  2.526  tỷ đồng;  tổng  tài  sản  38.598  tỷ  đồng,  vượt  49%  so  với  năm  2007;  tổng  huy  động  vốn  34.392  tỷ  đồng, vượt 51% so với năm 2007; dư nợ tín dụng 23.278 tỷ đồng, vượt 20% so  với năm 2007. Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 658 tỷ đồng, vượt 83%  so với năm 2007 và vượt kế hoạch lợi nhuận điều chỉnh 2008.  2.4.2 Những tồn tại :  2.4.2.1  Quy  mô vốn  tự có quá nhỏ:  Phần  lớn  các  ngân  hàng  thương  mại  (NHTM)  có vốn  tự có  thấp  và không  đạt  tiêu  chuẩn  an  toàn  vốn.  Vốn  tự  có của  các  NHTM  mới  chiếm  5,4%  tổng  nguồn  vốn  của  các  tổ  chức  tín  dụng(TCTD)  trong đó  vốn điều  lệ  chiếm 3,4%. Ngân hàng  có vốn  tự có  cao  nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), khoảng  250 triệu USD và thấp nhất  là các NHTM cổ phần nông thôn, khoảng 5 triệu  USD. Trong khi đó, ngân hàng trung bình trong khu vực có mức vốn tự có xấp  xỉ 1 tỷ USD. Hệ thống NHTM VN hội nhập quốc tế trong điều kiện điểm xuất phát thấp về trình độ phát triển. Các NHTM yếu về nguồn vốn, trình độ chuyên  môn quản lý, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động. Năng lực cạnh tranh thấp, tỷ  lệ an toàn vốn bình quân khoảng 3,72% trong khi theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ  an  toàn  vốn bình quân  tối  thiểu 8%. Vốn  tự  có  của NHTM VN nhỏ hơn  rất  nhiều so với các ngân hàng trong khu vực. Ngần hàng có vốn tự có lớn nhất chỉ  khoảng 200 triệu USD, bằng 1/5 vốn tự có của ngân hàng các nước trong khu  vực. Tốc độ tăng vốn tự có của các NHTM còn thấp trong khi  tốc độ tăng tài  sản hiện nay bình quân tăng từ 20%­25% nếu không có những biện pháp thiết  thực tăng vốn tự có với lộ trình cụ thể thì e rằng NHTM VN khó đạt được tỷ lệ  an toàn vốn. Năng lực tài chính của các NHTM còn quá yếu, do vậy khó có thể  đủ tiềm lực về vốn khi tham gia hội nhập chỉ trừ một số ngân hàng có quy mô  vốn lớn, tuy nhiên số ngân hàng này chiếm tỷ lệ rất ít.  2.4.2.2 Huy động vốn ngắn hạn, cho vay dài hạn: đây là tình hình chung trên  thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay. Nếu nhìn nhận thị trường chứng khoán là  nơi để các doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho yêu cầu  sản xuất kinh doanh thì thị trường chứng khoán Việt Nam chưa làm được. Năm  2006 khép lại với sự phát triển nhanh chóng của TTCK trong đó góp phần đáng  kể cho sự thành công cho các doanh nghiệp nhà nước IPO, chuyển đổi mô hình  hoạt động. Tuy nhiên sang đầu năm 2007, sự sụt dốc nhanh chóng của TTCK  đã đẩy các doanh nghiệp vào sự bế tắc trong việc huy động vốn, các kế hoạch  IPO bị trì hoãn vô thời hạn nhằm hạn chế nguồn cung cổ phiếu vốn đã trở nên  dồi  dào. Đến  thời điểm này  cùng  với  điều  kiện  kinh  tế  của Việt Nam bị  tác  động mạnh mẽ  từ  kinh  tế  toàn  cầu  như:  giá  dầu  liên  tiếp  phá  kỷ  lục,  khủng  hoãng dưới  tiêu chuẩn của Mỹ…kéo  theo  lạm phát của Việt Nam cao kỷ  lục  trong vòng một  thập  kỷ  trở  lại.  Song song đó ngân hàng nhà nước  tiến hành  nhiều biện pháp để bình ổn thị trường tiền tệ như: đặt ra mức huy động trần lãi  suất  huy  động  và  cho  vay  của  các  tổ  chức  tín  dụng,  phát hành  tín  phiếu  bắt  buộc, khống chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 30% trong năm 2008 sau  khi tăng quá nóng cuối năm 2007. Trước  sự thay  đổi  liên  tục  trong  các  chính  sách  điều  hành  của  Chính  phủ và tình hình biến động phức  tạp của lạm phát, người gửi  tiền hiện  tại  chỉ  dám gửi vào các kỳ hạn ngắn nhằm thích nghi kịp thời với sự thay đổi bất ngờ  từ các chính sách. Điều này đã đẩy các ngân hàng vào các cuộc đua huy động  vốn  chủ  yếu  ở  các  kỳ  hạn  ngắn.  Trái  ngược  với  người  gửi  tiền,  các  doanh  nghiệp đi  vay  nhận  thấy  rằng cần phải  vay  dài  hạn để phòng ngừa  rủi  ro  lãi  suất. Chính  sự  trái  ngược  này  cộng với  việc  cho vay  vốn ồ ạt  vào  cuối  năm  2006 vào lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực cần các nguồn vốn trung và dài hạn,  nhằm “hợp thức hoá” tỷ lệ cho vay theo chỉ thị 03 về kiểm soát cho vay chứng  khoán của Chính phủ. Kết hợp các yếu tố trên đây đã dẫn đến hệ quả là các tổ  chức tài chính huy động vốn ngắn hạn, sau đó cho vay dài hạn và khả nặng mất  thanh khoản về kỳ hạn ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ đã xảy ra.  Lãi suất  trên thị  trường vốn liên ngân hàng lên đến 30%/năm cho kỳ hạn vay  qua đêm (overnight) đã minh chứng cho việc quản lý vốn yếu kém của một số  tố chức tín dụng ở Việt Nam thời gian qua.  Biểu  đồ 2.6: Các mốc lãi suất cơ bản trong thời gian qua (Nguồn: Thomson – Reuters)  Bảng 2.7: Các loại lãi suất cơ bản của Việt Nam  Các loại Lãi suất chính (%)  Ngày tháng01/02/0922/12/0805/12/0821/11/0805/11/0821/10/0811/06/0819/05/0801/02/08  LSCB  7.0  8.5  10.0  11.0  12.0  13.0  14.0  12.0  8.75  LSCK  6.0  7.5  9.0  10.0  11.0  12.0  13.0  11.0  6.0  LSTCK  8.0  9.5  11.0  12.0  13.0  14.0  15.0  13.0  7.5  (Nguồn: Thomson – reuters ngày 23 tháng 01 năm 2009)  2.4.2.3 Quản trị điều hành vốn của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần  chưa phù hợp và chưa hiệu quả: Một  trong những nguyên nhân quan  trọng làm cho  lãi  suất  trên  thị trường  liên ngân  hàng  thời  gian  qua  tăng  nóng  là  quản  trị  điều hành  vốn  của nhiều  ngân hàng cổ phần chưa hiệu quả và chưa phù hợp.  Để thấy rõ thực trạng vấn đề này, cần phân tích cơ cấu nguồn vốn của ngân  hàng thương mại dựa trên báo cáo tài chính 2007 đã được kiểm toán. Bản báo  cáo  này  theo  quy  định  của  Ngân  hàng Nhà  nước  đang  được  các  ngân  hàng  thương mại công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Ngân hàng  Thương mại Cổ phần Nông thôn Mỹ Xuyên thời điểm hết năm 2007, tổng tiền  gửi và vay tổ chức tín dụng khác lên tới 624 tỷ đồng, tăng mạnh so với 166 tỷ  đồng của năm 2006. Trong khi đó, vốn huy động từ khách hàng chỉ có 328,7 tỷ  đồng, tăng hơn 3 lần so với mức 109 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy trong cơ  cấu nguồn vốn 952,7 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường 2, tức là trên thị  trường liên ngân hàng chiếm tới 65,5%. Cũng tại thời điểm này, dư nợ cho vay  khách  hàng  là 1.266  tỷ đồng,  tăng  hơn 4  lần  so  với mức 392,9  tỷ  đồng  cuối  năm 2006. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định có quy mô rất khiêm tốn  trong hệ  thống ngân  hàng  thương mại  cổ phần,  cũng  tính  đến hết  năm 2007  tổng số tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 840 tỷ đồng, gấp 5 lần  mức 168  tỷ đồng hết năm 2006;  trong khi đó,  tiền gửi và huy động  từ khách  hàng  chỉ  đạt 417  tỷ  đồng,  tăng  rất  chậm  so  với mức 332  tỷ  đồng năm  trước.  Tính chung trong cơ cấu nguồn vốn huy động 1.257 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên  thị trường liên ngân hàng chiếm tới 66,8%; trong khi dư nợ cho vay khách hàng  là 1.049 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2006.  Nhìn  vào  cơ cấu  nguồn  vốn  huy  động, một  số  ngân  hàng  thương mại  cổ  phần khác mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần  quy mô nhỏ  cũng  có  tỷ  trọng  vốn  đi  vay  trên  thị  trường  liên  ngân  hàng  cao  tương tự như hai ngân hàng thương mại cổ phần nói trên. Một ngân hàng khác  thuộc nhóm quy mô khá, đó là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế, cũng  tính đến hết năm 2007 có tổng số tiền gửi và tiền vay các tổ chức tín dụng khác  là 12.846,6 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 3.429,3 tỷ đồng cuối năm 2006.  Vốn huy động từ khách hàng là 17.686,7 tỷ đồng,  tăng khoảng 1,7 lần so với mức 9.813,5  tỷ đồng cuối năm 2006. Tương  tự,  trong cơ cấu nguồn vốn huy  động là 27.500,2 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm  46,7%. Về  sử dụng vốn,  riêng dư nợ cho  vay  khách hàng  là 16.611  tỷ  đồng,  tăng 1,7 lần so với mức 9.058,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ  phần Quốc tế cũng có số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác là 12.347 tỷ  đồng, gấp gần 4 lần năm 2006.  Cũng  thuộc  nhóm  có quy  mô khá,  Ngân  hàng  Thương  mại  Cổ phần  Kỹ Thương đến hết năm 2007 có  tổng tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng  khác là 8.458,9 tỷ đồng, tăng gần 1,7 lần so với mức 5.077,8 tỷ đồng cuối năm  2006.  Vốn  huy  động  từ tiền  gửi  của  khách  hàng  là  24.476,6  tỷ  đồng,  tăng  khoảng 2,5 lần so với mức 9.566 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng  nguồn vốn huy động là 32.934,9 tỷ đồng, thì vốn huy động trên thị trường liên  ngân  hàng  chiếm  25,7%.  Tuy  nhiên,  cũng  tại  thời  điểm  nói  trên Ngân  hàng  Thương mại Cổ phần Kỹ Thương có số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác là  9.303,6 tỷ đồng,  lớn hơn số tiền huy động trên thị  trường liên ngân hàng. Dư  nợ cho vay đến hết năm 2007 là 20.486 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với mức 8.696  tỷ đồng cuối năm 2006.  Ngân  hàng  Thương mại  Cổ phần  Nhà Hà Nội,  đến  hết  năm  2007  có tổng  số dư tiền gửi và  tiền vay tổ chức tín dụng khác là 10.805,5 tỷ  đồng, gấp hơn  2 lần so với mức 4.858 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động của khách hàng  là 8.467 tỷ  đồng, tăng 1,7 lần so với mức 4.484,8 tỷ đồng cuối năm 2006.  Như  vậy,  trong  tổng  nguồn  vốn  huy  động  15.290,3  tỷ đồng  thì vốn  huy  động  trên  thị trường  liên  ngân hàng  chiếm  tỷ trọng  70,7%.  Tuy  nhiên, Ngân  hàng  Thương  mại  Cổ phần  Nhà Hà Nội  cũng  có số dư  tiền  gửi  và cho  vay  tổ chức tín dụng khác  là  10.894  tỷ  đồng, gấp 3  lần năm 2006. Tại  thời  điểm  này, dư nợ cho vay khách hàng là 9.285,8 tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần năm 2006. Về  mức độ vay vốn và hiệu quả kinh doanh: Nhìn qua số liệu trong bảng  cân đối tài chính đã được kiểm toán nói trên về góc độ quản trị điều hành vốn  có thể rút ra một số nhận xét: ·  Một là, càng các ngân hàng nhỏ, ngân hàng mới chuyển từ nông thôn lên  đô thị thì mức độ vay mượn vốn trên thị trường liên ngân hàng càng lớn  hơn và tốc độ gia tăng cao. Việc vay nợ này chủ yếu là ngắn hạn, với lãi  suất  cao, nên  hiệu  quả  kinh  doanh hạn  chế  vì  thu  nhập  từ  chênh  lệch  giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay thấp. ·  Hai là, mức độ đi vay ngắn hạn trên thị  trường liên ngân hàng quá lớn  thì rủi ro thanh khoản ở mức độ rất cao. Khi có những biến động trên thị  trường tiền tệ, như: Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các  ngân hàng thương mại phải mua một khối lượng lớn tín phiếu bắt buộc,  các  ngân hàng  thương mại  cho vay  chủ  yếu  là  ngân hàng  thương mại  Nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn, tiến  hành  thu  hồi  nợ  và hạn  chế  hay  ngừng  cho  vay  ra,  làm  cho  các ngân  hàng thương mại thiếu hụt tạm thời thanh khoản. Khi đó, các ngân hàng  thương mại thường đi vay trên thị trường liên ngân hàng phải chạy đôn  chạy đáo đi vay các ngân hàng thương mại khác với bất cứ lãi suất nào,  hoặc tăng lãi suất huy động vốn trên thị trường. Đây là nguyên nhân của  đợt  lãi  suất  trên  thị  trường  liên  ngân  hàng  tăng  lên  tới  30%  thậm  chí  40%/năm và lãi suất huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trên  thị  trường  tăng  lên  tới 12%/năm  trong  khoảng  thời  gian  từ ngày  18/2­  1/4/2008 vừa qua. ·  Ba là, khả năng huy động vốn trên thị trường 1, tức là thị trường thu hút  tiền gửi của khách hàng của các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô  nhỏ rất hạn chế. Nguyên nhân chủ  yếu do màng  lưới hẹp,  thương hiệu  và  uy  tín  hạn  chế,  dịch  vụ  ngân  hàng  chưa  phát  triển,  năng  lực  cạnh  tranh  thấp,... Trong khi đó, nhu cầu  tăng  trưởng dư nợ cao, cần nhanh  chóng mở rộng quy mô, nên phải đi vay mượn trên thị trường liên ngân  hàng ở mức độ lớn. ·  Bốn là, các ngân hàng thương mại cho vay lớn trên thị trường liên ngân  hàng là những ngân hàng có chiến lược quản trị nguồn vốn rất rõ ràng.  Các ngân hàng thương mại này định hướng một tỷ lệ cho vay nhất định  đối với khách hàng. Bởi vì cho vay trực tiếp khách hàng thường có mức  độ rủi ro cao hơn cho vay món nhỏ chi phí  lớn hơn,  thời gian cho vay  dài.  Trong  khi  đó,  cho  vay  ngân  hàng  thương  mại mại  khác  trên  thị  trường  liên  ngân  hàng  rủi  ro  ít  hơn,  chi  phí  thấp  hơn.  Các  món  vay  thường ngắn hạn: 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Món vay lại  lớn nên chi phí thấp. ·  Năm là, các ngân hàng thương mại quy mô khá và lớn thường đa dạng  hoạt động trên thị trường liên ngân hàng, nhận tiền gửi của các tổ chức  tín  dụng khác  và  lại  cho  vay  tổ chức  tín dụng khác. Với  uy  tín  và  sự  năng độ kinh doanh, các  ngân hàng  thương mại này đi  vay,  hay  nhận  được tiền gửi của ngân hàng thương mại khác với lãi suất thấp hơn, thời  gian dài hơn, sau đó đem cho vay ngân hàng thương mại nhỏ có nhu cầu  với  lãi  suất  cao  hơn  và  thời  gian  ngắn  hơn.  Tuy  chênh  lệch  lãi  suất  không lớn nhưng do số tiền cho vay lớn nên cũng đem lại một khoản thu  nhập đáng kể. Trong bối cảnh cạnh tranh và rủi ro tiềm ẩn thì chiến lược  kinh  doanh này  cho phép  tối  đa  hoá  lợi  nhuận  của ngân  hàng  thương  mại. Tuy nhiên,  khi  có diễn biến  bất  thường  trên  thị  trường  tiền  tệ  thì  thường gây ảnh hưởng, tác động dây chuyền, tạo căng thẳng và tăng lãi  suất trên thị trường liên ngân hàng. ·  Sáu là, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng trưởng  tín dụng rất nóng, gấp 2­4 lần,  thậm chí  tới 7­8 lần năm trước. Tốc độ  tăng quá nhanh đó đi kèm với tiềm ẩn rủi ro về tín dụng, vượt quá khả  năng quản lý của mình.  Từ  thực  tế nói  trên  cũng như từ thực  tế  cơn  sốt nóng  trên  thị trường  tiền  tệ thời gian qua, đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần có chiến lược quản trị  điều hành nguồn vốn hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và luôn sẵn sàng chủ động đối phó với mọi tình huống, cần chủ động khống chế tỷ lệ đi vay nợ  trên thị trường liên ngân hàng.  Biểu  đồ 2.8: Tăng Trưởng Tiền Tệ và Tín Dụng  (Nguồn: theo số  liệu của Ngân hàng nhà  nước và IMF) Kết luận chương 2:  Chương 2  khép  lại  với  việc  nêu  ra  và phân  tích  các  vấn  đề đang  tồn  tại  trong công tác bảo toàn vốn tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam  trước những biến động nhanh chóng  của nền kinh  tế  toàn cầu  và  thế  giới  tài  chính trong thời gian gần đây. Những tồn tại này bắt nguồn từ những thực tại  trong  quá  khứ mang  tính  đặc  thù  của  đất  nước,  kèm  theo  những  quan  điểm  mang tính áp đặt trong công tác điều hành, quản trị ở bản thân các đơn vị và cả  các cơ quan quản lý nhà nước.  Tuy  nhiên  nếu  bỏ qua  những  đặc  thù trên,  những  hạn  chế vốn  có thì các  ngân hàng thương mại  đã đạt được những thành tựu vượt bật trong những năm  vừa  qua,  những  nỗ lực  không  ngừng  để đưa  nền  tài  chính  của  nước  ta  càng  hoàn thiện hơn trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt và góp phần làm hoàn  thiện hơn các chính sách điều  tiết kinh  tế của Nhà nước. Những nỗ  lực cạnh  tranh của các NHTMCP đã làm cho nền tài chính của đất nước ngày càng vững  mạnh hơn  trong  những năm  tiếp  theo.  Các  giải  pháp mang  tính  chủ  động  từ  phía các NHTMCP này góp phần vào công tác điều hành kinh tế từ Chính phủ,  Ngân hàng nhà nước, các cơ quan quản lý kinh tế có liên quan sẽ được nêu ra  trong chương 3. Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG  TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA CÁC NHTMCP  VIỆT NAM  3.1 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC NHTMCP VN  3.1.1 Xây dựng cơ cấu huy động và  cho vay hợp lý:  theo quy định hiện tại  của Ngân hàng nhà nước thì các ngân hàng thương mại được phép sử dụng tối  đa 30% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn, quy định này đã được  thắt chặt  hơn từ mức 40% trước đó theo Quy định 457/2005/QĐ­NHNN ngày  19/04/2005. Dựa trên điều kiện thực tế của mỗi ngân hàng mà Ban quản trị xây  dựng cho mình một chiến  lược kinh doanh hợp  lý  trong điều kiện cạnh  tranh  càng gay gắt. Các điều kiện ở đây bao gồm: vốn  tự có, mạng  lưới chi nhánh  hoạt động, mạng lưới khách hàng hiện tại và tiềm năng, hình ảnh, tên tuổi, hệ  thống chương trình công nghệ áp dụng, đội ngũ nhân lực quản trị điều hành và  thực hiện, chiến lược marketing và kinh doanh…Còn nhớ trong thời kỳ xảy ra  tình trạng mất thanh khoản ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ thì các  ngân  hàng  thương mại  ở Việt Nam  đã mất  đi  phương hướng hoạt  động  của  mình vì  sự ảnh hưởng  từ ngân hàng bạn. Vì vậy, các ngân hàng đã nhảy vào  cuộc đua tăng lãi suất huy động mà hiệu quả sử dụng vốn hầu như không có.  Sự mất tính thanh khoản cục bộ này bắt nguồn từ việc cân đối vốn bất hợp lý ở  một số ngân hàng khi đã giải ngân dài hạn ồ ạt để né tránh chỉ thị 03 về cho vay  chứng khoán, vào lĩnh vực bất động sản cuối năm 2007. Và khi Ngân hàng Nhà  nước triển khai các biện pháp can thiệp để kìm chế lạm phát thì hiện tượng mất  thanh khoản đã xãy ra. Hay nói cách khác là các ngân hàng thương mại đã vi  phạm  các  tỷ  lệ  trong  đảm  bảo  an  toàn  vốn,  sử  dụng  quá mức  cho  phép  các  nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn.  3.1.2 Tuân  thủ các chuẩn mực kiểm soát an  toàn vốn: Hiện nay, các  tỷ  lệ  bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo  quy  định  tại  Quyết  định  số  457/2005/QĐ­NHNN  ngày  19/4/2005  của  Ngân  hàng Nhà nước. Việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được thực hiện  theo  quy  định  tại  Quyết  định  số  493/2005/QĐ­NHNN  ngày  22/4/2005  của  Ngân hàng Nhà nước. Các  quy  định  này  được  xây  dựng  trên  cơ  sở  áp  dụng  chuẩn mực và thông lệ quốc tế phổ biến và thực tiễn hoạt động ngân hàng tại  Việt Nam. Tuy nhiên,  cùng với  sự phát  triển ngày  càng  nhanh, mạnh và  hội  nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì các quy  định này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế và kém hiệu quả trong việc bảo đảm an  toàn hoạt động và quản lý rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam.  Theo đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam gặp phải các vấn  đề cơ bản sau: ·  Về quản  trị  rủi  ro tín dụng: Chưa có nhiều  tổ chức tín dụng xây dựng  chiến lược tín dụng tổng thể và kế hoạch khả thi để thực hiện chiến lược  này, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc phát  triển nguồn lực và ưu  tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng tổ chức tín dụng.  Các tổ chức tín dụng chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro hiện  có và rủi ro tiềm tàng do một số hạn chế như phân loại nợ theo tiêu chí  định  lượng  là  chủ  yếu,  dẫn  tới  tỷ  lệ  nợ  xấu  chưa phản  ánh  đúng  chất  lượng tín dụng thực tế. Hệ thống thông tin quản trị còn yếu, chưa hỗ trợ  việc phân tích chất lượng tín dụng. Chưa lượng hoá được rủi ro tín dụng  của các đối  tác thanh toán cũng như chưa đánh giá thường xuyên năng  lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.  Nhiều tổ chức tín dụng đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng chưa có  cơ  chế  kiểm  tra,  giám  sát  hiệu  quả  việc  thực  hiện  cẩm  nang này. Hệ  thống xếp hạng tín dụng là cốt lõi của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng,  nhưng chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng được hệ thống này để  hỗ trợ việc thẩm định, áp dụng chính sách khách hàng, giám sát khách  hàng, phân loại nợ trên cơ sở kết hợp phân tích yếu tố định tính và định  lượng theo thông lệ quốc tế. Chức năng kiểm tra tín dụng độc lập chưa  được phát huy và sử dụng hiệu quả. ·  Về quản trị rủi ro thanh khoản: các chiến lược quản lý thanh khoản của  hầu hết các tổ chức tín dụng đều rất bao quát. Các tổ chức tín dụng chưa có công cụ phù hợp để lượng hoá rủi ro, báo cáo phục vụ quản lý thanh  khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các báo cáo phân  tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu  quả. Mặc  dù  cơ  cấu  tổ  chức  quản  lý  rủi  ro  thanh  khoản  đã  được  xây  dựng, nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ  nhạt.  Các  công  cụ  như  phân  tích  và  quản  trị  độ  lệch  thời  gian,  tình  huống, rủi  ro  tập  trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải  ngân… chưa được áp dụng phổ biến và linh hoạt. Rất ít tổ chức tín dụng  xây  dựng  kế  hoạch  (giả  định)  đối  phó  tình  trạng  khủng  hoảng  thanh  khoản,  nếu  có  xây  dựng  thì  cũng  chưa  được  luyện  tập  và  cập  nhật  thường xuyên, liên tục. ·  Về quản  trị  rủi  ro  lãi  suất: Các  tổ  chức  tín dụng chưa xây  dựng được  chính sách lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro và hoạt động của tổ chức  tín dụng, chính sách lãi suất hiện nay của các tổ chức tín dụng rất dễ bị  dẫn dắt bởi các  yếu  tố  thị  trường; chưa  lượng hoá được  rủi  ro  lãi  suất  cho cơ cấu tài sản nợ ­ có hiện tại của tổ chức tín dụng. Hệ thống thông  tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro lãi  suất. Hầu hết các tổ chức tín dụng đều chưa có các công cụ nhằm phân  tích độ  nhạy  của  lãi  suất  để xác định  ảnh hưởng của  việc  thay đổi  lãi  suất đối với kết quả hoạt động kinh doanh khi thị trường thay đổi. ·  Về  tuân  thủ  Quyết  định  số  457/2005/QĐ­NHNN  ngày  19/4/2005  quy  định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng:  Việc xác định nhóm các khách hàng có liên quan hầu như chưa thể thực  hiện  và  chưa  có  công  cụ  để  thực  hiện.  Hầu hết  các  tổ  chức  tín  dụng  không phản ánh chính xác báo cáo phân tích thang đáo hạn trong 7 ngày  làm việc  tiếp  theo;  thường sử dụng số  liệu chưa kiểm  toán để báo cáo  Ngân hàng Nhà nước và không báo cáo  lại  sau khi đã có số  liệu kiểm  toán. Một số tổ chức tín dụng sử dụng số liệu ước tính để tính toán tài  sản có rủi ro thay vì số liệu thống kê thực tế. Từ đó  tôi  xin  đưa  ra  các  giải  pháp  sau  đây  nhằm  hạn  chế  các  rủi  ro  trong  hoạt động hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt nam: ·  Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: cần  phải có quy định áp dụng riêng cho hoạt động hợp nhất (ngân hàng và  toàn  bộ  các pháp  nhân  trực  thuộc)  và hoạt động  của  riêng ngân hàng.  Xem xét lại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vì tỷ lệ  này không phát huy  tác dụng  trong  thời gian qua. Cách xác định  tỷ  lệ  này cũng chưa phù hợp (việc xác định cho vay trung và dài hạn dựa vào  thời  gian gốc ban đầu  của  khoản  cho  vay,  trong khi  thời  gian  vay  của  nhiều khoản vay trung, dài hạn chỉ còn lại dưới 12 tháng). Để duy trì tỷ  lệ này, nhiều ngân hàng đã phải cơ cấu lại tài sản và công nợ của mình  bằng cách vay dài hạn từ tổ chức tín dụng nước ngoài và gửi lại chính tổ  chức tín dụng đó dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn. Nên bổ sung thêm tỷ  lệ tài sản thanh toán tối thiểu trên tổng tài sản và áp dụng linh hoạt theo  điều kiện thị  trường. Bổ sung vào giới hạn góp vốn mua cổ phần tỷ lệ  biểu quyết của tổ chức tín dụng trong tổ chức kinh tế khác và khống chế  mức góp vốn tối đa của tổ chức tín dụng vào một tổ chức kinh tế. ·  Tuân  thủ  chặt  chẽ  các  quy  định,  quyết  định  hiện  tại  như  Quyết  định  457/2005/QĐ­NHNN  ban  hành  ngày  19/04/2005,  Quyết  định  03/2007/QĐ­NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về  việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động  của  các  tổ  chức  tín  dụng”.  Quyết  định  493/2005/QĐ­NHNN  ngày  22/04/2005 của ngân hàng nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử  dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. ·  Tiến đến các chuẩn mực quốc tế trong các quy định về quản lý rủi ro và  an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hiện tại các ngân hàng  thương mại Việt Nam đang thực hiện Hiệp định Basel I theo các hướng  dẫn  từ Ngân  hàng Nhà  nước  và  tiến  đến  thực  hiện Basel  II  vào  năm  2010. Do đó các ngân hàng cần chuẩn bị cho mình các điều kiện và tiêu  chuẩn để đáp ứng  các  chuẩn mực quốc  tế  theo  các cam kết  trong  lĩnh vực  tài chính  trong sân chơi WTO trước những sức ép cạnh  tranh gay  gắt từ các ngân hàng ngoại đang và sẽ hoạt động tại Việt Nam.  3.1.3  Tăng  quy mô  hoạt  động:  nằm  trong  lộ  trình  tăng  vốn  theo  quy  định  141/2006/NĐ­CP ngày 26  tháng 11 năm 2006, các ngân hàng  thương mại cổ  phần đang chay đua để tăng vốn điều lệ đúng theo lộ trình của Chính phủ. Xét  trong giai đoạn bùng nổ trở lại của thị  trường chứng khoán Việt Nam thì khả  năng tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần dễ dàng hơn thông qua  kênh phát hành thêm cổ phiếu. Việc tăng vốn một mặt nhằm đáp ứng yêu cầu  vốn tối thiểu của Ngân hàng nhà nước, một mặt cũng làm tăng thêm khả năng  kinh doanh của các tổ chức tín dụng  trong điều kiện các chính sách  thúc đẩy  tăng trưởng kinh tế của Chính phủ càng mở rộng thì nhu cầu vốn của các doanh  nghiệp càng nhiều và các ngân hàng thì đua nhau tăng lãi suất để thu hút khách  hàng.  Theo đó, đối với từng ngân hàng thương mại: ·  Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn  (phát hành cổ phiếu,  trái phiếu..)  một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi ngân hàng trong từng  giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn  chế các nhược điểm của từng biện pháp. ·  Sau mỗi  lần  tăng  vốn  cần  sử  dụng một  cách  hiệu  quả  nguồn  vốn  bổ  xung,  kết hợp  với  việc  cải  cách ngân hàng  theo hướng nâng  cao năng  lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực  cạnh  tranh cho ngân hàng...làm  tăng  lợi nhuận cho ngân hàng dẫn đến  tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại. ·  Các  ngân  hàng  thương mại  cần  củng  cố  và  hoàn  thiện mạng  lưới  chi  nhánh  (thế  mạnh  của  NHTM  VN),  đi  liền  với  chính  sách  chăm  sóc  khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị; Các ngân hàng thương mại  Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Tất  cả  nhằm mục  đích  làm  tăng  uy  tín  của  ngân  hàng_Điều  này  rất  quan  trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo. 3.1.4 Thông tin cần được minh bạch, rõ  ràng: trong điều kiện hội nhập kinh  tế quốc  tế, do các đối  tác còn chưa biết gì về nhau  thì những  thông  tin được  công bố  rộng  rãi  ra bên ngoài một cách  trung  thực và chính xác  là những  lời  mời chào đầu tư hiệu quả và thành công nhất. Do những đặt thù về cơ chế trong  quá khứ và văn hóa kinh doanh của người Việt Nam thì bản thân các ngân hàng  thương mại  cần  phải công khai hơn  tình  hình  tài  chính  của mình  trước  công  chúng và các nhà đầu tư. Việc công khai không những về các thông tin được  công bố mà còn các chuẩn mực kế toán, ban quản trị điều hành, chế độ kiểm  soát  rủi ro, quy  trình  ra quyết định đầu  tư và  thi hành,…cần được minh bạch  trong các kỳ đại hội cổ đông.  3.2 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ  NƯỚC  3.2.1. Phát triển  thị  trường vốn:  thị  trường vốn ở nước  ta đang ở giai đoạn  đầu của sự phát triển, các thể chế và cấu trúc thị trường đang từng bước được  hoàn thiện. Tuy đã đạt được những kết quả khả quan ban đầu nhưng thị trường  này còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, thúc đẩy thị trường này ngày càng  phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Mục tiêu phát triển  thị trường đã được Nhà nước đưa ra là phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị  trường vốn Việt Nam. Từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành  quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn  cho  đầu  tư  phát  triển  và  cải  cách  nền  kinh  tế.  Phấn  đấu  đến  năm  2020,  thị  trường  vốn Việt Nam phát  triển  tương đương  thị  trường  các nước  trong  khu  vực. Vừa qua, Bộ tài chính đã trình Chính phủ đề án phát triển thị trường vốn  đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hiện đề án này đang được Chính  phủ xem xét và sẽ quyết định phê duyệt trong thời gian tới…  Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thị trường vốn Việt Nam đã thiết lập được  hệ thống  thị  trường  có tổ chức  của Nhà nước  như  cơ chế vận  hành,  cơ quan  quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các  trung gian hoạt động trên thị trường. Quy mô của thị trường vốn có bước phát  triển khá mạnh: Tính đến hết năm 2006 đã có 3.400 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa với tổng giá trị vốn Nhà nước bán ra là 35.500 tỷ đồng; 26.000 công  ty cổ phần thành lập mới với số vốn cổ phần huy động khoảng 80.000 tỷ đồng;  hơn 400  loại  trái phiếu Chính phủ,  trái phiếu chính quyền địa phương và  trái  phiếu  doanh  nghiệp  được  phát  hành  với  tổng  dư  nợ  trên  109.000  tỷ  đồng.  Trong đó, 193  loại cổ phiếu đã thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch với  tổng vốn điều lệ  là 20.000 tỷ đồng và giá trị vốn hóa thị trường tại  thời điểm  31/12/2006  là  221.156  tỷ  đồng  (bằng  22,4% GDP  năm  2006);  hệ  thống  các  định chế trung gian thị trường đã được thiết lập. Ngoài số lượng các ngân hàng  thương mại, các tổ chức tài chính, kế toán, kiểm toán tham gia cung cấp dịch  vụ trên thị  trường thì số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ  cũng tăng mạnh. Số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị  trường chứng khoán ngày càng tăng.  Bên cạnh những kết quả đó, thị trường vốn còn gặp trở ngại khi phát triển:  Tính thống nhất trong điều hành các chính sách liên quan còn hạn chế như điều  hành  chính  sách  tiền  tệ,  lãi  suất;  chính  sách  tham  gia  của  các  ngân  hàng,  tổ  chức tín dụng vào thị trường vốn; chính sách đầu tư gián tiếp; cải cách doanh  nghiệp và quản trị doanh nghiệp; quản lý nợ công…Quy mô thị trường vốn còn  nhỏ khi nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế cho thị trường  chưa nhiều. Việc  phát hành cổ phiếu mới của các công ty cổ phần trực tiếp trên  thị trường còn ít; Giá trị vốn Nhà nước bán ra tại các doanh nghiệp nhà nước cổ  phần hóa  chưa nhiều  (hiện chiếm khoảng 20%  tổng giá  trị  vốn Nhà nước  tại  các doanh nghiệp). Hiện nay, thị trường cổ phiếu tự do thiếu sự kiểm soát của  Nhà nước đang chiếm thị phần lớn. Cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp nhà nước  đã cổ phần hóa có quy mô  lớn hoặc lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, điện  lực, viễn thông, hàng hải vẫn tự do giao dịch trên thị trường không chính thức,  không công khai, minh bạch…đã tác động tiêu cực tới thị trường có tổ chức và  gây ra những bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Trong khi đó, sự tham gia ồ ạt  của nhiều nhà đầu tư, hoạt động đầu tư theo phong trào trong khi nguồn cung  hạn  chế đã  làm mất cân đối  về  cung  cầu  chứng khoán, đẩy  giá  chứng khoán  vượt  khỏi  giá  trị  thực  của doanh nghiệp,  gây  ra  tình  trạng  “nóng”  trên  cả  thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung –  dài hạn của ngân  hàng vẫn ở hình  thức truyền  thống. Một khối  lượng  lớn  tài  sản đang tồn tại ở dạng cầm cố, thế chấp vay vốn mà chưa được chứng khoán  hóa. Do vậy, khả năng huy động vốn, thoát vốn và sự liên kết giữa thị trường  tiền tệ với thị trường vốn còn hạn chế.  Từ những kết quả và hạn chế trên, tôi xin đưa ra các giải pháp để phát triển  thị trường vốn trong thời gian tới, bao gồm các nhóm giải pháp sau:  ­ Cần nhanh  chóng hoàn  thiện về  thể  chế, đảm bảo  tính công khai, minh  bạch và có sự kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ thị  trường;  từng bước  đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính.  Bên  cạnh đó,  thị  trường vốn  cần phát  triển đa dạng để đáp ứng nhu  cầu huy  động vốn và đầu  tư  của mọi đối  tượng  trong  nền kinh  tế. Phấn đấu đến năm  2010 sẽ hoàn chỉnh cơ bản về cấu trúc thị trường vốn và đến năm 2020 sẽ phát  triển tương đương với các nước trong khu vực. Một số chỉ tiêu cụ thể được dự  báo đến năm 2010 như giá trị vốn hóa thị trường bằng 50%GDP, huy động vốn  cho đầu tư phát triển qua thị trường vốn đạt khoảng 16%GDP; hai tỷ lệ tương  ứng đến năm 2020 dự báo sẽ là 70% và 30%. Mặc dù thị trường vốn phát triển  khá nhanh song quy mô còn nhỏ, chất lượng chưa cao, hàng hóa chưa đa dạng;  tính minh  bạch  công  khai  còn  hạn  chế,  số  lượng nhà  đầu  tư  chuyên  nghiệp  không nhiều. Bên cạnh đó, công tác quản lý giám sát  thị  trường, điều hành vĩ  mô còn nhiều bất cập trong khi năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan giám  sát còn yếu và thiếu. Thị trường tự do chiếm thị phần lớn và tiềm ẩn nhiều rủi  ro bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Hoạt động đầu tư thường theo phong trào  trong  khi  nguồn  cung  còn  hạn  chế,  xảy  ra  hiện  tượng mất  cân  đối  cung  cầu  chứng khoán làm cho giá cổ phiếu vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp và  đã gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị  trường có tổ chức và thị  trường tự do.  Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu phát triển thị trường vốn như đã  đề  ra  cho  giai đoạn  năm 2010 đến  năm 2020  thì  trước  hết  cần  phát  triển  số  lượng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu  thị trường. Điều này được cụ thể hóa bằng việc đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các  doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước và  gắn  với  niêm  yết  thị  trường  chứng  khoán;  thúc đẩy  các  doanh nghiệp  đã  cổ  phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện niêm yết đồng thời tiến hành rà soát để có  thể bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các công ty mà Nhà nước không cần  nắm cổ phần chi phối. Mặt khác, cần đa dạng hóa các loại hình trái phiếu trên  thị  trường  trái  phiếu  như  trái  phiếu  chính  phủ,  trái  phiếu  doanh  nghiệp,  trái  phiếu đô thị,…phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh như: quyền chọn  mua, bán chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm từ  chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ…  ­ Thứ hai, thị trường vốn cần phải phát triển theo hướng hiện đại, hoàn  chỉnh về cấu trúc, được quản lý giám sát bởi Nhà nước và có khả năng  liên kết với các thị trường trong khu vực và quốc tế. Để làm được điều  đó cần sớm hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm tạo kênh  huy động vốn; hình thành và phát triển thị trường tương lai cho các công  cụ phái sinh; thị trường chứng khoán hóa cho các khoản cho vay trung –  dài  hạn  của  ngân  hàng…hay  việc  phát  triển  thị  trường  cổ  phiếu  theo  nhiều  cấp  độ  để  đáp ứng nhu  cầu  đa  dạng  của  nhiều  loại  hình  doanh  nghiệp.  ­ Thứ ba, cần phát  triển các định chế  trung gian và dịch vụ  thị  trường  bằng  cách  thúc  đẩy  tăng  số  lượng,  chất  lượng hoạt  động  và  năng  lực  hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ…cũng như  nghiên cứu  thành  lập các  tổ chức định mức  tín nhiệm  tại Việt Nam và  cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài  vào hoạt động.  ­ Thứ  tư, phát  triển nhà đầu  tư  trong và ngoài nước, khuyến khích các  định  chế  đầu  tư  chuyên  nghiệp  như  ngân  hàng,  bảo  hiểm,  chứng  khoán,…tham gia vào thị trường. Đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư  để  thu hút  vốn cư dân  tham gia; khuyến  khích  các  việc  thành  lập quỹ đầu  tư ở nước ngoài đầu  tư dài hạn vào  thị  trường Việt Nam  theo quy  định.  ­  Thứ năm,  phải  nâng  cao  hiệu  quả  quản  lý,  giám  sát  của  Nhà  nước;  nghiên cứu các biện pháp  kiểm  soát vốn  chặt  chẽ  trong những  trường  hợp cần thiết trên nguyên tắc được thể chế hóa, công bố công khai cho  nhà đâu tư và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh  của hệ thống tài chính.  (Nguồn: Thời Báo Kinh Tế Việt Nam)  3.2.2 Phát triển thị trường trái phiếu –  thị trường nợ: thị trường trái phiếu  Việt Nam  bao  gồm  tín phiếu  kho  bạc,  trái  phiếu  chính  phủ,  trái phiếu  chính  quyền  địa  phương,  trái  phiếu  doanh  nghiệp  (bao  gồm  trái  phiếu  ngân  hàng  thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ có giá trị khác. Đương  nhiên các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường chứng khoán  Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về qui mô  và còn chưa thực sự chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển, thu hút  sự quan tâm của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính nước ngoài.  Vào cuối năm 2006, có khoảng 375  loại  trái phiếu chính phủ và trái phiếu  doanh nghiệp niêm yết trên thị  trường chứng khoán, với tổng mệnh giá là 5 tỷ  USD. Các  loại  trái  phiếu  chính  phủ chiếm  tỷ lệ  chủ yếu  của  toàn  thị trường.  Các số liệu của Trung tâm giao dịch chứng khoán cho thấy nghiệp vụ này tạo  ra  khoảng 78%  giá  trị  của  toàn  thị  trường  trong  khi  tổng  giá  trị  vốn  hóa  cổ  phiếu chỉ tạo ra khoảng 19% giá trị.  Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của trái  phiếu chính phủ với tư cách là một nguồn vốn đầu tư.  Trong 3 loại trái phiếu đã được phát hành và  đang giao dịch tại Việt Nam,  bao gồm trái phiếu chính phủ  và tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa  phương  và trái  phiếu  doanh  nghiệp  thì khối  lượng  trái  phiếu  chính  phủ chiếm ưu thế trên thị trường với 81% thị phần, trong khi đó trái phiếu địa  phương là 10%, và trái phiếu doanh nghiệp là 9%. (1) (1) Tính đến cuối quý  III/ 2006, Vụ Ngân hàng và Tài Chính, Bộ Tài Chính  Khối  lượng  trái  phiếu  phát  hành  được  minh  họa ờ  hình  sau  đây:  Biểu  đồ 3.1: Giá trị trái phiếu phát hành giai đoạn 2001 – 2007 ( tỷ VND)  3.2.2.1  Phát triển thị trường giao dịch các giấy tờ có giá:  3.2.2.1.1 Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc  Tín phiếu kho bạc ở Việt Nam là các chứng khoán nợ ngắn hạn với kỳ hạn  182.273 hoặc 364 ngày trong khi trái phiếu chính phủ là 7, 10 hay 15 năm. Có  gần  400  loại  tín phiếu kho bạc  và  trái  phiếu  chính  phủ  khác nhau hiện đang  được  giao  dịch  trên  thị  trường. Khoảng 60.000  tỷ  đồng  trái  phiếu  chính  phủ  được Kho Bạc Nhà Nước Và Ngân Hàng Phát Triển phát hành hằng năm thông  qua các kênh bảo lãnh và đấu giá.  Hiện nay trái phiếu chính phủ chủ yếu được phát hành thông qua bảo lãnh, hay đấu thầu thông qua các trung tâm giao dịch  chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán nhà nước.  3.2.2.1.2 Trái phiếu chính quyền địa phương  Trái  phiếu  chính  quyền địa  phương  được  chính  quyền  địa  phương  phát  hành  dưới  sự cho  phép  của  chính  phủ.  Hiện  nay  chỉ có Hà Nội,  Thành  phố  Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành  trái phiếu  chính quyền địa phương  (trái  phiếu đô  thị) để huy động vốn. Các  tỉnh  thành được phép đến 30% tổng nhu  cầu chi tiêu và phải được chính phủ cho phép phát hành. Số trái phiếu này được  phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát hành. Tuy nhiên,  tính thanh khoản của loại trái phiếu này rất thấp.  3.2.2.1.3 Trái phiếu doanh nghiệp  Các doanh nghiệp phát hành bao gồm các doanh nghiệp nhà nước đang tiến  hành cổ phần hóa, hay các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn. Số trái phiếu này  được phát hành  thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh và môi giới.  tuy nhiên  tính  thanh khoản của loại trái phiếu này cũng không cao.  3.2.2.1.4 Chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ  Chứng  chỉ tiền  gửi được  xem  là các  chứng  khoán  nợ có giá trị và thu  hút  bảo hiểm  tiền  gửi. Chứng  chỉ tiền  gửi  thường  có  thời hạn một năm hoặc  lớn  hơn. Việc giới hạn số ngày giao dịch là 90 ngày cho các chứng từ có giá được  áp dụng cho hoạt động thị  trường mở  trong đó Ngân hàng nhà nước chỉ mua  đứt bán đoạn các chứng từ có giá trị mà không áp dụng cho các giao dịch kỳ  hạn. Việc hạn chế này là nhằm mục đích hướng dẫn thực hiện chính sách tiền  tệ ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước. 3.2.3 Tách biệt giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ phiếu:  Tính chất của giao dịch trái phiếu khác với giao dịch cổ  phiếu. Phương thức  giao  dịch  trái  phiếu  thường  thiên  về  thỏa  thuận  chứ  không  phải  khớp  lệnh.  Người  sử dụng hệ  thống  là  thường là nhà đầu  tư cuối cùng, do vậy, nhu cầu  thỏa  thuận  trực  tiếp  là  rất  cao. Hệ  thống  thường pha  trộn  giữa  hệ  thống  thỏa  thuận với hệ thống tra cứu thông tin có kèm theo các công cụ phân tích. Nếu  không đáp ứng được nhu cầu này  thì  thông  thường hệ  thống không phát huy  hiệu quả. Giao dịch nếu có chỉ  là báo cáo giao dịch  toàn bộ chứ không cung  cấp đầy đủ các bước của giao dịch như phân  tích,  ra quyết định đầu  tư,  thỏa  thuận ra bên ngoài. Sự pha trộn giữa giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ phiếu  như ở Việt Nam hiện nay sẽ cản trở sự phát triển của trái phiếu, làm giảm tính  thanh khoản của thị trường. Ủy ban chứng khoán nhà nước (SSC) còn đặt ra lộ  trình nhằm tách biệt hai  thị  trường này và chọn ra phương thức mua bán phù  hợp nhất: (i) từ ngày đến năm 2010: ứng dụng hệ thống giao dịch đa định chế:  chỉ bao gồm các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp làm chức năng môi  giới và mua bán cho chính mình, các giao dịch được báo giá qua nhà môi giới.  (ii) từ năm 2010: ứng dụng hệ thống giao dịch liên định chế: cho phép nhà đầu  tư kết nối với nhiều nhà kinh doanh trái phiếu, cho phép xem tất cả các chào  giá, nhà đàu tư được tự liên hệ với nhà kinh doanh có chào giá tốt nhất để thực  hiện giao dịch.  3.2.4 Khuyến  khích  phát  triển  các  tổ  chức  xếp  hạn  tín  dụng  chuyên  nghiệp  Trong  thị trường  tài  chính  kém  hiệu  quả,  xếp  hạn  tín  dụng  sẽ là một  tiêu  chuẩn giúp các nhà đầu tư hay doanh nghiệp phát hành  trong việc đánh giá rủi  ro trái phiếu. Các nhà hoạt định chính sách nên hỗ trợ các công ty tư nhân tham  gia vào  lĩnh  vực này  chứ không phải  các doanh nghiệp nhà nước,  như  trung  tâm thông tin tín dụng (CIC) hiện đang thu thập và công bố các thông tin xếp  hạn tín dụng doanh nghiệp hay xếp hạn trái phiếu. Chỉ duy nhất CIC có quyền  thu thập các báo cáo tài chính của các khách hàng vay vốn do các ngân hàng cung cấp. Nhưng đôi khi thông tin lại thiếu chính xác và lạc hậu. Sự tham gia  của các tổ chức xếp hạn tín dụng không phải nhà nước này sẽ giúp hoạt động  cung cấp  thông  tin được khách quan và hiệu quả hơn. Một khi được  tư nhân  hóa, tất cả các thông tin trên thị trường sẽ là như nhau giữa các nhà đầu tư, tâm  lý đầu  tư  sẽ được cải  thiện  và  củng  cố hơn. Mô hình  thành  lập  công  ty  định  mức tín nhiệm khu vực có thể được thành lập một cách linh hoạt ở Việt Nam,  trong bối  cảnh nguồn nhân  lực  của Việt Nam  trong  lĩnh vực này  còn  yếu  và  thiếu. Việc tận dụng công nghệ và tri thức của các tổ chức định mức tín nhiệm  khu vực và thế giới sẽ giúp các tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam nâng cao  năng lực. Sự tham gia góp vốn của các tổ chức này được sự hâu thuẩn của các  nhân tố sau, đó là: (i) sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động đầu tư gián tiếp  nước ngoài trong vòng 5 đến 10 năm nữa ở Việt Nam, (ii) uy tín của chính các  tổ chức này  tại ở thị  trường  tài chính đang phát  triển như Việt Nam. Để đảm  bảo cho các tổ chức này hoạt động hiệu quả, các nhà hoạt định chính sách cũng  cần quan tâm đến các điều kiện sau: các cổ đông phải được khuyến khích hoạt  động một cách độc lập và uy tín; cổ phần phải được chuyển nhượng rộng rãi và  tỷ lệ nắm giữ tối đa là 5­10%, và sự cân bằng về tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông  lớn để  tránh  tình  trạng  thông  tin nội gián hay mâu  thuẫn về quản  trị. Khi đó,  không chỉ cơ quan nhà nước, mà các công ty, ngân hàng và quỹ đầu tư đều có  quyền tham gia góp vốn để thành lập tổ chức định mức tín nhiệm.  3.2.5 Đẩy mạnh sự phát triển của các nhà tạo lập thị trường  Có  thể nói rằng, các ngân hàng thương mại vẫn được xem là các nhà tạo lập  thị trường chính trong tương lai, bênh cạnh các công ty bảo hiểm hay công ty  chứng khoán. Hiện tại, các ứng viên này vẫn đang bận mải với các hoạt động  môi giới hay tự doanh chứng khoán hay tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp. Họ  vẫn chưa tìm thấy động lực đê trở thành nhà tạo lập thị trường. Trong bối cảnh  thị  trường  chứng  khoán  chìm  sâu  dưới  đáy  trong  những  tháng  gần  đây,  việc  thúc đẩy thị trường trái phiếu đang “ngủ yên” càng trở nên cấp bách. 3.2.6 Đa dạng hóa các loại trái phiếu doanh nghiệp  Hiện tại, các trái phiếu doanh nghiệp phát hành có hai loại chính: (i) lãi suất  cố định trã,  lãi hàng năm (coupon) và lãi suất  thả nổi  theo lãi suất  thị  trường.  Trừ một  số  trường hợp một  số ngân hàng phát hành  trái phiếu có  thể chuyển  đổi  thành  cổ phiếu như Ngân hàng Quân đội  hay Ngân hàng Ngoại Thương.  Trong điều kiện kinh tế Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế  giới,  chịu  tác động ngày càng  nhiều  của  các biến động kinh  tế  vĩ mô  tù nền  kinh tế Mỹ hay các nước Châu Âu, thì việc đảm bảo sự ổn định tương đối của  giá trái phiếu là điều kiện quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. Ví dụ, như việc  phát hành trái phiếu có lãi suất đảm bảo bằng vàng, hay lãi suất thực được đảm  bảo dương trong trường hợp có lạm phát cao.  3.2.7 Khuyến khích sự tham gia của các quỹ đầu tư vào trái phiếu doanh  nghiệp  Các  quỹ đầu  tư hay  các  quỹ tương hỗ ở  Việt Nam  đã  khá phát  triển,  với  danh mục đầu  tư  trực  tiếp  và  gián  tiếp  trong  thời  gian  gần  đây. Đây  là một  trong những  thành viên  tích cực của  thị  trường góp phần  làm  tăng  tính  thanh  khoản của trái phiếu. Khác với các nhà tạo lập thị trường, các quỹ đầu tư sẽ tập  hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đầu tư vào  danh mục  cổ phiếu  và  trái phiếu. Khi đó, một  cách  chuyên nghiệp và  cơ hội  tiếp cận  thông  tin đầy đủ hơn, các quỹ đầu  tư sẽ  thực hiện việc mua bán  trái  phiếu kiếm lời.  Theo  một  nghiên  cứu  năm  2006  của  Ngân  Hàng  Thế Giới,  ở  các  nước  ASEAN  +3,  giá trị chứng  khoán  của  các  quỹ đầu  tư tương  hỗ nắm  giữ đến  40%­60%GDP, tiếp đó là các quỹ hưu trí  (20%­30%GDP), và cuối cùng là các  công ty bảo hiểm, khoảng từ 5%­10% GDP. So sánh với các quỹ đầu tư ở Việt  Nam thì con số này quả là con số “mơ ước”. Có thể nói chính sự tham gia tích  cực của các quỹ tương hỗ và hưu trí làm tăng tính thanh khoản cho thị trường  chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. 3.2.8 Cần ổn định kinh tế vĩ mô :  Tăng cường ổn định kinh  tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối  lớn của nền kinh  tế. Ổn định kinh  tế  vĩ mô  là  điều kiện  tiên quyết  để  phát  triển  sản  xuất kinh  doanh, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Nguyên tắc cơ bản của điều hành  kinh tế vĩ mô là phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, bảo đảm các  cân đối lớn của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách  tiền tệ và giữa các công cụ của chính sách tiền tệ; xử lý phù hợp mối quan hệ  giữa lãi suất tín dụng với tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế, đặc biệt là cán  cân thương mại; quản lý tốt thị trường ngoại hối và nợ quốc gia; bảo đảm vốn  và tính thanh khoản cho nền kinh tế; phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi; thúc đẩy  đầu tư, tăng trưởng, ngăn ngừa lạm phát và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính,  ngân hàng.  Phải phát huy tốt hơn vai trò điều tiết của Nhà nước, nhất là một nước đang  trong quá trình  chuyển  đổi như nước  ta,  khi mà cơ chế thị  trường  chưa hình  thành đồng bộ, các cân đối của nền kinh tế chưa thật vững chắc và môi trường  cạnh tranh vẫn còn khiếm khuyết. Nhà nước can thiệp vào thị trường là để các  quy  luật  của kinh  tế  thị  trường được vận hành  theo đúng mục  tiêu mà không  làm méo mó các quan hệ thị trường và để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Khi  sử dụng các công cụ điều tiết phải hết sức chú ý đến mức độ và thời gian để đạt  hiệu quả cao và chi phí thấp. Phải lường trước các phản ứng của thị trường, nếu  các phản ứng này có nguy cơ làm sai lệch những cân bằng cơ bản và gây mất  ổn định kinh tế vĩ mô thì nhất thiết phải được điều chỉnh kịp thời.  (Trích  bài  viết  của  thủ tướng  Nguyễn  Tấn  Dũng  viết  nhân  dịp đầu  Năm  mới  2010, www.vietnamplus.com) KẾT LUẬN CHUNG  Từ những  cơ sở lý luận mang  tính  khái  niệm nêu  trong  chương 1  và  tình  hình thực tế trong công tác quản lý vốn nói chung ở các ngân hàng thương mại  cổ phần Việt Nam trong chương 2,  tôi xin được kiến nghị các giải pháp cũng  như các gợi ý chính sách trong cách bảo toàn và phát triển nguồn vốn tự có tại  các đơn vị là các ngân hàng thương mại cổ phần và các cơ quan quản lý kinh  tế, các nhà tạo lập chính sách, điều phối thị trường tài chính…trong chương 3  của đề tài. Những kiến nghị nhắm vào các công tác quản lý ở bản thân các ngân  hàng vì đây là những giải pháp mang tính chủ động trong điều kiện cụ thể, đặc  thù  của nền  tài  chính Việt Nam và  các ngân hàng phải nổ  lực học hỏi  và  áp  dụng  các phương pháp quản  lý  tiên  tiến, hiệu quả  từ những nền  tài  chính đã  phát triển từ những thực tế tại các ngân hàng của mình vì không ai khác ngoài  bản  thân các ngân hàng hiểu được  tình hình hiện  tại như  thế nào. Tuy nhiên,  không thể thiếu các giải pháp mang tính vĩ mô từ các nhà làm luật, các cơ quan  quản lý kinh tế trong việc định hướng, hoạch định và đề ra những mục tiêu phát  triển kinh tế, phát  triển thị  trường tài chính trong một  tầm nhìn chiến lược và  lâu dài đặt  trong bối cảnh hòa nhập vào sự  thay đổi nhanh chóng của kinh  tế  toàn cầu. Các chính sách đề ra phải mang tính kịp thời, thống nhất và linh hoạt  cần thiết để kịp thời, phù hợp với các điều kiện mới của nền tài chính toàn cầu ­  nền tài chính đang trong giai đoạn phục hồi sau giai đoạn khủng hoảng tồi  tệ  nhất kể từ sau thập niên 30 của thế kỷ 19. TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. LÊ  VINH DANH, Chính  sách  tiền  tệ và sự điều  tiết  vĩ mô  của ngân hàng  trung ương, NXB Chính trị Quốc Gia, (1996) [32­66]  2. NGUYỄN NINH KIỀU, Tiền  tệ ­ ngân hàng, NXB Thống Kê,  (1998)  [75­  85]  3. TRẦN VĂN HÙNG, NGUYỄN TRÍ HÙNG, TRƯƠNG QUANG HÙNG,  NGUYỄN THANH TRIỀU, CHÂU VĂN THÀNH, Giáo trình Kinh Tế Vĩ Mô,  NXB Giáo Dục, (1999), [156­162] và [167­177]  4. GS. TS. DƯƠNG THỊ BÌNH MINH, TS. SỬ ĐÌNH THÀNH, Lý  thuyết tài  chính tiền tệ, NXB Thống kê, (2001), [235­274]  5. GS.TS. LÊ  VĂN TƯ, Tiền  tệ, ngân hàng,  thị trường  tài  chính, NXB TK,  2001.  7. GS.TS LÊ VĂN TƯ, Ngân hàng thương mại , Nxb Tài Chính, [2004]  www.saga.vn  www.vnexpress.net  www.worldbank.com  www.thoibaokinhtesaigon.com.vn  www.vietbao.vn  www.vneconomy.com.vn  www.wikipedia.org  www.dantri.com.vn  www.vnecon.vn www.vietnamplus.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề Tài- Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan